VŨ TÔNG PHAN
(1800 - 1851)
Ông là một danh sĩ,
Một nhà thơ tài ba,
Nhà giáo, nhà nghiên cứu,
Làm rạng danh nước nhà;
Là bạn của Thánh Quát,
Chơi thân với Thần Siêu,
Học trò Phạm Quý Thích...
Kể ra thì còn nhiều.
Ông quê xã Thúc Kháng,
Nay thuộc tỉnh Hải Dương.
Sau về Hà Nội sống,
Phường Bảo Thiên, Thọ Xương.
Ông sớm đỗ tiến sĩ,
Làm Tham hiệp Ninh Bình.
Rồi sau bị giáng chức
Làm Đốc học Bắc Ninh.
Như nhiều danh sĩ khác,
Chán cảnh tình quốc gia,
Ông cáo quan, ẩn dật,
Về dạy học ở nhà.
Ông lập trường Tự Tháp,
Còn gọi trường Ông Nghè.
Nhiều học trò thành đạt,
Thành cử nhân, ông nghè.
Người Hà Nội ghi nhận
Đóng góp lớn của ông
Về chấn hưng văn hóa
Của vùng đất Thăng Long.
Ông để lại di sản
Ba, bốn trăm bài thơ.
Được in trong bốn tập,
Còn giữ được đến giờ.
Thơ mang tính triết lý,
Sâu lắng và hướng thiền,
Về nhân tình thế thái
Và cảnh sắc thiên nhiên.
THƠ VŨ TÔNG PHAN
1
Tỉnh mộng
Sáng chờ tin mỏi mắt.
Chiều mong nhớ mẹ cha.
Đêm gió mưa mù mịt,
Không mơ thấy quê nhà.
2
Dạo dưới trăng trước sân
Đợi trăng lên, thông thả
Hương trầm đốt mấy cây.
Trăng mọc, thơ thẩn dạo
Quanh khóm trúc phía tây.
3
Tự nhận xét về mình
Không thấp, cũng chẳng cao.
Không sang, không khiếm nhã
Học không nhiều, đủ dùng.
Không khôn, nên vất vả.
4
Nhàn rỗi, ngồi tính chuyện nợ nần
Cái số sinh ra luôn phải nợ.
Nợ tiền, chức tước, nợ văn thơ.
Có lẽ nợ tiền còn trả được.
Làm quan, nợ ấy đến bao giờ?
5
Sau mưa, nhàn hạ ngắm cảnh xa xa
Mây tan, trời sáng, hết mù sương.
Xanh xanh rặng liễu đứng bên đường.
Nước biếc, hồ xuân vương vệt nắng.
Nửa hồ gợn sóng, nửa như gương.
6
Vịnh thuyền chài
Nhà là sông nước, mây là chiếu.
Lênh đênh đây đó, kế sinh nhai.
Ninh Giang bến cũ, ngày đang tắt.
Dìu dặt âm vang tiếng sáo chài.
7
Chèo thuyền từ chùa Quảng Bá đến chùa Tây Hồ
Hoa thơm, chim hót, áng mây bay.
Mái chèo khua nhẹ, gió hây hây.
Thuyền lướt, men theo bờ rợp lá.
Chưa vội vào thu chỉ chốn này.
8
Nói với trò Tuyên
Buồn bực trong lòng, uống giải khuây.
Thơ giảng xong rồi, uống được đây.
Dẫu muốn nhưng thầy xin được miễn:
Anh uống nhiều rồi, khéo lại say!
9
Ý nghĩ bất chợt
Nghe khen không mừng vội.
Đừng ghét kẻ chê mình.
Yêu ghét không quan trọng.
Chỉ sợ bị người khinh.
10
Hai chợ hai đầu cầu
Nấp bóng cây cao, chợ họp đông.
Chiếc cầu in ngược dưới dòng sông.
Ban mai uống rượu, nghe người hát,
Khách thơ thi hứng dậy trong lòng.
11
Vịnh cây trúc trước sân
Được chuyển về đây từ núi cao.
Trúc xanh xanh biếc một bờ rào.
Hoa thơm, cỏ lạ đừng khinh nó:
Coi thường giá rét, trúc thanh tao
12
Nghe chim hót trước sân
Không sợ tên đạn bắn.
Hót như hiểu lòng người.
Gió thổi, lá lay động.
Xao xuyến tiếng chim trời.
13
Lại đến Vân Đình ở Sơn Minh
Đình cổ um tùm dưới bóng cây.
Bốn chục năm rồi mới đến đây.
Nhớ ta có lẽ vài ba bạn.
Còn nhớ ta không, đình cổ này?
14
Qua thành cũ của tướng nhà Minh
Trơ trọi thành xưa, cây cỏ mọc.
Tướng Minh nghe nói đã cho làm.
Giang sơn đâu phải trò đen đỏ.
Ý Tàu không ép được người Nam!
15
Đêm thức giấc ở phía Đông Thành, ngẫu hứng
Cung xưa Trường Tín thành chùa Phật.
Hồ rộng thủy quân sậy lút bờ.
Khắp thành mưa nhỏ, gà đang gáy.
Nghìn năm văn vật chỉ trong mơ.
16
Hồ Tây
Bút nào tả hết cảnh Hồ Tây,
Đặc biệt ngày thu đẹp thế này?
Bãi Trâu trăng sáng, lô xô sóng.
Đồi Phượng bồng bềnh những áng mây.
Chuông chùa Trấn Vũ như hơi thoảng.
Thuyền cá làng chài tựa lá cây.
Từ đỉnh núi Nùng nhìn bốn phía -
Đấm sen chim trắng lượn lờ bay.
17
Nhận thư nhà
Đêm nằm khắc khoải nhớ quê xa.
Sáng, đang đi dạo, nhận thư nhà.
Rõ ràng nét chữ em trai viết.
Lời lẽ trong thư giống mẹ già.
Thôn xóm, thật may, không bị cháy.
Tiền thiếu, cuộc đời lắm xót xa.
Vui, biết trẻ ngoan khi có khách.
Bỗng thấy thương quê, lệ ứa nhòa.
18
Chơi Hồ Tây
Xưa nay vốn đã thế.
Vẫn thế núi và sông.
Thành trì soi xuống nước.
Trời nước cứ mênh mông.
Chuông điểm, đêm trăng lạnh.
Cây rũ, sáng đầu đông.
Cảnh đẹp thì cứ ngắm,
Xua phiền muộn khỏi lòng.
19
Không ngủ được
Mọi người đều đã ngủ.
Bên đèn thức mình ta.
Gió lạnh xuyên chăn mỏng.
Cái rét cắn vào da.
Mưa rơi, hắt lên liếp.
Sóng biển vỗ xa xa.
Đất khách đêm khó ngủ.
Bao giờ mới về nhà?
20
Lên lầu chuông chùa Trấn Vũ
Chùa chìm trong làng, làng trong thành.
Lầu gác, chùa chiền bên trúc xanh.
Sự đời hưng phế không cần biết.
Chạnh lòng, đứng ngắm cảnh xung quanh.
Trên núi, cây khô rồi mọc lại.
Khói vương dưới nước thật yên lành.
Cảnh sắc tuyệt vời, nhìn những muốn
Suốt đời đọc sách giữa lều tranh.
21
Ngắm trăng trên sông Nhị Hà
Khói bếp mờ mờ dọc mép sông.
Thuyền nối kề nhau, đứng giữa dòng.
Như thể nhớ ai, cây phía Bắc.
Trăng vàng bối rối mãi đằng đông.
Lồng lộng trời cao, nhìn hút mắt.
Bâng khuâng soi nước áng mây hồng.
Trời đất xem ra đang hứng khởi.
Có người nào nghĩ giống ta không?
22
Trung thu không trăng, uống rượu với ông Giám Phó
Hoành Sơn mây phủ phía xa xa.
Lúc đen, lúc tỏ dải Ngân Hà.
Có lẽ Thăng Long trăng rất sáng.
Liệu có soi lòng lữ khách xa?
Trò chuyện trước đèn, không khách chủ.
Cùng tỉnh cùng say, ta với ta.
Dũa câu, tìm ý, thơ đang tắc.
Càn Nguyên trống dục, điểm canh ba.
23
Sông Nhị
Năm ngoái bãi lau còn giữa dòng.
Năm nay dịch lệch phía bờ Đông.
Xưa nay mọi vật luôn thay đổi.
Đời người cũng thê, phải long đong.
Con thuyền muôn thuở trôi theo gió.
Cây già bám rễ chắc bên sông.
Con tạo vần xuay, thôi mặc kệ.
Cốt giữ làm sao vững tấm lòng.
24
Buổi sáng trên sông, ra về
Mái lầu canh, trăng xế.
Sông xưa vẫn xuôi dòng.
Dưới đèn, người đứng dậy.
Gọi đò, khách sang sông
Vướng râu chiếc lá rụng.
Tiễn khách tiếng chuông đồng.
Ra về theo đường lớn
Mà sóng nước trong lòng.
25
Buổi sáng trong vườn xuân, tức cảnh
Ban mai, nắng dịu thật hiền hòa.
Tỉnh giấc mộng tàn, khinh vật hoa.
Tường Bắc, tường Đông hương khói tỏa.
Cành cao, cành thấp rộn chim ca.
Con người, cánh vật hòa làm một.
Chân lý cõi đời chỉ tại ta.
Trước lò hương khói ngồi tư lự.
Học xong, trò nhỏ dậy pha trà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét