NGÔ THÌ NHẬM
(1746 - 1803)
Ông là một nhân sĩ,
Một nhà văn lừng danh.
Có công giúp Nguyễn Huệ
Đánh bại quân Nhà Thanh.
Ông xuất thân quyền quý.
Quê ở Tả Thanh Oai,
Huyện Thanh Trì , Hà Nội.
Có đức và có tài.
Bố là Ngô Thì Sĩ,
Quan lớn của triều đình.
Ông thành đạt rất sớm,
Một phần nhờ bố mình.
Vốn là người dĩnh ngộ
Và thông minh khác thường.
Chưa tròn mười chín tuổi
Ông đỗ đầu Thi Hương.
Trước đó, mười sáu tuổi,
Đã viết cuốn văn xuôi
Là Nhị Thập Tứ Sử.
Gây ngạc nhiên nhiều người.
Năm Một Bảy Sáu Tám
Ông thi đỗ Giải Nguyên.
Làm Hiến Sát Phó Sứ
Vùng Hải Dương, Hưng Yên.
Cùng với Phan Huy Ích,
Bảy năm sau, lại thi,
Đỗ Tiến Sĩ Tam Giáp.
Một thành tích diệu kỳ.
Đó là bậc cao nhất
Về học vấn bấy giờ.
Chúa Trịnh Sâm rất quý,
Thường đàm đạo văn thơ.
Năm Một Bảy Bảy Tám
Là Đốc Đồng Thái Nguyên,
Kiêm Đốc Đồng Kinh Bắc.
Lo canh giữ vùng biên.
Cha ông, Ngô Thì Sĩ.
Dù nhiều tuổi hơn con,
Nhưng đồng thời, đồng chức
Là Đốc Đồng Lạng Sơn.
Không phụ lòng vương thượng,
Ngô Thì Nhiệm nhiều lần
Đã dâng biểu đề nghị
Các chính sách cách tân.
Như biểu về Giáo Nghị,
Pháp, Chính Nghị, tuy nhiên,
Triều Lê - Trịnh đang mạt,
Nên khen thì vẫn khen
Mà không thể thực hiện.
Cũng tiếc cho nước ta,
Bỏ nhỡ một cơ hội
Để chấn hưng nước nhà.
Khi Quang Trung Nguyễn Huệ
Đưa quân ra Bắc Hà,
Ông về quê ẩn dật,
“Làm thuốc và nuôi gà”.
Năm Một Bảy Tám Tám,
Ra Bắc lần thứ hai,
Nguyễn Huệ đã xuống chiếu
Cho tìm người hiền tài.
Cùng nhiều nhân sĩ khác,
Ông theo vua Quang Trung.
Được vua rất quý mến
Và tin tưởng vô cùng.
Rồi ông được cất nhắc
Làm Bộ Lại Thương Thư.
Chức quan cao cấp nhất
Trong triều đình bấy giờ.
Khi Chiêu Thống cầu viện,
Hăm chín vạn quân Thanh
Kéo sang đánh Nguyễn Huệ,
Ông cho quân, rất nhanh
Rút về trấn Tam Điệp,
Vũng hiểm trở núi non.
Góp phần rất to lớn
Chiến thắng của Tây Sơn.
Sau chiến thắng lần ấy,
Nhanh chóng và tài tình,
Ông được Nguyễn Huệ chọn
Làm Thượng Thư Bộ Binh.
Đồng thời ông đảm nhiệm
Việc trao đổi ngoại giao
Với Nhà Thanh, là việc
Được đánh giá rất cao.
Ông từng là chánh sứ
Hai lần sang Trung Hoa.
Nhờ đối đáp rất giỏi
Nên giảm được bất hòa.
Ông là người tìm thấy
Miếu thờ Hai Bà Trưng
Ở Hồ Nam, Trung Quốc,
Nằm khuất giữa cánh rừng.
Ai đó đã xây nó
Đề tưởng nhớ Hai Bà
Đã một thời oanh liệt
Chống lại giặc Trung Hoa.
Khi chiến tranh kết thúc,
Ngô Thì Nhậm một lòng
Giúp vua khôi phục lại
Nghề thủ công, nghề nông.
Một loạt chính sách mới
Về quản trị quốc gia
Và phát triển kinh tế
Cũng được ông đưa ra.
Khi vua Quang Trung mất,
Năm Một Bảy Chín Hai,
Ông về quê đọc sách,
Vui thú với trúc mai.
Sau đó thành đệ tử,
Của trường phái Thiền Tông.
Viết Trúc Lâm Tông Chỉ,
Rất nổi tiếng thời ông.
Khi Tây Sơn bị diệt,
Cùng với rất nhiều người,
Ông bị Gia Long bắt,
Bị đánh đau bằng roi.
Không ngờ roi tẩm độc.
Lúc được đưa về nhà
Thì ngấm độc rồi chết.
Thật buồn, thật xót xa.
THƠ NGÔ THÌ NHẬM, trích
1
Bốn bài tứ tuyệt về mùa thu
Bài một
Chức Nữ, Ngưu Lang không nhỏ lệ -
Chỉ màng nước mỏng nhẹ như không.
Ra trời cũng hiểu buồn ly biệt,
Không bắt phòng khuê vợ nhớ chồng.
2
Bốn bài tứ tuyệt về mùa thu
Bài hai
Sau mưa, màu núi lại càng xanh.
Líu ríu chim kêu, rộn lá cành.
Nhìn chim bay nhảy sao mà nhẹ,
Thẹn lòng còn nặng những hư danh.
3
Bốn bài tứ tuyệt về mùa thu
Bài bốn
Non xanh nước biếc, lại non xanh.
Thăm thẳm trời thu, ngọn gió lành.
Người ở Giang Nam, lòng đất Bắc,
Thả hồn theo gió với chim oanh.
4
Lên thuyền
Cảnh đời thay đổi cứ trôi qua.
Nhìn Yên, nhớ Việt những xót xa.
Trường Giang mây phủ, buồn man mác.
Một mái chèo xua nỗi nhớ nhà.
5
Cuối xuân
Hoa nở bên hang, nhụy trắng ngần.
Gió chiều, ai dạo khúc Nam Huân.
Xuân hết, nhiều loài hoa vẫn đẹp,
Vẫn thầm ấp ủ những mầm xuân.
6
Nước mùa thu
Sau mưa, trời nước sáng long lanh.
Cảnh này thật khó vẽ nên tranh.
Vất vả bao năm buồn trắng tóc,
Mấy lần thả bộ ngắm non xanh?
7
Hoa cúc mùa thu
So với muôn loài, cúc khác xa,
Trang điểm mùa thu giữa nắng tà.
Ngày này năm ngoái bên hoa cúc
Uống rượu một mình, nhắm cánh hoa.
8
Đêm thu
Đêm thu rét ngọt, gió se se.
Sương buông, trăng sáng chếch bên hè.
Lạnh lẽo tiếng chuông phòng quán trọ.
Người buồn, bận nghĩ, chắc không nghe.
9
Tiếng đập vải mùa thu
Tiếng chày đập vải lách qua sương,
Vang vọng kinh đô, khắp phố phường,
Chắc chẳng đến tai người lính thú,
Chỉ làm khách sứ nhớ quê hương.
10
Trăng thu
Bên song, uống rượu, ngắm hoàng hôn.
Lung linh dưới nước mặt trăng tròn.
Định lên cầu đá Lư Câu dạo,
Lầu bên sáo vọng, khiến bồn chồn.
11
Phòng khuê mùa thu
Lạnh lẽo phòng thu, tình khó quên.
Tự tô phấn nhạt, tự làm duyên.
Bao năm mong ngóng chồng chinh chiến,
Đêm đêm lặng lẽ bói hoa đèn.
12
Cuối thu, vào chùa tham thiền
Tính đốt, xa nhà đã mấy niên.
Nay đến chùa làng ngồi tĩnh yên.
Cánh vàng hoa cúc vừa bung nở.
Lá bối lần xem, thấy vi thiền.
Nam Kha giấc mộng đời bươn chải.
Trúc Lâu mơ ước cũ còn nguyên.
Chùa thiêng tĩnh lặng, lòng thanh thản.
Sau chùa, ao nhỏ thoảng mùi sen.
13
Con ngựa vô tích sự
Gặm cỏ no căng suốt cả ngày.
Tối về chuồng ngủ, sướng thân mày.
Nhàn nhã chỉ nhờ vô tích sự.
Quả đời kỳ cục thế xưa nay.
Nếu là ngựa tốt, phi thiên lý,
Chắc chắn đời mày sẽ đổi thay.
Chẳng trách người tài hay gặp nạn.
Những kẻ ngu đần thường gặp may.
14
Bày tỏ nỗi lòng
Như chim thảng thốt vút lên không.
Như cá ngu ngơ lội giữa dòng.
Ngày đếm thuyền câu trên bến cảng.
Đêm cùng con trẻ ngắm trăng trong.
Tàu chuối mưa rơi, buồn đất khách.
Gió động cành dương, tỉnh giấc nồng.
Mừng có giỏ cua ngon nhắm rượu.
Áo cộc trên người như lão nông.
15
Thăm thư đường Vân Động
Vân Động xa xa, nhẹ cánh thuyền.
Gió mát lòng người, thuyền lướt lên.
Xóm nhỏ ven sông, cây đưa đón.
Bến bồi chim nhạn lượn hai bên.
Sáu bảy ông say qua cầu gỗ.
Dăm ba trẻ nhỏ thổi sáo, kèn.
Thư đường liễu phủ, về Chu, Khổng,
Các vị túc nho luận trước đèn.
16
Đi dạo dưới nắng quanh ngôi chùa bên sông
Mùa thu cúc nở, trời xanh trong.
Đi dạo quanh chùa bên mép sông.
Nắng nhạt ban mai, đường sạch sẽ.
Gác thượng, lầu chuông dọi bóng hồng.
Phiêu bat mấy năm, giờ thanh thản
Với vị cao tăng giải nỗi lòng.
Mải chuốt vần thơ, quên đóng cửa.
Vái chào cung kính, biệt sư ông
17
Thăm miếu Chu Văn Trinh 1), cảm hoài
Miếu cổ, gò cao, đầm nước đầy.
Quang cảnh hữu tình, chẳng đổi thay.
Nhà dân thanh đạm, vườn, ao cá.
Thế cuộc thăng trầm, chim bướm bay.
Dũng cảm “mang gươm” 2), đầy khí tiết.
Nhẹ nhàng “treo mũ”, tấm lòng ngay.
Cửa tía, rêu xanh, ngôi miếu cổ,
Liễu phủ hai bên, mát cả ngày.
1). Tức Chu Văn An, lúc chết được phong tên thụy là Văn Trinh.
2). Chỉ việc Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy nịnh thần.
3). Chỉ việc ông can vua không nghe, xin treo mũ từ quan về quê ở ẩn.
17
Nhàn rỗi, làm thơ bày tỏ lòng mình
Quán trọ ngồi không, cửa khép hờ,
Giũa, gò tiêu khiển mấy bài thơ.
Tin tức quê nhà thư đã viết.
Đường đời, bói cỏ, đoán thời cơ.
Cửa hầu sâu thẳm, không ai đến.
Lạnh lẽo nhà quan, khách hững hờ.
Tóc nhiều sợi bạc như mai trắng.
Về quê những muốn, liệu bao giờ?
18
Họa thơ với dật sĩ Phạm Thì Thấu
Khách đến rượu không, tiền cũng không.
Lấy nước gì đây làm say lòng?
Nhà cửa trống trơn nên sáng sủa.
Thanh đạm tâm hồn như suối trong.
Khách say đâu cứ cần mâm cỗ.
Gặp suông, tri kỷ cũng tương đồng.
Càng nghèo, thật lạ, thơ càng hứng.
Dũa ý, gọt thơ, dòng lại dòng.
19
Buổi chiều, trên lầu Ngũ Vân, nhìn ra xa
Lòng người tươi sáng giống thiên nhiên.
Xế chiều, hoa đổ bóng hàng hiên.
Cung vương đứng lặng trong mây núi.
Chùa Phật như trôi giữa khói thiền.
Nhao nhác chim bay quanh lũy cũ.
Khe rừng liễu rủ, đứng hai bên.
Tây Bắc thành đô, nhìn chợt thấy
Khí tốt núi Nùng đang bốc lên.
20
Đình trên núi
Sừng sững trên cao một mái đình.
Giữa trời sáng sớm nắng lung linh.
Muôn vẻ cỏ hoa như dệt gấm.
Nhẹ nhàng gió thổi áo bình minh.
Mây núi vờn bay ngay sát cửa.
Trước thềm hoa hé nụ xinh xinh.
Du khách tới đây, nhìn ngây ngất.
Phong cảnh nên thơ lại hữu tình.
21
Đi đường núi
Đường núi quanh co, thêm gió lạnh.
Nơi nào phong cảnh cũng nên thơ.
Hoa rừng lặng lẽ khoe muôn sắc.
Chim hót trên cây, thật bất ngờ.
Mưa sáng, suối đầy, thêm róc rách.
Chiều mây che núi, núi xanh mờ.
Dân chúng ven đường luôn hiếu khách,
Háo hức chạy ra xem lọng, cờ.
22
Họa thơ quan thái sử Thử Đình Hầu
Suy đi tính lại mãi bên đèn.
Nghèo đói, nhà nho chí phải bền.
Cuộc sống vui buồn luôn lẫn lộn.
Muốn giàu, danh lợi phải bon chen.
Biết đủ, biết vừa là tốt nhất.
Dẫu chuyện thế nào, tâm phải yên.
Tôi bác quen thân, tình gắn bó.
Biển loạn, chung nhau một chiếc thuyền.
23
Tức cảnh
Bài hai
Mờ mờ doi cát, xóm ven sông.
Đá xếp chênh vênh, nước một dòng.
Gác lầu thành dãy trầm ngâm đứng.
Cây cỏ đua nhau mọc kín đồng.
Chim hót mùa xuân thay tiếng nhạc.
Ráng đỏ hoàng hôn làm nến hồng.
Hướng tới nhà tiên nơi mây trắng,
Đời tục ra sao chẳng bận lòng.
24
Tức cảnh
Bài ba
Thế giới bao la có chỗ này,
Một màu trăng trắng lẫn màu mây.
Dãy núi nhấp nhô xen rừng rậm.
Lòa xòa bến nước mấy hàng cây.
Bên xóm hoa đào, thuyền kéo lưới,
Gió vờn rặng liễu, cánh chim bay.
Mong rũ bụi trần, không nuối tiếc,
Chút đời còn lại sống nơi đây.
25
Ngắm cảnh trời nước buổi chiều
Bát ngát sen xanh, sóng bập bồng.
Trùng điệp núi rừng ngút mắt trông.
Vệt nắng ngang đồi đang lụi tắt.
Nước trời hòa một, sắc xanh trong.
Văng vẳng sáo chài đâu đó thổi.
Khói mờ trăng nhú xóm ven sông.
Ngắm cảnh trời chiều, thơ chợt hứng.
Mờ ảo đằng tây nửa ráng hồng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét