Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 44

 

CAO BÁ QUÁT

(1809 - 1855)   

 

Sau Khi Nguyễn Ánh mất,

Các vua khác lên thay.

Triều chính không ổn định,

Dân cơ cực thường ngày.

 

Bệnh dịch và nạn đói

Làm chết hàng nghìn người.

Có nhiều cuộc khởi nghĩa

Đã nổ ra nhiều nơi.

 

Đó là cuộc khởi nghĩa

Của ông Phan Bá Vành,

Năm Một Tám Hai Một,

Ở Nam Định, Thái Bình.

 

Tiếp đến là khởi nghĩa

Nông Văn Vân, tri châu,

Ở Cao Bằng trùng điệp,

Dẫu kéo dài không lâu.

 

Có cuộc khởi nghĩa lớn

Năm Một Tám Ba Ba.

Lê Văn Khởi lãnh đạo,

Ở miền Nam nước ta.

 

Ông này chiếm Gia Định,

Giết chết Bạch Xuân Nguyên,

Một tên quan gian ác,

Tham lam và lộng quyền.

 

Chỉ mấy tháng sau đó

Cả Lục Tỉnh đầu hàng.

Tiếc là ông bệnh, chết,

Con đường đi dở giang.

 

Năm Ba Lăm, tháng Bảy,

Quân vua từ Phú Xuân

Được điều đến đàn áp,

Cuộc khởi nghĩa tan dần.

 

Một cuộc khởi nghĩa nữa,

Khoảng hai mươi năm sau,

Chu Thần Cao Bá Quát,

Một nhà thơ, cầm đầu.

 

*

Một hiện tượng kỳ lạ

Trên thi đàn nước ta.

Đó là Cao Bá Quát,

Một nhà thơ tài ba,

 

Một ông quan chính trực,

Đèo bòng nợ văn chương

Rồi sau thành “tướng giặc”,

Bị giết ở chiến trường.

 

Ông sinh ở Phú Thị,

Huyện Gia Lâm bây giờ

Bố ông và ông nội

Là thầy thuốc yêu thơ.

 

Ngày bé ông nghèo khổ

Nhưng nổi tiếng thông minh,

Văn hay và chữ tốt,

Thần đồng tỉnh Bắc Ninh.  

 

Thế mà thi luôn trượt.

Mãi sau ông thi Hương,

Đỗ Á Nguyên Hà Nội,

Nhưng thật tiếc, quan trường

 

Xếp ông vào cuối bảng

Trong số hai mươi người

Đỗ cử nhân lần ấy.

Bất công và buồn cười.

 

Sau đó ông vào Huế

Thi Hội, khá nhiều lần,

Nhưng lần nào cũng trượt.

Dù rất giỏi thơ văn.

 

Năm Một Tám Bốn Một,

Được quan tỉnh Bắc Ninh   

Tiến cử làm công chức,

Ông khăn gói vào kinh,

 

Rồi làm chức quan nhỏ

Trong bộ Lễ, thường niên

Ông được làm sơ khảo

Trường thi tỉnh Thừa Thiên.

 

Một lần chấm, ông tiếc,

Thấy một số bài thi

Viết hay và súc tích

Nhưng vô tình phạm qui.

 

Thế là cùng Phan Nhạ,

Một người chấm như ông,

Cao Bá Quát chữa lại

Bằng mực pha son hồng.

 

Việc lộ, ông bị bắt,

Đáng lẽ xử tử hình,

Sau vua xét, hạ xuống

Thành “giảo giam hậu trình”.      

 

Tức tạm giam đợi lệnh.

Ba năm sau, được tha

Để “dương trình hiệu lực”,

Tức chuộc tội, đi xa.  

 

Ông theo Đào Trí Phú,

Lên tàu lớn Phấn Bằng

Sang Nam Dương “hiệu lực”,

Kéo dài gần một năm.

 

Rồi sau được phục chức

Ở bộ Lễ, nhưng ông

Lần nữa bị sa thải,

Lại quay về Thăng Long.    

 

Năm Một Tám Bốn Bảy,

Bỗng có giấy mời ông

Quay lại Huế làm việc,

Một công việc văn phòng,

 

Là chỉnh lý thơ phú

Cũng có khi sưu tầm,

Nói chung là nhàn nhã

Ngay trong Viện Hàn lâm.

 

Do bản chất công việc,

Ông làm quen ở đây

Với Miên Trinh, Miên Thẩm.

Hai vị hoàng thân này

 

Đã mời ông gia nhập

Và đàm đạo đôi khi

Với nhóm thơ của họ,

Gọi là Mạc Vân Thi.  

 

Nhưng ba năm sau đó,

Do mất lòng quan thầy,

Ông bị đổi ra Bắc

Làm giáo thụ Sơn Tây.

 

Sau đó ông buồn chán,

Treo áo mũ, về nhà,

Mượn cớ cha vừa mất,

Phải phụng dưỡng mẹ già.

 

Năm Một Tám Năm Bốn,

Trời nắng hạn lâu ngày,

Lại gặp nạn châu chấu,

Dân đói, nhiều ăn mày.

 

Ông bí mật vận động

Một số người có tiền

Và sĩ phu yêu nước

Khởi nghĩa chống chính quyền.

 

Từ Quốc Oai, Vĩnh Phúc

Đến Lạng Sơn, Cao Bằng

Có nhiều người hưởng ứng,

Tinh thần cũng rất hăng.

 

Lại thêm Đinh Công Mỹ,

Bạch Công Trân Sơn Tây,

Các thổ mục giàu có,

Rất ủng hộ việc này.

 

Việc tụ nghĩa cứ vậy,

Được tiến hành từ từ.

Lê Duy Cự - minh chủ.

Cao Bá Quát - quốc sư.

 

Thành trì quân khởi nghĩa

Là vùng núi Mỹ Lương,      

Kiểu thay trời hành đạo,

Chống áp bức, bạo cường.

 

Rất tiếc, việc bại lộ

Khi chuẩn bị chưa xong,

Thì cuối năm Năm Bốn,

Ông buộc phải tấn công.

 

Lúc đầu nghĩa quân thắng

Ở Tam Dương, Thanh Oai,

Sau quân vua đánh rát,

Phải thua chạy dài dài.

 

Năm Giáp Dần, tháng Chạp,

Được người Thái, người Mường

Bổ sung vào lực lượng

Ở cứ điểm Mỹ Lương,

 

Ông chủ động đánh chiếm

Thành Yên Sơn lần hai,

Ngày nay huyện lỵ ấy

Là thị trấn Quốc Oai.

 

Phó lãnh binh Lê Thuận

Đem quân dàn hàng ngang,

Hai bên đang huyết chiến,

Tên đội Đinh Thế Quang

 

Cho lính bắn tới tấp

Vào hàng ngũ nghĩa quân.

Cao Bá Quát trúng đạn,

Ngã xuống chết bất thần.

 

Rồi tướng Nguyễn Văn Thực

Và tướng Nguyễn Kim Thanh

Cũng lần lượt bị bắt,

Chém, đầu bêu ngoài thành.

 

Hơn trăm quân khởi nghĩa

Đã bỏ mạng lần này

Cùng tám mươi người khác

Bị bắt và đi đày.

 

Vua Tự Đức từ Huế

Xuống chiếu thưởng, khao quân,

Ra lệnh cắt cắt thủ cấp

Cao Bá Quát nghịch thần   

 

Rồi cho xe bêu riếu

Khắp các tỉnh Bắc Kỳ,

Xong, đưa vào cối giã,

Để nước sông cuốn đi.

 

*

Quốc sư Cao Bá Quát

Còn là một nhà thơ,

Một nhà thơ rất lớn,

Nổi tiếng cả bây giờ.

 

Khi khởi nghĩa thất bại,

Triều đình đốt sách ông.

May mắn còn giữ được

Trong các thư viện công

 

Tổng cộng, không kể truyện,

Gần nghìn rưởi bài thơ

Chủ yếu thơ chữ Hán,        

Ý hay và bất ngờ.

 

Thơ ông là khí phách

Của một bậc túc nho,

Một tấm lòng yêu nước

Khao khát dựng cơ đồ.       

 

 

GIAI THOẠI VỀ CAO BÁ QUÁT         

 

Cao Bá Quát từ nhỏ

Đã nổi tiếng thần đồng,

Ăn nói giỏi, chí lớn,

Kinh và sử thuộc lòng.

 

Lớn lên càng khí phách,

Không khuất phục người nào,

Nhất là bọn ngu dốt

Loại lý trường, cường hào.

 

Lần nọ, nhân lý trưởng

Đắp đôi voi ngoài đình,

Quát làm bài thơ nhỏ,

Còn ký cả tên mình:

 

“Đôi voi đắp đẹp đấy,

Đủ cả đuôi, cả vòi.

Sao không thấy “cái ấy”,

Hay ông lý ăn rồi?”

 

Lão lý trưởng tức lắm,

Nhưng không dám làm gì.

Dính vào bọn con nít,

Người lớn sẽ xầm xì.

 

*

Lần nọ, vua Minh Mạng

Kinh lý ra Thăng Long.

Dân đi xem đông đúc,

Quát cũng muốn thấy ông.

 

Hôm ấy trời oi bức,

Quát xuống tắm Hồ Tây

Đúng lúc Minh Mạng đến,

Dừng kiệu ngắm hồ này.

 

Cậu giả đò sợ hãi,

Tồng ngồng leo lên bờ.

Vua cho là hỗn láo,

Sai lính trói, bắt chờ.

 

Cậu khóc, xin tha tội,

Xưng mình học trò nghèo.

Vua nói tội này láo,

Phải đánh đúng mười hèo.

 

Học trò chắc giỏi chữ,

Vậy câu đối vua ra,

Nếu đối được, đối đúng,

Vua chiếu cố, sẽ tha.

 

“Dưới hồ, cá đớp cá.”

Vua nói rồi mỉm cười.

Quát lập tức đáp lại:

“Trên bờ, người trói người.”

 

Minh Mạng biết mình hớ

Để thằng nhóc con này

Đặt mình ngang với hắn,

Nhưng hứa rồi, tiếc thay.

 

*

Cao Bá Quát học giỏi,

Nhưng thi trượt đều đều.

Người Thăng Long thời ấy

Gọi Thánh Quát, Thần Siêu.

 

Số là bọn quan lại,

Ghét, tìm cách dìm ông.

Năm Một Tám Ba Một,

Đi thi Ở Thăng Long,

 

Bài ông làm rất tốt,

Nên được đậu cử nhân,

Thế mà khi thi Hội,

Quan ngửi thấy giọng văn

 

Đúng của Cao Bá Quát,

Bèn đánh trượt tức thì.

Nhưng ông vẫn không nản

Và tiếp tục đi thi.

 

Tiếp tục thi, lại trượt,

Vì khẩu khí của ông

Quan đọc qua là biết.

Cuối cùng ông nản lòng,

 

Bỏ về quê nằm khểnh,

Suốt ngay chỉ rong chơi,

Làm thơ hay đọc sách

Và lặng lẽ chờ thời.   

 

*

Ở Thăng Long lúc ấy

Có thầy Nguyễn Văn Siêu,

Nổi tiếng là hay chữ,

Học trò theo rất nhiều.

 

Một lần Cao Bá Quát

Tò mò đến xem sao.

Tới nơi, đứng tựa cửa

Chốc chốc ghé nhìn vào.

 

Nguyễn Văn Siêu thấy lạ,

Bèn cho hỏi là ai.

Đáp: Học trò, nhân tiện

Đến ghé thăm thầy tài.

 

Thế thì hãy đối lại

Vế đối này bây giờ:

“Thầy, chõng tre cót két.”

“Trò, sân gạch thẩn thơ.”  

 

Quát đáp ngay tắp lự,

Vừa chuẩn lại vừa hay.

Siêu phục tài, giữ lại

Rồi đàm đạo suốt ngày.

 

Từ đó họ thành bạn

Dù tuổi tác chênh nhau,

Thành “Thần Siêu”, “Thánh Quát”,

Rất ý hợp tâm đầu.

 

*

Quát tuy còn ít tuổi,

Nhưng kiêu căng, khinh người,

Nói: Xưa này chỉ có

Bốn bồ chữ trên đời.

 

Hai bồ là của Quát.

Một - của Nguyễn Văn Siêu.        

Cả thiên hạ chỉ một,

Mà thế cũng là nhiều.         

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét