THẦY HÍT
Ngày xưa ở làng nọ
Có một đôi vợ chồng.
Vợ thì rất tần tảo,
Mà chồng thì ngồi không.
Anh chàng ngồi không ấy
Bị làng xóm cười chê.
Cô vợ khuyên chịu khó
Đi học lấy một nghề.
Anh chàng đành khăn gói,
Đi gần rồi đi xa
Mà vẫn không học được,
Đành phải quay về nhà.
Xấu hổ, lo vợ mắng,
Anh chàng chưa dám vào.
Đứng nấp sau tấm vách,
Xem binh tình thế nào.
Một lát sau, cô vợ
Đi chợ về, trong tay
Xách năm chiếc bánh lá,
Rồi bảo con thế này:
“Ba đứa ăn ba chiếc.
Còn hai chiếc bánh kia
Nhớ cất trong vại gạo,
Để phần bố lúc về.”
Anh chồng nghe, mừng quá,
Lén ra ngõ, và rồi
Đi vào nhà, oai vệ,
Với nụ cười trên môi.
“Học được nghề rồi chứ?”
Cô vợ hỏi. “Tất nhiên”.
“Nghề gì?” “Nghề Thầy Hít.
Giấu đâu là biết liền!”
“Vậy thử hít mà biết
Ở đâu trong nhà này
Hai chiếc bánh thiếp giấu,
Phần của chàng hôm nay”.
Anh chồng nhăn mũi hít,
Trịnh trọng và rất lâu:
“Hãy đi vào vại gạo
Lấy bánh ra đây, mau!”
Cô vợ vui, vui lắm,
Thấy chồng học được nghề.
Liền chạy đi khắp tổng,
Gặp người nào cũng khoe.
Vừa hay, bà hàng xóm
Mất ổ lợn sáu con.
Liền nhờ Thầy Hít giúp,
Hứa không quên trả ơn.
May sáng sớm hôm ấy,
Khi đi ỉa ngoài đồng,
Anh chàng thấy ổ lợn
Ai đó giấu bên sông.
Vậy là lại trót lọt.
Bà kia cho anh chàng
Ba con lợn đã hứa.
Kiếm ăn thật dễ dàng.
*
Cô vợ liền vội vã
Khoe với bố mẹ mình
Về anh chồng Thầy Hít,
Tài giỏi và thông minh.
Bố cô không tin lắm:
“Thử bảo nó sang đây.
Ta đang có hũ bạc
Chôn kỹ dưới gốc cây.
Gốc cây táo bên giếng.
Nếu chồng con tìm ra,
Ta sẽ cho một nửa,
Về mà xây cái nhà!”
Khốn nỗi, ông không biết
Rằng Thầy Hít, rể ông,
Đã lén đi theo vợ
Nên biết tỏng tòng tong.
Thầy vội vã quay lại,
Nằm chờ sẵn ở nhà.
Còn ra chiều miễn cưỡng
Phải “đi thăm ông bà”.
Thầy đoán đúng và lấy
Nửa hũ bạc ngon lành.
Tiếng tăm càng lừng lẫy.
Bay đến tận kinh thành.
*
Mà kinh thành lúc ấy
Đang nhao nhác, bàng hoàng,
Vì đôi rùa bị mất.
Một bạc và một vàng.
Đó là món bảo vật
Vua thiên triều Trung Hoa
Tặng cho vua Đại Việt.
Nhất định phải tìm ra!
Vua liền sai sứ giả
Đem tờ chiếu của mình
Tìm đến nhà Thầy Hít
Để rước thầy về kinh.
Thầy Hít nằm trên kiệu
Lo có thể lần này
Sẽ bị vua trị tội,
Ngựa xéo hoặc voi dày.
Lo đến mức sợ quá,
Khi đi ngang dòng sông,
Thầy nhảy ùm xuống nước,
Thà chết trước cho xong.
Hai người lính khênh kiệu
Vớt thầy lên, vỗ về.
Thầy mắng: “Bọn mày láo,
Ta xuống hỏi Thủy Tề
Để xin ngài cho biết
Ai lấy cắp đôi rùa.
Ta sẽ bắt bọn chúng
Trả lại cho nhà vua”.
Nói vậy nhưng trong bụng,
Sợ đến co rúm người.
Thầy vừa nằm trên kiệu,
Vừa lẩm bẩm thành lời:
“Bụng làm thì dạ chịu,
Giờ biết trách ai đây?
Chắc chắn sẽ chết thảm.
Khó thoát được vụ này”.
Hai tên lính khênh kiệu
Nghe thế, lén thở dài.
Một đứa tên là Bụng.
Dạ là đứa thứ hai.
Chính chúng đã câu kết
Với thủ kho nhà vua
Ăn cắp và đang giấu
Vật bảo bối, đôi rùa.
Lúc nãy nghe Thầy nói
Vừa gặp Thủy Tề xong.
Giờ nhắc tên Bụng, Dạ.
Tức thầy đã biết tong.
Hai đứa liền cuống quýt
Thú tội hết với thầy.
Rồi khai đôi rùa ấy
Giấu chỗ này, chỗ này.
Chúng xin thầy lượng xá
Không nói với nhà vua
Rằng chúng đã trót dại
Dám ăn trộm đôi rùa.
Thầy Hít nghe, đồng ý,
Giục nhanh chóng về kinh.
Là nơi Thầy được thưởng
Nhờ chiếc mũi tài tình.
*
Chẳng bao lâu sau đó
Có sứ thần Trung Hoa
Đến xin Thầy giúp đỡ,
Mang theo rất nhiều quà.
Số là vua bên ấy
Cũng gặp chuyện không may.
Cả nước Tàu bất lực,
Nên phải sang nhờ Thầy.
Thầy Hít nghe phát hoảng.
Giờ thì chết đến nơi.
Không người nào có thể
Gặp vận may suốt đời.
Sợ quá, thầy chép miệng:
“Thà chết ở đất mình”.
Bèn ra bờ sông vắng,
Nhảy xuống nước trẫm mình.
May có người nhìn thấy,
Nhảy xuống, vớt thầy lên.
Không hiểu sao chiếc mũi
Bị sứt mất một bên.
Đau thì đau, Thầy Hít
Mừng, bảo sứ Trung Hoa:
“Tôi chỉ nhờ chiếc mũi
Mà giúp được người ta.
Nay, thật tiếc, nó sứt,
Thì coi như mất nghề”.
Quan sứ nghe, có lý,
Đành quay ngựa trở về.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét