Thứ Tư, 22 tháng 9, 2021

KINH THÁNH, Đầy đủ - 3

 

14
GIÔ-SUÊ

Mô-sê thưa với Chúa:
“Kia là sông Giô-đan.
Cho con vượt qua nó
Để vào Ca-na-an”.

Nhưng vì chuyện tảng đá
Phun nước cho mọi người,
Ông đã không bảo đó
Là do Đức Chúa Trời,

Nên bị Chúa trừng phạt
Cấm vào Ca-na-an.
Vì thế ông không được
Vượt qua sông Giô-đan.

Sau khi A-rông chết
Một vài tháng, Mô-sê
Được Đức Chúa phán bảo:
“Hãy đưa ông Giô-suê

Đến đứng trước thầy tế,
Thầy Ê-lê-a-sa,
Cùng tất cả già trẻ
Các con dân của ta.

Con hãy thay mặt Chúa,
Nói từ nay Giô-suê
Sẽ là lãnh đạo mới,
Thay cho con, Mô-sê”.

Mô-sê vâng ý Chúa.
Ngài khích lệ mọi người
Hãy tiến vào Đất Hứa
Để hưởng lộc muôn đời.

Khi đến xứ Mô-áp,
Nơi có núi Nê-bô,
Ngài bảo ông lên núi,
Trút bỏ hết buồn lo

Để chiêm ngưỡng vùng đất
Bên kia sông Giô-đan,
Phì nhiêu và tươi tốt,
Là xứ Ca-na-an.

Rồi trên đỉnh núi ấy,
Ông lặng lẽ qua đời.
Một trăm hai mươi tuổi,
Về với Đức Chúa Trời.

*
Cuối cùng con dân Chúa
Vượt qua sông Giô-đan
Để tiến vào Đất Hứa
Là xứ Ca-na-an.

Nhưng Giô-suê trước đó
Cho hai người đàn ông
Đi trước để do thám
Xem có chuyện gì không.

Hai người đàn ông ấy
Vào thành Giê-ri-cô.
Họ tới nhà Ra-hap.
Nhưng vua Giê-ri-cô

Có người báo cho biết
Bèn cho lính đến ngay.
Chúng nói: “Chúng tôi biết
Có hai người đến đây.

Họ ở đâu? Hãy nói.
Không sẽ bị chém đầu.
Hai đàn ông Do Thái.
Bây giờ chúng ở đâu?”

Ra-háp thản nhiên đáp:
“Vâng, họ ghé qua đây,
Khi trời vừa chập tối,
Rồi đi, theo hướng này”.

Mấy tên lính tưởng thật,
Liền chạy theo, còn nàng
Vội vã leo lên gác,
Theo những bậc cầu thang.

Trên ấy nàng đã giấu
Hai người của Giô-suê.
Nàng thì thầm bảo họ:
“Người ta kể tôi nghe

Rằng các ông được Chúa
Đưa đến Ca-na-an,
Được Chúa làm khô nước,
Vượt Biển Đỏ an toàn.

Các ông được tôi cứu,
Vậy tôi xin điều này:
Tôi biết sớm hoặc muộn,
Các ông sẽ tới đây.

Xin các ông rộng lượng
Tha cho gia đình tôi,
Gồm ông bà, bố mẹ
Và các anh chị tôi”.

Hai người do thám hứa:
“Khi chiếm Giê-ri-cô,
Chúng tôi sẽ không giết,
Không hại gia đình cô.

Hãy lấy chiếc khăn đỏ
Đánh dấu ngôi nhà này
Để tránh sự nhầm lẫn
Khi chúng tôi đến đây”.

*
Cuối cùng, dân Do Thái
Vượt qua sông Giô-đan
Để tiến vào Đất Hứa,
Miền đất Ca-na-an.

Chúa phán, các thầy tế
Phải đi trước dẫn đầu,
Khiêng chiếc Hòm Khế Ước.
Mọi người sẽ theo sau.

Khi chân các thầy tế
Vừa chạm nước, bất ngờ
Nước sông liền ngừng chảy
Và bộc lộ đáy khô.

Khi mọi người qua hết,
Đức Chúa bảo Giô-suê
Và mười hai người khác:
“Hãy xúm nhau cùng bê

Mười hai tảng đá lớn
Đặt vào chỗ đêm nay
Các ngươi sẽ nghỉ lại.
Để con cháu sau này

Biết Chúa đã làm phép
Cho ngừng sông Giô-đan
Giúp các con dân Chúa
Tiến vào Ca-na-an”.

Khi chiếc Hòm Khế Ước
Đưa lên khỏi dòng sông,
Nước bắt đầu lại chảy,
Cuồn cuộn và xanh trong.

*
Khi những người Do Thái
Cuối cùng đến cổng thành,
Giô-suê được Chúa phán
Phải bất ngờ, thật nhanh,

Cho bảy thầy tế lễ
Và bảy người thổi kèn,
Cùng chiếc Hòm Khế Ước
Dẫn đầu dân It-sra-ên

Đi vòng quanh thành phố.
Đúng mỗi ngày một vòng
Trong sáu ngày liên tục.
Ngày thứ bảy thì ông

Đi bảy vòng, hơn thế
Cho kèn thổi thật to,
Vừa đi vừa la hét,
Ngoài thành Giê-ri-cô.

Giô-suê vâng ý Chúa.
Và rồi, lạ lùng sao.
Tường thành bỗng sụp đổ.
Ông cho người xông vào.

Rồi hô: “Giết, giết hết
Tất cả người trong thành.
Còn vàng bạc, của cải
Phải dâng Chúa lòng lành”.

Chỉ gia đình Ra-háp,
Cùng bố mẹ ông bà,
Được hai người do thám
Giữ lời hứa, đã tha.

Sau đó người Do Thái
Đi đánh thành A-hi,
Nhưng đánh mãi không được,
Không hiểu vì cớ gì.

Nhiều người đã bỏ chạy.
Nhiều người chết, xót xa,
Giô-suê phải cầu nguyện,
Hỏi Đức Giê-hô-va.

Ngài đáp: “Vì đã có
Một người It-sra-ên
Không nghe lời Chúa dặn,
Đã dám ăn cắp tiền.

Hắn và gia đình hắn
Ăn cắp chiếc áo thêu
Cùng mấy nén vàng bạc,
Đang giấu kín trong lều.

Rồi Ngài nói tên hắn.
Tên hắn là A-can.
Hắn bị ném đá chết
Mà không dám kêu oan.

Ông Giô-suê tiếp tục
Lại đánh thành A-hi.
Nhờ Chúa giúp, đã thắng,
Không gặp khó khăn gì.

*
Dân của nhiều thành phố
Ở xứ Ca-na-an
Muốn tập hợp nhau lại
Chống người It-sra-ên.

Họ nghĩ họ sẽ thắng,
Chí ít vì họ đông.
Nhưng hoàn toàn nghĩ khác
Là người Ga-ba-ông.

Họ đã nghe danh Chúa,
Cũng muốn được chở che,
Nên liền cử đại diện
Đến gặp ông Giô-suê.

“Chúng tôi từ xa đến,
Thân phận vốn nghèo hèn.
Xin được làm tôi tớ
Cho người It-sra-ên.

Vậy xin đừng giết hại
Con dân Ga-ba-ông”.
Giô-suê tin lời họ
Và gật đầu bằng lòng.

Hay tin này, túc giận,
Vua Giê-ru-sa-lem
Cùng vua bốn nước khác,
Cũng vốn là anh em,

Trừng phạt kẻ phản bội
Là vua Ga-ba-ông.
Họ chia thành nhiều mũi
Và đồng loạt tấn công.

Dân Ga-ba-ông sợ,
Bèn cầu cứu Giô-suê.
Quân Do Thái đánh lại.
Giặc tổn thất nặng nề.

Chúa còn làm mưa đá
Nên chúng chết càng nhiều.
Nhiều hơn cả tử trận.
Lúc ấy đã xế chiều.

Khi trời đã tối hẳn,
Quân Giê-ru-sa-lem
Liền bỏ chạy tán loạn,
Ẩn mình trong bóng đêm.

Giô-suê xin Đức Chúa
Giữ mặt trời trên không,
Để ông kịp hoàn tất
Trận đánh này của ông.

Phải sáu năm sau đó
Người Do Thái hoàn toàn
Mới chiếm được trọn vẹn
Đất Hứa Ca-na-an.

Các chi phái Do Thái
Lĩnh phần đất của mình
Theo số dân, từ đấy
Sống hạnh phúc, yên bình.

Rồi ông Giô-suê chết,
Về với Đức Chúa Trời.
Thọ một trăm mười tuổi,
Tiếng thơm để muôn đời.


15
RUT VÀ NA-Ô-MI

Rút là một cô gái
Xinh đẹp và dịu hiền,
Dân của nước Mô-áp,
Không phải It-sra-en.

Nàng được bà hàng xóm,
Nao-ô-mi, là người
Giúp nàng hiểu, yêu quý,
Tin theo Đức Chúa Trời.

Na-ô-mi vốn gốc
Là người It-sra-ên,
Sau theo chồng đến sống
          Ở Mô-áp kề bên.

          Khi không may chồng chết,
      Hai con trai của bà
      Lấy hai người Mô-háp
      Là Rút và Ột-ba.

     Khoảng mười năm sau đó
     Cả hai con trai bà
     Không may cũng chết nốt.
     Thật buồn và xót xa.

     Rồi bà, một ngày nọ
     Bỗng quyết định một mình
     Lại quay về Đất Hứa,
     Nơi bà đã từng sinh.

     Cô Rut xin được phép
     Đi theo cùng mẹ chồng.
     Lúc đầu bà phản đối,
     Nhưng rồi cũng bằng lòng.

Cô Rut, như đã nói,
Vốn xinh đẹp, dịu hiền,
Cuối cùng xin nhập đạo,
Thành người It-sra-ên.

Như nhiều cô gái khác,
Nàng làm việc ngoài đồng.
Đang mùa gặt lúa mạch,
Và một người đàn ông

Đã cho nàng mót lúa
Trên cánh đồng của mình.
Hàng ngày nàng mót lúa
Từ lúc rạng bình minh.

Ông chủ ruộng tốt bụng
Có tên là Bê-ô.
Con trai nàng Ra-háp
Ở thành Giê-ri-cô.

Ông thích cô Rút lắm.
Nàng cũng thấy mến ông.
Chẳng bao lâu sau đó
Họ trở thành vợ chồng.

Con trai đầu của họ
Là Ô-bết, người này
Về sau có cháu nội
Là Đa-vít, may thay,

Ngài thành vua vĩ đại.
Vua Do Thái thứ hai.
Con dân của Đức Chúa
Rạng rỡ nhờ ân Ngài.


16
GHÊ-ĐÊ-ÔN

Vì không vâng lời Chúa,
Người dân It-sra-ên
Nhiều khi bị quấy nhiễu
Bởi dân Ma-đi-ên.

Ghê-đê-ôn, thủ lĩnh,
Bèn xin Chúa ra tay
Bảo vệ người Do Thái
Đánh bại những người này.

Chúa bảo ông tuyển chọn,
Thành lập một đạo binh,
Gồm những người giỏi nhất
Trong thần dân của mình.

Ông ta đã chọn được
Tổng cộng ba hai nghìn.
So với đội quân giặc
Một trăm ba lăm nghìn.

Chúa nói: “Nhiều, nhiều quá.
Lính không cần số đông,
Mà cần lòng dũng cảm”.
Vâng ý Chúa, nên ông

Bảo người nào thấy sợ
Thì có thể về nhà.
Cuối cùng số ở lại
Chỉ còn một phần ba.

Chúa nói: “Vẫn nhiều quá.
Hãy bảo lính của ông,
Lát nữa, trong giờ nghỉ,
Xuống uống nước dưới sông.

Ai úp mặt xuống uống
Là người chẳng ra gì.
Họ là người nóng vội.
Vậy cứ để họ đi.

Còn ai khi uống nước
Bằng cách vúc hai tay,
Điềm đạm và thong thả,
Thì giữ những người này.

Bằng cách ấy, còn lại
Chỉ đúng ba trăm người.
Ông chia thành ba đội,
Mỗi đội một trăm người.

Mỗi người chuẩn bị sắn
Cây đuốc và chiếc kèn.
Đúng nửa đêm xuất trận,
Tất cả hô: “Tiến lên!”

Tiếng kèn vang nhức óc.
Ánh đuốc sáng rực trời.
Quân giặc nghe khiếp đảm,
Tay và chân rụng rời.

Hơn trăm nghìn quân giặc
Phải bỏ chạy thoát thân.
Người Do Thái chiến thắng
Với chỉ ba trăm quân.


17
GIÉP-THÊ

Giép-thê là thủ lĩnh
Thời dân It-sra-ên
Sao lãng việc thờ phụng,
Làm nhiều việc đê hèn.

Vì vậy bị Chúa phạt,
Để cho dân Am-môn
Được phép làm khổ họ
Cả thể xác, tâm hồn.

Cuối cùng, không chịu nổi,
Họ phải nhờ Giép-thê
Xin Chúa Trời giúp đỡ,
Như từng giúp Giô-suê.

Giép-thê tâu với Chúa:
“Xin hãy giúp chúng con
Chiến thắng trong trận đánh
Chống lại người Am-môn.

Trở về khi thắng trận,
Con hứa dâng cho Ngài
Người đầu tiên con gặp,
Cho dù đó là ai.

Thắng trận về hôm ấy,
Rất phấn khởi trong lòng,
Người đầu tiên ông gặp
Lại là con gái ông.

Ông rất buồn, hẳn thế.
Nhưng không thể nuốt lời.
Hứa, phải giữ lời hứa,
Nhất là với Chúa Trời.

Con gái ông từ đấy
Sống ở đền Si-lô,
Suốt đời thờ phụng Chúa,
Lòng thảnh thơi, vô lo.

Nhiều phụ nữ Do Thái
Hàng năm đến chùa này
Để cùng cô trò chuyện
Và ở lại bốn ngày.


18
SAM-SÔN

Để cứu người Do Thái,
Chúa cho một người con,
Dũng cảm và khỏe mạnh,
Có tên là Sam-sôn.

Ngay trước ngày sinh đẻ,
Ngài nói với mẹ chàng:
“Mai sau con bà lớn
Sẽ hiển hách, vinh quang.

Và nó sẽ giải cứu
Người dân It-sra-ên
Khỏi những điều tai ác
Của người Phi-li-tin”.

Chàng được Chúa ban tặng
Một sức mạnh vô song.
Và bằng sức mạnh ấy,
Chàng chống lại bất công.

Rất nhiều kẻ độc ác
Thuộc người Phi-li-tin
Đã bị chàng giết chết
Vì lẽ phải, đức tin.

Chàng khỏe mạnh đến mức,
Lần nọ đang trên đường,
Khi gặp một con hổ
Lớn, hung dữ lạ thường,

Chàng không hề sợ hãi
Như phần lớn đám đông,
Mà đánh nhau với nó,
Rồi giết, bằng tay không.

Chàng yêu một cô gái
Tên là Đê-li-la.
Một cô gái không tốt,
Dẫu xinh đẹp, mặn mà.

Cô này được thủ lĩnh
Của người Phi-li-tin
Hứa cho nghìn nén bạc,
Nếu khôn khéo dò tin

Để biết được sức mạnh
Của chàng là do đâu.
Đê-li-la gạn hỏi,
Nhưng chàng luôn lắc đầu.

Thế mà rồi, thật tiếc,
Một hôm, khi uống say,
Chàng đã cho cô biết
Điều vẫn giấu xưa nay,

Rằng chính ở mái tóc
Là sức mạnh của chàng,
Do Đức chúa ban tặng.
Cũng vì thế mà chàng

Không bao giờ cắt tóc.
Nghe xong, Đê-li-la
Chuốc thêm rượu, chàng ngủ
Ngay trong lòng cô ta.

Rồi cô ta lấy kéo
Cắt mái tóc của chàng.
Tỉnh dậy, chàng mệt mỏi,
Ngơ ngác và bàng hoàng.

Chàng cảm thấy yếu ớt,
Không hiểu vì cớ gì.
Người Phi-li-tin đến
Bắt chàng rồi đưa đi.

Chúng chọc chàng mù mắt.
Và thế là từ nay
Chàng trở thành nô lệ
Phục vụ chúng hàng ngày.

Lần nọ chúng làm lễ
Thờ ác thần Đa-gôn.
Để tăng thêm vui vẻ
Chúng bèn đưa Sam-sôn

Đến một ngôi đền lớn
Lúc ấy rất đông người,
Rồi đánh, chửi, chế diễu,
Chỉ để làm trò cười.

Tuy nhiên, chúng không biết
Tóc chàng, sau nhiều ngày
Đã mọc lại, vì thế
Sức mạnh chàng trước đây

Đã hoàn toàn khôi phục.
Một cậu bé giúp chàng
Chạm tay vào cây cột.
Và rồi vừa hét vang:

“Ta nguyện sẽ cùng chết
Với bọn gian ác này”,
Vừa rung lắc thật mạnh.
Các cột đền lung lay.

Cuối cùng đền sụp đổ,
Đè chết ba nghìn người
Phi-li-tin độc ác
Theo đúng ý Chúa Trời.

KINH THÁNH, Đầy đủ - 2

 

10
GIÔ-SÉP

Gia-cốp yêu Giô-sép,
Còn gọi là Giu-sê,
Một người rất mộ đạo
Và ngoan ngoãn mọi bề.

Ông tặng riêng Giô-sép
Chiếc áo thêu chỉ vàng.
Vì thế, các anh chị
Đem lòng ghen ghét chàng.

Còn một lý do nữa -
Thơ ngây, không cố tình,
Chàng kể cho anh chị
Về giấc mơ của mình.

Rằng trong mơ chàng thấy
Các anh chị xếp hàng,
Đang van xin gì đấy,
Kiên nhẫn quỳ trước chàng.

Một ngày nọ Gia-cốp
Sai Giô-sép ra đồng
Xem các anh làm việc,
Có gì không ổn không.

Thấy Giô-sép xuất hiện,
Các anh kia bàn nhau
Giết chàng, nhưng anh cả
Là Ru-bên lắc đầu.

Vừa hay, đúng lúc ấy
Có đoàn người đi ngang.
Người It-ma-ên, Ai Cập,
Thế là họ bán chàng

Lấy hai mươi nén bạc.
Một việc làm đáng chê.
Họ cởi áo chàng mặc
Rồi nhúng vào máu dê.

Nhìn chiếc áo, Gia-cốp
Khóc, vì nghĩ con ông
Bị thú dữ ăn thịt,
Nước mắt chảy ròng ròng.

Lại nói về Giô-sép.
Chàng bị đưa đi xa.
San tận xứ Ai Cập,
Bán cho Phô-ti-pha.

Ông này rất giàu có,
Luôn bên Pha-ra-ông.
Ông giao cho Giô-sép
Quản lý ngôi nhà ông.

Đẹp trai, mười bảy tuổi,
Một hôm chồng vắng nhà,
Giô-sép bị bà chủ
Bắt ăn nằm với bà.

Vì là người mộ đạo,
Chàng không chịu, bà này
Bèn tố chàng ngược lại.
Và rồi, oái oăm thay,

Chàng bị tống vào ngục.
Là người tốt, chuyên cần,
Chàng được quan cai ngục
Cho cai quản tù nhân.

Có hai tù nhân mới,
Người của Pha-ra-ông.
Đó là quan đầu bếp,
Quan hầu rượu cho ông.

Họ nói họ vừa có
Hai giấc mơ lạ kỳ.
Vốn có tài giải mộng,
Giô-sép nói: “Kể đi”.

Sau khi nghe, chàng nói,
Ba ngày nữa, một ông,
Tức là quan hầu rượu
Cho vua Pha-ra-ông

Sẽ được tha, quay lại
Với công việc trước đây.
Khi được tha, nhân tiện,
Chàng muốn được người này

Xin vua xem xét lại
Chuyện oan trái của mình.
Còn người kia, chàng báo
Ba hôm nữa tử hình.

Quả thật đúng như vậy
Quan hầu rượu được tha.
Lại hầu rượu như cũ.
Ấy vậy mà ông ta

Quên chuyện của Giô-sép.
Chẳng ai hiểu thế nào.
Thêm hai năm Giô-sép
Phải ở trong nhà lao.

Pha-ra-ông đêm nọ
Mơ giấc mơ thế này:
Có bảy con bò béo
Và bảy con bò gầy.

Vậy mà bảy con béo
Bị bảy con gầy ăn.
Đáng lẽ phải ngược lại.
Vua rất đỗi phân vân.

Hôm sau, vua mơ tiếp,
Thấy bảy bông lúa gầy
Ăn bảy bông lúa béo.
Cũng kỳ lạ điều này.

Các đại thần, thầy bói
Liền được Pha-ra-ông
Cho triệu đến giải mộng
Giấc mơ này của ông.

Không ai giải được nó.
Ai cũng phải lắc đầu.
Cuối cùng quan hầu rượu
Sực nhớ, liền cúi tâu:

“Lúc thần bị tù tội,
Trong tù có một người
Rất giỏi môn giải mộng,
Mọi giấc mộng trên đời”.

Giô-sép được đưa đến.
Chàng liền tâu với vua:
“Bẩm, bò béo, lúa béo
Là dấu hiệu được mùa.

Còn dấu hiệu thất bát
Là bò gầy, lúa gầy.
Giấc mơ của bệ hạ
Báo trước điềm thế này:

Trong bảy năm sắp tới
Sẽ liên tục được mùa.
Còn bảy năm sau đó
Sẽ liên tục mất mùa.

Vậy phải tích lương thực,
Một lúc hoặc dần dần.
Đề phòng những năm đói
Còn có cái mà ăn”.

Pha-ra-ông sung sướng,
Giao chàng lo việc này.
Còn phong làm tể tướng.
Và Giô-sép từ nay

Trở thành người thân cận,
Được tin yêu hết lòng,
Với quyền hành lớn nhất,
Chỉ sau Pha-ra-ông.

Rồi nạn đói ập xuống
Như vua mơ năm nào.
Nhờ tích trước lương thực,
Dân Ai Cập không sao.

Nhưng người từ tứ xứ
Lũ lượt kéo về đây
Mua lúa mì, mua bánh
Trong số những người này

Có các anh Giô-sép.
Họ không nhận ra chàng.
Nhưng chàng nhận ra họ.
Từng người một, rõ ràng.

Chàng còn nhớ đã kể
Cho họ về giấc mơ
Về việc họ quỳ lạy
Như họ làm bây giờ.

Gặp các anh, Giô-sép
Nước mắt suýt tuôn trào.
Nhưng chàng vẫn muốn biết
Lòng dạ họ thế nào.

Giô-sép nói: “Các vị
Chắc được phái đến đây
Để dò la tin tức
Và bí mật xứ này.

Vậy thì phải bị bắt”.
Họ liền kêu: “Không, không.
Chúng tôi dân lương thiện,
Chăn thú, làm nghề nông.

Nhà chúng tôi tất cả
Có mười hai người con.
Người em út không đến.
Một người nữa không còn”.

Giô-sép vò tức giận,
Bắt người anh đưa đi.
Tha những người còn lại,
Còn cho ít lúa mì.

“Lần sau, khi quay lại,
Đưa người em đến đây.
Ta sẽ cho thêm lúa.
Gấp đôi số lúa này”.

Về nhà, nghe kể lại.
Ông Gia-côp rất buồn.
Người con ông yêu quý,
Giô-sép đã không còn.

Nên giờ ông không muốn
Mất thêm Ben-gia-min.
Nó là đứa con út,
Ông rất yêu, rất tin.

Nhưng rồi thức ăn hết.
Nhà lại cần lúa mì.
Ông đành gạt nước mắt
Cho Ben-gia-min đi.

Gặp lại em, vui sướng,
Sau bao nhiêu năm trời.
Giô-sép sai đổ lúa
Đầy bao cho từng người.

Nhưng còn một thử thách
Chàng muốn họ vượt qua.
Trong bao của em út,
Chàng lén sai người nhà

Giấu một chiếc cốc bạc.
Rồi vu Ben-gia-min
Đã trộm chiếc cốc ấy.
Mặc dù vẫn không tin,

Mười anh trai tuyệt vọng,
Nói rằng họ sẵn sàng
Ở lại đất Ai Cập
Làm nô lệ cho chàng

Miễn là em của họ
Được phép rời khỏi đây.
Vì bố họ không thể
Sống thiếu người con này.

Giờ thì Giô-sép biết
Rằng các anh của mình
Không còn là người xấu,
Sống có nghĩa, có tình.

Không kìm thêm được nữa,
Giô-sép ôm các anh,
Khóc, kể hết sự thật,
Cả điều dữ, điều lành.

Chàng bảo họ quay lại
Đưa bố cùng họ hàng
Sang Ai Cập sinh sống,
Sống mãi mãi với chàng.

Pha-ra-ông hay chuyện,
Cũng tỏ ý vui mừng,
Cho nhiều xe ngựa đón
Và mở tiệc tưng bừng.

Cả họ tộc Gia-cốp,
Tổng cộng bảy mươi người,
Định cư ở Ai Cập
Cho đến tận cuối đời.

Chúa đổi tên Gia-cốp
Thành Y-sơ-ra-ên.
Họ, những người Do Thái
Duy nhất và đầu tiên

Lập nghiệp ở Ai Cập,
Chịu nhiều nỗi đắng cay,
Nhưng được Chúa cứu giúp.
Như ta biết sau này.


11
GIÓP

Sau khi ông Gia-cốp
Và Giô-sép, con ông
Chết ở xứ Ai Cập,
Người Do Thái còn đông.

Quỷ Sa-tăng nham hiểm
Quyến rũ được nhiều người.
Nhưng một người, tên Gióp,
Vẫn luôn tin Chúa Trời.

Một ngày nọ, Đức Chúa
Nói với quỷ Sa-tăng:
“Hãy nhìn con người ấy,
Chính trực và công bằng.

Giữa những người độc ác
Chuyên làm chuyện xấu xa,
Mà ông ấy, ông Gióp,
Vẫn hết lòng tin ta”.

Con quỷ đáp: “Vì hắn
Được hưởng lợi từ ông.
Giờ ông thử lấy hết,
Xem còn tin hay không”.

Chúa đáp: “Ngươi cứ thử.
Cứ lấy hết xem sao.
Rồi sau ta sẽ biết
Con người ấy thế nào.

Vâng, cứ thử, tuy vậy,
Không được giết ông ta”.
Quỷ Sa-tăng đồng ý.
Và hắn thử - thế là

Đàn gia súc của Gióp
Bỗng nhiên chạy đi đâu,
Tìm mãi mà không thấy.
Rồi một lúc cùng nhau,

Những người khác thì sống,
Mà mười đứa con ông
Đã phải chết thê thảm
Trong một trận cuồng phong.

Hơn thế, đang khỏe mạnh,
Mà ông Gióp bỗng nhiên
Mắc thứ bệnh quái ác,
Phải đau đớn kêu rên.

Nhà đói khổ đến mức
Bà vợ đay nghiến chồng:
“Trời ơi, sao lại thế?
Hãy nguyền rủa Chúa ông!”

Sau đó thì đến lượt
Cả mấy người bạn già
Cũng khuyên Gióp bỏ Chúa.
“Thôi, đừng tin ông ta!”

Nhung Gióp vẫn một mực
Tin vào Đức Chúa Trời,
Bất chấp mọi bất hạnh
Và trớ trêu cuộc đời.

Vậy là quỷ thua cuộc.
Đức Chúa rất hài lòng.
Ban lại đàn gia sức,
Chữa lành bệnh cho ông.

Hơn thế, Ngài cho Gióp
Thêm mười người con trai.
Gia đình hết đói khổ.
Của cải tăng gấp hai.


12
MÔ-SÊ

Nhiều năm liền Gia-cốp
Và gia đình của mình
Sống ở đất Ai Cập
Sung sướng và yên bình.

Vì yêu quý Giô-sép
Nên vua Pha-ra-ông
Luôn ưu ái, chăm sóc
Người Do Thái của ông.

Khi Pha-ra-ông mới
Lên cầm quyền, tiếc thay,
Thì mọi chuyện khác hẳn.
Không còn như trước đây.

Hắn sợ dân Do Thái,
Khôn ngoan và nhiều tiền,
Đông đúc và hùng mạnh,
Sẽ có lúc tiếm quyền.

Vì vậy, dân Do Thái,
Cả trẻ và cả già,
Bị bắt làm nô lệ,
Cướp đoạt hết tiền, nhà.

Hắn lệnh các bà mụ,
Hễ dân Do Thái nào
Đẻ con trai là giết.
Không cần biết vì sao.

Nhiều bà mụ tuy vậy,
Dẫu sợ Pha-ra-ông,
Nhưng giết trẻ vô tội
Thì quả không đành lòng.

Nên có nhiều đứa bé
Người Do Thái, con trai,
Vẫn may mắn sống sót,
Sau khôn lớn thành tài.

Một trong những bé ấy
Là Mô-sê, bé này
Mẹ nuôi được ba tháng
Thì buộc lòng chia tay.

Vì sợ con bị giết,
Bà lấy chiếc giỏ nan
Trét nhựa kín bốn phía
Để nước không thấm tràn.

Bà đạt con vào giỏ
Cho trôi theo sông Nin.
Mi-ri-am, cô chị,
Được mẹ sai đứng nhìn.

Vừa may đúng lúc ấy
Con gái Pha-ra-ông
Cùng nữ tỳ xuống tắm,
Giữa làn nước xanh trong.

Bất chợt nàng nhìn thấy
Chiếc giỏ nan của bà.
Bèn sai người đến vớt.
Tò mò, nàng mở ra

Thì thấy một cậu bé
Xinh đẹp, mắt long lanh.
Nàng biết dân Do Thái,
Nhưng giết thì không đành.

Trong khi đang do dự,
Bối rối và ngỡ ngàng,
Mi-ri-am nhanh nhẹn
Chạy đến nói với nàng:

“Cháu có thể tìm hộ
Cho công chúa một người
Để chăm sóc đứa bé
Đến khôn lớn thành người”.

Công chúa liền đồng ý.
Mi-ri-am về nhà
Gọi mẹ, và công chúa
Trao Mô-sê cho bà.

“Bà chăm sóc cẩn thận.
Ta sẽ trả tiền công.
Ai hỏi thì cứ nói
Con gái Pha-ra-ông

Nhờ bà nuôi đứa bé.
Không ai dám phiền hà”.
Kể từ đấy bà mẹ
Được nuôi chính con bà.

Khi Mô-sê đã lớn,
Bà đưa cậu vào cung
Để ra mắt công chúa
Con gái Pha-ra-ông.

Công chúa rất yêu cậu,
Nhận làm con nuôi nàng.
Từ đấy cậu được sống
Trong cung điện dát vàng.

Mô-sê càng khôn lớn
Càng nổi tiếng thông minh.
Thấu hiểu rất nhiều chuyện,
Nhất là biết rằng mình

Không phải người Ai Cập,
Mà người It- sra-ên,
Là dân từ xa tới,
Có Đức Chúa, tổ tiên.

*
Khi đã bốn mươi tuổi,
Ông quyết định ra ngoài
Để xem dân ông sống
Thế nào và do ai.

Hóa ra họ, nô lệ,
Chứ không phải là người.
Bị ngược đãi, đánh đập,
Làm quần quật ngoài trời.

Khi bất chợt ông thấy
Một người It-sra-ên
Bị một người Ai Cập
Đánh dã man, đê hèn,

Không kìm nổi tức giận,
Ông đánh chết tên này.
Vùi xác hắn xuống cát
Rồi vội bỏ đi ngay.

Hôm sau ông lại đến.
Hai người It-sra-ên
Đang đánh nhau, thấy vậy,
Ông gạt ra hai bên.

“Sao người cùng chủng tộc
Mà các ông đánh nhau?”
Một người đáp: “Xin hỏi,
Ông là ai, từ đâu

Mà có quyền phán xét,
Thậm chí giết người ta
Như một người Ai Cập
Ông đã giết hôm qua?”

Ông biết mình bị lộ.
Và chính Pha-ra-ông
Nay mai sẽ phát lệnh
Cho bắt và giết ông.

Ông quyết định bỏ trốn,
Đến một nơi an toàn.
Xa, rất xa Ai Cập,
Là xứ Ma-đi-an.

Ở đấy ông đã gặp
Gia đình Giê-tờ rô.
Một ông già tốt bụng,
Nuôi nhiều dê, nhiều bò.

Rồi ông cưới làm vợ
Cô con, Sê-phô-ra.
Trở thành người chăn thú
Trong gia đình ông già.

*
Thời gian trôi, thấm thoát
Đã bốn mươi năm trời.
Ông Mô-sê lúc ấy
Bước qua tuổi tám mươi.

Một hôm, như thường lệ,
Ông lùa thú ra đồng.
Chợt thấy điều kỳ lạ
Xẩy ra trước mắt ông.

Một bụi gai đang cháy.
Nhưng cháy mãi không tàn.
Ông lấy làm khó hiểu,
Cẩn thận bước lại gần.

Từ bụi gai bất chợt
Bỗng phát ra tiếng người:
“Ngươi đang trong đất thánh.
Hãy cởi dép của ngươi”.

Ông sợ hãi, đứng lại,
Rồi quỳ xuống lắng nghe.
Đó chính là Thiên Chúa.
Ngài nói với Mô-sê:

“Ta thấy con dân Chúa
Ở Ai Cập lâu nay
Phải sống kiếp nô lệ,
Nhục nhã và đắng cay.

Nay ta muốn đưa chúng
Tới một nơi an toàn,
Tới miền đất ta hứa
Là xứ Ca-na-an.

Con sẽ làm điều ấy.
Con đưa con dân ta
Ra khỏi đất Ai Cập,
Cả người trẻ, người già”.

“Nhưng việc này khó lắm.
Con biết làm thế nào?
Nếu có người hỏi vặn
Ông ai, thì sao?”

“Thì con nói với họ,
Rằng ta, Giê-hô-va,
Giao cho con điều ấy
Để cứu dân của ta”.

“Nhưng nếu họ một mực
Vẫn không tin điều này?”
Đức Chúa bất chợt hỏi:
“Con cầm gì trên tay?”

“Dạ, đó là chiếc gậy
Con chăn chiên hàng ngày”.
“Hãy ném nó xuống đất”.
Lập tức chiếc gậy này

Biến thành một con rắn.
Rồi Đức Chúa bảo ông
Hãy cho tay vào túi.
Khi rút ra, lạ không,

Bàn tay ông trắng xóa,
Trắng như lông thiên nga.
Chúa còn cho ông thấy
Thêm phép lạ thứ ba.

“Thấy những phép lạ ấy,
Họ sẽ tin con ngay,
Rắng chính ta, Đức Chúa
Giao con làm việc này”.

Mô-sê vâng ý Chúa,
Liền khăn gói lên đường
Quay trở lại Ai Cập
Giữa sáng sớm tinh sương.

*
Khi về đến Ai Cập,
Ông khoe với mọi người
Các phép lạ, và họ
Tin ông, tin Chúa Trời.

Ông và người anh cả,
Có tên là A-rông,
Cuối cùng đã quyết định
Đến gặp Pha-ra-ông.

“Xin vua hãy cho phép
Người dân It-sra-ên
Nghỉ ba ngày để họ
Ra đồng cúng tổ tiên

Và cũng để thờ phụng
Thiên Chúa Giê-hô-va”.
Pha-ra-ông liền đáp:
“Ta không biết ông ta”.

Hơn thế, vua còn bắt
Nô lệ It-sra-ên
Làm việc nhiều hơn trước,
Khiến họ phải than phiền

Rằng vì ông mà họ
Vốn cơ cực đã lâu,
Nay càng thêm cơ cực.
Mô-sê rất buồn rầu.

Được Đức Chúa khích lệ
Mô-sê và A-rông
Lại thêm một lần nữa
Đến gặp Pha-ra-ông.

A-rông ném chiếc gậy.
Chiếc gậy ngay tức thì
Biến thành một con rắn,
To, hung tợn cực kỳ.

Các pháp sư Ai Cập
Liền ném gậy của mình.
Chúng cũng biến thành rắn,
Bé nhỏ và hôi rình.

Ngay lập tức con rắn
Của Mô-sê, A-rông
Đã ngấu nghiến ăn hết
Rắn của Pha-ra-ông.

Tuy rất đỗi kinh sợ
Sự kiện này lạ kỳ,
Ông ta vẫn không chịu
Cho dân It-ra-ên đi.

Cuối cùng Chúa phải giáng
Mười tai họa kinh hoàng,
Ông vua này bướng bỉnh
Mới phải chịu đầu hàng.

Một, A-rông giơ gậy,
Đập xuống nước sông Nin.
Nước sông biến thành máu,
Khiến không ai dám nhìn.

Cá chết, mùi hôi thối
Bay lên khắp mặt sông.
Xông vào mọi ngõ ngách,
Cả nhà Pha-ra-ông.

Hai, Đức Chúa làm phép
Khiến ếch nhái nhảy ra.
Đâu đâu cũng thấy chúng,
Cả ngoài sân, trong nhà.

Rồi khi ếch nhái chết,
Cung điện Pha-ra-ông
Và toàn xứ Ai Cập
Sặc sụa mùi hôi nồng.

Ba, A-rông vung gậy.
Bụi mù tung khắp nơi.
Bụi mù biến thành muỗi,
Muỗi thi nhau cắn người.

Bốn, là nạn ruồi nhặng.
Đầy phố và đầy đồng.
Năm, giết chết gia sức
Của dân Pha-ra-ông.

Sáu, A-rông vung mạnh
Một nắm tro lên trời.
Tro sinh ra ghẻ lở
Cho vật và cho người.

Bảy, Chúa làm sấm sét.
Rồi mưa đá bắt đầu
Từ trên cao rơi xuống,
Phá hoại hết hoa màu.

Tám là họa châu chấu.
Châu chấu bay kín trời.
Ăn hết cỏ và lúa
Của vật và của người.

Chin, là họa bóng tối.
Ba ngày trời tối đen.
Nhưng ánh sáng vẫn đến
Với người It-sra-en.

Và mười, kinh khủng nhất.
Chúa bảo con dân Ngài
Bôi máu dê lên cửa,
Ngay bậc thềm, bên ngoài.

Đêm đến, các thiên sứ
Tìm dân Pha-ra-ông,
Không thấy máu trên cửa
Là giết con đầu lòng.

Sau mười tai họa ấy,
Tàn nhẫn và lạ kỳ,
Vua Ai Cập mới chịu
Cho dân It-sra-ên đi.

Ngay trong đêm hôm ấy,
Nhờ được Chúa yêu thương,
Toàn bộ dân Do Thái
Liền lập tức lên đường.


13
RỜI AI-CẬP

Vậy là nhà Gia-cốp
Lúc đến bảy mươi người.
Nay đi khỏi Ai Cập
Là sáu mươi nghìn người.

Đủ thành phần, lứa tuổi,
Cả đàn ông, đàn bà,
Cả người khỏe, người yếu
Đều ra đi, ngoài ra,

Nhiều người dân tộc khác
Cũng xin được đi theo.
Và cùng đi với họ
Là gia súc, chó mèo.

*
Đoàn người đông đúc ấy
Đi liên tục mấy ngày,
Đến được bờ Biển Đỏ
Và dừng nghỉ ở đây.

Họ ngoái nhìn, bất chợt
Thấy bụi bay ngút đồng.
Sáu trăm chiến xa lớn
Cùng lính Pha-ra-ông

Đang đuổi theo rất gấp.
Không hiểu lý do gì,
Vua đổi ý, không muốn
Cho dân Do Thái đi.

Đức Chúa liền làm phép,
Dựng một tấm mây đen
Giữa quân lính Ai Cập
Và dân It-sra-ên.

Ngài thổi một luồng khí.
Biển Đỏ tách làm hai,
Thành một lối đi lớn
Khô ráo và kéo dài.

Ông Mô-sê đi trước
Dẫn người It-sra-ên
Đi theo lối đi ấy.
Hai tường nước hai bên.

Thấy thế, quân Ai Cập
Liền ào xuống, bấy giờ
Mô-sê theo ý Chúa,
Giơ chiếc gậy, bất ngờ

Tường nước ở chỗ chúng
Liền ập xuống ào ào.
Chúng bị chết chìm hết.
Không sót một đứa nào.

Khi vượt qua Biển Đỏ,
Dân It-sra-ên ai ai
Cũng vui sướng, họ múa
Và hát tạ ơn Ngài.

*
Đi chừng được một tháng
Đoàn người It-sra-ên
Đừng lại giữa sa mạc.
Chỉ gió cát bốn bên.

Lương thực bắt đầu cạn.
Người và vật đói ăn.
Không ít người khó tính
Đã kêu ca, cằn nhằn.

Nghe hết và biết hết,
Thương dân, Đức Chúa Trời
Phán: “Ngày mai có bánh,
Đủ ăn cho mọi người”.

Sáng hôm sau, quả vậy
Con dân It-sra-ên
Thấy có rất nhiều bánh,
Còn thơm phức mùi men.

Họ nhìn nhau kinh ngạc,
Ôi, ma-na, ma-na?
Nghĩa là cái gì vậy.
Sau thành bánh ma-na.

Bánh này có vị ngọt,
Hương mật ong, hình tròn,
Dẹt và không lớn lắm.
Ăn lúc nào cũng ngon.

Bánh rơi lúc sáng sớm.
Khi mặt trời lên cao
Thì tự tan chảy hết,
Chẳng còn lại bánh nào.

Ông Mô-sê bảo họ
Chỉ cần lấy đủ ăn.
Hôm sau lại lấy tiếp.
Lấy thừa là không cần.

Tuy nhiên, ngày thứ Sáu
Thì phải lấy gấp hai.
Vì sang ngày thứ bảy
Là Chúa Nhật, và Ngài

Sẽ không làm phép lạ.
Không có bánh tự nhiên
Từ trên trời rơi xuống
Cho dân It-sra-ên.

Tất cả con dân Chúa,
Suốt thời gian đi xa
Để đến miền Đất Hứa,
Sống bằng bánh ma-na.

*
Đi được chừng hai tháng,
Họ đến núi Si-nai,
Còn gọi là Hô-rếp,
Cũng là nơi mà Ngài

Làm phép bụi gai cháy,
Giao cho ông Mô-sê
Đưa dân rời Ai Cập.
Một công việc nặng nề.

Khi mọi người chờ đợi
Dưới chân núi Si-nai,
Mô-sê leo lên đỉnh
Để được lắng nghe Ngài.

Ngài nhờ ông nhắc lại
Với dân It-sra-ên
Rằng Ngài yêu mến họ,
Ngay từ thời tổ tiên,

Và rằng Ngài đang giúp,
Thận trọng và an toàn,
Đưa họ tới Đất Hứa
Là xứ Ca-na-an.

Đồng thời Ngài nhắc nhở
Với tất cả mọi người,
Không được thờ ai khác,
Ngoài thờ Đức Chúa Trời.

Ông Mô-sê xuống núi,
Truyền đạt những điều này.
Rồi lần nữa lên núi,
Ở đấy bốn mươi ngày.

Đức Chúa Trời ban tặng
Cho dân It-sra-ên
Hai bảng đá có khắc
Mười Lời Răn, lời khuyên.

Ngoài ra, Ngài còn tặng
Chín Điều Luật, hôm nay
Mô-sê sẽ viết chúng
Lên hai bảng đá này.

Một trong những điều ấy
Là phải yêu Chúa Trời.
Yêu hết lòng, hết ý,
Đến hết sức con người.

Điều thứ hai, phải sống
Có nghĩa và có tình.
Phải luôn yêu người khác
Như chính bản thân mình.

*
Thấy Mô-sê ở lại
Trên núi quá nhiều ngày.
Mọi người lo, tự hỏi:
“Có chuyện gì nữa đây?

Ai dẫn ta đi tiếp?
Hay là ta chung nhau
Đúc một vị thần mới
Để làm người dẫn đầu?”

Họ góp khuyên, góp nhẫn,
Theo lời của A-rôn,
Vừa đủ vàng để đúc
Tượng một con bê con.

Xong, họ mở tiệc lớn,
Thờ con bê bằng vàng.
Rồi nhảy múa, ca hát.
Sống sượng và bẽ bàng.

Đức Chúa Trời rất giận,
Bèn bảo ông Mô-sê:
“Dân ta đang lạc lối,
Quỳ lạy một con bê”.

Mô-sê liền xuống núi,
Giận tím mặt, và rồi
Ném mạnh hai bảng đá,
Khiến chúng vỡ làm đôi.

Còn bức tượng đáng ghét
Liền bị ông đem nung,
Đập thành nhiều mảnh vụn,
Vung tay vứt tứ tung.

Sau đó ông rút kiếm:
“Tội phản lại Chúa Trời
Sẽ phải chết, ông giết
Một lúc ba nghìn người.

*
Kể từ ngày xuất phát,
Một năm đã trôi qua.
Một cái nhà, đền tạm
Cuối cùng được người ta

Dựng làm nơi thờ cúng.
Tạm vì chiếc nhà này
Rất dễ lắp và tháo.
Dễ di chuyển đó đây.

Ý tưởng làm ra nó
Là của Chúa, lúc Ngài
Gặp Mô-sê trên núi
Khi dừng ở Si-nai.

Ngài dạy cách làm nó,
Cách lắp ráp, tháo rời,
Để con dân của Chúa
Có chỗ thờ Chúa Trời.

Khi đến một nơi mới,
Người ta dựng nó lên
Chính giữa trại, bốn phía
Là lều dân Ít-sra-ên.

Có một căn phòng nhỏ
Bên trong đền, phía sau,
Nơi chứa Hòm Giao Ước,
Hai thiên sứ hai đầu.

Hòm chứa hai bảng đá
Cùng với Mười Điều Răn
Đã được Chúa viết lại
Để nhắc nhở con dân.

Trong chiếc Hòm còn có
Một bình bánh ma-na.
Thứ bánh đã nuôi sống
Con dân Ngài vừa qua.

Ở phòng ngoài, phòng lớn,
Có một chiếc bàn thờ
Với mười hai ổ bánh
Và lư hương khói mờ.

Ngoài sân có bồn nước
Để thầy tế rửa tay
Và một chiếc bàn đá
To rộng, chiếc bàn này

Dùng để đặt đồ tế
Dâng lên Đức Chúa Trời.
A-rôn được Chúa chọn
Để nhắc nhở mọi người

Chăm lo việc thờ phụng,
Không rời bỏ đức tin.
Ông cũng là thầy tế
Của dân It-sra-ên.

*
Ca-na-an là xứ
Ngày xưa A-bra-ham,
I-sac và Gia-cốp
Đã sinh sống nhiều năm.

Sau vì nạn đói kém,
Gia-cốp và gia đình
Đã dọn đến Ai Cập,
Sống dư giả, an bình.

Giờ cháu con của họ,
Hơn hai trăm năm sau,
Quay trở lại Đất Hứa.
Ông Mô-sê dẫn đầu.

Hiện tại họ đã đến
Vùng đất hoang Ca-đê.
Trước mặt là Đất Hứa.
Vốn cẩn thận, Mô-sê

Cử một nhóm do thám,
Tổng cộng mười hai người,
Đi trước để tìm hiểu
Vùng đất của Chúa Trời.

Lúc quay về, họ nói
Đất Hứa Ca-na-an
Bằng phẳng và mầu mỡ,
Chỉ tiếc không an toàn.

Dân ở đấy hùng mạnh,
Độc ác và xấu xa.
Nếu dám liều xâm chiếm,
Họ sẽ giết chúng ta.

Mọi người nghe, hoảng sợ
Rồi than trách nặng nề.
Thậm chí muốn ai đó
Thay thế ông Mô-sê

Đưa họ về Ai Cập.
Thà khổ như trước đây.
Còn hơn phải bỏ mạng
Vô ích ở xứ này.

Trong đội do thám ấy,
Tuy nhiên, có hai người
Không đồng ý như vậy,
Vì họ tin Chúa Trời.

Tên của hai người ấy
Là Ca-lép, Giô-suê.
Những người luôn tích cực
Giúp đỡ ông Mô-sê.

Họ nói: “Không, đừng sợ.
Đức Chúa Giê-hô-va
Đã cho Đất Hứa ấy,
Nên sẽ giúp chúng ta”.

Nhưng mọi người, thật tiêc,
Cứ một mực nói không.
Thậm chí còn nhất định
Đòi phải giết hai ông.

Điều ấy làm Chúa giận.
Ngài phán với Mô-sê:
“Bọn người này vô đạo.
Răn dạy mãi không nghe.

Ta sẽ trừng phạt chúng:
Nay chỉ cho những người
Được vào đất ta hứa,
Tuổi phải dưới hai mươi.

Tất cả người còn lại
Phải bốn mươi năm trời
Vật vờ trên sa mạc
Cho đến khi lìa đời”.

*
Vậy là dân Do Thái,
Tức người Ít-sra-ên,
Phải vật vờ đói khát
Trên sa mạc, thảo nguyên.

Không bao lâu sau đó,
Hai trăm năm mươi người,
Trưởng các nhóm dân sự,
Lại coi thường Chúa Trời.

Họ muốn chọn người khác
Thay Mô-sê, A-rông,
Những người được Chúa chọn
Để dẫn dắt cộng đồng.

Ông Mô-sê bảo họ
Vậy thì mời sáng mai
Đến bàn thờ thờ Chúa
Để xem Ngài chọn ai.

Hôm sau chúng có mặt
Mô-sê bảo mọi người
Tránh xa chỗ chúng đứng.
Và rồi Đức Chúa Trời

Làm phép - đất nứt sụp
Dưới chân bọn người này.
Chúng rơi xuống vực thẳm.
Chết, không tìm thấy thây.

Sau đó Đức Chúa phán,
Mỗi chi chọn một người,
Đặt chiếc gậy của họ
Trước bàn tế Chúa Trời.

“Mọi người sẽ được biết.
Gậy của ai nở hoa
Thì người ấy được chọn
Làm thầy tế cho ta!”

Tất nhiên, người được chọn
Vẫn là ông A-rông,
Một thầy tế mẫu mực,
Hết lòng vì cộng đồng.

*
Năm này qua năm khác.
Mười, rồi hai mươi năm,
Ba mươi năm, rốt cục
Vừa hết ba chín năm,

Lang thang trong sa mạc,
Dẫn đầu là Mô-sê.
Giờ họ đang cắm trại
Ở vùng đất Ca-dê.

Bốn mươi năm về trước
Cũng chính ở đất này
Đã xẩy ra rắc rối
Phải chịu tội lưu đày.

Trong bốn mươi năm ấy,
Dẫu phạm tội xấu xa,
Họ vẫn được Chúa giúp
Và cho bánh ma-na.

Nhờ Chúa, họ có nước,
Có lửa sưởi đêm đông.
Quần áo mặc không rách,
Chân không bị sưng phồng.

Lần này, như đã nói,
Họ đang ở Ca-dê.
Một số người tức giận,
Nói vớ ông Mô-sê:

“Ai bắt ông vô cớ
Đưa chúng tôi đến đây.
Để giờ không nước uống
Và khổ sở thế này?”

Mô-sê, theo ý Chúa,
Đưa họ đến Bàn Thờ,
Chọc gậy vào tảng đá.
Từ tảng đá bất ngờ

Nước chảy ra như suối.
Đủ cho thú và người
Tha hồ uống thỏa thích.
Nước của Đức Chúa Trời.

Nhưng Mô-sê lại nói
Rằng nhờ gậy của ông
Hòn đá mới phun nước.
Chúa rất không hài lòng.

Mô-sê bị Chúa phạt,
Cùng A-rông, người anh,
Không được đến Đất Hứa
Ca-na-an tốt lành.

Một thời gian sau đó,
Khi đến núi Hô-rơ,
A-rông ốm rồi chết.
Lúc ấy ông đã già.

Một trăm hai ba tuổi.
Được quý trọng xưa nay,
Dân It-sra-ên thương tiếc,
Khóc ông ba mươi ngày.

Con trai ông, con cả,
Là Ê-lê-a-sa
Được Đức Chúa lựa chọn
Làm thầy tế thay cha.

*
Dẫu hàng ngày Đức Chúa
Cho dân It-sra-ên
Đủ bánh và đủ nước,
Nhưng họ vẫn than phiền.

Rằng ma-na ăn mãi,
Cũng khó mà nuối trôi;
Rằng thà ở Ai Cập
Làm nô lệ cho rồi...

Họ hết trách Đức Chúa,
Lại trách ông Mô-sê.
Đức Chúa lại trừng phạt,
Một hình phạt nặng nề.

Chúa làm phép, rắn rết
Bỗng từ đất chui lên,
Cắn, gây chết, bệnh tật
Cho người It-sra-ên

Đến mức không chịu nổi.
Đức Chúa thấy, động lòng.
Bèn sai Mô-sê đúc
Một con rắn bằng đồng

Rồi treo lên cây cột.
Rắn rết cắn người nào,
Chỉ nhìn nó là khỏi.
Không ai hiểu vì sao.

*
Hay tin con dân Chúa
Sắp vào Ca-na-an,
Vua nước này, Ba-lác,
Bèn sai Ba-la-an

Nhanh chóng đi khắp xứ,
Nguyền rủa dân It-sra-ên.
Hứa nếu hắn làm tốt,
Sẽ được thưởng nhiều tiền.

Hắn là tên gian xảo
Với giọng lưỡi chua cay,
Nghĩ ngăn được dân Chúa
Bằng cách nguyền rủa này.

Vậy là hắn hăng hái
Nhảy lên lưng con la,
Tay cầm chiếc loa nhỏ.
Nhưng vừa ra khỏi nhà,

Con la bỗng khựng lại,
Nhất định không chịu đi.
Lại còn nằm bẹp xuống.
Hắn không hiểu chuyện gì.

Đó là do Thiên Chúa
Không muốn Ba-la-an
Ngăn con của Đức Chúa
Vào đất Ca-la-an.

Ngài đã sai thiên sứ
Cầm gươm chờ ngoài đồng.
Con la hắn nhìn thấy.
Còn hắn thì lại không.

Thương con vật tội nghiệp
Bị hắn đánh rất đau.
Chúa cho hắn nhìn thấy.
Hắn sợ hãi cúi đầu.

Sợ bị thiên sứ giết,
Hắn lủi thủi quay về,
Gặp vua hắn, Ba-lác,
Nét mặt buồn ủ ê.

Hắn định kể mọi chuyện,
Định chửi dân It-sra-ên,
Thế mà Chúa làm phép,
Làm miệng hắn bỗng nhiên

Ba lần, to, liên tục,
Phát ra một câu dài
“Hoan nghênh, xin chúc phước
Cho con dân của Ngài”.

KINH THÁNH, đầy đủ -1

 

TRUYỆN KINH THÁNH
Đầy đủ

1
ĐỨC CHÚA TRỜI TẠO RA VẠN VẬT

Vạn vật rất tốt đẹp
Mà ta thấy quanh ta,
Vâng, tất cả, tất cả
Đều do Ngài tạo ra.

Để có ngày, có nắng,
Ngài tạo ra mặt trời.
Để đêm không quá tối -
Tạo mặt trăng sáng ngời.

Ngài tạo nên trái đất
Để tất cả chúng ta
Có nơi để sinh sống,
Có chỗ để dựng nhà.

Đức Chúa Trời trước đó
Tạo nên các thần linh,
Tức những vị thiên sứ,
Ngài xem như con mình.

Ta không thấy được họ,
Cũng như không thấy Ngài.
Vì khác với người thật,
Họ không có hình hài.

Họ luôn ở bên Chúa,
Giúp Ngài làm nhiều điều.
Báo mộng, gửi thông điệp
Về tình thương, tình yêu.

Thuở sơ khai, vũ trụ
Là một cõi mênh mông.
Ngài tạo nên mây gió,
Đại dương và núi sông.

Rồi Ngài tạo loài vật,
Loài biết bò, biết bay,
Sống trên cạn, dưới nước,
Và các loại cỏ cây...

Ngài muốn chuẩn bị sẵn
Những điều kiện tuyệt vời
Để bảo đảm cuộc sống
Cho con Chúa - Con Người.

Ngài chọn một vùng đất
Làm khu Vườn Ê-đen.
Đầy hoa thơm, trái ngọt,
Thơ mộng như vườn tiên.

Con người sẽ hạnh phúc
Sống trong khu vườn này.
Không đau ốm, bệnh tật,
Chỉ ca hát suốt ngày.


2
A-ĐAM VÀ Ê-VA

Ngài lấy ít bụi đất
Nặn thành một hình người.
Người đàn ông khỏe mạnh,
Với khuôn mặt tuyệt vời.

Rồi Ngài hà hơi ấm
Của Ngài lên người ông.
Người đàn ông ngọ nguậy,
Sống động, da hồng hồng.

Ông được Đức Chúa đặt
Cái tên đẹp, A-đam.
Và được giao một việc
Nhẹ nhàng ông phải làm -

Đặt tên cho bầy thú,
Những con thú trong vườn.
A-đam vâng lời Chúa,
Nhưng bất chợt thoáng buồn.

Vì tất cả loài thú,
Như hổ, cáo, mèo, voi,
Hươu nai và sư tử...
Loài nào cũng có đôi.

Còn ông thì chỉ một,
Phải đơn độc suốt ngày.
Đức Chúa Trời thấy thế,
Bèn chờ ông ngủ say,

Bẻ khúc xương sườn nhỏ
Làm thành người đàn bà.
Ngài đặt cho người nữ
Cái tên đẹp, Ê-va.

Rồi người nam, người nữ
Chúa cho làm vợ chồng,
Với lời chúc con cháu
Mỗi ngày một thêm đông.

Ngài cho họ tùy thích
Ăn bất kỳ quả nào,
Trừ quả Cây Tri Thức,
Mà không nói vì sao.

Trong vườn có con rắn,
Đó là quỷ Xa-tăng.
Nó chỉ cho người nữ
Một quả chín, mà rằng

Ai ăn nó sẽ hiểu,
Biết mọi chuyện trên đời.
Sẽ được thành thông thái
Như chính Đức Chúa Trời.

Người nữ nghe, tuy sợ,
Nhưng xiêu xiêu trong lòng.
Bà hái, ăn một nửa,
Còn nửa kia cho chồng.

Ăn xong, bà chợt thấy
Rằng mình đang lõa lồ.
Liền xấu hổ, vội vã
Che bằng chiếc lá nho.

Qua điều ấy, đủ biết
Người nữ không nghe lời.
Đã trót ăn trái cấm,
Còn cãi lại Chúa Trời.

Cả hai người, thật tiếc
Làm Chúa rất buồn phiền.
Cuối cùng, Ngài đuổi họ
Ra khởi Vườn Ê-đen.

Cũng có nghĩa từ đó
A-đam và Ê-va
Phải nếm mùi vất vả,
Đủ đau buốn, xót xa.

Phải tự mình kiếm sống,
Gieo hạt và cấy cày.
Không có gì họ muốn,
Bày sẵn như trước đây.

Hơn thế, họ phải chết
Như tất cả người trần.
Không được sống bất tử
Như các bậc thánh thần.

Và đó là cái giá
Mà họ, những con người
Phải trả, khi phạm tội
Không vâng Đức Chúa Trời.


3
CA-IN VÀ A-BÊN

Hai con trai của họ,
Ca-in và A-bên
Được sinh ra khi họ
Không còn ở Ê-đen.

Ca-in, người con cả,
Trồng rau, trồng lúa mì.
A-bên thì chăn thú,
Sáng sáng dẫn cừu đi.

Hai anh em ngày nọ
Làm lễ dâng Chúa Trời.
Đồ tế là sản phẩm
Có riêng của từng người.

Ca-in dâng hoa quả
Do tự tay ông trồng.
Còn A-bên dâng Chúa
Con cừu béo của ông.

Chúa nếm thử hai loại,
Cảm ơn và ngợi khen.
Nhưng vẫn tỏ ý thích
Mâm lễ của A-bên.

Vì là người đố kỵ,
Ca-in không hài lòng.
Thậm chí, rất tức giận,
Ông rủ em ra đồng.

Ở đấy ông đã phạm
Một tội ác tày trời,
Đầu tiên trên trái đất,
Đó là tội giết người.

Hơn thế, giết em ruột.
Chúa đày ông đi xa.
Có một người con gái
Của A-đam, Ê-va

Đi theo ông, sau đó
Người này thành vợ ông.
Rồi sinh con đẻ cái
Như mọi cặp vợ chồng.

Rồi con cháu của họ
Lấy nhau, qua nhiều đời,
Dần dần trên trái đât
Đã có rất nhiều người.

Phần đông là người ác,
Làm những chuyện xấu xa.
Họ quên lời Chúa dạy,
Cả đàn ông, đàn bà.

Nhưng một người thì khác,
Người luôn tin Chúa Trời.
Đó là ông Hê-noc,
Tốt, dũng cảm hơn người.

Đức Chúa sai Hê-noc
Báo mọi người mai đây
Họ sẽ bị trừng phạt,
Nếu tiếp tục thế này.

Mọi người nghe, không sợ,
Lại còn định giết ông.
Ngài vừa buồn, thất vọng,
Vừa rất không hài lòng.

Vì sao loài người ác?
Vì họ bị Xa-tăng
Xui khiến làm điều ác.
Vậy ai là Xa-tăng?

Xa-tăng là thiên sứ
Do Đức Chúa tạo ra.
Thiên sứ có người tốt,
Cũng có người xấu xa.

Họ, những thiên sứ xấu,
Xuống trần dưới dạng người,
Cưới phụ nữ xinh đẹp,
Bất chấp ý Chúa Trời.

Và con cái của họ
Là những người khổng lồ.
Chúng xúi người làm ác,
Gây bao nỗi buồn lo.


4
ĐẠI HỒNG THỦY

Khi ông Hê-noc chết,
Người ác càng thêm đông.
Vẫn có một người tốt,
Là Nô-ê, cháu ông.

Nô-ê luôn tin Chúa,
Và tụng niệm hàng ngày.
Một hôm Chúa hiển thánh,
Nói với ông thế này:

“Ta sắp làm lụt lớn
Để hủy diệt loài người.
Vì ngươi ăn ở tốt
Nên ta muốn cứu ngươi.

Hãy lấy thật nhiều gỗ
Để đóng một chiếc tàu.
Tàu ba tầng, thật lớn.
Ngươi sẽ ở tầng đầu.

Tầng thứ hai lương thực.
Tích thật nhiều, và rồi
Tầng thứ ba gia súc.
Cứ mỗi loài một đôi”.

Oog vâng theo ý Chúa.
Còn báo với mọi người
Về tai họa sắp đến.
Họ không nghe, còn cười.

Vợ chồng ông lúc ấy
Có ba con, con đầu -
Sem, rồi Cham, Gia-phết
Và ba người con dâu.

Con tàu lớn, rất lớn,
Nhiều năm mới đóng xong.
Khi trời mưa, có lụt,
Cả tám người nhà ông

Cùng lương thực, gia súc
Đã yên vị trên tàu.
Nước cứ dâng cao mãi.
Nhưng nước dâng đến đâu,

Tàu lại nổi đến đó.
Và toàn bộ loài người
Phải chết chìm trong nước.
Sang ngày thứ bốn mươi

Trời ngừng mưa, nước rút.
Bốn bề nước mênh mông.
Phải năm tháng sau đó
Con tàu lớn của ông

Mới chạm một đỉnh núi.
Nô-ê nhìn ra ngoài.
Mọi người đều chết hết.
Tịnh không còn một ai.

Bọn khổng lồ cũng chết.
Còn cha chúng trên trời,
Tức các thiên sứ ác,
Vì gây hại cho người,

Bị Đức Chúa phế bỏ,
Đuổi khỏi chốn vĩnh hằng.
Chúng trở thành thiên sứ
Của loài quỷ Xa-tăng.

Vì nước rút rất chậm,
Con tàu của Nô-ê
Phải dừng lâu trên núi.
Nước vẫn trắng bốn bề.

Ông thả một con quạ.
Nó bay đi, hồi lâu
Không tìm thấy chỗ đậu,
Nên lại quay về tàu.

Một con bồ câu trắng
Lần nữa được Nô-ê
Thả đi, nhưng như cũ,
Lát sau nó quay về.

Mấy hôm sau, lại thả.
Thả buổi sáng, đến chiều
Nó quay lại, trên mỏ
Ngậm một cành ô-liu.

Lần thứ ba ông thả,
Cũng chính con chim này.
Không thấy nó quay lại.
Vậy là đã đến ngày

Cả người cả loài vật
Có thể ra khỏi tàu.
Họ đã ở trên đó
Đúng một năm, quá lâu.

Nô-ê làm mâm lễ
Dâng lên Đức Chúa Trời,
Tạ ân Ngài cứu độ
Cho ông và mọi người.

Từ trên cao, Đức Chúa
Thấy thế, rất hài lòng.
Để báo hiệu điềm tốt,
Ngài ban chiếc cầu vồng.

Hơn thế, Ngài còn hứa
Rằng loài người từ nay
Sẽ không bị hủy diệt
Bằng nước lụt thế này.


5
THÁP BA-BEN

Chẳng bao lâu sau đó
Con cháu của Nô-ê
Tràn đầy trên mặt đất,
Sinh sống bằng đủ nghề.

Trong số cháu chắt ấy
Đặc biệt có một người,
Nổi tiếng rất độc ác,
Báng bổ cả Chúa Trời.

Hắn tên là Nim-rôt,
Kiêu căng, tự tôn mình
Làm chúa tể thiên hạ.
Và khi xây dựng thành,

Hắn cho xây chiếc tháp
Thật to và thật cao.
Đến tận mây, thậm chí
Chạm tới các vì sao.

Để làm gì? Đơn giản
Hắn muốn khẳng định mình
Vĩ đại và hùng mạnh
Không thua kém thần linh.

Đức Chúa Trời thấy thế,
Muốn ngăn cản việc này,
Bèn xáo trộn tiếng nói
Của những người thợ xây.

Người của các dân tộc
Cái thuở ấy ban đầu
Có chung một tiếng nói
Nên dễ dàng hiểu nhau.

Giờ không còn thế nữa.
Vì ngôn ngữ bất đồng,
Nên chiếc tháp lớn ấy
Xây mãi vẫn không xong.

Nhưng cái tên của tháp -
Ba-bên, Ba-bi-on,
Có nghĩa là “lộn xộn”,
Thì ngày nay vẫn còn.

6
A-BRA-HAM

Khi trận lụt kết thúc,
Nô-ê và các con
Định cư ở vùng đất
Có tên là U-ron.

Dần dần nó phát triển
Thành thành phố đông người,
Với những ngôi nhà đẹp,
Những khu vườn xinh tươi.

Nhưng dân thành phố ấy,
Cũng như Ba-bi-lon,
Không thờ phụng Đức Chúa,
Mà thờ tượng vô hồn.

Sau trận đại hồng thủy
Ba trăm năm mươi năm,
Xuất hiện một người tốt,
Tên là A-bra-ham.

Ông là người đặc biệt,
Cùng vợ và các con
Đang sinh sống khá giả
Ở thành phố U-ron.

Một hôm Chúa hiển thánh
Bảo ông rời nơi này
Đến một vùng đất mới
Màu mỡ, cách xa đây.

A-bra-ham lập tức
Cùng vợ là Sa-ra,
Bố ông và cháu ruột
Bắt đầu chuyến đi xa.

Được Đức Chúa hướng dẫn,
Họ đến đất Cha-ran
Rồi ít lâu sau đó,
Đến đất Ca-na-an.

Đức Chúa chỉ tay nói:
“Ta cho con đất này
Để làm tài sản quý
Cho con cháu từ nay”.

Nhờ được Chúa giúp đỡ,
Đàn chiên A-bra-ham
Ngày một thêm đông đúc.
Nhiều đầy tớ, người làm.

Tiếc, đã chín chín tuổi
Mà vẫn chưa có con.
Đức Chúa nói: “Cứ đợi.
Ông sẽ có nhiều con.

Nhiều cháu con, đông đúc
Như sao sáng trên trời”.
Năm sau, như ý Chúa,
Vợ ông, tuổi chín mươi,

Sinh đứa con bụ bẫm.
Hơn thế lại con trai.
Đặt tên là I-sac,
Thật hoàn mỹ hình hài.

Để thử lòng, Đức Chúa,
Mấy năm sau bảo ông
Giết đứa con yêu quý
Để tế Ngài; đau lòng,

Nhưng ông vâng ý chúa.
Đúng khi giơ con dao
Định giết con, thì Chúa
Nói vọng từ trên cao:

“Dừng lại, hãy dừng lại.
Ta đã hiểu lòng con.
Và thay cho đứa bé,
Hãy giết chú cừu con”.


7
THÀNH SÔ-ĐOM

A-bra-ham và Lot
Cùng định cư một nơi.
Đất màu mỡ nhưng chật,
Nhiều gia súc, nhiều người.

Một hôm ông bảo Lot:
“Bác hoặc cháu phải đi.
Bây giờ cháu được chọn.
Đi hay ở thì tùy”.

Sau hồi lâu suy nghĩ,
Lot chọn sông Giô-đan.
A-bra-ham ở lại
Đất hứa Ca-na-an.

Vùng đất Lot lựa chọn
Màu mỡ và phì nhiêu.
Bằng phẳng và nhiều nước.
Các bãi cỏ cũng nhiều.

Sô-đom là thành phố
Ông và cả gia đình
Dọn đến sống, tạm ổn.
Nói chung cũng yên bình.

Nhưng dân thành phố ấy
Không tin Đức Chúa Trời.
Họ làm điều độc ác,
Như hiếp dâm, giết người.

Biết tất cả điều ấy,
Ngài rất không hài lòng.
Một hôm, phái thiên sứ
Đến báo trước với ông

Rằng Ngài sẽ dùng lửa
Hủy diệt thành phố này
Và một thành phố khác -
Gô-mô-rơ, đêm nay.

Ngài dặn, khi thấy lửa,
Phải cùng dắt tay nhau
Chạy lên núi, tuyệt đối
Không ai được ngoái đầu.

Lot cùng hai con gái
Và vợ ra khỏi thành.
Theo đúng lời Chúa dặn,
Cắm cúi chạy thật nhanh.

Nhưng vợ Lot, rất tiếc,
Ngoái đầu nhìn, bất ngờ
Liền biến thành tượng muối,
Tay và chân cứng đờ.


8
RÊ-BÊ-CA

Là bố của I-sac,
A-bra-ham muốn con
Cưới được người vợ tốt.
Đẹp người, đẹp cả hồn.

Ông bèn sai đầy tớ
Đi về đất Cha-an,
Tìm một người như thế.
Một người Ca-na-an.

Bọn đầy tớ xuất phát
Cùng mười con lạc đà.
Khi đến một chiếc giếng
Nơi có nhiều đàn bà

Mang bình đến lấy nước.
Họ cầu xin Chúa Trời
Được gặp người phụ nữ
Đem nước mời mọi người.

Hơn thế, còn lấy nước
Cho cả đoàn lạc đà.
Một cô làm điều ấy
Đó là Rê-bê-ca.

Nhân lúc trời sắp tối,
Rê-bê-ca dịu dàng
Mời họ về nghỉ tạm
Trong nhà của cha nàng.

Trong bữa cơm, chủ khác
Vui trò chuyện, hóa ra
Gia đình và dòng dõi
Của nàng Rê-bê-ca

Có quan hệ mật thiết
Với ông A-bra-ham.
Vậy là rất nhanh chóng
Làm được việc cần làm.

Sáng hôm sau, bố mẹ
Đưa tiễn Rê-bê-ca
Về làm vợ I-sac.
Vui trọn vẹn hai nhà.

Nàng sinh cho I-sac
Một lúc hai con trai,
Ê-sau và Gia-côp,
Khỏe mạnh, đẹp hình hài.

Chúng lớn lên nhanh chóng.
Ê-sau thành thợ săn.
Được I-sac yêu quý,
Vì giỏi kiếm thức ăn.

Gia-cốp thì ngược lại,
Được mẹ Rê-bê-ca
Yêu hơn, vì tính cậu
Mộ đạo và nhu hòa.

A-bra-ham, ông nội,
Vẫn thường kể cậu nghe
Các câu chuyện về Chúa.
Cậu nghe rất say mê.

Rồi cuối cùng ông cậu
Đã lặng lẽ lìa đời.
Một trăm bảy lăm tuổi,
Về với Đức Chúa Trời.

Ê-sau và Gia-cốp
Lúc ấy mới mười lăm,
Sẽ tiếp tục khôn lớn,
Nối dõi A-bra-ham.

Ê-sau, bốn mươi tuổi,
Lấy hai người đàn bà.
Điều này làm phật ý
I-sac, Rê-bê-ca.

Vì cả hai người ấy
Tuy đẹp nết xinh người,
Nhưng không tin Đức Chúa,
Nói năng không đẹp lời.

Một ngày nọ có chuyện
Xích mích gây đau lòng.
Ê-sau giận Gia-cốp,
Đến mức muốn giết ông.

Ê-sau là con cả,
Cháu của A-bra-ham
Nhưng không được I-sac
Chúc phước làm trưởng nam.

Vì rất lâu trước đó,
Ông đã bán quyền này,
Quyền được làm anh cả.
Bán thì mất, tiếc thay.

Sợ Gia-cốp bị giết,
I-sac, Rê-bê-ca
Khuyên ông phải tạm lánh
Ở một nơi thật xa.

Gia-cốp đành đồng ý,
Rời bỏ Ca-na-an
Trở về quê ông nội
Là vùng đất Cha-ran.


9
GIA-CỐP Ở CHA-RAN

Quảng đường xa, xa lắm.
Phải đi mất nhiều ngày.
Cuối cùng ông đừng nghỉ
Dưới tán một hàng cây.

Cạnh đấy có chiếc giếng
Và mấy người chăn chiên.
Ông hỏi thì họ đáp
Rằng họ ở làng bên.

Gia-cốp hỏi: “Các bác
Là người ở Cha-ran.
Vậy các bác có biết
Một người, tên La-ban?”

“Biết chứ, chúng tôi biết.
Con ông là Ra-chên.
Một cô gái xinh đẹp.
Kia kìa, đang chăn chiên”.

Gia-cốp liền đến gặp,
Giới thiệu mình là ai.
Nàng vui vẻ thưa chuyện.
Một lúc sau cả hai

Cùng về nhà bố mẹ.
Vì là chỗ thân tình,
Bố cô vui khi biết
Gia-cốp ở nhà mình.

Ông cũng không phản đối,
Ngược lại, rất hài lòng
Khi Gia-cốp ngỏ ý
Lấy Ra-chên, con ông.

Nhưng ông bắt Gia-cốp
Phải làm việc cho mình
Suốt bảy năm liên tục,
Dẫu họ hàng thân tình.

Sau đó mới được lấy
Ra-chên, con gái ông.
Vì yêu nàng, Gia-cốp
Cuối cùng đã bằng lòng.

Nhưng bảy năm sau đó
Chuyện gì đã xẩy ra?
Gia-cốp chỉ được lấy
Cô con lớn, Lê-a.

Rồi thêm bảy năm nữa,
Phải vất vả chăn chiên,
Ông mới được lấy tiếp
Người ông yêu, Ra-chên.

Lê-a, người vợ cả
Sinh được bốn người con
Là Lê-vi, Giu-das,
Ru-bên, Si-mê-ôn.

Còn Ra-chên, thật tiếc,
Không có con, vậy là
Nàng cho cô hầu gái
Có tên là Bi-la

Đến với ông Gia-cốp,
Mà không ghen ghét gì.
Cô sinh cho Gia-cốp
Đan và Nép-ta-ly.

Tương tự, ông cũng được
Bà vợ cả Lê-a
Gửi cho cô hầu gái.
Tên cô là Xinh-ba.

Cô sinh cho ông chủ
Hai con - Gát, A-sê.
Cả họ, cũng dòng dõi
Của ông tổ Nô-ê.

Rồi mấy năm sâu đó,
Cuối cùng bà Lê-a
Sinh hai con trai nữa.
Đó là Y-sa-ra.

Còn người kia, em út,
Tên là Sa-bu-lôn.
Và cuối cùng, thật tuyệt.
Rê-bê-ca có con.

Con bà là Giô-sép,
Đó là đứa con đầu.
Một người rất thành đạt
Và nổi tiếng về sau.

Đã đến lúc Gia-cốp
Giã từ ông La-ban,
Đưa các con và vợ
Trở về Ca-na-an.

Đường xa và vất vả.
Dọc đường, Rê-bê-ca
Trở dạ, sinh, rồi chết.
Thật đau đớn xót xa.

Nhưng đứa con thì sống,
Khỏe mạnh và ưa nhìn.
Đó là đứa con út,
Tên là Ben-gia-min.

Vậy là ông Gia-cốp
Có mười hai con trai.
Về sau, dân Do Thái,
Số chi phái - mười hai.

Và mười trong số đó
Mang tên con trai ông.
Hai chi phái còn lại -
Con Giô-sép, cháu ông.

Gia-cốp có con gái.
Nhưng thời ấy đàn bà
Thường ít được nhắc đến.
Chỉ biết rằng Đi-na,

Con gái ông, thật tiếc,
Vì ngây thơ, hồn nhiên
Chơi với kẻ ngoại đạo,
Gây nên lắm sự phiền.

Một hôm, nàng bị hiếp
Khi đi chơi ban đêm,
Bởi một kẻ ngoại đạo
Có tên là Si-chem.

Các anh nàng hay chuyện,
Giết Si-chem, than ôi,
Họ bị Gia-cốp trách,
Nhưng chuyện cũng đã rồi.

KINH THÁNH Tóm lược

KINH THÁNH
Tóm lược

Toàn bộ sách Kinh Thánh
Gửi đến cho loài người
Được viết theo mặc khải
Của chính Đức Chúa Trời.

Từ hỗn mang vũ trụ,
Ngài tạo nên muôn loài.
Tạo người nam, người nữ
Theo hình mẫu giống Ngài.

Hai người đầu tiên ấy
Là A-đam, Ê-va.
Cũng bằng xương, bằng thịt
Như tất cả chúng ta.

Ngài cho họ được sống
Trong khu Vườn Địa Đàng,
Nơi có nhiều quả ngọt,
Đủ màu xanh, màu vàng.

Ở đấy họ được phép
Ăn bất kỳ quả nào,
Trừ quả Cây Tri Thức.
Thế mà rồi, tiếc sao,

Bị Sa Tăng quyến rũ,
Họ đã không vâng lời.
Đức Chúa trừng phạt họ,
Bắt xuống với Cõi Người.

Họ chịu nhiều vất vả,
Sinh hai con đầu tiên.
Hai con trai khỏe mạnh,
Là Ca-in, A-ben.

Ca-in là anh cả.
A-ben, em thứ hai.
Một lần, họ dâng lễ
Lên Đức Chúa, và Ngài

Thích, tỏ lời khen ngợi
Lễ vật của A-ben,
Chứ không phải lễ vật
Của người anh, Ca-in.

Ca-in, vốn đố kỵ,
Nên đã giết em trai.
Cuối cùng phải hứng chịu
Sự trừng phạt của Ngài.

Để bù lại, Đức Chúa
Cho A-đam, Ê-va
Thêm một con trai nữa,
Tên là Set, vậy là

Từ đấy dòng dõi họ
Thành đông đúc, nhiều người.
Cứ sinh sôi nẩy nở
Liên tục, đời tiếp đời.

Sau Set là E-noc,
Rồi Ma-ha-na-ê...
Cứ thế kéo dài mãi.
Cuối cùng là Nô-ê.

Thời Nô-ê, thật tiếc,
Loài người đã rất đông,
Nhưng không nghe lời Chúa,
Làm Ngài thấy phiền lòng.

Ngài đã cho cơ hội
Để quy chính cải tà,
Nhưng họ quen đường cũ,
Làm nhiều điều xấu xa.

Cuối cùng Ngài quyết định
Phải hủy diệt loài người
Bằng trận lụt khủng khiếp
Chưa từng có trên đời.

Nô-ê là người tốt,
Luôn kính Chúa xưa nay,
Nên Ngài cho được sống
Và báo trước điều này.

Ngài bảo ông lấy gỗ
Đóng trước một con thuyền.
Khi trời mưa trút xuống
Và nước lụt dâng lên,

Ông đã cùng bà vợ,
Ba con trai, con dâu
Và rất nhiều loài vật,
Đực và cái đều nhau

Cứ nổi lên theo nước.
Sau đúng bốn mươi ngày
Nước rút, ông được Chúa
Giao cai quản từ đây

Mọi loài trên mặt đất,
Cả gần và cả xa,
Như Ngài giao ngày trước
Cho A-đam, Ê-va.

Chẳng bao lâu sau đó
Loài người ngày một đông.
Và lẫn nữa, thật tiếc,
Họ làm Chúa phiền lòng.

Vì họ quên lời Chúa,
Mà tự tạo cho mình
Những tượng thần xa lạ,
Rồi mê mẩn tôn vinh.

Hơn thế còn ngạo mạn
Muốn xây tháp Ba-ben
Đến chạm trời, chỉ đế
Tự nâng cao mình lên.

Đức Chúa Trời quyết định
Phải ngăn chặn điều này.
Ngài làm rối ngôn ngữ.
Giờ không như trước đây,

Họ không hiểu nhau nữa
Vì ngôn ngữ bất đồng.
Và chiếc tháp vì vậy
Không bao giờ xây xong.

Rồi nhiều năm sau đó,
Từ dòng dõi của Sam,
Con Nô-ê, Ngài chọn
Một người, là Abram

Để giúp Ngài thực hiện
Điều mong muốn của Ngài
Sẽ giúp dân Do Thái
Được tồn tại lâu dài.

Ngài bảo ông nhanh chóng
Đưa gia đình, dê bò,
Đến một vùng đất mới
Mà Ngài hứa ban cho.

Abram cùng vợ,
Có tên là Sarai,
Và người cháu tên Lot
Theo chỉ dẫn của Ngài

Đi đến miền Đất Hứa,
Miền đất Ca-na-an.
Phì nhiêu và rộng rãi.
Xanh tươi và an toàn.

Cả Abram và Lot,
Dẫu họ hàng với nhau,
Nhưng có riêng gia súc,
Và rồi chẳng bao lâu

Đã xẩy ra xích mích
Giữa những người chăn chiên.
Hai bác cháu quyết dịnh
Tách ra thành hai miền.

Lot chọn miền mầu mỡ -
U-nơ-rơ, Su-đông
Abram tở lại đất
Chúa đã ban cho ông.

Rồi qua một thiên sứ,
Ông được Đức Chúa Trời
Cho giữ miền đất ấy
Làm sản nghiệp muôn đời.

Hơn thế, Ngài còn nói
Rằng ông và Sa-rai
Sẽ có nhiều con cháu
Để kế nghiệp lâu dài.

Tiếc rằng ông và vợ
Không dám tin điều này.
Vì họ đã già yếu
Và hiếm muộn lâu nay.

Tên ông được Chúa đổi
Thành tên A-bra-ham.
Cha của các dân tộc,
Thay tên cũ A-bram.

Còn tên vợ, Chúa dổi
Sa-rai thành Sa-ra.
Mẹ của các dân tộc
Và của mọi quốc gia.

Đức Chúa Trời hủy diệt
Sô-đôm, Gô-mơ-ro,
Hai thành phố tội lỗi
Bằng lửa và phốt-pho.

Một thời gian sau đó,
Sa-ra sinh con trai,
Đặt tên la I-sac,
Như tiên đoán của Ngài.

Hai người định làm lễ
Tạ ơn Đức Chúa Trời.
Nhân dịp này, Đức Chúa
Muốn thử thách lòng người,

Bèn bảo ông hãy tế
Chính con trai của ông.
A-bra-ham nghe vậy,
Dẫu đau xót trong lòng,

Đưa I-sac lên núi.
Đúng khi ông giơ dao
Định giết con thì Chúa
Phán xuống từ trên cao:

“Dừng lại, ta đã hiểu
Sự thành tâm của con”.
Và thay cho đứa bé,
Ngài cho chú cừu non.

Qua I-sac, Đức Chúa
Thực hiện lời của Ngài
Về việc giúp dân Chúa
Được trường tồn lâu dài.

Bốn mươi tuổi, I-sac
Lấy bà Rê-bê-ca,
Sinh Ê-sau, Gia-cốp.
Lúc đầu rất thuận hòa.

Nhưng sau thì xung khắc,
Gia-cốp phải bỏ đi
Tới quê hương ông nội,
Mê-sa-pô-ta-mi.

Nhiều năm ông ở đấy,
Chờ đến lúc an toàn
Mới trở về quê cũ,
Đất Hứa Ca-na-an.

Gia-cốp có tổng cộng
Mười hai người con trai.
Ông yêu Giu-sê nhất,
Vì thông minh, có tài.

Do thế mà bị ghét.
Các anh trai lừa ông,
Đem bán sang Ai Cập
Làm nô lệ không công.

Ông còn bị vu khống,
Bị tống vào nhà lao.
May được Chúa cứu giúp
Nên cuối cùng không sao.

Ngài mách ông giải đáp
Giấc mơ Pha-ra-ông.
Vua Ai Cập cất nhắc
Chức tể tướng cho ông.

Rồi mấy năm sau đó,
Do hạn hán kéo dài,
Xẩy ra nạn đói lớn,
Trong nước và nước ngoài.

Nhờ được Chúa báo trước
Qua giấc mơ của vua,
Ông tích nhiều lương thực
Trong những năm được mùa.

Thành ra giờ Ai Cập
Trở thành nơi mọi người
Từ bốn phương kéo đến
Mua lúa mì cầm hơi.

Trong số những người ấy,
Trớ trêu và đau lòng,
Có các con Gia-cốp,
Người từng đã bán ông.

Họ khóc vì hối hận.
Còn Giu-sê bao dung,
Mời tất cả anh chị
Sang Ai Cập sống cùng.

Họ, những người Do Thái
Đầu tiên ở xứ này,
Nhờ được quan tể tướng
Giúp đỡ nên càng ngày

Càng làm ăn phát đạt,
Số lượng cũng thêm đông.
Chẳng bao lâu phát triển
Thành cả một cộng đồng.

Thế hệ Giu-sê chết,
Cũng chết ông vua già.
Ai Cập có vua mới,
Một con người ranh ma.

Lo sợ dân Do Thái,
Giàu có và thông minh,
Lấn át dân bản địa
Và đe dọa chính mình,

Hắn ra lệnh phải giết
Tất cả các bé trai
Dân Do Thái, độ tuổi
Từ một cho đến hai.

Dân Do Thái bị bắt
Làm những việc thấp hèn
Như những người nô lệ
Mà chẳng dám kêu rên.

Một người Do Thái nọ
Thuộc dòng họ Lê-vê,
Sinh bé trai kháu khỉnh,
Đặt tên là Mô-sê.

Để con không bị giết,
Bà mẹ phải đành lòng
Cho con vào chiếc thúng,
Để trôi theo dòng sông.

Ngẫu nhiên có công chúa
Tắm ở khúc sông này,
Thấy vậy bèn đưa cậu
Về chăm sóc hàng ngày.

Khi đến tuổi khôn lớn
Mô-sê rất đau lòng
Chứng kiến đân Do Thái
Bị lính Pha-ra-ông

Đánh đập rất tàn nhẫn,
Nhưng chẳng thể làm gì.
Ông giết một tên lính
Rồi vội vàng trốn đi.

Đức Chúa cho thiên sứ
Báo với ông đến ngày
Ông dẫn dân của Chúa
Ra khỏi đất nước này.

Ngài giúp ông làm phép,
Những phép thuật diệu kỳ
Để bắt vua Ai Cập
Cho dân Do Thái đi.

Phải chịu mười tai họa,
Cuối cùng Pha-ra-ông,
Không thể làm gì khác,
Đành miễn cưỡng bằng lòng.

Vậy là dân Do Thái,
Từ chỉ bảy mươi người,
Sau hơn bốn thế kỷ,
Thành sáu mươi nghìn người.

Cháu con của I-sac,
Vượt qua nhiều gian nan,
Được Mô-sê dẫn dắt
Hướng tới Ca-na-an.

Vượt sa mạc, Biển Đỏ,
Chịu bao nỗi nhọc nhằn.
Họ được Chúa giúp đỡ
Và cho Mười Điều Răn.

Ra khỏi đất Ai Cập,
Họ bắt đầu kêu ca.
Trách Mô-sê, oán Chúa,
Hoặc buông lời xấu xa.

Bị Đức Chúa trừng phạt
Vì bội tín, lỗi lầm,
Họ phải vượt sa mạc
Trong vòng bốn mươi năm.

Phần lớn họ đã chết,
Kể cả ông Mô-sê.
Thay ông, Đức Chúa chọn
Một người khác, Giô-suê.

“Hãy đưa con dân Chúa
Vượt qua sông Giô-đan,
Đi tới Miền Đất Hứa
Mà ta đã ân ban.

Ta sẽ luôn bên cạnh,
Giúp đỡ con khi cần.
Như Mô-sê ngày trước,
Hãy dẫn dắt con dân”.

Cuối cùng họ đến được
Miền Đất Hứa Chúa ban
A-bra-ham ngày trước,
Là đất Ca-na-an.

Khi thế hệ tin Chúa
Như Giô-suê qua đời,
Phần lớn dân Do Thái
Đã bội tín, thành người

Tin, thờ cúng ngẫu tượng
Do chính họ nghĩ ra.
Sống vô nghĩa, vô đạo
Và làm điều xấu xa.

Chúa nhiều lần cứu họ,
Nhưng cũng đành bó tay.
Để họ bị người khác
Cai trị và đọa đày.

Ngài phái nhiều thiên sứ
Báo cho họ có ngày
Chúa sẽ trừng phạt họ
Nếu tiếp tục thế này.

Cũng qua các thiên sứ,
Ngài báo với mọi người
Rằng một đấng cứu thế
Sắp giáng trần cứu người.

Điều ấy đã linh nghiệm -
Chúa Giê-su, con Ngài,
Ra đời và gánh chịu
Mọi nỗi khổ trần ai.

*
Ở làng Na-da-rét
Có một nữ đồng trinh,
Cô Ma-ry xinh đẹp,
Sống có nghĩa, có tình.

Một hôm có thiên sứ
Đến báo mộng cho nàng,
Rằng Chưa đã hiển thánh
Và nàng sẽ có mang.

Đó là con của Chúa.
Hãy đặt tên Giê-su,
Người sẽ đem ánh sáng
Soi đời này âm u.

Giu-sê, người thợ mộc,
Đã đính hôn với nàng.
Định thôi ý định ấy
Khi thấy nàng có mang.

Khi được thiên sứ báo,
Như báo với Ma-ry,
Ông yên tâm cưới vợ,
Coi như không có gì.

Vậy là đã giáng thế
Con của Đức Chúa Trời
Để cứu độ dân chúng,
Chết thay cho mọi người.

Ngài rao giảng điều tốt,
Chữa bệnh cho người dân.
Dạy họ bỏ điều ác,
Thương người như thương thân.

Cuối cùng Ngài phải chết,
Bị biến thành trò cười.
Chết trên cây thánh giá,
Gánh tội cho loài người.

Ba ngày sau, sống lại,
Gặp tông đồ, dịu dàng,
Giao cho họ rao giảng
Phúc Âm Nước Thiên Đàng.

Sau đó Ngài lặng lẽ
Bay lên với Chúa Cha.
Từ đấy nhiều hế hệ
Các tông đồ gần xa

Truyền bá Đạo Thiên Chúa
Để cứu khổ giúp đời.
Chờ đến ngày bất chợt
Ngài quay lại Cõi Người.



Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 60

 

NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

(1830 - 1871)

 

Ông là người theo Đạo.

Quê Nghệ An, Xã Đoài.

Bố học nhiều, biết rộng,

Một thầy thuốc có tài.

 

Ông học bố từ bé.

Vốn thông minh hơn người,

Nên rất giỏi chữ Hán.

Từng vang bóng một thời.

 

Là vì theo Công Giáo,

Ông không được đi thi.

Người đời gọi Trạng Tộ,

Dẫu không bằng cấp gì.

 

Năm ông hăm bảy tuổi,

Giám mục Gauthier

Mời vào tòa giám mục

Trong nhà thờ gần quê.

 

Ông dạy Cha chữ Hán.

Cha dạy ông tiếng Tây.

Chẳng bao lâu sau đó

Thông thạo thứ tiếng này.

 

Ngoài tiếng, Cha còn dạy

Cả văn minh, thơ ca.

Cả kiến thức khoa học,

Xa lạ với nước ta.

 

Năm Một Tám Năm Tám,

Giám mục Gauthier

Đưa ông sang Pháp học.

Ba năm sau mới về.

 

Trong thời gian ở Pháp,

Ông có đến Roma,

Cùng giám mục yết kiến

Đức Giáo Hoàng cao xa.

 

Về nước, đúng vào lúc

Pháp xâm chiếm Nam Kỳ.

Ông thành người thông dịch,

Dẫu không thích thú gì.

 

Vì vậy, xin giám mục

Cho phép được về quê.

Giúp dân chúng canh tác

Và đào Kênh Nhà Lê.

 

Sau đó ông thiết kế

Và chỉ đạo việc xây

Một công trình kiến trúc

Tồn tại đến này nay.

 

Đó là tòa Tu Viện

Của Dòng Thánh Phao-lồ.

Số Bốn Tôn Đức Thắng,

Quận Bến Nghé bây giờ.

 

Suốt đời ông tâm nguyện

Phụng sự nước và dân.

Thông qua những đề nghị

Về chấn hưng, canh tân.

 

Gần sáu chục văn bản

Ông gửi lên triều đình.

Khẩn cấp và thiết thực.

Chí nghĩa và chí tình.

 

Tiếc là triều Nhà Nguyễn

Đã không nghe lời ông,

Để đất nước lạc hậu.

Ngẫm mà thấy dau lòng.

 

Năm Một Tám Bảy Một,

Ông lặng lẽ qua đời.

Thọ chỉ bốn mốt tuổi.

Uổng phí một cuộc đời.

 

 

PHAN CHU TRINH

(1872 - 1926)

 

Là chí sĩ yêu nước,

Học rộng, tầm nhìn xa,

Suốt đời ông trăn trở

Với vận mệnh nước nhà.

 

Ông học hỏi cái mới

Từ Phương Tây văn minh.

Học Nhật Bản mở của

Để đổi mới chính mình.

 

Ông tìm đường cứu nước.

Hình như đã tìm ra.

Tiếc, không ai thực hiện.

Ừ tiếc cho nước nhà.

 

*

Vào năm hăm tám tuổi

Ông thi đỗ cử nhân.

Năm sau, đỗ phó bảng

Tiếng vang nức xa gần.

 

Sau đó, triều Nhà Nguyễn

Cho ông một chức quan,

Là Thừa Biện, Bộ Lễ.

Chức quan nhỏ và nhàn.

 

Hai năm sau, chán nản,

Ông từ quan về quê.

Đọc sách và suy ngẫm

Và kết giao bạn bè.

 

Ông vào Nam, ra Bắc,

Gặp gỡ rất nhiều người.

Cùng lý tưởng, chí hướng,

Để cứu mình, giúp đời.

 

Năm Một Chín Không Sáu

Ông trốn sang Quảng Châu

Gặp được người bạn lớn

Là Cụ Phan Bội Châu.

 

Rồi hai Cụ sau đó

Sang Nhật Bản, ở đây

Họ nghiên cứu, học hỏi

Cải cách của nước này.

 

Năm Một Chín Không Tám

Ông tham gia phong trào

Chống sưu thuế, bị bắt

Và tống vào nhà lao.

 

Năm Một Chín Một Một,

Ông được tha, một phần

Nhờ Hội Nhân Quyền Pháp

Và phản ứng của dân.

 

Ông lên tàu sang Pháp,

Vất vả một chuyến đi.

Viết Đông Dương Chính Trị

Và Dân Biến Trung Kỳ.

 

Ông lên án mạnh mẽ

Chuyện sưu thuế nhiễu nhương

Và chính sách cai trị

Của Pháp ở Đông Dương.

 

Cùng bốn nhân sĩ khác,

Năm Một Chín Hai Mươi,

Ông thành lập tại Pháp

Nhóm Ngũ Long, năm người.

 

Ba năm sau, về nước

Chí sĩ Phan Chu Trinh

Được đồng bào quốc nội

Chào đón rất nhiệt tình.

 

Ông viết thư, khẩn thiết

Gửi Toàn Quyền, yêu cầu

Hủy bản án quá nặng

Cho Cụ Phan Bội Châu.

 

Tháng Mười Một năm ấy,

Liên tiếp trong mấy ngày

Ông đăng đàn diễn thuyết

Về Luân Lý Đông Tây.

 

Về Chủ Nghĩa Quân Trị

Và Dân Chủ Cộng Hòa

Tại Sài Gòn - Chợ Lớn.

Nức lòng người gần xa.

 

Tháng Ba, năm Hai Sáu,

Ông lâm bệnh, từ trần.

Để lại niềm thương tiếc

Sâu sắc trong lòng dân.

 

*

Ông là nhà cách mạng

Nhưng chủ trương ôn hòa.

Tạm thời chưa lật Pháp

Để độc lập quốc gia.

 

Mà phải, KHAI DÂN TRÍ.

Bỏ phong kiến hủ Nho.

Mở trường dạy Quốc Ngữ,

Dân chủ và tự do.

 

Rồi đến CHẤN DÂN KHÍ.

Để tự lực, tự thân.

Qua văn minh, văn hóa,

Giác ngộ cho người dân.

 

Tiếp nữa, về kinh tế,

Đó là HẬU DÂN SINH.

Khai hoang rồi lập hội,

Lo sản xuất, mưu sinh.

 

Đó là những chính sách

Ít nhiều giống Duy Tân

Ở xứ sở Nhật Bản.

Khả thi và thực cần.

 

Ông phản đối bạo động.

Chống xu hướng cải lương.

Quan trọng là Dân Trí,

Dân Khí và Tự Cường.

 

Nhờ Duy Tân, nước Nhật

Mới được như ngày nay.

Những chủ trương của Cụ,

Dẫu đúng đắn, tiếc thay,

 

Không trở thành hiện thực,

Làm ta, kẻ hậu sinh,

Chỉ biết tiếc, có lỗi

Trước Cụ Phan Chu Trinh.

 

 

PHAN BỘI CHÂU

(1867 - 1940)

 

Phan Bội Châu ngày bé

Gọi là Phan Văn San,

Cha là Phan Văn Phố.

Mẹ là Nguyễn Thị Nhàn.

 

Ông là người Xứ Nghệ.

Làng Đan Nhiễm, Nam Hòa,

Huyện Nam Đàn, nổi tiếng

Đất của nhiều Nho gia.

 

Khi mới lên sáu tuổi,

Sáng dạ và thông minh.

Trong ba ngày đọc thuộc

Hết cuốn Tam Tự Kinh.

 

Bảy tuổi, ông đọc hiểu,

Thậm chí thuộc nhiều chương,

Luận Ngữ của Khổng Tử.

Quả đúng là phi thường.

 

Mười ba tuổi, thi huyện,

Ông đỗ đầu, đỗ ngay.

Mười bảy tuổi đã viết

Hịch Thu Bắc Bình Tây.

 

Ông viết và dán nó

Lên cổng làng, gốc si

Để ủng hộ khởi nghĩa

Chống Pháp ở Bắc Kỳ.

 

Mười chín tuổi, thành lập,

Cùng bạn Trần Văn Lương,

Đội nghĩa quân chống Pháp,

Gọi là Đội Cần Vương.

 

Đến lúc ông thi Hội,

Thì phạm tội “tày trời”,

Là “hoài hiệp văn tự”,

Tức giấu bài trong người.

 

Vì thế ông bị phạt

“Chung thân bất ứng thi”.

Tức suốt đời bị cấm

Không được vào trường thi.

 

Năm Một Tám Chín Sáu

Ông bỏ vào Phú Xuân,

Nay là thành phố Huế,

Để dạy học kiếm ăn.

 

Nghe tiếng ông học giỏi,

Các quan lớn tức thì

Tâu, xin vua Thành Thái

Tha ông tội cấm thi.

 

Ngay mùa thi năm ấy

Ông thi đậu Giải Nguyên.

Bài xuất sắc, vượt trội.

Tiếng tăm càng lưu truyền.

 

Trong năm năm sau đó

Ông ngược xuôi khắp nơi

Tìm người cùng chí hướng

Và tìm được nhiều người.

 

Đó là Huỳnh Thúc kháng,

Nguyễn Hàm, Nguyễn Thượng Hiền,

Lê Huân, Ngô Đức Kế,

Phan Chu Trinh, Nguyễn Quyền...

 

Kỳ Ngoại Hầu Cường Để,

Thuộc dòng dõi đế vương,

Được ông chọn lãnh đạo

Phong Trào mới, Cần Vương.

 

Năm Một Chín Không Bốn,

Sau trì hoãn nhiều lần,

Cùng hai mươi người khác,

Ông lập Hội Duy Tân.

 

Rồi cùng Tăng Bạt Hổ,

Ông đi Nhật, đi Tàu

Xin hỗ trợ tài chính

Cho Hội, buổi ban đầu.

 

Ở Tàu, ông đã gặp

Lãnh tụ Lương Khải Siêu.

Ông này tiếp trọng thị

Và gợi ý nhiều điều.

 

Trong đó có cả việc

Dùng văn hóa, thơ văn

Để thức tỉnh ý thức

Và nghĩa vụ người dân.

 

Ông nghe theo, đã viết

Cuốn Huyết Lệ Tân Thư,

Việt Nam Vong Quốc Sử

Và cuốn Ngục Trung Thư...

 

Những cuốn sách khích lệ

Nhiều thanh niên nước ta.

Đúng lúc Nhật đại thắng

Trong chiến tranh với Nga.

 

Nhiều người trẻ yêu nước

Nghe theo lời của ông

Sang nước Nhật học hỏi,

Mỗi ngày một thêm đông.

 

Phong trào ấy được gọi

Là Đông Du - thanh niên

Học để về chống Pháp,

Đưa đất nước tiến lên.

 

Ngày Ba Mươi tháng Sáu

Năm Một Chín Hai Lăm

Ông bị Pháp bắt cóc,

Di lý về Việt Nam.

 

Tòa đại hình tuyên phạt

Án khổ sai chung thân.

Nhưng trước sự phản đối

Mạnh mẽ của nhân dân,

 

Cuối cùng án được dổi

Thành quản thúc tại gia.

Thi hành án ở Huế

Cho đến lúc về già.

 

Từ Một Chín Hai Sáu

Đến Một Chín Bốn Mươi

Ông sống ở Bến Ngự,

Rồi lặng lẽ qua đời.