Thứ Tư, 22 tháng 9, 2021

KINH THÁNH, đầy đủ -1

 

TRUYỆN KINH THÁNH
Đầy đủ

1
ĐỨC CHÚA TRỜI TẠO RA VẠN VẬT

Vạn vật rất tốt đẹp
Mà ta thấy quanh ta,
Vâng, tất cả, tất cả
Đều do Ngài tạo ra.

Để có ngày, có nắng,
Ngài tạo ra mặt trời.
Để đêm không quá tối -
Tạo mặt trăng sáng ngời.

Ngài tạo nên trái đất
Để tất cả chúng ta
Có nơi để sinh sống,
Có chỗ để dựng nhà.

Đức Chúa Trời trước đó
Tạo nên các thần linh,
Tức những vị thiên sứ,
Ngài xem như con mình.

Ta không thấy được họ,
Cũng như không thấy Ngài.
Vì khác với người thật,
Họ không có hình hài.

Họ luôn ở bên Chúa,
Giúp Ngài làm nhiều điều.
Báo mộng, gửi thông điệp
Về tình thương, tình yêu.

Thuở sơ khai, vũ trụ
Là một cõi mênh mông.
Ngài tạo nên mây gió,
Đại dương và núi sông.

Rồi Ngài tạo loài vật,
Loài biết bò, biết bay,
Sống trên cạn, dưới nước,
Và các loại cỏ cây...

Ngài muốn chuẩn bị sẵn
Những điều kiện tuyệt vời
Để bảo đảm cuộc sống
Cho con Chúa - Con Người.

Ngài chọn một vùng đất
Làm khu Vườn Ê-đen.
Đầy hoa thơm, trái ngọt,
Thơ mộng như vườn tiên.

Con người sẽ hạnh phúc
Sống trong khu vườn này.
Không đau ốm, bệnh tật,
Chỉ ca hát suốt ngày.


2
A-ĐAM VÀ Ê-VA

Ngài lấy ít bụi đất
Nặn thành một hình người.
Người đàn ông khỏe mạnh,
Với khuôn mặt tuyệt vời.

Rồi Ngài hà hơi ấm
Của Ngài lên người ông.
Người đàn ông ngọ nguậy,
Sống động, da hồng hồng.

Ông được Đức Chúa đặt
Cái tên đẹp, A-đam.
Và được giao một việc
Nhẹ nhàng ông phải làm -

Đặt tên cho bầy thú,
Những con thú trong vườn.
A-đam vâng lời Chúa,
Nhưng bất chợt thoáng buồn.

Vì tất cả loài thú,
Như hổ, cáo, mèo, voi,
Hươu nai và sư tử...
Loài nào cũng có đôi.

Còn ông thì chỉ một,
Phải đơn độc suốt ngày.
Đức Chúa Trời thấy thế,
Bèn chờ ông ngủ say,

Bẻ khúc xương sườn nhỏ
Làm thành người đàn bà.
Ngài đặt cho người nữ
Cái tên đẹp, Ê-va.

Rồi người nam, người nữ
Chúa cho làm vợ chồng,
Với lời chúc con cháu
Mỗi ngày một thêm đông.

Ngài cho họ tùy thích
Ăn bất kỳ quả nào,
Trừ quả Cây Tri Thức,
Mà không nói vì sao.

Trong vườn có con rắn,
Đó là quỷ Xa-tăng.
Nó chỉ cho người nữ
Một quả chín, mà rằng

Ai ăn nó sẽ hiểu,
Biết mọi chuyện trên đời.
Sẽ được thành thông thái
Như chính Đức Chúa Trời.

Người nữ nghe, tuy sợ,
Nhưng xiêu xiêu trong lòng.
Bà hái, ăn một nửa,
Còn nửa kia cho chồng.

Ăn xong, bà chợt thấy
Rằng mình đang lõa lồ.
Liền xấu hổ, vội vã
Che bằng chiếc lá nho.

Qua điều ấy, đủ biết
Người nữ không nghe lời.
Đã trót ăn trái cấm,
Còn cãi lại Chúa Trời.

Cả hai người, thật tiếc
Làm Chúa rất buồn phiền.
Cuối cùng, Ngài đuổi họ
Ra khởi Vườn Ê-đen.

Cũng có nghĩa từ đó
A-đam và Ê-va
Phải nếm mùi vất vả,
Đủ đau buốn, xót xa.

Phải tự mình kiếm sống,
Gieo hạt và cấy cày.
Không có gì họ muốn,
Bày sẵn như trước đây.

Hơn thế, họ phải chết
Như tất cả người trần.
Không được sống bất tử
Như các bậc thánh thần.

Và đó là cái giá
Mà họ, những con người
Phải trả, khi phạm tội
Không vâng Đức Chúa Trời.


3
CA-IN VÀ A-BÊN

Hai con trai của họ,
Ca-in và A-bên
Được sinh ra khi họ
Không còn ở Ê-đen.

Ca-in, người con cả,
Trồng rau, trồng lúa mì.
A-bên thì chăn thú,
Sáng sáng dẫn cừu đi.

Hai anh em ngày nọ
Làm lễ dâng Chúa Trời.
Đồ tế là sản phẩm
Có riêng của từng người.

Ca-in dâng hoa quả
Do tự tay ông trồng.
Còn A-bên dâng Chúa
Con cừu béo của ông.

Chúa nếm thử hai loại,
Cảm ơn và ngợi khen.
Nhưng vẫn tỏ ý thích
Mâm lễ của A-bên.

Vì là người đố kỵ,
Ca-in không hài lòng.
Thậm chí, rất tức giận,
Ông rủ em ra đồng.

Ở đấy ông đã phạm
Một tội ác tày trời,
Đầu tiên trên trái đất,
Đó là tội giết người.

Hơn thế, giết em ruột.
Chúa đày ông đi xa.
Có một người con gái
Của A-đam, Ê-va

Đi theo ông, sau đó
Người này thành vợ ông.
Rồi sinh con đẻ cái
Như mọi cặp vợ chồng.

Rồi con cháu của họ
Lấy nhau, qua nhiều đời,
Dần dần trên trái đât
Đã có rất nhiều người.

Phần đông là người ác,
Làm những chuyện xấu xa.
Họ quên lời Chúa dạy,
Cả đàn ông, đàn bà.

Nhưng một người thì khác,
Người luôn tin Chúa Trời.
Đó là ông Hê-noc,
Tốt, dũng cảm hơn người.

Đức Chúa sai Hê-noc
Báo mọi người mai đây
Họ sẽ bị trừng phạt,
Nếu tiếp tục thế này.

Mọi người nghe, không sợ,
Lại còn định giết ông.
Ngài vừa buồn, thất vọng,
Vừa rất không hài lòng.

Vì sao loài người ác?
Vì họ bị Xa-tăng
Xui khiến làm điều ác.
Vậy ai là Xa-tăng?

Xa-tăng là thiên sứ
Do Đức Chúa tạo ra.
Thiên sứ có người tốt,
Cũng có người xấu xa.

Họ, những thiên sứ xấu,
Xuống trần dưới dạng người,
Cưới phụ nữ xinh đẹp,
Bất chấp ý Chúa Trời.

Và con cái của họ
Là những người khổng lồ.
Chúng xúi người làm ác,
Gây bao nỗi buồn lo.


4
ĐẠI HỒNG THỦY

Khi ông Hê-noc chết,
Người ác càng thêm đông.
Vẫn có một người tốt,
Là Nô-ê, cháu ông.

Nô-ê luôn tin Chúa,
Và tụng niệm hàng ngày.
Một hôm Chúa hiển thánh,
Nói với ông thế này:

“Ta sắp làm lụt lớn
Để hủy diệt loài người.
Vì ngươi ăn ở tốt
Nên ta muốn cứu ngươi.

Hãy lấy thật nhiều gỗ
Để đóng một chiếc tàu.
Tàu ba tầng, thật lớn.
Ngươi sẽ ở tầng đầu.

Tầng thứ hai lương thực.
Tích thật nhiều, và rồi
Tầng thứ ba gia súc.
Cứ mỗi loài một đôi”.

Oog vâng theo ý Chúa.
Còn báo với mọi người
Về tai họa sắp đến.
Họ không nghe, còn cười.

Vợ chồng ông lúc ấy
Có ba con, con đầu -
Sem, rồi Cham, Gia-phết
Và ba người con dâu.

Con tàu lớn, rất lớn,
Nhiều năm mới đóng xong.
Khi trời mưa, có lụt,
Cả tám người nhà ông

Cùng lương thực, gia súc
Đã yên vị trên tàu.
Nước cứ dâng cao mãi.
Nhưng nước dâng đến đâu,

Tàu lại nổi đến đó.
Và toàn bộ loài người
Phải chết chìm trong nước.
Sang ngày thứ bốn mươi

Trời ngừng mưa, nước rút.
Bốn bề nước mênh mông.
Phải năm tháng sau đó
Con tàu lớn của ông

Mới chạm một đỉnh núi.
Nô-ê nhìn ra ngoài.
Mọi người đều chết hết.
Tịnh không còn một ai.

Bọn khổng lồ cũng chết.
Còn cha chúng trên trời,
Tức các thiên sứ ác,
Vì gây hại cho người,

Bị Đức Chúa phế bỏ,
Đuổi khỏi chốn vĩnh hằng.
Chúng trở thành thiên sứ
Của loài quỷ Xa-tăng.

Vì nước rút rất chậm,
Con tàu của Nô-ê
Phải dừng lâu trên núi.
Nước vẫn trắng bốn bề.

Ông thả một con quạ.
Nó bay đi, hồi lâu
Không tìm thấy chỗ đậu,
Nên lại quay về tàu.

Một con bồ câu trắng
Lần nữa được Nô-ê
Thả đi, nhưng như cũ,
Lát sau nó quay về.

Mấy hôm sau, lại thả.
Thả buổi sáng, đến chiều
Nó quay lại, trên mỏ
Ngậm một cành ô-liu.

Lần thứ ba ông thả,
Cũng chính con chim này.
Không thấy nó quay lại.
Vậy là đã đến ngày

Cả người cả loài vật
Có thể ra khỏi tàu.
Họ đã ở trên đó
Đúng một năm, quá lâu.

Nô-ê làm mâm lễ
Dâng lên Đức Chúa Trời,
Tạ ân Ngài cứu độ
Cho ông và mọi người.

Từ trên cao, Đức Chúa
Thấy thế, rất hài lòng.
Để báo hiệu điềm tốt,
Ngài ban chiếc cầu vồng.

Hơn thế, Ngài còn hứa
Rằng loài người từ nay
Sẽ không bị hủy diệt
Bằng nước lụt thế này.


5
THÁP BA-BEN

Chẳng bao lâu sau đó
Con cháu của Nô-ê
Tràn đầy trên mặt đất,
Sinh sống bằng đủ nghề.

Trong số cháu chắt ấy
Đặc biệt có một người,
Nổi tiếng rất độc ác,
Báng bổ cả Chúa Trời.

Hắn tên là Nim-rôt,
Kiêu căng, tự tôn mình
Làm chúa tể thiên hạ.
Và khi xây dựng thành,

Hắn cho xây chiếc tháp
Thật to và thật cao.
Đến tận mây, thậm chí
Chạm tới các vì sao.

Để làm gì? Đơn giản
Hắn muốn khẳng định mình
Vĩ đại và hùng mạnh
Không thua kém thần linh.

Đức Chúa Trời thấy thế,
Muốn ngăn cản việc này,
Bèn xáo trộn tiếng nói
Của những người thợ xây.

Người của các dân tộc
Cái thuở ấy ban đầu
Có chung một tiếng nói
Nên dễ dàng hiểu nhau.

Giờ không còn thế nữa.
Vì ngôn ngữ bất đồng,
Nên chiếc tháp lớn ấy
Xây mãi vẫn không xong.

Nhưng cái tên của tháp -
Ba-bên, Ba-bi-on,
Có nghĩa là “lộn xộn”,
Thì ngày nay vẫn còn.

6
A-BRA-HAM

Khi trận lụt kết thúc,
Nô-ê và các con
Định cư ở vùng đất
Có tên là U-ron.

Dần dần nó phát triển
Thành thành phố đông người,
Với những ngôi nhà đẹp,
Những khu vườn xinh tươi.

Nhưng dân thành phố ấy,
Cũng như Ba-bi-lon,
Không thờ phụng Đức Chúa,
Mà thờ tượng vô hồn.

Sau trận đại hồng thủy
Ba trăm năm mươi năm,
Xuất hiện một người tốt,
Tên là A-bra-ham.

Ông là người đặc biệt,
Cùng vợ và các con
Đang sinh sống khá giả
Ở thành phố U-ron.

Một hôm Chúa hiển thánh
Bảo ông rời nơi này
Đến một vùng đất mới
Màu mỡ, cách xa đây.

A-bra-ham lập tức
Cùng vợ là Sa-ra,
Bố ông và cháu ruột
Bắt đầu chuyến đi xa.

Được Đức Chúa hướng dẫn,
Họ đến đất Cha-ran
Rồi ít lâu sau đó,
Đến đất Ca-na-an.

Đức Chúa chỉ tay nói:
“Ta cho con đất này
Để làm tài sản quý
Cho con cháu từ nay”.

Nhờ được Chúa giúp đỡ,
Đàn chiên A-bra-ham
Ngày một thêm đông đúc.
Nhiều đầy tớ, người làm.

Tiếc, đã chín chín tuổi
Mà vẫn chưa có con.
Đức Chúa nói: “Cứ đợi.
Ông sẽ có nhiều con.

Nhiều cháu con, đông đúc
Như sao sáng trên trời”.
Năm sau, như ý Chúa,
Vợ ông, tuổi chín mươi,

Sinh đứa con bụ bẫm.
Hơn thế lại con trai.
Đặt tên là I-sac,
Thật hoàn mỹ hình hài.

Để thử lòng, Đức Chúa,
Mấy năm sau bảo ông
Giết đứa con yêu quý
Để tế Ngài; đau lòng,

Nhưng ông vâng ý chúa.
Đúng khi giơ con dao
Định giết con, thì Chúa
Nói vọng từ trên cao:

“Dừng lại, hãy dừng lại.
Ta đã hiểu lòng con.
Và thay cho đứa bé,
Hãy giết chú cừu con”.


7
THÀNH SÔ-ĐOM

A-bra-ham và Lot
Cùng định cư một nơi.
Đất màu mỡ nhưng chật,
Nhiều gia súc, nhiều người.

Một hôm ông bảo Lot:
“Bác hoặc cháu phải đi.
Bây giờ cháu được chọn.
Đi hay ở thì tùy”.

Sau hồi lâu suy nghĩ,
Lot chọn sông Giô-đan.
A-bra-ham ở lại
Đất hứa Ca-na-an.

Vùng đất Lot lựa chọn
Màu mỡ và phì nhiêu.
Bằng phẳng và nhiều nước.
Các bãi cỏ cũng nhiều.

Sô-đom là thành phố
Ông và cả gia đình
Dọn đến sống, tạm ổn.
Nói chung cũng yên bình.

Nhưng dân thành phố ấy
Không tin Đức Chúa Trời.
Họ làm điều độc ác,
Như hiếp dâm, giết người.

Biết tất cả điều ấy,
Ngài rất không hài lòng.
Một hôm, phái thiên sứ
Đến báo trước với ông

Rằng Ngài sẽ dùng lửa
Hủy diệt thành phố này
Và một thành phố khác -
Gô-mô-rơ, đêm nay.

Ngài dặn, khi thấy lửa,
Phải cùng dắt tay nhau
Chạy lên núi, tuyệt đối
Không ai được ngoái đầu.

Lot cùng hai con gái
Và vợ ra khỏi thành.
Theo đúng lời Chúa dặn,
Cắm cúi chạy thật nhanh.

Nhưng vợ Lot, rất tiếc,
Ngoái đầu nhìn, bất ngờ
Liền biến thành tượng muối,
Tay và chân cứng đờ.


8
RÊ-BÊ-CA

Là bố của I-sac,
A-bra-ham muốn con
Cưới được người vợ tốt.
Đẹp người, đẹp cả hồn.

Ông bèn sai đầy tớ
Đi về đất Cha-an,
Tìm một người như thế.
Một người Ca-na-an.

Bọn đầy tớ xuất phát
Cùng mười con lạc đà.
Khi đến một chiếc giếng
Nơi có nhiều đàn bà

Mang bình đến lấy nước.
Họ cầu xin Chúa Trời
Được gặp người phụ nữ
Đem nước mời mọi người.

Hơn thế, còn lấy nước
Cho cả đoàn lạc đà.
Một cô làm điều ấy
Đó là Rê-bê-ca.

Nhân lúc trời sắp tối,
Rê-bê-ca dịu dàng
Mời họ về nghỉ tạm
Trong nhà của cha nàng.

Trong bữa cơm, chủ khác
Vui trò chuyện, hóa ra
Gia đình và dòng dõi
Của nàng Rê-bê-ca

Có quan hệ mật thiết
Với ông A-bra-ham.
Vậy là rất nhanh chóng
Làm được việc cần làm.

Sáng hôm sau, bố mẹ
Đưa tiễn Rê-bê-ca
Về làm vợ I-sac.
Vui trọn vẹn hai nhà.

Nàng sinh cho I-sac
Một lúc hai con trai,
Ê-sau và Gia-côp,
Khỏe mạnh, đẹp hình hài.

Chúng lớn lên nhanh chóng.
Ê-sau thành thợ săn.
Được I-sac yêu quý,
Vì giỏi kiếm thức ăn.

Gia-cốp thì ngược lại,
Được mẹ Rê-bê-ca
Yêu hơn, vì tính cậu
Mộ đạo và nhu hòa.

A-bra-ham, ông nội,
Vẫn thường kể cậu nghe
Các câu chuyện về Chúa.
Cậu nghe rất say mê.

Rồi cuối cùng ông cậu
Đã lặng lẽ lìa đời.
Một trăm bảy lăm tuổi,
Về với Đức Chúa Trời.

Ê-sau và Gia-cốp
Lúc ấy mới mười lăm,
Sẽ tiếp tục khôn lớn,
Nối dõi A-bra-ham.

Ê-sau, bốn mươi tuổi,
Lấy hai người đàn bà.
Điều này làm phật ý
I-sac, Rê-bê-ca.

Vì cả hai người ấy
Tuy đẹp nết xinh người,
Nhưng không tin Đức Chúa,
Nói năng không đẹp lời.

Một ngày nọ có chuyện
Xích mích gây đau lòng.
Ê-sau giận Gia-cốp,
Đến mức muốn giết ông.

Ê-sau là con cả,
Cháu của A-bra-ham
Nhưng không được I-sac
Chúc phước làm trưởng nam.

Vì rất lâu trước đó,
Ông đã bán quyền này,
Quyền được làm anh cả.
Bán thì mất, tiếc thay.

Sợ Gia-cốp bị giết,
I-sac, Rê-bê-ca
Khuyên ông phải tạm lánh
Ở một nơi thật xa.

Gia-cốp đành đồng ý,
Rời bỏ Ca-na-an
Trở về quê ông nội
Là vùng đất Cha-ran.


9
GIA-CỐP Ở CHA-RAN

Quảng đường xa, xa lắm.
Phải đi mất nhiều ngày.
Cuối cùng ông đừng nghỉ
Dưới tán một hàng cây.

Cạnh đấy có chiếc giếng
Và mấy người chăn chiên.
Ông hỏi thì họ đáp
Rằng họ ở làng bên.

Gia-cốp hỏi: “Các bác
Là người ở Cha-ran.
Vậy các bác có biết
Một người, tên La-ban?”

“Biết chứ, chúng tôi biết.
Con ông là Ra-chên.
Một cô gái xinh đẹp.
Kia kìa, đang chăn chiên”.

Gia-cốp liền đến gặp,
Giới thiệu mình là ai.
Nàng vui vẻ thưa chuyện.
Một lúc sau cả hai

Cùng về nhà bố mẹ.
Vì là chỗ thân tình,
Bố cô vui khi biết
Gia-cốp ở nhà mình.

Ông cũng không phản đối,
Ngược lại, rất hài lòng
Khi Gia-cốp ngỏ ý
Lấy Ra-chên, con ông.

Nhưng ông bắt Gia-cốp
Phải làm việc cho mình
Suốt bảy năm liên tục,
Dẫu họ hàng thân tình.

Sau đó mới được lấy
Ra-chên, con gái ông.
Vì yêu nàng, Gia-cốp
Cuối cùng đã bằng lòng.

Nhưng bảy năm sau đó
Chuyện gì đã xẩy ra?
Gia-cốp chỉ được lấy
Cô con lớn, Lê-a.

Rồi thêm bảy năm nữa,
Phải vất vả chăn chiên,
Ông mới được lấy tiếp
Người ông yêu, Ra-chên.

Lê-a, người vợ cả
Sinh được bốn người con
Là Lê-vi, Giu-das,
Ru-bên, Si-mê-ôn.

Còn Ra-chên, thật tiếc,
Không có con, vậy là
Nàng cho cô hầu gái
Có tên là Bi-la

Đến với ông Gia-cốp,
Mà không ghen ghét gì.
Cô sinh cho Gia-cốp
Đan và Nép-ta-ly.

Tương tự, ông cũng được
Bà vợ cả Lê-a
Gửi cho cô hầu gái.
Tên cô là Xinh-ba.

Cô sinh cho ông chủ
Hai con - Gát, A-sê.
Cả họ, cũng dòng dõi
Của ông tổ Nô-ê.

Rồi mấy năm sâu đó,
Cuối cùng bà Lê-a
Sinh hai con trai nữa.
Đó là Y-sa-ra.

Còn người kia, em út,
Tên là Sa-bu-lôn.
Và cuối cùng, thật tuyệt.
Rê-bê-ca có con.

Con bà là Giô-sép,
Đó là đứa con đầu.
Một người rất thành đạt
Và nổi tiếng về sau.

Đã đến lúc Gia-cốp
Giã từ ông La-ban,
Đưa các con và vợ
Trở về Ca-na-an.

Đường xa và vất vả.
Dọc đường, Rê-bê-ca
Trở dạ, sinh, rồi chết.
Thật đau đớn xót xa.

Nhưng đứa con thì sống,
Khỏe mạnh và ưa nhìn.
Đó là đứa con út,
Tên là Ben-gia-min.

Vậy là ông Gia-cốp
Có mười hai con trai.
Về sau, dân Do Thái,
Số chi phái - mười hai.

Và mười trong số đó
Mang tên con trai ông.
Hai chi phái còn lại -
Con Giô-sép, cháu ông.

Gia-cốp có con gái.
Nhưng thời ấy đàn bà
Thường ít được nhắc đến.
Chỉ biết rằng Đi-na,

Con gái ông, thật tiếc,
Vì ngây thơ, hồn nhiên
Chơi với kẻ ngoại đạo,
Gây nên lắm sự phiền.

Một hôm, nàng bị hiếp
Khi đi chơi ban đêm,
Bởi một kẻ ngoại đạo
Có tên là Si-chem.

Các anh nàng hay chuyện,
Giết Si-chem, than ôi,
Họ bị Gia-cốp trách,
Nhưng chuyện cũng đã rồi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét