Thứ Ba, 31 tháng 3, 2020

Tiểu Thuyết Dịch




Macgaret Xunh Đẹp - 2
Chương VIII
ĐACGHILA NÓI

Thua lỗ à? - Đacghila hỏi. - Một người giàu  có như Giôn Caxten, nắm giữ trong tay mình một nửa công việc buôn bán vơi Tây Ban Nha, mà lại nói về thua lỗ chăng?
- Vâng thưa ông, quả thật thế, công việc rất tồi tệ. Tôi chẳng gặp may tí nào với con tàu này. Sau những cơn bão mùa xuân vừa qua, nó đã bị hư hỏng nặng. Nhưng thưa ông, mời ông ngồi.
- Lẽ nào thật sự công việc của ông đang rất xất? - Vừa rồi xuống, Đacghila vừa nhếch mép nói. - Nói thế thì những lời đồn quả là lếu láo thật. Tôi nghe nói công việc của ông đang rất chạy. ừ, mà tất nhiên có thể đối với ông là thua lỗ, nhưng đối với người khác, như tôi chẳng hạn, thì lại là thành công lớn.
Caxten không nói gì. Ông ngồi yên chờ đợi, vì biết vị khách của đến đây không phải để nói về việc buôn bán.
- Thưa ông Caxten, - Đacghila lên tiếng, giọng hắn có vẻ hồi hộp, - tôi đến đây để yêu cầu ông đôi điều.
- Nếu ông muốn vay tiền tôi, thì thưa ông, tôi e rằng lúc này không phải là lúc thích hợp. - Nói đoạn, Caxten bắt đầu chỉ tờ giấy ghi đầy các con số.
- Tôi không định vay tiền, mà muốn tặng tôi một món quà.
- Tất cả  những gì có trong ngôi nhà nghèo nàn của tôi đều thuộc về ông, - Caxten đáp với vẻ lịch sự kiểu phương Đông.
- Rất vui sướng được nghe điều ấy, thưa ông, vì quả tôi đang muốn được nhận một đôi cái từ nhà ông.
Caxten nhìn hắn vẻ không hiểu.
- Tôi muốn cầu hôn con gái ông, tiểu thư Macgaret.
Caxten ngạc nhiên nhìn Đacghila và khẽ thốt lên:
- Điều này không thể được.
- Sao lại không thể được? - Đacghila chậm rãi hỏi. như biết trước câu trả lời vừa rồi. - Về tuổi tác chúng tôi hợp nhau, mặc dù tôi có địa vụ cao hơn rất nhiều cái địa vị ông đang tưởng. Tôi không muốn mang tiếng khoe khoang, nhưng phụ nữ không cho tôi là kẻ xấu xí. Tôi sẽ là một người bạn tốt của gia đình đã gả con gái cho tôi, bởi vì ông biết đấy, sẽ có ngày người ta cần đến bạn bè. Và cuối cùng là tôi muốn cưới tiểu thư làm vợ, không phải vì những gì nàng sẽ mang lại, mặc dù tiền bạc không bao giờ thừa, mà bởi vì - xin ông hiểu cho - tôi yêu nàng.
- Tôi có nghe nói xinho Đacghila  yêu rất nhiều phụ nữ ở Granđa.
- Cũng như tôi có nghe nói con tàu "Macgaret" vừa rồi đã có một chuyến đi rất thành  công, thưa ông Caxten. Như tôi mới nói, không thể tin lời đồn được. Cho phép tôi được nói thẳng, tôi không phải là một vị thánh, nhưng bây giờ vì Macgaret tôi sẽ trở  thành một vị thánh. Tôi sẽ chung thuỷ với con gái của ông, thưa ông. Bây giờ ông nói sao?
Caxten vẫn lắc đầu.
 - Xin ông hãy nghe tôi nói, - Đacghila tiếp tục. - Tôi không là người như tôi đang cố tạo ra. Lấy tối, con gái ông sẽ có tước hiệu và địa vị cao.
- Vâng, ông là hầu tước Môrela, con trai của hoàng thân Caclôt và một người đàn bà Mô, và là cháu của  Đức vua Tây Ban Nha.
Đacghila nhìn xoáy và Caxten rồi khẽ cúi đầu:
- Tin tức ông biết về ông. Tất nhiên ông không thích dòng máu pha tạp của tôi. biết làm thế nào được, nếu không, tôi đã ngồi vào chỗ hiện nay Pheđinăng đang ngồi. Tôi cũng không thích nó, mặc dù đó là dòng máu cổ xửa của những người Mô cao quýa. Nhưng chẳng lẽ cháu của một Đức vua và con trai của một công chúa xứ Granđa không xứng làm chồng con gái một người Do Thái... Vâng, một người maran, và một bà quý tộc người Anh theo đạo Thiên Chúa giáo, xuất thấn từ một gia đình đáng kính?
Caxten giơ tay định nói điều gì, nhưng Đacghila đã nói tiếp:
- Ông bạn thân mến của tôi ạ, đừng chối cãi điều ấy. ở đây, khi chỉ có chúng ta với nhau, không nên làm điều ấy. Chẳng lẽ không phải có một người Ixăc nào đó từ Tôlêđô cách đây mấy mươi năm đã rời bỏ Tây Ban Nha để tới Luân Đôn với cái tên Giôdep Caxten. Ông thấy đấy, hoá ra không chỉ mình ông nghiên cứu dòng dõi người khác.
- Vâng, nhưng thế thì đã sao, thưa ông?
- Thì đã sao à? Không sao cả, ông bạn Caxten của tôi ạ. Chẳng có quan tâm tới chuyện xa xưa đó, nếu ông già Ixăc đã chết từ lâu, còn con trai ông ta thì suốt năm mươi năm qua là một tín đồ Cơ Đốc gương mẫu, lây một tín đồ Cơ Đốc làm vợ, và có con gái cũng theo đạo Cơ Đốc. Nhưng nếu ông ta chỉ giả gái cũng theo tín đồ Cơ Đốc, nhưng thực tế đang thờ cúng các thần của đạo Do Thái, thì lúc ấy...
- Lúc ấy thì sao?
- Lúc ấy thì đương nhiên ông ta sẽ bị đuổi khỏi đất nước này, nơi có lệnh cấm những người Do Thái không được sinh sống. Tài sản của ông ta sẽ bị tịch thu nhập vào công quỹ của nhà vua, còn con gái của ông ta sẽ được đặt dưới sự bảo trợ của nhà vua và sẽ được gả chồng theo ý muốn của ngài. Còn bản thân ông ta thì có lẽ sẽ được trao vào bàn tay các nhà cầm quyền Tây Ban Nha, để ông ta phải trả giá cho các tội lỗi của mình. Nhưng chúng ta đã nói lạc đề. Thế nào, cả bây giờ ông ta cũng không đồng ý gả con cho tôi à?
Caxten nhìn thẳng vào mắt Đacghila:
- Không!
Ông nói từ ấy một cách cương quyết, đến nỗi Đacghila cảm thấy bối rối trong chốc lát. Hắn không nghĩ sẽ nhận được một câu trả lời như thế.
- Có thể ông làm ơn giải thích cho tôi biết vì sao?
- Vì một lí do thật đơn giản, thưa hầu tước, rằng con gái tôi đã đính hôn với người khác.
Đacghila không tỏ vẻ ngạc nhiên.
- Với con người ưa đánh nhau, người bà con của ông là Pitơ Brum à? - Hắn nói. - Toi cũng đoán hiểu được điều ấy, và thề có Chúa chứng giám, tôi rất lấy làm tiếc cho tiểu thư. Pitơ là một người yêu hết sức buồn chán d một cô gái xinh đẹp và thông minh như tiểu thư, còn với tư cách một ông chồng thì - Đacghila khẽ nhún vai. - Thưa ông Caxten kính mến, xin hãy vì tiểu thư mà đừng để xảy ra cuộc hôn nhân ấy.
- Nếu tôi cứ để xảy ra thì sao?
- Lúc ấy tôi sẽ tự phá nó vì hạnh phúc của tất cả chúng ta, trong đó có cả hạnh phúc của tôi, tất nhiên, vì tôi yêu Macgaret và muốn nâng nàng lên cao, và vì cả ông, bởi lẽ tôi muốn ông được sống nốt những năm còn lại của mình trong bình yên và hạnh phúc, chứ không như một con chó bị đầu độc.
- Thế ông định phá nó như thế nào, thưa hầu tước? Bằng cách...
- ồ không, thưa ông, - Đacghila vội ngắt lời Caxten, - không phải bằng thanh kiếm của người khác, nếu  ông định ám chỉ điều đó. Ông Pitơ đáng kính không có gì lo sợ bị  người khác giết chết, vì điều đó phụ thuộc vào tôi. Nhưng nếu tôi và ông ấy gặp nhau mặt đối mặt, thì thắng lợi sẽ thuộc về người mạnh hơn. Đừng sợ, thưa ông bạn của tôi, tôi sẽ không bao giờ tự hạ mình để làm việc giết người, bởi vì tôi muốn gìn giữ tâm hồn tôi không bị vấy máu. Và tôi cũng chẳng bao giờ lấy người đàn bà nào làm vợ, nếu người ấy không muốn. Nhưng Pitơ có thể chết, và lúc ấy, nàng Macgaret xinh đẹp có thể chìa tay cho tôi và nói: "Tôi xin chọn ông làm chồng".
- Tất nhiên, tất cả cả những điều ấy có thể xảy ra, thưa hầu tước, nhưng tôi không nghĩ Macgaret sẽ làm thế. Còn riêng tôi, tôi xin cảm ơn ông, nhưng buộc lòng phải từ chối cái đề nghị rất cám dỗ kia của ông. Tôi cho rằng con gái tôi sẽ được hạnh phúc hơn trong cái địa vị khiếm tốn hiện nay của nó bên cạnh người mà nó đã chọn. Ông cho phép tôi quay lại với các con tính của mình chứ? - Caxten đứng dậy.
- Vâng, thưa ông, - Đacghila cũng đứng dậy đáp, - nhưng xin ông hãy cộng vào những mất mát mà chúng ta vừa nhắc đến lúc nãy thêm một sự mất mát nữa - đó là tình bản của Caclôt - hầu tước Môrela còn ở trang ông ghi lợi nhuận, xin ông ghi thêm lòng căm thù của tôi đối với ông. - Khuôn mặt đẹp đẽ có nước da ngăm đen của Đacghila méo xệch hẳn đi vì giận dữ: - Ông Caxten, ông điên rồ à? Ông hãy nhớ lại căn phòng nhỏ bé phía sau bàn thờ trong nhà cầu nguyện của ông, và những đồ vật có trong đó!
Caxten nhìn chăm chăm vào mặt hắn rồi nói:
- Chúng ta cùng đi tới đó để xem. Không, ông đừng sợ, cũng như ông, tôi luôn nghĩ về tâm hồn mình và không muốn đôi tay của tôi đỏ vì máu. Hãy đi theo tôi, ông sẽ được an toàn tuyệt đối.
Đacghila đi theo, vì tò mò hay vì một lí do nào đó. Mấy phút sau họ đã đứng sau bàn thờ.
- Bây giờ xin ông hãy nhìn đây. - Nói đoạn, Caxten ấn vào cái lò xo, và chiếc cửa bí mật mở.
Đacghila nhìn vào căn phòng. ở đâu rồi chiếc bàn, hòm gỗ, các giá nến và những tờ giấy mà Bêti đã nói với hắn? Bây giờ ở đây chỉ có những chiếc hòm có phủ đầy bụi đựng những giấy tờ gì đó và một ít gỗ bị gãy.
- Hầu tước thấy gì? - Caxten hỏi.
- Thấy rằng ông thông minh hơn tôi tưởng. nhưng ông sẽ buộc phải trả lời những câu hỏi này không phải bây giờ và không phải với tôi. Xin ông hiểu cho, tôi không phải là người của toà án dị giáo.
Nói xong những lời ấy, Đacghila quay người bỏ đi.
Khi Caxten đóng cánh cửa bí mật xong rồi vội vàng đi ra từ nhà cầu nguyện, thì đã không còn thấy hắn nữa.
Hết sức lo lắng, Caxten trở lại phòng làm việc của mình và ngồi suy nghĩ. Thần số phận trong suốt bao lâu nay tỏ ra ưu ái với ông, bây giờ đã quay ngoắt ngược lại. Không thể tồi tệ hơn được nữa. Qua mạng lưới gián điệp của mình, Đacghila đã khám phá ra điều bí mật tôn giáo của ông, và thật là không may, hắn lại đem lòng yêu con gái của ông mà ông thì buộc phải từ chối. Việc đó đã biến Đacghila thành kẻ tử thù của ông. Tại sao ông lại từ chối Đacghila, khi hắn là một người danh giá có địa vị cao? Lấy hắn, Macgaret sẽ trở thành vợ của một trong những tên quý tộc Tây Ban Nha, gần gũi với ngai vua nhất. Và biết đâu có thể trở thành hoàng hậu hay mẹ  của các Đức vua sau này? Không ít các trường hợp như thế. Ngoài ra, cuộc hôn nhân này có thể mang lại cho Caxten sự an toàn, tuổi già bình yên và cái chết nhẹ nhàng trên chính chiếc giường của mình, vì dù ông có năm mươi lần maran đi nữa, thì cũng không ai dám sờ đến bố vợ của hầu tước Môrela. Thế thì tại sao ông lại khước từ hắn? Đơn giản vì ông đã hứa gả con gái cho Pitơ, mà suốt cả cuộc đời thương gia, ông chưa bao giờ rút lại lời nói của mình. Nghĩ thế, trong thâm tâm Caxten lấy làm tiếc rằng đã đồng ý gả Macgaret cho Pitơ. Tại sao ông không bắt Pitơ, người đã biết chờ đợi lâu thế, chờ thêm một tháng nữa? Nhưng bây giờ tất cả đã quá muộn. Ông đã nói lời nói của mình và sẽ giữ vừng nó, cho dù phải trả giá gì đi nữa.
Caxten đứng dậy và ra lệnh cho cô hầu gái gọi Macgaret tới. Nhưng cô này quay lại bảo rằng nàng đã đi dạo với Bêti, và rằng ngựa đã sẵn sàng đợi ông đi ra sông. Caxten định ngủ qua đêm trên con tàu của mình.
Đặt một tờ giấy trước mặt, Caxten nghĩ có nên viết giấy báo cho Macgaret phải cận thẩn hay không. Nhưng rồi ông cho rằng chẳng việc gì nàng phải sợ Đacghila, ít ra là vào lúc này, và rằng viết vào giấy những việc như thế là nguy hiểm. Ông chỉ dặn nàng phải chú ý giữ mình, và nói rằng sáng hôm sau ông ẽ quay lại.
Cũng vào đêm hôm ấy, khi Macgaret đang ngồi trong căn phòng nhỏ của mình ở cạnh phòng khách, thì cửa phòng bỗng mở. Nàng ngừng tay thêu nhìn lên và thấy Đacghila đang đứng trước mặt.
- Thưa ông, làm sao ông có thể tới đây được? - Macgaret ngạc nhiên kêu lên.
- Thưa tiểu thư, - đóng lại sau lưng cánh cửa, Đacghila vừa lúc cúi đầu chào, vừa nói, - đôi chân đưa tôi tới đây. Tôi nghĩ nếu có thể, tôi ẽ chẳng bao giờ muốn rời tiểu thư nữa.
- Thưa ông, xin ông đừng nói nịnh tôi, - Macgaret chau mày đáp. - Tôi không thể một mình tiếp ông được vào cái giờ muộn mằn thế này, khi bố tôi vắng nhà.
- Macgaret nhỏ dậy và định bước qua hắn, đi về phía cánh cửa. Nhưng Đacghila không chịu rời khỏi chỗ và nàng buộc phải đứng lại.
- Tôi biết bố tiểu thư không có nhà, - Đacghila nhã nhặn nói. - Và chính vì vậy mà tôi liều lĩnh đến gặp tiểu thư để nói về một việc hết sức quan trọng. Tôi rất mong tiểu thư cho tôi ít phút.
Một ý nghĩ thoáng hiện lên trong đầu Macgaret rằng hắn mang đến tin tức về Pitơ, có lẽ là tin xấu.
- Ông hãy ngồi xuống và nói đi, thưa ông, - nàng nói và cũng ngồi xuống ghế.
- Thưa tiểu thư, - Đacghila bắt đầu, - công việc của tôi ở đất nước này đã kết thúc, và chỉ ít ngày nữa tôi sẽ trở lại Tây Ban Nha... - Hắn dừng lại như chờ đợi điều gì.
- Tôi hi vọng rằng chuyến công du của ông rất tốt đẹp, - Macgaret nói, vì không biết nói gì hơn.
-  Tôi cũng hi vọng như thế, thưa tiểu thư, và tôi đến đây để yêu cầu tiểu thư trở thành vợ tôi. Xin nghe tôi nói đã rồi hãy từ chối. Hôm nay tôi đã gặp bố tiểu thư để ngỏ ý cầu hôn tiểu thư. Ông chưa trả lời tôi, không đồng ý cũng không phản đối. Ông bảo tôi rằng tiểu thư sẽ tự quyết định đời mình, và rằng tôi phải nghe ý kiến của tiểu thư, do chính tiểu thư nói.
- Bố tôi nói với ông như thế à? - Macgaret ngạc nhiên ngắt lời hắn, nhưng sau đó nàng chợt nghĩ rằng Caxten phải trả lời như thế vì một lí do nào đấy, nên nàng liền nói thêm: - Thôi được, câu trả lời của tôi sẽ rất ngắn và giản dị. Tôi rất cảm ơn ông, thưa ông, nhưng tôi sẽ ở lại nước Anh.
- Vì tiểu thư, tôi sẵn sàng ở lại đây, mặc dù thật ra mà nói, tôi thấy nước này khá lạnh lẽo và man dã.
- Nếu ông ở lại đây, thưa ông Đacghila, tôi sẽ sang Tây Ban Nha. Xin ông hãy cho tôi ra khỏi phòng.
- Chỉ sau khi tiểu thư nghe tôi nói hết. Tôi xin rằng lúc ấy tiểu thư sẽ trở nên mềm mỏng hơn. Xin tiểu thư hiểu cho, tôi giữ một địa vị rất cao ở nước tôi. Chỉ ở đây tôi phải sống trá hình dưới cái tên khiêm tốn là xinho Đacghila. Tôi là hầu tước Môrela, cháu ruột của vua Phecđinăng. Tôi giàu có và danh giá. Nếu tiểu thư không tin, tôi có thể đưa ra các bằng chứng.
- Tôi không có cơ sở để không tin ông, - Macgaret lạnh lùng nói. - Tất cả  những điều ấy có thể là sự thật, nhưng chúng liên quan gì tới tôi?
- Có liên quan, vì tôi, người mang dòng máu hoàng tộc trong mình, đến hỏi con gái một thương gia làm vợ.
- Cám ơn ông, nhưng tôi hoàn toàn hài lòng với địa vụ khiêm tốn của tôi.
- Tiểu thư cũng dửng dưng với việc tôi yêu tiểu thư  bằng tất cả trái tim sao? Xin tiểu thư hãy làm vợ tôi, tôi sẽ nâng tiểu thư lên cao, có thể tới hoàng hậu.
Macgaret suy nghĩ một chốc rồi nói:
- Ông đã đưa ra một sự cám dỗ rất lớn, nhưng thử hỏi ông làm điều ấy thế nào? Chắc phải xưa nay người ta chỉ lừa dối những cô gái trẻ bằng các đồ trang sức giả hay sao?
- Làm điều ấy như thế nào à? Không phải ai cũng yêu Phecđinăng. Tôi có nhiều bạn bè, nhiều người còn nhớ rằng bố tôi là con trưởng, nhưng người ta đã đầu độc ông ấy. Còn mẹ tôi là một công chúa người Mô. Và nếu tôi, người đang sống giữa người Mô với tư cách là đại sứ của triều đình Tây Ban Nha, cùng h[j sức với họ nổi dậy... Có cả những cách giải quyết khác. Lúc này tôi đang nói với tiểu thư những điều trước đây tôi chưa bao giờ nói lộ ra ngoài. Nếu có lúc nào đấy những lời này lọt đến tai người khác, thì tôi sẽ đem đầu mình ra trả giá. Tôi nghĩ đó cũng là một bằng chứng chứng tỏ tôi yêu tiểu thư như thế nào.
- Cảm ơn ông đã tin tôi, thưa ông, nhưng tôi nghĩ ngai vàng ở quá cao và con đường dẫn tới nó quá nguy hiểm, nên tôi thích ở lại phía dưới để được an toàn hơn.
- Tiểu thư từ chối danh vọng, - Đacghila hồi hộp ngắt lời nàng. - Nhưng có thể tình yêu làm tiểu thư rung động chăng? Mọi người sẽ thờ phụng tiểu thư. Tiểu thư  sẽ được ngưỡng mộ hơn bất kì người đàn bà nào khác trên đời. Xin thề với tiểu thư rằng trong đôi mắt tiểu thư có một cái gì đó đã thổi bùng lên ngọn lửa trong tim tôi, ngọn lửa ấy đang cháy ngày đêm, và sẽ không bao giờ tắt. Đối với tôi, giọng nói của tiểu thư dịu dàng hơn tiếng nhạc, mái tóc của tiểu thư trói buộc tôi mạnh hơn gông cùm trói buộc tội phạm. Khi tiểu thư bước đi, tôi cứ tưởng như thần Vệ nữ xinh đẹp đang bước xuống trần gian. Đầu óc tiểu thư thông minh và cao thượng. Và với sự giúp đỡ của nó, tôi có thể đạt được tất cả mọi thứ trên trái đất và giành được chỗ của mình trên thiên đường. Tôi yêu tiểu thư, bà chủ của lòng tôi, nàng Macgaret xinh đẹp. Bên nàng, tôi thấy tất cả phụ nữ trên trái đất không còn ai xinh đẹp. Nàng thấy đấy, tôi yêu nàng say đắm thế nào khi tôi, một trong những đại quý tộc lớn nhất Tây Ban Nha, quỳ gối trước sắc đẹp của nàng. - Cùng những lời ấy, Đacghila bỗng nhiên quỳ xuống, và dâng vạt áo của nàng lên môi.
Macgaret nhìn hắn, và cơn giận dữ vừa bùng lên trong lòng nàng đang tan dần. Cùng với nó, cũng tan dần cảm giác sợ hãi. Con người này chân thành. Điều ấy nàng có thể không phải nghi ngờ. Bàn tay giữ vạt áo của nàng đang run lên, khuôn mặt nhợt nạt, và trong đôi mắt đen lấp lánh những giọt lệ. Tại sao nàng phải sợ con người đang là nô lệ của nàng?
- Thưa ông, - nàng nhẹ nhàng nói, - xin ông hãy đứng dậy. Xin ông đừng yêu tôi vô ích. Tôi không xứng với tình yêu của ông và không đáng được nhận nói. Tôi không thể đáp lại tình yêu của ông. Thưa ông, tôi đã đính hôn với người khác. Xin ông hãy quên tôi  và tìm người phụ nữ khác xứng đáng với tình yêu vủa ông hơn.
- Đính hôn! - Đacghila kêu lên. - Tôi đã biết điều ấy. Không, tôi không muốn nói điều gì không tốt về Pitơ, nói xấu người gặp may hơn mình là điều hèn hạ. Nhưng việc tiểu thư đính hôn thì có quan trọng gì? Đối với  tôi, không có nghĩa lý gì cả dù khi tiểu thư đã lấy chồng? Bất cứ giá nào tôi cũng phải chiếm được tình yêu của tiểu thư, vì với tôi không còn con đường nào khác. Tiểu thư  nói rằng tiểu thư thấp hơn tôi. Không, tiểu thư cao hơn tôi, cao như ngôi sao khó lòng vươn tới. Tìm yêu người khác ư? Xin tiểu thư biết cho là tôi đã từng chinh phục không ít phụ nữ - Vì họ không phải ai cũng khó gần như tiểu thư - và bây giờ tôi căm thù họ. Tôi khao khát tình yêu của tiểu thư và cố vươn tới nó cho tới ngày cuối cùng của đời tôi. Tôi sẽ chiếm được tiểu thư hay sẽ chết. Mà không, tôi sẽ không chết chừng nào tiểu thư chưa là vợ tôi. Xin tiểu thư đừng sợ, tôi sẽ không giết chết người yêu của tiểu thư đâu, có chăng chỉ trong một trận đấu danh dự. Tôi sẽ không ép tiểu thư thành vợ tôi, cả khi tôi có khả năng làm điều ấy, nhưng sẽ ngày tôi được nghe chính miệng tiểu thư yêu cầu tôi trở thành chồng mình. Tôi xin thề điều ấy trước Đức Chúa Giêsu. Tôi cũng xin thề rằng đó là mục đích duy nhất mà tôi sẽ cống hiến toàn bộ cuộc đời mình để theo đuổi. Và nếu không may tiểu thư chết trước tôi, thì tôi cũng sẽ xin theo tiểu thư cho tới tận cổng thiên đường để tìm gặp tiểu thư ở đấy.
Lại một lần nữa trái tim Macgaret đau thắt vì sợ hãi. Tình yêu của con người này thật đáng sợ và cũng thật cao cả. Pitơ không bao giờ nói với nàng những lời như thế.
- Thưa ông, - nàng nói gần như một người có lỗi, - nhưng cô dâu đã chết không lấy gì làm hấp dẫn lắm. Xin ông hãy từ bỏ những ý nghĩ điên cuồng, bệnh hoạn ấy. Nó chỉ là con đẻ của dòng máu phương Đông ông đang mang trong người.
- Nhưng máu của tiểu thư cũng thế, vì tiểu thư là người Do Thái một nửa, nên tiểu thư phải hiểu tình cảm của tôi.
- Có thể là tôi hiểu. Có thể tôi ngưỡng mộ những tình cảm ấy, và theo cách riêng của mình, tôi xem chúng là nồng nhiệt và cao thượng, nếu có thể gọi ý định tán tỉnh người yêu của người khác là cao thượng. Nhưng thưa ông, tôi đã đính hôn với người khác, và tôi hoàn toàn thuộc về người ấy, cả thể chất lẫn tâm hồn. Và tôi sẽ giữ đúng lời hứa của mình, tôi sẽ không để trái tim người ấy tan vỡ để đổi lại tất cả sự giàu sang trên trái đất này. Một lần nữa tôi yêu cầu ông, thưa ông, hãy để cô gái đáng thương này được yên với số phận khiêm tốn mà cô ta đã chọn. Ông hãy quên cô ta đi!
- Thưa tiểu thư, - Đacghila đáp, - lời tiểu thư nói thật thông minh và tế nhị, tôi cảm ơn tiểu thư vì những lời ấy. Nhưng tôi không thể quên tiểu thư được. Và tôi sẵn sáng nhắc lại lời thề mà tôi vừa nói với tiểu thư. - Và trước khi Macgaret kịp ngăn hắn lại hay thậm chí đoán hắn định làm gì, Đacghila đã cấm lấy chiếc thánh giá bằng vàng đang treo trên cổ nàng, khẽ hôn nó rồi buông ra và nói: - Tiểu thư  thấy đấy, tôi có thể hôn tiểu thư vào môi mà tiểu thư không kịp ngăn tôi, nhưng tôi sẽ không bao giờ làm điều ấy chừng nào tiểu thư chưa cho phép. Vì vậy thay cho đôi môi, tôi đã hôn chiếc thánh giá mà tôi và tiểu thư đều mang. Thưa tiểu thư Macgaret, tiểu thư Macgaret của tôi, chỉ một hai ngày nữa tôi sẽ lên tàu về Tây Ban Nha, mang theo mình hình ảnh của tiểu thư. Tôi tin rằng chỉ một thời gian sau chúng ta sẽ lại gặp nhau. Lẽ nào có thể khác được, vì cuộc đời của chúng ta đã hoà lẫn vào nhau để không bao giờ còn xa nhau nữa, chừng nào một trong hai chúng ta từ giã cõi đời này. Con bây giờ xin phép được tạm biệt.
Rồi Đacghila biến mất, cũng lặng lẽ như khi xuất hiện.
Người cho hắn ra khỏi nhà cũng là Bêti, lúc này đang mở cửa cho hắn. Lấm lét nhìn xung quanh để tin chắc không có ai theo dõi mình - điều này có thể xảy ra vì Pitơ đi vắng cùng những người đầy tớ trung thành nhất. Và Caxten cũng không có nhà. Bêti để cửa hé mở để lát nữa có thể lặng lẽ đi vào mà không ai nhìn thấy. Rồi cô ta lẻn ra đi theo Đacghila. Họ đi tới chiếc cổng dẫn vào một ngôi nhà hiện nay đã sụp đổ. Bêti kéo Đacghila rẽ vào đây, vào cái góc tối này. Đacghila dừng lại chốc lát, lẩm bẩm qua kẽ răng một câu chửi vào đấy bằng tiếng Tây Ban Nha rồi đi theo cô ta.
- Cô muốn nói với tôi điều gì thế, cô Bêti xinh đẹp? - Hắn hỏi.
Khó khăn lắm mới không để lộ sự bực mình, Bêti kêu lên:
- Chính tôi muốn biết ông định nói gì với tôi, người hôm nay đã giúp ông nhiều như thế! Ông đã dành không ít lời nói cho cô em họ của tôi. Lúc ấy tôi ở trong vườn, qua cánh cửa, đã nghe rõ ông nói, nói mãi, nói mãi, như ông đang tự bảo vệ cuộc đời của mình vậy.
"Hi vọng  là không có lỗ hổng nào ở cánh cửa, -  Đacghila thầm nghĩ, - và cô ta không nhìn thấy gì". Nhưng hắn lại nói khác:
- Thưa cô Bêti, đáng lẽ không được đứng ở một nơi gió lạnh như vậy. Cô có thể bị cảm lạnh, khi ấy tôi biết làm thế nào?
- Tôi không biết. Nhưng  chắc sẽ không thế nào cả. Tôi muốn biết tại sao ông nói với tôi rằng ông tới để được gặp tôi, mà lại ngồi suốt một giờ với Macgaret.
- Để tránh bị người khác nghi ngờ, cô Bêti thân mến ạ. Vả lại tôi muốn được nói chuyện với cô ấy về một người thông minh, Beti, xin cô cho tôi biết: họ đang chuẩn bị làm lễ cưới à?
- Tôi nghĩ là thế. Người ta không nói gì với tôi, nhưng tôi nhận thấy nhiều điều. Ngoài ra hầu như ngày nào cô ta cũng viết thư cho Pitơ. Có điều tôi không hiểu cô ta thích gì ở con người ấy.
- Rõ ràng là cô ta đánh giá cao tính ngay thẳng của Pitơ, cũng như tôi rất quý tính ngay thẳng của cô. Ai mà giải thích nổi tình cảm của trái tim. Nhưng những người thông minh vẫn nói, một số tình cảm của trái tim bị chi phố bởi thiên đường, một số khác bởi địa ngục. Suy cho cùng, đấy không phải là chuyện của chúng ta. Mong cho họ hạnh phcú, lấy nhau và sinh thật nhiều con cái khoẻ mạnh. à mà cô Bêti thân mến, cô đã sẵn sàng lên tàu đi Tây Ban Nha rồi chứ?
- Tôi không biết, - Bêti ảm đạm đáp. - Tôi đang băn khoăn không biết có nên tin ông và những lời nói tốt đẹp của ông hay không. Nếu ông muốn lấy tôi làm vợ như đã thề, thì sao chúng ta không thể làm điều đó trước khi lên đường? Làm sao tôi có thể biết được rằng ông sẽ giữ đúng lời hứa khi chúng ta đã ở Tây Ban Nha.
- Cô hỏi quá nhiều đấy, cô Bêti ạ. Tôi đã trả lời những câu hỏi ấy rồi. Tôi đã nói với cô rằng tôi không thể cưới cô ở đây được, vì tôi phải xin phép đã. Cần xin phép vì có sự khác nhau giữa địa vị của chúng ta. ở đây, nơi ai cũng biết cô, toi không được phép làm điều ấy. ở Tây Ban Nha, cô sẽ được giới thiệu như một bà quý tộc danh giá của nước Anh. - Và quả thật về gốc gác, cô xứng đáng được như thế . - Lúc ấy chỉ trong vòng một giờ, tôi sẽ được phép cưới cô. Còn nếu cô cứ nghi ngờ tôi, thì tốt hơn hết chúng ta chia tay nhau ở đây, tuy rằng nói điều này, trái tim tôi như muốn vỡ tan vì đau khổ. Tôi không cần một người vợ lúc nào cũng không tin tôi. Hãy nói đi, cô Bêti độc ác, cô muốn bỏ tôi chăng?
- Chính ông cũng biết rằng tôi không muốn điều đó. Ông biết rằng điều đó sẽ giết chết tôi! - Bêti kêu lên bằng giọng đầy xúc động. - Ông biết rằng tôi yêu mảnh đất mà ông đi qua, và tôi căm thù bất cứ người đàn bà nào ở cạnh ông, thậm chí cả cô em họ của tôi, dù cô ấy bao giờ cũng đối xứ tốt với tôi. Tôi liều mình đi theo ông, vì tôi tin rằng ông là một người ngay thật, tử tế và sẽ không lừa dối cô gái đã tin ông. Còn nếu ông lừa dối tôi, thì Đức Chúa sẽ trừng phạt ông. Tôi không phải là thứ đồ chơi để có thể bẻ gẫy và vứt đi, rồi ông sẽ được thấy điều đó. Vâng, tôi liều mình theo ông, vì ông đã biết tôi yêu ông đến mức độ tôi không thể sống thiếu ông được nữa.
- Bêti, những lời nói của cô làm tôi rất cảm động! Tôi thấy rằng tôi đã không lầm về trái tim cao thượng của cô. Nhưng xin cô hãy nói khẽ hơn một chút. Bây giờ xin trở lại kế hoạch của chúng ta. Ngày lên đường tôi sẽ mời tiểu thư Macgaret và cô lên tàu.
- Tại sao không mời riêng mình tôi mà mời cả Macgaret?
- Vì nếu chỉ mời riêng mình cô thì không thể không gây nên nghi ngờ, là điều chúng ta nê tránh. Xin cô đừng ngắt lời tôi, tôi sẽ mời cả hai người, hay mượn cớ gì đấy tôi bắt cả Macgaret cùng tới rồi sau đấy cho  đưa cô ta lên bờ. Cô hãy giao mọi chuyện cho tôi lo, và hãy thề sẽ làm tất cả những gì tôi viết cho cô. Nếu không, xin cô biết cho rằng chúng ta có những kẻ thù đầy quyền năng, có thể chia cắt chúng ta mãi mãi. Tôi nói thật với cô, Bêti: có một bà quý phái luôn ghen tị và theo dõi cô. Cô thề chứ?
- Vâng, vâng, tôi thề! Nhưng người đàn bà danh giá ấy là ai?
- Không được nói với bất kì một người nào về người ấy, vì mạng sống của cô và cả của tôi tôi! Tôi sẽ báo cho cô biết sau. Còn bây giờ, thưa cô Bêti thân mến, xin tạm biệt.
- Tạm biệt! - Bêti đáp, nhưng vẫn đứng nguyên một chỗ.
Hiểu rằng cô ta đang chờ đơi một cái gì đó, Đacghila đem hết sức mình đặt mỗi lên mái tóc Bêti. Nhưng ngay lúc ấy hắn lấy làm tiếc đã lắm điều đó - thậm chí cả một sự âu yếm bình thường như thế cũng khơi dậy ở cô ta một cơn bão táp tình cảm. Cô ta dang  tay ôm chặt lấy cổ hắn rồi hôn lấy hôn để, cho đến khi suýt chết ngạt, hắn thoát ra được và bỏ chạy trốn.
"Lạy Đức Mẹ Đồng Trinh, - hắn nghĩ, - cô ta chẳng khác gì ngọn núi lửa đang lúc phun lửa. Bây giờ thì suốt cả tuần mình vẫn còn cảm thấy cái hôn của cô ta trên mặt. - Đoạn hắn đưa tay lau mặt. - Biết thế thà nghĩ kế hoạch khác còn hơn nhưng bây giờ thì đã muộn, khó có thể thay đổi được điều gì nữa, nếu không cô ta sẽ tố cáo mình. Rồi phải kiếm cách thoát khỏi cô ta, dù có phải dìm cô ta chết cũng đành. Thật là một vai trò khốn khiếp - Muốn lấy bà chủ và đồng thời phải làm người yêu của cô đầy tớ!"
Chương IX
CẠM BẪY
S
áng hôm sau khi Caxten trở lại, Macgaret kể cho ông nghe về cuộc viếng thăm của Đacghila và tất cả những gì xảy ra giữa họ. Đacghila còn nó rằng nàng lai Do Thái, nghĩa là hắn đã khám phá ra điều gì bí mật của Caxten.
- Bố biết về điều ấy, bố biết! - Lo lắng và giận giữ, Caxten đáp. - Hôm qua hắn đã đe dọa bố. Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, bố cũng sẽ dũng cảm đón nhận số phận của mình. Còn bây giờ bố muốn biết một điều: Ai đã cho người ấy vào ngôi nhà này, trong khi bố vắng mặt và không được bố cho phép?
- Bêti, - Macgaret đáp. - Cô ta thề rằng cô ta nghĩ làm như thế không có gì là xấu.
- Hãy gọi cô ta tới đây! - Caxten nói.
Một chốc sau Bêti xuất hiện, và để trả lời các câu hỏi của ông chủ, cô ta phịa ra một câu chuyện thật dài: Chiều hôm ấy lúc cô ta đi ra ngoài để thở không khí trong lành, thì xinho Đacghila tới, chào cô ta rồi đi thẳng vào nhà, sau khi nói rằng: "Ông ta có hẹn gặp với ông chủ".
- Với tôi? - Caxten ngắt lời Bêti. - Nhưng tôi không có nhà cơ mà?
- Cháu không biết rằng bác đi vắng. Cháu không có nhà lúc bác đi ra, và chẳng ai nói với cháu điều ấy cả. Còn cháu thì nghe rằng xinho Đacghila  là bạn của bác. Cháu đã cho ông ta vào và sau đó cho ông ta ra. Đó là tất cả những điều cháu có thể nói.
- Nếu thế thì tôi phải nói rằng cô là một đứa láu lỉnh và giải dối, và  rằng thằng Tây Ban Nha kia bằng cách nào đó đã mua chuộc cô! - Caxten giận dữ quát. - Thế đấy, cô bé ạ, dù cô là người bà con của vợ tôi thật, nhưng tôi quyết định đuổi cô ra khỏi nhà. Cô có chết đói ngoài đường cũng kệ.
Bêti lúc đầu giận dữ phản đối, nhưng sau lại khóc lóc van xin. Macgaret bố xin đừng làm thế, vì ông có thể làm hại cả đời Bêti, và bằng cách ấy chuốc lấy tội lỗi vào mình. Vốn một người tốt bụng, lại nhớ rằng người vợ quá cố của mình yêu Bêti như con đẻ, nên cuối cùng Caxten cũng nhân nhượng và chỉ cấm Bêti đi ra khỏi nhà nếu không có Macgaret đi theo. Ông còn ra lệnh từ nay chỉ người hầu mới được mở cửa.
Cũng ngày hôm ấy, Macgaret viết thư cho Pitơ kể về những gì đã xảy ra, và về cả Đacghila van xin nàng lấy hắn. Nàng chỉ im lặng không nhắc tới những lời hắn nói với nàng. Cuối thư, nàng cấm phát triển không được ghen với Đacghila hay bất kì một người đàn ông nào khác, vì Pitơ biết rõ trái tim nàng đã thuộc về ai.
Nhận được bức thư này, Pitơ hết sức lo lắng. Chàng không nghi ngờ gì về việc Caxten và Macgaret đã chuốc vào mình sự hằn học của Đacghila. Chàng tức giận vì Đacghila dám quấy rầy Macgaret bằng những lời tán tỉnh đường mật. Còn về những chuyện khác thì chàng không lo, vì chàng tin nàng như tin Đức Chúa. Tuy thế, bất chấp mọi nguy hiểm. Pitơ vẫn muốn trở lại Luân Đôn càng sớm càng tốt. Nhưng chưa đầy ba ngày sau, khi một lúc nhận được cả hai bứcthư của Caxten và Macgaret chàng liền yên tâm trở lại.
Những bức thư ấy báo tin rằng Đacghila đã lên tàu trở về Tây Ban Nha hay ít ra thì chính mắt Caxten nhìn thấy hắn đứng trên mũi con tàu đang xuôi dòng sông Tem đi ra phía bờ biển. Đó là con tàu của ngài đại sứ Tây Ban Nha dơ Aiala. Ngoài ra, Macgaret cũng nhận được một bức thư từ biệt của Đacghila. Bức thư viết:
Xin vĩnh biệt tiểu thư xinh đẹp. Rồi có ngày chúng ta sẽ gặp lại nhau. Tôi ra đi bởi vì công việc bắt thế, nhưng luôn mang trong lòng hình ảnh của tiểu thư.
Môrela, người yêu tiểu thư suốt đời.
"Hắn có thể mang theo hình ảnh của nàng, chừng nào nàng đang ở với ta, nhưng nếu hắn trở lại với  cái trò yêu đương của hắn, thì xin thề rằng chẳng bao lâu sau hắn phải chết!" - Đó là những ý nghĩ ảm đạm của Pitơ. Sauđó chàng quay lại với những bức thư kia. Bây giờ, Đacghila đã đi khỏi, chàng không có gì phải sợ nữa, và ở Luân Đôn mọi người đang chờ đợi chàng. Trong bức thư của mình, Caxten hẹn chàng trở lại vào ngày ba mươi mốt tháng Năm, tức là đúng một tuần nữa, để ngày hôm sau - mồng một tháng Sáu - tổ chức lễ cưới. Không thể tiến hành lễ cưới vào tháng Năm được, vì người ta cho rằng điều ấy có thể mang lại bất hạnh.
Macgaret cũng báo cho chàng những tin tức ấy, băng những lời rất dịu dàng, đến nỗi Pitơ ôm hôn bức thư, và lập tức viết thư trả lời - ngắn gọn như thường lệ. Chàng viết rằng nếu được Đức Chúa cho phép, chàng sẽ về tới nhà vào chiều ngày ba mươi mốt tháng Năm và rằng trong khắp cả nước Anh không có người nào hạnh phúc hơn chàng.
Tuần ấy Macgaret hoàn toàn bận rộn về việc chuẩn bị áo cưới. Ngoài ra nàng còn phải cho may nhiều thứ quần áo khác, vì họ đã quyết định ngay hôm sau ngày cưới họ sẽ đi về Đêthem. Caxen cũng tới đó nhưng muộn hơn một phút. Chiếc lâu đài cổ của họ chưa chữa xong, còn phải chờ một thời gian khá lâu nữa, nhưng Pitơ đã cho sửa sang lại mấy phòng. Mùa hè có thể sống tạm bợ ở đấy, còn đến mùa đông thì cả lâu đài sẽ được hoàn chỉnh.
Caxten cũng rất bận. Con tàu "Macgaret" đang chuẩn bị một chuyến hành trình mới, và hàng hóa đang được cho vào các khoang tàu cuối cùng. Ông hi vọng sẽ cho tàu ra đi vào cùng một ngày - ba mười mốt tháng Năm. Và thế là coi như việc bàn giao lại các kho chứa và các quầy hàng của ông cho những người đã mua chúng. Vì công việc, ông phải ở lại Grepxen, nơi con tàu đang đỗ, nhưng ông yên tâm vì Đacghila và đám lính hầu của dơ Aiala kẻ thù Pitơ, đã về nước.
Ôi, vào những ngày xuân đẹp đẽ ấy Macgaret mới hạnh phúc làm sao! Trái tim nàng thật thanh thản, trong sáng. Nàng hạnh phúc và bận bịu với công việc đến mức không hề chú ý tới Bêti, là người đang giúp đỡ nàng chuẩn bị áo cưới và những gì cần thiết cho chuyến đi sắp tới. Nếu chăm chú hơn nàng sẽ nhận thấy Bêti đang lo lắng như chờ đợi điều gì . Cô ta đang phải đấu tranh với sự tuyệt vọng đang xâm chiếm cô ta. Nhưng Macgaret không nhận thấy gì hết, vì trái tim nàng tràn đầy hạnh phúc. Nàng đang tính từng giờ chờ đón Pitơ trở lại.
Thời gian cứ thế trôi đi. Cuối cùng đã đến ngày Pitơ phải trở về. Lễ cưới được dự định tổ chức vào ngày hôm sau. Tất cả đã sẵn sàng, kể cả bộ quần áo tuyệt đẹp cho Pitơ. Chàng chưa bao giờ mặc những bộ quần áo sang trọng như thế. Ngôi nhà thờ bên cạnh, nơi dự định tiến hành nghi lễ, đã được trang hoàng đầy hoa.
Từ sáng sớm, Caxten đi tới Grepxen, mang theo mình một số lớn người hầu. Vào rạng sáng hôm sau, tàu "Macgaret" sẽ ra biển. Caxten nói là đến tối sẽ quay lại gặp Pitơ, là người xuất phát từ Đêthem vào buổi sáng và không thể tới Luân Đôn trước khi mặt trời lặn được.
Đến bốn giờ, mọi thứ đã chuẩn bị xong, và Macgaret đi vào phòng mình để thay quần áo chờ Pitơ. Bêti không đi theo nàng - cô ta đang bận làm một việc gì đó. Vả lại, trái tim Macgaret đang tràn ngập sung sướng, nên nàng muốn được ngồi một mình trong chốc lát.
Trái tim Bêti cũng đang tràn đầy, nhưng hoàn toàn không phải niềm vui. Cô ta đã bị lừa dối. Cái con người Tây Ban Nha đẹp trai kia, người mà cô ta yêu say đắm, đã ra đi không thèm để lại cho cô ta một dòng chữ nào. Chẳng có gì phải nghi ngờ điều đó - người ta nhìn thấy hắn trên chiếc tàu đang rời bến. Thế mà hắn không thèm nói một câu cho cô ta biết! Thật nhẫn tâm, vậy và bây giờ cô ta, người bị cướp đi tình yêu và hi vọng, lại phải giúp đỡ một phụ nữ khác đang sắp sửa được trở thành một người vợ hạnh phúc! Cứ thế, Bêti làm việc vừa cắn môi, vừa lau nước mắt bằng ống tay áo, với trái tim tràn đầy đau khổ. Bỗng nhiên cánh cửa mở, và một người hầu - không phải người hầu của Caxten, mà là người hầu được mời từ nơi khác đến để giúp đỡ cho cuộc hôn lễ ngày mai - đi vào báo rằng có một thuỷ thủ nào đó muốn gặp Bêti - Cho anh ta vào. Tôi không có thời gian để đi ra nghe tất cả mọi người được! - Bêti giận dữ nói.
 Tên hầu dẫn người thủ thủ vào, rồi lui ra để hai người lại với nhau. Gã thuỷ thủ là một con người trẻ tuổi, nước da lại ngăm ngăm với đôi mắt đen láu lỉnh. Nếu hắn không nói bằng tiếng Anh một cách thành thạo, thì có thể nghĩ hắn là người Tây Ban Nha.
- Anh là ai và đến đây có việc gì? - Bêti sốt ruột hỏi.
- Tôi là thợ mộc trên tàu "Macgaret", - gã kia nói - Người ta cho tôi đến đây để báo rằng ông Caxten gặp tai nạn, và ông yêu cầu con gái ông là Macgaret phải đến với ông ngay lập tức.
- Tai nạn gì thế? - Bê ti kêu lên.
- Ông ấy đang quan sát việc bốc hàng lên tàu thì trượt chân ngã xuống hầm tàu, bị chấn thương ở lưng và gãy tay phải. Vì vậy ông ta không thể viết thư được. Nhưng ông bác sĩ mà chúng tôi gọi đến cứu chữa có ra lệnh cho tôi nói với tiểu thư Macgaret rằng lúc này ông ta không lo sợ về tính mạng của Caxten lắm. Cô là tiểu thư Macgaret à?
- Không, - Bêti đáp, - Nhưng bây giờ tôi sẽ đi gọi cô ấy. Hãy chờ cho một lát.
- Vậy thì cô là Bêti Đin phải không? Nếu vậy tôi có cái này cho cô đây.
- Vâng, Bêti là tôi.
- Đây. - Gã thuỷ thủ nói rồi rút ra một bức thư đưa cho Bêti.
- Thế ai đưa nó cho anh? - Bêti nghi ngờ hỏi.
- Tôi không biết tên ông ta, nhưng cứ theo bề ngoài mà nói thì đó là một quý tộc Tây Ban Nha. Ông ta rất hào phóng. Ông ta có nghe nói về tai nạn xảy ra trên tàu "Macgaret" và biết tôi tới đây, nên đã nhờ tôi đưa bức thư này cho cô. Để thưởng công, ông ta cho tôi một đồng tiền vàng và bắt tôi hứa là sẽ đem bức thư này tận tay cô và không được nói lộ cho ai biết.
- Lại một anh chàng si tình thô lỗ nữa, - Bêti gật đầu nói, - suốt đời tôi phải nhận thư tỏ tình của họ. Anh chờ đây, để tôi di gọi tiểu thư Macgaret.
Vừa bước ra khỏi cửa, Bêti vội vàng mở thư, chăm chú đọc từng lời.
Cô Bêti thân mến!
Chắc cô tưởng tôi lừa cô và đã ra đi, nhưng thực ra không phải thế. Tôi im lặng chỉ vì biết cô đang bị cạnh giữ rất nghiêm ngặt và không có cách nào đi ra khỏi nhà một mình được. Nhưng bây giờ thần ái tình đã cho chúng ta cơ hội để làm điều đó. Tất nhiên cô em họ của cô sẽ cho cô cùng tới gặp Caxten, là người bị thương nặng, đang nằm trên tàu của mình. Trong khi Macgaret bận bịu với Caxten, tôi sẽ đưa cô đi, chúng ta sẽ làm lễ cưới và ngay lập tức sau đó lên đường về Tây Ban Nha. Hôm nay hoặc ngày mai. Biết cô muốn, phải vất vả lắm tôi mới xin được giấy phép, sẽ có một linh mục chờ ta để làm các nghi lễ cần thiết. Xin cô đừng nói với bất kì ai về điều này, và dù có xảy ra chuyện gì đi nữa, cũng không được tỏ ra nghi ngờ hoặc sợ hãi. Nếu không chúng ta sẽ bị chia cắt mãi mãi. Hãy cố thuyết phục cô em họ của cô ra đi, để cô có thể đi theo. Đừng quên là người yêu của cô đang chờ cô.
Đacghila.
Đọc xong bức thư này, trái tim Bêti như muốn tan vỡ vì hồi hộp, đầu óc quay cuồng, và suýt nữa thì cô ta ngất xỉu. Sau đó cô ta nghĩ rằng đây có thể là một trò đùa. Không, cô ta nhận ra nét chữ của Đacghila. Hắn chung thuỷ với cô, hắn sẽ cưới cô như đã hứa và đưa cô về Tây Ban Nha để trở thành một người đàn bà quý phái. Nếu hành động chậm trễ, cô ta có thể mất hắn mãi mãi, một con người mà cô ta sẵn sàng đi theo cho đến tận cùng thế giới. Đúng luc ấy Bêti đã quyết định sẽ làm những gì - cô ta là một cô gái dũng cảm. Cô ta đi theo Đacghila, thậm chí nếu phải bỏ rơi cả Macgaret, là người cô ta yêu mến.
Giấu bức thư vào ngực, Bêti chạy bổ vào phòng Macgaret, kể cho nàng nghe về gã thuỷ thủ và cái tin khủng khiếp kia. Nhưng cô ta không nói một lời nào cả về bức thư. Macgaret tái mặt vì lo lắng, tuy nhiên một lúc sau, trấn tĩnh lại, nàng nói:
- Để tôi  xuống nói chuyện với anh ta.
Rồi họ cùng đi xuống theo chiếc cầu thang.
 Gã thuỷ thủ nhắc lại một chuyện cho Macgaret nghe. Hắn còn miêu tả cho nàng biết tai nạn đã xảy ra như thế nào, - theo hắn nói, hắn là người được tận mắt chứng kiến, - và hắn nói tỉ mỉ về các vết thương của bố nàng. Hắn còn nói thêm rằng mặc dù bác sĩ khẳng định vết thương không nguy hiểm chết người, nhưng ông Caxten lại nghĩ khác, và luôn luôn giục phải cho gọi con gái tới.
Tuy thế, Macgaret vẫn có ý nghi ngờ và tỏ ra chần chừ - nàng cảm thấy sợ, dù không biết là vì lẽ gì.
- Chậm nhất hai tiếng nữa Pitơ sẽ về đây, - nàng nói với Bêti - Hay có lẽ nên chờ nàng?
- ồ không, Macgaret, nếu ngộ nhỡ trong thời gian ấy bố cô chết thì sao? Chắc cô biết rõ về bản thân ông hơn cái ông bác sĩ mà người ta đã mời tới. Nếu có chuyện gì suốt đời cô sẽ phải băn khoăn, hối hận! Tất nhiên, phải đi ngay. Hay ít ra một mình tôi sẽ đi.
Macgaret vẫn tiếp tục do dự, cho đến lúc gã thuỷ thủ xen vào.
- Thưa tiểu thư, nếu tiểu thư đi, tôi sẽ đưa tiểu thư tới chỗ có con thuyền đang đợi để chở tiểu thư lên tàu. Nếu không, tôi buộc phải đi một mình bây giờ - trăng lên, tàu sẽ nhổ neo. Mọi người chỉ chờ tiểu thư đến để đưa ông chủ lên bờ. Ai cũng nghĩ tốt hơn nên làm điều ấy khi có mặt tiểu thư. Nếu tiểu thư không đến, cánh thuỷ thủ chúng tôi sẽ đưa ông lên bờ, tất nhiên là sẽ cố nhẹ tay. Ngày mai tiểu thư sẽ tới đấy để tìm lại bố tiểu thư, có thể sống mà cũng có thể chết. - Nói đoạn, gã thủy thủ cầm mũ định bước đi.
- Tôi sẽ đi với anh! - Macgaret kêu lên. - Cô nói đúng, cô Bêti ạ. Cô hãy ra lệnh chuẩn bị hai con ngựa, con của tôi và một con của người đầy tớ. Bảo kiếm thêm một bộ yên khác cho cô ngồi cùng. Chúng ta sẽ cùng đi với nhau. Chắc anh thuỷ thủ này cũng có ngựa.
Gã thuỷ thủ gật đầu rồi đi theo Bêti ra chuồng ngựa. Còn Macgaret thì vội vàng cầm bút viết nguệch ngoạc cho Pitơ mấychữ. Nàng báo chàng biết về tai nạn vừa xảy ra và yêu cầu chàng đi ngay tới chỗ nàng. "Em buộc phải đi một mình, - nàng viết thêm, - cùng Bêti và một người đàn ông lạ mặt. Nhưng em phải làm thế vì trái tim em đang đau thắn, lo sợ cho bố. Anh yêu, anh hãy đến ngay với em!"
Macgaret đưa mảnh giấy cho người hàu đã mở cửa cho gã thuỷ thủ, rồi dặn phải đưa nó tận tay Pitơ ngay khi chàng mới về. Anh người hầu thề sẽ làm điều đó.
Sau đó Macgaret lấy cho mình và Bêti hai chiếc áo khoác màu đen giản dị có mũ đội che mặt, rồi một lát sau cả hai đã ngồi trên lưng ngựa.
- Khoan đã! - Macgaret quay sang gọi gã thuỷ thủ khi họ chuẩn bị ra đi. - Tại sao bố tôi cử anh tới đây mà không phải ai đó trong đán người hầu cũ của mình và không tự tay viết cho tôi?
Gã thuỷ thủ ngạc nhiên một cách chân thành:
- Đám người nhà bận chăm sóc ông nên ông sai tôi đi, vì tôi biết đường và tôi có con ngựa rất tốt trên bờ. Tôi vẫn cưỡi nó đi tới Luân Đôn, mỗi lần có việc. Còn về bức thư thì ông bác sĩ đã bắt đầu viết, nhưng ông ta viết quá chậm chạp nên ông chủ Caxten bảo tôi đi ngay. Hình như tiểu thư Macgaret không tin tôi thì phải? - Hắn quay sang nói với Bêti với vẻ bực mình ra mặt. - Nếu thế thì cứ để tiểu thư tìm người dẫn đường khác, hay ở nhà cũng được. Tôi chẳng quan tâm tới điều aýa, tôi đã làm tròn những việc được giao.
Bằng những lời ấy, gã thuỷ thủ láu lỉnh đã xua tan mọi nỗi lo sợ của Macgaret. Nhưng nhớ lại bức thư của Đacghila, Bêti vẫn cảm thấy băn khoăn khó hiểu. Tất cả câu chuyện này trông có vẻ lạ lùng, nhưng cô Bêti ngu ngốc và hám danh lại tự an ủi mình rằng nếu có âm mưu gì ở đây, thì cũng chỉ vì cô ta mà thôi. Vì cô ta nào có được ra được một mình! Đúng là Bêti đã hoá điên và không hề suy nghĩ gì về những việc đang làm. Để bào chữa cho cô ta chúng ta chỉ có thể nói rằng cô ta không chút nghi ngờ gì về việc Macgaret đang bị một mối nguy hiểm nào đó đe doạ, cũng như không hề biết rằng câu chuyện Caxten bị thương là hoàn toàn bịa đặt. Chẳng bao lâu sau, họ đi ra khỏi thành Luân Đôn và phi nhanh dọc theo bờ bắc của dòng sông. Gã thuỷ thủ nói rằng con tàu không đậu sát bờ, và sẽ có thuyền chờ họ ở Tinburi. Còn hơn hai mươi dặm nữa mới tới đó, và dù họ có phi nhanh tới đaua, thì họ cũng không thể tới nơi trước khi trời tối. Cuối cùng, khi họ vô cùng mệt mỏi vì đi đường xa và phi nhanh, gã thuỷ thủ đứng lại bên bờ sông, nói rằng họ đã đến nơi. Phía xa xa hiện lên một chiếc bến nhỏ, nhưng xung quanh không có một ngôi nhà nào. Gã thuỷ thủ vội vàng đưa dây cương của mình cho người hầu rồi xuống bến gọi to: "Có phải đầy là chiếc thuyền của tàu "Macgaret" không"? có ai đáp lại: "Vâng". Sau đó hắn đứng nói chuyện với những người trên thuyền khoảng một phút - nói gì thì Macgaret và Bêti không nghe thấy - rồi chạy trở lại. Hắn giục hai người phải nhanh lên, và nói rằng thất may mà họ đến kịp, vì tình trạng của ông Caxten càng ngày càng trở nên tồi tệ, và ông luôn miệng cho gọi con gái.
Gã thuỷ thủ sai người hầu dẫn ngựa tới một quán trọ gần đấy đề chờ lệnh mới và chờ họ quay lại. Hắn bảo Bêti đi với anh ta vì thuyền không đủ chỗ. Bêti đồng ý ngay, vì nghĩ rằng đây là một phần kế hoạch bắt cóc cô ta, suy nghĩ Macgaret tuyên bố là không có Bêti, nàng sẽ không đi đâu cả, dù chỉ một bước. Lầu bầu một chốc, gã thủy thủ dẫn họ lên thuyền theo một chiếc cầu gỗ. Phải cố lắm mới nhìn rõ hình chiếc thuyền trong bóng tối.
Macgaret và Bêti vừa ngồi xuống bên nhau ở phía mũi, thì chiếc thuyền rời bến và nhanh nhẹn lao lên phía trước. Một thuỷ thủ bật đèn hiệu rồi cột đèn vào mũi thuyền. Đâu đó phía xa, như để đáp lại, một ánh lửa cũng loé lên, và con thuyền nhằm hướng đó mà đi. Lúc này Macgaret quyết định sẽ hỏi những người chèo thuyền về tình trạng sức khoẻ của bố nàng, nhưng gã thuỷ thủ yêu cầu nàng đừng nói chuyện làm họ mất tập trung, vì ở đây nước chảy mạnh và thuyền có thể lập nhào. Macgaret đành im lặng, băn khoan vì nghi ngờ sợ hãi. Nàng chăm chú nhìn ánh đèn mà con thuyền đang tới gần, cho đến khi ngọn đèn ấy treo ngay trên đầu họ.
- Đây là tàu "Macgaret" phải không? - Gã thuỷ thủ gọi tô, rồi có giọng ai đaýa đáp "Vâng". - Thế thì hãy báo với ông Caxten rằng con gái ông đã tới đây! - Gã thuỷ thủ lại nói, và từ boong tàu thòng xuống một chiếc dây, chiếc thuyền được cột chặt vào bậc lên xuống.
Vì đứng gần bậc lên xuống hơn cả, nên Bêti bước lên đầu tiên. Nhưng gã thuỷ thủ đã chen lên trước, rồi vội vã chạy lên theo chiếc cầu thang bằng gỗ.
Khoẻ mạnh và nhanh nhẹn, Bêti bước theo hắn. Người tiếp theo là Macgaret. Khi lên tới boong tàu Bêti nghe như có người nói bằng tiếng Tây Ban Nha, nhưng cô ta chỉ hiểu một câu: "Đồ ngốc! Sao mày dẫn cả hai đưa đến đây?". Câu trả lời thì cô ta không nghe rõ. Cô ta quay lại chìa tay cho Macgaret, rồi cả hai cùng đi về phía cột buồm.
- Hãy dẫn tới tới chỗ bố tôi! - Macgaret nói.
Gã thuỷ thủ liền đáp:
- Vâng, vâng, thưa tiểu thư, đây rồi. Có điều tiểu thư phải đi một mình. Ông nhà sẽ quá xúc động nếu thấy cả hai người một lúc.
- Không, - Macgaret đáp, - Bêti phải đi với tôi! - Rồi nàng nắm chặt tay Bêti.
Gã thuỷ thủ nhún vai, dắt hai người đi lên phía trước nhìn thấy một số thuỷ thủ đang xếp lại buồm, số khác vừa hát một bài hát lạ lùng và man dại, vừa tới buồng lái. Cửa được đóng sập lại sau lưng họ. Một người đàn ông đang ngồi sau bàn, trên đầu là một ngọn đèn. Thấy họ, người đàn ông đứng dậy, quay về phía họ và khẽ cúi đầu. Đó là Đacghila.
Bêti đứng chững lại, sững sờ. Cô ta chờ được gặp Đacghila, nhưng không phải ở đây và trong hoàn cảnh như thế này. Trái tim ngu ngốc của cô ta đập rộn lên khi thấy Đacghila, đến mức tưởng như sắp vỡ tung vì hồi hộp. Cô ta chỉ đoán hiểu một cách lờ mờ, rằng đã xảy ra một sự hiểu nhầm nào đó. Cô ta nghĩ bây giờ hắn sẽ giải thích mọi chuyện với Macgaret, và rồi nàng sẽ quay về, để hai người, Bêti và Đacghila, ở lại với nhau. Thậm chí cô ta còn đư mắt liếc nhìn khắp phòng để đoán xem ông linh mục đang ngồi chờ họ ở đâu. Thấy sau lưng có cánh cửa, cô ta nghĩ tất nhiên ông ta đang trốn trong đấy.
Còn Macgaret thì khẽ thốt lên một tiếng kêu ngắn hoảng sợ, khi nhìn thấy Đacghila, nhưng liền ngay lúc ấy, như một người phụ nữ dũng cảm - nàng là một người trong những người gặp thử thách, có thể trở nên cương quyết, cứng rắn. Nàng đứng thẳng người mà hỏi bằng giọng điềm tĩnh, đầy tức giận:
- Ông làm gì ở đây? Bố tôi đâu?
- Thưa tiểu thư, - Đacghila ngoan ngoãn đáp, - tiểu thư đang ở trên chiếc tàu "Xanh Antôniô" của tôi, còn bố tôi thì, thì có thể đang ở trên tàu "Macgaret" hoặc đang ở nhà, ở Hônbôn. Nghe thế Macgaret liền lùi lại.
- Xin tiểu thư đừng trách tôi. - Đacghila vội vã nói tiếp. - Tôi sẽ nói cho tiểu thư tất cả. Trước hết xin tiểu thư đừng lo lắng về ông Caxten - chẳng có tại họa nào xảy ra với ông ấy cả, ông ấy lành lặn và không hề bị thương. Tiểu thư hãy tha thứ cho tôi, vì tôi đã làm tiểu thư lo lắng. Tôi không còn cách nào thời gian những mưu mô láu lỉnh mà tình yêu bắt phải dùng tới... - Hắn dừng lại, sửng sốt vì vẻ mặt của Macgaret.
- Cạm bẫy! Mưu mô! - Nàng khẽ nói không thành tiếng, đôi mắt long lên giận dữ. - Được, tôi sẽ bắt ông trả giá cho cái mưu mô của mình!
Đacghila nhìn thấy Macgaret rút con dao găm sáng giấu trong ngực và đang định nhảy bổ vào hắn. Hắn không thể làm một cử động nào, vì đôi mắt đáng sợ kia đã cột chân hắn lị. Chỉ một giấy nữa là lưỡi dao  thép sẽ đâm xuyên ngực hắn, nhưng đúng lúc ấy Bêti kêu lên, rồi ôm chặt lấy Macgaret bằng đôi tay khoẻ mạnh của mình. - Khoan đã, cô không hiểu ý ông ấy. Đó là ông ấy muốn bắt cóc tôi chứ gì không phải cô. Ông ấy yêu tôi và tôi cũng yêu ông ấy, và sẵn sàng lấy ông ấy làm chồng. Cô sẽ quay trở về nhà.
- Buông tôi ra! - Macgaret nói với giọng giận dữ, đến mức đôi tay của Bêti tự buông ra. Macgaret vẫn đứng yên, tay cầm chặt con dao. - Còn bây giờ, - nàng quay sang nói với Đacghila, - ông hãy nói đi, nói tất cả sự thật, nhanh lên. Cô ta nói thế nghĩa là gì?
- Cô ta biết điều ấy hơn tôi, - Đacghila lúng túng đáp. - Cô ta thích dính vào cái mớ bòng bong phù phiếm và danh vọng hão này.
- Cái mớ bòng bong mà có thể chính ông ta tạo nên. Nói đi, Bêti!
- Ông ta tán tỉnh săn đón tôi, - Bêti thút thít nói, - còn tôi thì đem lòng yêu ông ta. Ông ta hứa sẽ lấy tôi làm vợ. Ngay hôm nay ông ta vừa gửi thư cho tôi. Đây, nó đây.
- Cô đọc đi! - Macgaret nói. Và Bêti ngoan ngoãn làm theo.
- Nghĩa là cô đã phản bội tôi! - Macgaret nói. - Cô, người bà con của tôi, người mà tôi đã giúp đỡ và yêu mến đến thế!
- Không! - Bêti kêu lên. - Tôi không hề muốn làm hại cô, tôi thà chết còn hơn. Tôi thật sự tin rằng bố cô gặp tai nạn, và rằng trong khi cô bận bịu với bố, ông Đacghila sẽ bắt cóc tôi.
- Ông có thể nói gì về điều này? - Macgaret quay sang hỏi Đacghila, vẫn bằng cái giọng lạnh lùng ấy. - Ông đã tỏ tình với cả tôi lẫn cô ấy rồi dùng mưu đưa chúng tôi tới đây. Bây giờ ông định nóigì?
Cố làm ra vẻ dũng cmả, Đacghila đáp:
- Tôi chỉ muốn nói rằng cô kia là một người đàn bà ngu ngốc. Tôi lợi dụng tính hám danh của cô ta để được ở gần tiểu thư.
- Nghe không, Bêti, cô nghe rõ không? - Macgaret kêu lên cùng một tiếng cười ngắn, đáng sợ.
Nhưng Bêti chỉ còn biết tấm tức khóc.
- Tôi yêu tiểu thư và chỉ một mình tiểu thư thôi, - Đacghila nói tiếp. - Tôi sẽ chô cô ta lên bờ. Tôi đã làm cái việc tội lỗi này chi vì không kiềm chế nổi bản thân. ý nghĩ rằng ngày mai tiểu thư sẽ là vợ người khác, làm tôi mất trí, và tôi sẵn sàng làm bất kì điều gì để giành lại tiểu thư từ tay Pitơ. Phải chăng tôi đã không thể với tiểu thư rằng tôi sẽ mang hình ảnh tiểu thư đi theo tôi về Tây Ban Nha. Là nơi tàu chúng ta đang hướng tới? - Hắn nói thêm, cố lấy lại phong thái nhã nhặn thường ngày.
Đúng lúc hắn nói những lời ấy, con tàu nghiêng nhẹ về một bên vì gió. Macgaret không nói gì. Nàng vẫn cầm nghịch trong tay con dao găm và lặng lẽ theo dõi Đacghila. Đôi mắt àng ánh lên, lạnh lùng hơn lưỡi thép.
- Nếu muốn, tiểu thư hãy giết tôi đi, - Đacghila lại lên tiếng, giọng nói của hắn pha lẫn tình yêu và xấu hổ. - Lúc ấy tôi sẽ thoát khỏi mọi sự đau khổ.
Nghe thế, Macgaret như chợt tỉnh lại. Bây giờ nàng nói với hắn bằng một giọng khác hẳn, bình tĩnh và lạnh lùng:
- Không, - nàng nói, tôi sẽ không làm bẩn thay tôi bằng máu của ông. Tại sao tôi phải thay Chúa trả thù ông? Nhưng nếu ông định đụng đến người tôi hay định chia cắt tôi với người phụ nữ đáng thương mà ông đã lừa dối này, lúc ấy tôi sẽ giết, nhưng không phải giết ông, mà giết tôi. Tôi thề với ông rằng hồn Macgaret của tôi sẽ theo ông về Tây Ban Nha, và từ Tây Ban Nha đi tiếp cho tới địa ngục, là nơi đang chờ ông. Hãy nghe tôi, Caclôt Đacghila, hầu tước Môrela, tôi biết ông cũng tin vào Chúa Trời và sợ cơn giận của Ngài. Tôi cầu cứu Đức Chúa toàn năng trừng phạt ông. Sự trừng phạt ấy sẽ đổ xuống đầu ông. Cho dù tôi đang thức hay  đang ngủ, đang yêu hay đang ghét, hoặc đang sống hay đang chết. Ông cứ làm việc điều ác, nhưng nó cũng không cứu nổi ông. Cả khi tôi đang sống hay chết, mỗi điều nhục nhã ông bắt tôi phải chịu, mỗi điều bất hạnh ông đã gây hoặc gây cho người yêu của tôi, cho bố tôi hoặc cho người phụ nữ này, đều sẽ được báo thù gấp một triệu lần, cả ở thế giới này lẫn thế giới bên kia. Ông có còn muốn bắt tôi theo ông về Tây Ban Nha nữa không, hãy ông cho tôi về nhà?
- Tôi không thể làm điều ấy được, - Đacghila đáp bằng giọng khàn khàn. - Bây giờ đã quá muộn.
- Thôi được, thế thì tôi sẽ theo ông về Tây Ban Nha, tôi cùng Bêti Đin, và cùng chúng tôi là sự trừng phạt của Đức Chúa toàn năng, sự trừng phạt ấy đang treo trên đầu ông. Ông phải biết rõ một điều, là tôi căm thù ông, tôi khinh bỉ ông, nhưng tôi không hề sợ ông. Ông đi đi!
Đacghila vừa vấp vừa đi ra khỏi phòng. Cả hai người phụ nữ nghe có tiếng cửa đóng sập sau lưng hắn.


Chương X
ĐUỔI THEO
H
ầu như đúng lúc Macgaret và Bêti leo lên boong tàu “Xanh Antôniô” thì Pitơ Brum và đám gia nhân của mình về đến ngôi nhà ở Hônbôn. Vì đường lầy, Pitơ về nhà muộn hơn một tiếng. Suốt cả tháng qua chàng chờ đợi giây phút này và tin chắc rằng chàng sẽ được đón tiếp rất nồng nhiệt. Vì ngày hôm sau đã là ngày tổ chức lễ cưới giữa chàng và người đàn bà xinh đẹp mà chàng yêu say đắm. Chàng hình dung thấy Macgaret đang ngồi đợi chàng bên cửa sổ, rồi khi nàng chảy bổ ra cửa, chàng sẽ từ yên ngựa nhảy xuống ôm nàng ngay trước mặt mọi người. Bây giờ họ còn phải xấu hổ với ai nữa,k khi ngày mai đã là vợ chồng?
Nhưng Macgaret không ngồi bên cửa sổ. ít ra thì  chàng không nhìn thấy nàng vì trời tối quá. Trong cửa sổ thậm chí không thấy cả ánh đèn. Ngôi nhà cổ trông thật ảm đạm. Tuy vậy, Pitơ vẫn xử sự như trước đấy đã hình dung. Chàng nhảy từ lưng ngựa xuống, chạy đến cánh cửa và muốn mở rộng nó nhưng không được- cửa đóng chặt. Chàng liền lấy chuôi kiếm gõ mạnh cho đến khi có một người nào đó đi tới mở cửa cho chàng. Hóa ra đó là người hầu lạ mặt mới được thuê, là người Macgaret đã nhờ chuyển thư. Tay anh ta cầm chiếc đèn.
Thấy anh ta, trái tim Pitơ bỗng nhiên buốt lạnh.
- Anh là ai? - Chàng  hỏi và không chờ trả lời liền hỏi tiếp: - Ông chủ Caxten và tiểu thư Macgaret ở đâu?
Anh người hầu báo tin rằng ông chủ ở trên tàu chưa về, còn tiểu thưMacgaret thì khoảng ba giờ trước đây đã cưỡi ngựa đi cùng với cô Bêti và một người thủy thủ lạ  mặt.
- Có lẽ tiểu thư đi đón tôi, nhưg trời tối không gặp, - Pitơ nói.
 Lúc ấy anh người hầu hỏi chàng có phải Pitơ Brum không, vì có thư gửi cho chàng.
- Vâng, vâng! - Pitơ nói to rồi giật bức thư từ tay anh người hầu. Chàng bảo anh ta đóng của  lại và soi đèn or chàng đọc thư. Chàng nhận ra ngay nét chữ của Macgaret.
- Thật là một câu chuyện lạ lùng! - Đọc nốt những dòng chữ cuối trong thư, chàng lẩm bẩm nói. - Ta phải đi ngay bây giờ.
Pitơ mới đi tới cửa và đang chìa tay định mở cửa thì cánh cửa bỗng mở rộng. Caxten đai vào, khỏe mạnh và không hề bị thương gì cả.
- Chào con, Pitơ! - Ông vui vẻ kêu lên. - Bố biết rằng con đã về, vì bố nhìn thấy ngựa. Nhưng tại sao không thấy Macgaret ở đây?
- Vì Macgaret đã đi tới chỗ bố. Bởi lẽ bố bị thương gần chết... hay ít ra trong thư này có nói như thế.
- Đi tới chỗ bố? Bị thương gần chết? Đưa thư đây xem nào! Mà không con đọc đi, bố chẳng thấy gì cả. Pitơ đọc to bức thư.
- Có một âm mưu gì đó ở đây. - Vất vả lắm Caxten mới nói lên được, khi nghe xong bức thư. - Và bố nghĩ rằng ở đây có bàn tay của thằng Tây Ban Nha kia, hay của Bêti, hay của cả hai đứa. Nào anh hầu, muốn sống anh hãy kể cho chúng tôi nghe những gì anh biết, nhanh lên!
- Dạ con thì có liên quan gì! - Anh người hầu hấp tấp nói, rồi kể toàn bộ câu chuyện về cuộc viếng thăm của gã  thủy thủ.
- Anh hãy ra bảo mọi người lại cho bầy ngựa ra khỏi chuồng, - Caxten ngắt lời anh ta. - Còn con Pitơ, con hãy bình tĩnh và uống một cốc rượu. Rượu sẽ giúp ta hành độc. Ê, có ai trong đám người hầu của ta ở đây không nhỉ? - Ông gọi to.
Caxten ra lệnh cho đám người hầu đang chạy lại ăn lót dạ và uống một vài cốc để củng cố tinh thần và trong khi họ ăn uống, ông nói cho họ biết việc tiểu thư Macgaret bị bắt cóc, và rằng sẽ phải đuổi theo. Có tiếng ồn - đó là tiếng ngựa đã được dẫn từ chuồng ngựa tới. Tất cả chạy ra đường, nhảy lên lưng ngựa rồi phi như bay tới Tinburi. Họ cũng đi theo con đường Macgaret đã đi, không phải nghĩ vì đoán biết được điều đó, mà chỉ vì nó là con đường ngắn nhất.
Tuy nhiên, do ngựa đã mệt, đêm tối, trời lại mưa nên khi họ tới Tinburi thì chuông đồng hồ trong ngôi nhà thờ nào đó đã điểm ba tiếng. Họ phi qua chiếc bên nhỏ noiư Macgaret và Bêti xuống thuyền. Pitơ và Caxten cưỡi ngựa đi bên nhau, dẫn đầu cả đoàn người. Cả hai cùng im lặng hoàn toàn vì không biết nói gì. Bỗng nghe có tiếng quen thuộc gọi họ. Đó là anh người hầu Tômat. - Con nhìn thấy đầu ngựa của ông chủ từ xa, - anh ta nói, - và đã nhận ra chúng.
- Thế tiểu thư đâu? - Cả Pitơ và Caxten cùng đồng thanh hỏi.
- Đi rồi, đi rồi, đi với Bêti Đin trên một chuyến thuyền từ cái bên kia. Hình như họ bơi tới tàu “Macgaret”. Con dẫn ngựa tới quán trọ, nhưng người ta bảo con ngồi lại đây để chờ tiểu thư. Tiểu thư đi cách đây mấy giờ. Từ đấy con không thấy người nào và không nghe gì cả, ngoài tiếng gió và sóng cho đến khi nghe được tiếng vó ngựa của ông chủ.
- Nếu thế thì ta phải tới Tinburi để lấy thuyền - Caxten nói. - Ta phải đến tàu “Macgaret” trước khi nó nhổ neo. Có thể Macgaret và Bêti đang ở đấy chăng?
- Con nghĩ bọn Tây Ban Nha đã bắt tiểu thư đi. Con tin chắc rằng trên thuyền lúc ấy không phải là người Anh, - Tômat nói. - Anh ta chạy cạnh con ngựa của Caxten, một tay cầm dây cương.
Caxten không nói gì. Pitơ thở dài buồn bã, vì chàng cũng tin rằng trong việc này có bàn tay của bọn Tây Ban Nha.
Một giờ sau, khi bình minh hé rạng, họ leo lên boong tà “Macgaret” đúng vào lúc tàu nhổ neo. Cuộc trò chuyện với thuyền trưởng tàu “Macgaret” Giêcôp Xmit đã khẳng định những giả thiết tồi tệ nhất của họ. Không hề có con thuyền nào rời tàu. Macgaret và Bêti cũng không hề tới đây. Nhưng khoảng một giờ trước đó có con tàu nhỏ Tây Ban Nha  “Xanh Antôniô” đi ngang qua, trước đó nó hạ neo ở phía trên dòng chảy. Ngoài ra, hai người chèo thuyền chở thịt tươi cho tàu “Macgaret” có kể lại rằng, khi họ đem tới tàu “Xanh Antôniô” ba con cừu và một ít gà vịt ngay trước khi tàu nhổ neo, họ đã nhìn thấy hai người phụ nữ cao dong dỏng bước lên tàu, và nghe một trong hai người đó nói bằng tiếng Anh: “Hãy dẫn tôi đến chỗ bố tôi!”
Bây giơ, sau khi biết hết mọi sự thật, họ lặng lẽ nhìn nha, sờ sững vì thất vọng. Người đầu tiên đủ dũng cảm nói lên lời và Pitơ.
- Con phải đi Tây Ban Nha để tìm lại người yêu của con nếu nàng còn sống, - chàng thong thả nói, - và giết kẻ đã bắt cóc nàng. Còn bố, bố hãy quay về nhà.
- Nhà của ta là nơi có con gái ta ở! - Caxten cũng giận dữ đáp lại. - Ta cũng đi Tây Ban Nha!
- Bố sẽ gặp nhiều nguy hiểm đe dọa ở Tây Ban Nha, nếu chúng ta tới được nước này, - Pitơ với nhiều hàm ý.
- Cả khi nếu ở đấy là cửa vào địa ngục, bố vẫn cứ đi, - Caxten tuyên bố một cách ngang bướng. - Tại sao ta lại không tham gia săn lùng quỷ dữ?
- Chúng ta sẽ cùng làm điều ấy! - Pitơ nói rồi chìa tay cho Caxten.
Đó là lời thề của ông bố và người yêu của cô con gái, người đối với họ là tất cả nghĩa sống trên đời, cho đến khi cái chết bắt đầu họ phải thôi cuộc săn lùng.
Suy nghĩ một lát, Caxten ra lệnh cho gọi tất cả thủy thủ lên boong. Khi các sĩ quan, thủy thủ và những người hầu đã đứng quanh Pitơ, Caxten liền lên tiếng nói. Ông nói không dài. Ông chỉ kể về việc bắt cóc tồi tệ kia, và tuyên bố rằng ông định cùng Pitơ Brum, là người đáng lẽ hôm nay làm lễ cưới với con gái ông, nếu không bị bắt cóc, sẽ đuổi theo tàu “Xanh Antôniô”. Với sự giúp đỡ của Chúa, họ hi vọng sẽ cứu được Macgaret và Bêti. Caxten nói thêm rằng ông hiểu đây là một việc làm mạo hiểm vì có thể xảy ra đánh nhau, mà ông thì không muốn bắt người khác, cho dù la ai đi nữa, phải miễn cưỡng  liều mạng cuộc đời mình, nhất là khi họ được thuê để làm việc trên tàu buôn chứ không phải tàu chiến. Nhưng ai đồng ý theo ông, ông hứa nếu mọi việc kết thúc tốt đẹp, sẽ tặng quà và nhân đôi mức lương hiện có. Ông sẵn sàng kí giấy cam đoan điều này. Còn những ai không muốn, có thể rời bỏ con tàu ngay bây giờ.
Nghe Caxten nói xong, các thủy thủ - họ có gần ba mươi người- liền bàn bạc với nhau và với thuyền trưởng Xmít, một người dũng cảm khoảng  năm mươi tuổi. Rồi họ tuyên bố rằng họ chấp nhận lời đề nghị của Caxten. Chỉ một người từ chối, đó là một chàng trai trẻ vừa mới lấy vợ. Những người còn lại thề họ sẽ tiến hành công việc này đến cùng, thuận lợi hay khó khăn cũng vậy, vì tất cả họ là người Anh và cùng căm ghét bọn người tây Tây Ban Nha. Còn hành động trắng trợn của Đacghila đã làm cho họ sôi máu vì tức giận. Ngoài ra trong số mười hai người hầu đi theo Caxten từ Luân Đôn tới đây, sáu người xin cho họ đi theo, mặc dầu hầu như tất cả họ không phải thủy thủ, vì họ yêu mến Macgaret, ông chủ và Pitơ. Caxten quyết định cho họ đi theo. Sáu người hầu còn lại lên bờ. Họ được lệnh chuyển thư của Caxten tới các bạn bè, các đại lí và bạn hàng của ông. Trong các bức thư ấy, Caxten nhờ họ chăm lo hộ các công việc, đất đai và nhà cửa ông trong khi ông vắng mặt. Ngoài ra, ông còn gửi theo họ một bản di chúc ngắn với chữ kí của ông, trong đó ông ghi rõ ông sẽ để lại toàn bộ gia sản của mình, - kể cả số tiền lãi do các công việc bán đang tiến hành sắp mang lại, và cả số gia tài, không ghi vào bản di chúc, - cho Macgaret và Pitơ, hoặc cho người nào đấy trong số họ còn sống sót, hoặc cho những người thừa kế họ. Nếu không có ai thừa kế, thì tất cả gia tài của ông, ông xin di chúc lại để đem xây bệnh viện cho người nghèo.
Sau đó, những người ở lại chia tay với các bạn mình, rồi buồn bã quay lại bờ. Liền lúc ấy, tàu nhổ neo, và làn gió nhẹ mùa xuân thổi căng buồm con tàu “Macgaret”
Vào lúc mười giờ, họ an toàn vượt qua Nô - Bencơ và gặp một số người đánh cá. Những người này báo cho họ biết hơn sáu giờ trước đó, họ nhìn thấy tàu “XanhAntôniô” đi ra của biển lamăng. Lúc ấy họ cũng nhận thấy hai người phụ nữ cầm tay nhau đứng trên boong nhìn không chớp mắt về phía đất liền. Bây giờ Caxten và Pitơ tin chắc rằng không có gì đang ghi ngờ thêm. Họ không thể thay đổi được gì nữa, và quá khổ sở vì đau buồn và đi đường mỏi mệt, họ chẳng còn gì khác để làm, ngoài việc ăn rồi vào khoang ngủ.
Vừa nằm xuống, Pitơ chợt nhớ rằng đáng lẽ vào giờ này chàng đang đứng trong nhà thờ cùng Macgaret, là người hiện giờ ở trong nanh vuốt của bon Tây Ban Nha. Rồi bằng một lời thề độc địa nhất, Pitơ thề bắt Đacghila trả giá cho sự nhục nhã và các đau khổ của nàng. Và quả thật, nếu Đacghila lúc ấy nhìn thấy khuôn mặt của Pitơ, thì chắc hẳn phải run lên vì hoảng sợ - Pitơ là một trong những người không chịu để cái ác xảy ra mà không phải đền tội. Chàng không biết tha thứ là gì, vả lại, sự xúc phạm mà người khác gây cho chàng lúc này quả là quá lớn.
Trong suốt bốn năm ngày liền gió thuận, và tàu “Macgaret”cứ theo vịnh lamăng, hi vọng sẽ đuổi kịp tàu “Xanh Antôniô”. Nhưng “Xanh Antôniô” là một chiếc tàu nhỏ, đi nhanh hơn, có trọng tải năm mươi tấn, và có số buồm nhiều hơn - bốn buồm tất cả. Còn “Macgaret” thì mặc dù là một chiếc tàu tốt nhưng chỉ có hai buồm, và không thể chạy thi nổi với “Xanh Antôniô” được. Hay có thể họ đã để mất hút tàu “Xanh Antôniô”  ngoài biển?...
Sáng ngày thứ tư,khi họ đi ngang mũi Lida một cách chậm chạp nhờ một ngọn gió nhẹ, thì người lính thủy trực tàu kêu lên rằng anh ta nhìn thấy ở phía trước có một con tàu đang tiến vào vùng gió lặng.Pitơ người có đôi mắt tinh như mắt chim ưng, liền leo lên cột buồm để nhìn kĩ con tàu xa lạ. Chàng báo tin rằng theo hình dáng và trang bị thì đó là một loại tàu nhỏ, nhưng đó có phải là con tàu mà họ đang đuổi theo hay không, thì chàng không dám nói chắc, vì chưa hề nhìn thấy tàu “Xanh Antôniô”. Nghe vậy, thuyền trưởng Xmit liền leo lên, và chỉ mấy phút sau ông leo xuống nói rằng không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là tàu “Xanh Antôniô”.
Tin này làm tàu “Macgaret” sôi động hẳn lên, các thủy thủ xem lại đao, kiếm và cung tên của mình. Cung tên thì nhiều, nhưng không có đại bác và súng thần công. Các loại vũ khí này ít thấy ở các tàu buôn. Kế hoạch được vạch ra như sau: tiến lại gần tàu “Xanh Antôniô” rồi buộc chặt nó vào tàu  “Macgaret” sau đó hi vọng sẽ tấn công và chiếm được tàu “Xanh Antôniô”. Tất nhiên làm thế, họ sẽ chuốc vào mình cơn tức giận của vua Anh vì ngài chẳng mảy may quan tâm tới việc hai cô gái Anh bị bắt cóc. Nhưng cả điều này bây giờ cũng không làm họ lún bước.
Chưa đầy nửa giờ sau tất cả đã sẵn sàng. Pitơ lúc này đang đi trên boong, đây là lần đầu tiên kể từ khi rời Đêthem trông chàng có vẻ hạnh phúc. Cơn gió nhẹ vẫn tiếp tục đẩy họ đi lên phía trước. Nhờ cơn gió ấy, họ đã tiến lại gần, chỉ cách tàu “Xanh Antôniô” nửa dặm. Nhưng bỗng nhiên gió ngừng thổi, và cả hai con tàu cũng đứng im một chỗ,  với những cánh buồm rũ xuống. Tuy nhiên do thủy triều hay một luồng gió nào đó, hai con tàu đã xích lại gần nhau, và vào lúc chập tối, khoảng cách giữa chúng chỉ còn lại không đầy một cây số. Những người Anh hi vọng rằng trước khi trời sáng hai tàu sẽ chạm nhau và dưới ánh trăng họ sẽ nhảy sang tàu “Xanh Antôniô” . Nhưng điều ấy đã không xảy ra - khoảng gần chín giờ, những đám mây đen nặng nề bỗng che phủ bầu trời, có gió thổi mạnh từ phía bờ và đến sáng thì đứng trên tàu “Macgaret” họ chỉ nhìn thấy những đỉnh cột buồm của tàu “Xanh Antôniô” đang lướt nhanh về phía nam.
Phải qua hai tuần kéo dài nữa, họ mới lại nhìn thấy tàu “Xanh Antôniô”. Suốt cả cuộc hành trình từ Uexăng hết vịnh Bixcây có những cơn gió nhẹ và hay thay đổi thổi, nhưng khi họ vượt qua mũi Phinixtơ, thì từ phía đông bắc bỗng có một cơn gió mạnh ập đến, làm tàu “Macgaret” đi nhanh hơn. Sang ngày thứ hai, sau lúc mặt trời lặn, tàu “Macgaret”chui ra khỏi màn sương mù quyện lẫn với những cơn mưa, và các thủy thủ lại nhìn thấy tàu “Xanh Antôniô” cách họ một dặm. Mọi người lại vui mừng hẳn lên, vì bây giờ họ biết chắc rằng tàu “Xanh Antôniô” không ghé vào một trong các cảng của miền bắc Tây Ban Nha. Mặc dù tàu “Xanh Antôniô” theo dự định sẽ đến Cađich, nhưng họ lo rằng bọn người Tây Ban Nha có thể sẽ cho tàu vào trốn ở một trong các cảng của miền bắc. Nhưng chẳng bao lâu mưa rào đổ ập, và họ chẳng còn nhìn thấy con tàu của đối thủ.
Khi tàu “Macgaret” đi dọc bờ biển Bồ Đào Nha, thời tiết ngày càng trở nên xấu hơn, và khi  họ vượt, qua mũi Xanh Vixăngti rồi hướng về phía Cađich thì bỗng có bão lớn. Trong lúc đó có bão, lần thứ ba họ lại thấy tau “Xanh Antôniô” lúc này đang vật lộn với sóng. Từ bây giờ cho đến cuối cuộc hành trình, trừ những giờ đêm tối, những người trên tàu “Macgaret” luôn nhìn thấy tàu “Xanh Antôniô”. Ngày hôm sau tàu “Macgaret” còn tiến lại gần tàu “Xanh Antôniô” hơn nữa, giữa lú tàu này đang cố tìm mọi cách đi vào cảng Cađich. Nhưng trong khi vật lộn với cơn bão, tàu “Xanh Antôniô” bị gãy một cột buồm. Vả lại bọn người Tây Ban Nha thấy tàu “Macgaret” có khả năng chống bão lớn hơn, chẳng bao lâu nữa sẽ đuổi kịp chúng, nên chúng thay đổi kế hoạch, và tàu “Xanh Antôniô” chuyển hướng đi về vịnh Gibranta.
Trong khi đuổi theo tàu “Xanh Antôniô”, tàu “Macgaret” đã đi qua mũi Tarp - bên phải nó là lục địa châu Phi, qua cảng Anhêxira. Tàu “Xanh Antôniô”  không có ý định vào đấy. Tàu “Macgaret” cũng đi ngang qua dãy núi đá cổ xưa màu xám của Gibranta, nơi có những ngọn đèn hiệu đang nhấp nháy, và khi gần tối thì nó đã ở biển Địa Trung Hải, cách tàu “Xanh Antôniô” chưa đầy một dặm.
ở đâybão lại càng kinh khủng hơn, và các thủy thủ phải vật lộnvới những mảnh buồm rách khá vất vả. Sáng hôm sau, tàu “Macgaret” để mất một trong những cột buồm của mình. Đó là một đêm thật kinh khủng và không ai biết chắc liệu sống đến ngày mai hay không. Còn Caxten và Pitơ thì lại càng lo lắng hơn gấp bội vì sợ tàu “Xanh Antôniô” có thể chìm, mang theo luôn cả Macgaret xuống đáy biển. Tuy nhiên, khi bình minh vừa rạng họ vẫn nhìn thấy tàu “Xanh Antôniô” - có điều bị hư hỏng rất nặng - ở phía trước, bên phải. Đến trưa thì hai tàu chỉ còn cách nhau khoảng hai trăm mét, và người Anh có thể nhìn thấy các thủy thủ Tây Ban Nha đang đi lại trên tàu. Ngoài ra họ còn thấy một điều quan trọng hơn nhiều - Có hai người phụ nữ chạy từ khoang tàu ra, và một người cầm khăn trắng vẫy họ. Hai người này liền bị dẫn vào khoang, như thế cũng đủ để Caxten và Pitơ biết chắc rằng Macgaret và Bêti còn sống và biết họ đang cố giải thoát cho hai người.
Một lát sau họ bỗng thấy một chớp lửa lóe lên trên tàu “Xanh Antôniô”, và trước khi họ nghe thấy tiếng nổ thìmột viên đạn to tròn bằng gang rơi trên boong tàu “Macgaret”. Viên đạn nảy lên đánh đúng vào ngực một người thủy thủ đang đứng cạnh Pitơ và hất anh ta xuống biển. Đó là tàu “Xanh Antôniô” bắn đại bác sang, nhưng vì sau đấy không thấy bắn tiếp, nên người Anh cho rằng khi bắn, khẩu súng đã hỏng hay các phần gia cố của nó bị gãy.
Chẳng bao lâu sau sự kiện ấy, với hai cột buồm bị gãy, tàu “Xanh Antôniô” định thay đổi hướng đi về phía Malaga, là nơi ở đấy nhìn thấy rõ các ngôi nhà đứng thấp thoáng dưới chân ngọn núi Xiêra quanh năm phủ tuyết. Nhưng bọn người Tây Ban Nha không làmnổi điều đó: Khi tàu của chúng vừa đúng hướng gió, thì tàu “Macgaret” đã đứng chặng ngay trước mặt, và giữa lúc các thủy thủ Tây Ban Nha đang bận bịu với những người anh rỗi việc lúc ấy bắt đầu bắn tên về phiá chúng. Mặc dù boong tàu “Macgaret” không phải là chỗ lí tưởng lắm để bắn cung, và gió thổi mạnh làm tên bay chệch mục tiêu, họ vẫn giết được ba và làm bị thương tám hoặc chín thủy thủ tàu “Xanh Antôniô”, làm chúng phải buông dây kéo buồm, và thế là con tàu lại bị gió bão thổi quay như chong chóng.
Trên cái bệ cao ở đuôi tàu, Đacghila đứng, một tay ôm cột buồm và chỉ huy các thủy thủ của mình. Pitơ đặt tên lên cung và chờ tàu “Macgaret” đứng yên trên sóng, dù chỉ một tích tắc rồi chàn ngắm bắn.
Những lúc ấy, sóng nâng tầu “Macgaret” lên cao hơn, và thế là khi Đacghila hoảng sợ nhảy ra, mũi tên của Pitơ đã cắm phập vào cột buồm, găm luôn vào đấy cả chiếc mũ nhung to vành của hắn. Pitơ nghiến răng vì tức giận và thất vọng, nhất là khi hai con tàu lại bị sóng đánh ra xa, không còn những cơ hội tốt như thế nữa.
“Bảy lần ngắm bắn thì năm lần ta bắn trúng đồng xu ở khoảng cách năm mươi bước, và được nhận huy hiệu vô địch, - chàng lẩm bẩm một cách chán nản, - thế mà bây giờ không bắn trúng thằng khốn nạn kia để cứu người yêu của ta khỏi nhục nhã. Đúng là Chúa đã không thương hại ta chút nào!”
Cả nửa sau của ngày hôm ấy, hễ có dịp là họ bắn sang tàu “Xanh Antôniô”. Các thủy thủ tàu Tây Ban Nha cũng bắn trả lại, những tổn thất của hai bên không lớn lắm. Tuy nhiên, người Anh nhận thấy tàu “Xanh Antôniô” bị thủng, vì càng ngày nó càng ngập sâu xuống nước.
Người Tây Ban Nha cũng nhận ra điều ấy, và hiểu rằng họ chỉ có hai lối thoát: hoặc là đi nhanh vào bờ, hoặc chìm xuống biển. Thế là lần thứ hai, dưới những trận mưa trên tên của người Anh, họ đổi đi vào chiếc vịnh nhỏ Calahônđa, trong đó có cảng Môtrin, vì từ đây vào bờ không xa lắm.
- Trên bờ vịnh này là một thành phố Tây Ban Nha, - thuyền trưởng Xmit nói với Caxten và Pitơ đang đứng cạnh. - Có lần tôi đã cho tàu đậu ở đây. Nếu tàu “Xanh Antôniô” vào được tới đó, thì chỉ còn cách xin vĩnh biệt tiểu thư của chúng ta, vì chúng sẽ dẫn tiểu thư tới Granađa, từ đây tới Granađa chỉ ba mươi dặm đường núi, mà ở Granađa thì hầu tước Môrela là ông chủ toàn quyền. Hắn có cả một lâu đài ở đấy. Ta làm gì bây giờ, ông Caxten? Năm phút nữa tàu “Xanh Antôniô” sẽ ở ngay trước mũi tàu “Macgaret”. Chúng ta sẽ lao thẳng vào nó rồi tìm cách cứu hai tiểu thư, hay để chúng dẫn họ về Granađa, và ta đành bỏ cuộc?
- Không, không bai giờ! - Pitơ kêu lên. - Còn một cách nữa: ta sẽ đi vào vịnh và đánh nhau với chúng trên bờ.
- Để bị rơi vào giữa hàng trăm  thằng Tây Ban Nha, để chúng cắt họng hết tất cả à? - Ông thuyền trưởng lạnh lùng nói thêm.
- Nếu chúng ta đâm vào chúng, - Caxten hỏi, từ nãy tới giờ ông trầm tư im lặng, - thì liệu chúng ta có bị chìm theo chúng không?
- Có thể, - thuyền trưởng Xmit đáp, - nhưng tàu “Macgaret” của ta được làm bằng thứ gỗ sồi nước Anh và có đầu mũi rất cứng. Tôi nghĩ nó sẽ không chìm. Còn tàu “Xanh Antôniô” thì lập tức sẽ lao xuống đáy biển, bây giờ nhưng cũng đã gần thế. Có điều hai tiểu thư có lẽ bị giam dưới khoang để không bị tên của tàu chúng ta bắn trúng, nên họ sẽ phải chìm theo tàu.
- Còn có một cách khác, - Pitơ cương quyết nói. - Ta móc tàu chúng vào tàu mình rồi nhảy sang đánh nhau. Tôi sẽ làm như thế.
Là một người đàn ông khỏe, có khuân mặt rộng ít khi thay đổi, ông thuyền trưởng Xmit nhíu mày - đó là dấu hiệu duy nhất chứng tỏ ông đang ngạc nhiên.
- Sao, giữa lúc sóng lớn như thế à? - Ông hỏi. -  Tôi đã tham gia mấy cuộc chiến tranh, nhưng chưa bao giờ thấy những chuyện như vậy.
- Thế thì bây giờ ông sẽ thấy, nếu tôi có được mười người đồng ý đi với tôi, - Pitơ tuyên bố với vẻ cương quyết và giận dữ. - Còn làm thế nào được nữa? Không lẽ tôi chịu đứng nhìn người khác bắt người yêu của tôi dẫn đi ngay trước mũi mình mà không tìm cách cứu giúp? Tôi thà trao thân cho số phận và liều mạo hiểm. Nếu tôi chết thì nghĩa là số phận bắt thế, chết như một người đàn ông chân chính. Không con lối thoát nào khác.
Rồi chàng quay lại nói to:
- Có ai đồng ý theo tôi nhảy sang tàu Tây Ban Nha không? Tôi hứa sẽ cho những ai sống sót được sống nốt quãng đời còn lại của mình trong no đủ, còn những ai chết, sẽ giành được vinh quang và sự hưởng lạc nơi thiên đường.
Đám thủy thủ nghi ngờ nhìn những ngọn sóng cao đang cuộn lên xung quanh, nhìn chiếc tàu Tây Ban Nha đang từ từ chìm xuống nước, và im lặng không nói gì. Thấy thế Pitơ nói tiếp:
- Chúng ta không còn con đường nào khác. Nếu chúng ta đầm vào tàu chúng, tàu chúng sẽ chìm. Thế thì chúng ta còn cứu tiểu thư làm sao được? Nếu để yên không làm gì nó, có lẽ tự nó chìm, và cả lúc ấy chúng ta cũng đành bất lực. Có thể bọn chúng đổ bộ được lên bờ, nhưng lúc ấy chúng ta sẽ bắt các tiểu thư về Granađa, và ta khó lòng mà giành lại họ từ người Mô hay từ tay chính quyền vua Tây Ban Nha. còn nếu bắt tay chúng cột vào tàumình, chúng ta có thể cứu được các tiểu thư trước khi tàu chúng chìm xuống đáy biển hay vào được tới bờ. Có ai theo tôi không?
- Có bố đây, Pitơ! - Ông già Caxten nói. - Bố sẽ đi với con.
Pitơ ngạc nhiên nhìn ông:
- Bố? Vào cái tuổi của bố ư?
- ừ, vào cái tuổi của bố đây. Tại sao lại không? Bố còn gì nữa để lo mất?
Lúc ấy, như thể xấu hổ với sự do dự của mình, một thủy thủ to lớn bước lên phía trước và nói rằng anh ta sẵn sàng cắt cổ bọn cướp Tây Ban Nha cả vào lúc thời tiết xấu cũng như vào lúc thời tiết tốt. Theo sau anh ta là những người hầu của Caxten, rồi các thủy thủ khác. Cuối cùng gần một nửa số người trên tàu - khoảng hai mươi người - tuyên bố rằng họ đồng ý mạo hiểm đi theo Pitơ. Thấy thế, Pitơ buộc phải kêu to” “Thôi đủ, chừng này là đủ!”. Thuyền trưởng Xmit cũng tỏ ý gia nhập đám thủy thủ dũng cảm, nhưng liền bị Caxten ngăn lại, nói rằng thuyền trưởng không được phép rời khỏi tàu mình.
Tàu “Macgaret” chuẩn bị chặn đường tàu “Xanh Antôniô” lúc này đang chậm chạp đi thành một vòng tròn, trông giống một con thiên nga bị thương. Đám thủy thủ sắp sửa nhảy sang tàu “Xanh Antôniô” chuẩn bị dao, kiếm - lúc này cung tên không còn tác dụng nữa. Trong lúc ấy Caxten giao các nhiệm vụ cho thuyền trưởng. Ông ra lệnh rằng nếu ông và các bạn bị giết hay bị bắt làm tù binh, thì thuyền trưởng phải cho tàu tới Xêvin, và ở đấy bán tàu cùng tất cả hàng hóa cho các bạn hàng của ông. Đồng thời thuyền trưởng Xmít phải thay mặt ông yêu cầu họ làm tất cả những gì có thể để giải thoát cho Macgaret và Bêti nếu họ còn sống, và trừng phạt Đacghila - hầu tước Môrela, vì những tội lỗi hắn đã gây ra. Nếu cần tiền để làm những việc ấy, thuyền trưởng Xmit có thể sử dụng số tiền có được do bán tàu và hàng hóa.
Giao các nhiệm vụ ấy xong, Caxten gọi một người trong đám người hầu, bắt mang tới cho ông một chiếc áo giáp nhẹ bằng thép. Pitơ quyết định không mặc áo giáp nào cả vì chúng quá nặng. Chàng cứ mặc chiếc áo da trâu, đủ để mũi kiếm không đâm thủng. Những người khác mặc áo da trâu như thế và đội mũ sắt, là những thứ có rất nhiều trên tàu.
Trong khi ấy tàu “Xanh Antôniô” đã đi hết một vòng cung và đang tới gần cửa vào vịnh. Nó cố ở quãng xa cách tàu “Macgaret” ít nhất là năm mươi mét. Sau khi ra lệnh căng một chiếc buồm nhỏ, thuyền trưởng Xmit cầm tay lái tàu “Macgaret” cho nó tiến lên đón đường tàu “Xanh Antôniô”. Pitơ và Caxten cầm đầu nhóm thủy thủ dũng cảm náu mình ở phía mũi tàu và chờ đợi.

Chương XI
CUỘC ĐẤU GIỮA BIỂN
T
àu “Xanh Antôniô” tiếp tục đi thêm theo hướng của mình một hai phút nữa thì đoán ra ý định của đối phươn. Thấy mũi tàu “Macgaret” sắp sửa chọc vào hông tàu mình, chúngliền đè lên tay lái, và tàu “Xanh Antôniô” rẽ sang bên. Kết quả là đáng lẽ phải đầm vào tàu “Xanh Antôniô” thì tàu “Macgaret” lại lao hụt, cà mình và nó. Hai tàu đi kề nhau mấy giây cho đến khi sóng tách chúng ra xa. Từ tàu “Macgaret” các mũi móc được ném sang, một mũi bám được, và thế là hai tàu quay mũi lại với nhau. Mũi tàu “Macgaret” ở ngay trên boong tàu “Xanh Antôniô”.
- Bây giờ thì theo tôi lao lên phía trước! - Pitơ ra lệnh.
Chàng chạy lên mũi tàu rồi theo đó leo xuống. Đó là một việc làm mạo hiểm. Một cơn sóng lớn nhất Pitơ lên cao, và giấy sau chàng ngã xuống. Đúng lúc ấy một thanh gỗ to từ mũi tàu “Macgaret” rơi xuống boong tàu “Xanh Antôniô”, làm Pitơ lại lần nữa suýt bay lên. Nhưng chàng đã kịp giữ lấy một đoạn thừng đang treo lơ lửng ở mũi tàu rồi theo nó leo xuống. Gió thổi Pitơ từ bên này sang bên kia. Con tàu chao đi chao lại trên sóng lớn, không ngớt hất chàng lên cao trong không khí. Boong tàu “Xanh Antôniô” cũng nâng lên hạ xuống như một sinh vật sống động. Nó đã ở rất gần, ngay dưới chân chàng - chỉ cách chưa  đấy một mét, và Pitơ buông tay, ngã ngay xuống boong, bên cạnh cột buồm phía trước. Chàng không hề bị thương, chàng nhỏm dậy rồi chạy ngay lại chiếc cột buồm bị gãy, tay trái ôm chặt lấy nó, còn tay phải rút kiếm ra.
Chỉ một vài giấy sau đó - bằng cách nào thì chàng không bao giờ nhớ được - Caxten đã đứng cạnh chàng. Sau đó thêm hai thủy thủ người Anh nữa, nhưng một người đã lăn từ boong tàu xuống biển. Đúng lúc ấy thì dây sắt néo hai tàu lại với nhau bị đứt, và tàu “Macgaret” bị sóng đánh ra xa. Nó không  thể lại gần tàu “Xanh Antôniô” được nữa. Cả ba người Anh thế là rơi vào nang vuốt của kẻ thủ. Tuy nhiên họ không thấy bọn Tây Ban Nha đâu chắc ủa - không đứa nào trong bọn chúng dám leo lên đứng trên boong cao lúc này.
Ba người Anh dũng cảm đứng ôm chặt lấy cột buồm chờ đón cái chết của mình, vì lúc này bạn bè đã ở xa cách họ một trăm mét. Và họ hiểu rằng họ đang lầm vào tình thế vô cùng tuyệt vọng. Từ khắp mọi phía của tàu “Xanh Antôniô”, một trận mưa tên bay về phía họ. Một mũi tên bắn trúng cổ người thủy thủ. Anh ta ngã gục, hai tay ôm chặt lấy mũi tên rồi lăn xuống biển. Một mũi tên khác trúng vào tay Caxten, làm thanh kiếm rơi xuống, bay sang bên. Pitơ túm lấy phần đuôi mũi tên, bẻ nó thành hai rồi kéo ra, những bàn tay phải của Caxten đã trở nên bất động, còn tay trái của ông thì nắm chặt lấy cột buồm.
- Chúng ta đã làm tất cả những gì có thể làm được con ạ, - ông nói to, - và chúng ta đã thất bại.
Pitơ nghiên răng ken két rồi đưamắt nhìn xung quanh một cách bất lực - chàng không nói được lời nào. Chàng còn biết làm gì được nữa. Để Caxten lại đây, chạy tới khoảng giữa của con tàu để chết ở đấy hay cứ đứng ở đây chờ chết? Không, chàng không chịu để người khác giết chàng như giết con chim nhỏ trên cành. Chàng chỉ chết trong khi chiến đấu tự vệ.
- Vĩnh biệt! - Chàng gọi to qua tiếng ồn của bão táp. - Xin Chúa hãy cứu vớt linh hồn chúng con!
Chờ khi con tàu ở vào vị trí cân bằng, dù chỉ một giây, Pitơ liền chạy về phía con tàu. Đến chiếc cầu thang dẫn xuống khoang dưới. Chàng liền theo nó đi xuống rồi đứng sững lại, ta giữ thanh tựa.
Bức tranh mà chàng nhìn thấy lúc ấy khá lạ lùng: Các thủy thủ Tây Ban Nha đang đứng xung quanh dọc theo thành tàu và chăm chú nhìn chàng. Cách chàngmấy bước là Đacghila đứng vịn vào cột buồm. Hắn giơ tay - trong tay hắn không hề có vũ khí - và nói với Pitơ:
- Thưa ông Brum! Xin ông hãy đứng yên! Ông chỉ bước thêm một bước nữa là sẽ bị giết chết. Hãy nghe tôi nói đã, rồi sau ông muốn làm gì tùy ý. Trong khi nói, tôi có thể không lo sợ về mũi kiếm của ông được chứ?
Pitơ gật đầu đồng ý, và Đacghila tiến lại gần, vì trong một căn phòng khép kín như thế lúc này cũng khó mà nghe nổi lời nói của nhau vì tiếng gào của bão táp.
- Thưa ông, - Đacghila nói với Pitơ, - ông là một người thật dũng cảm. Ông đã có một  hành động anh hùng mà chúng tôi xưa nay chưa ai được chứng kiến. Nếu có thể, tôi rất muốn cứu mạng sống cho ông. Tôi đã làm điều ác với ông - tình yêu và lòng ghen tỵ đẩy tôi đến hành động ấy - và vì vậy bây giờ tôi muốn tha chết cho ông. Tấn công ông bây giờ thì chẳng khác gì giết người. Trước hết xin ông hãy yên tâm, vì nữ thần của trái tim hai chúng ta hiện đang ở đây, trên con tàu này. Nhưng ông đừng sợ, tôi chừa và sẽ không bao giờ làm điều gì phương hại đến nàng. Và cũng sẽ chẳng có ai làm điều ấy, chừng nào tôi đang sống. Chưa nói đến các nguyên nhân khác, tôi không muốn xúc phạm một người phụ nữ mà tôi hi vọng sẽ tự đồng ý lấy tôi làm chồng. Tôi đưa nàng về Tây Ban Nha để nàng không thể trở thành vợ ông. Xin ông hãy tin, thưa ông rằng tôi không muốn ép buộc một người phụ nữ, cũng như tôi không muốn trở thành kẻ giết người mà nàng yêu.
- Thì ông chẳng đã làm thế sao, khi ông bắt cóc nàng khỏi nhà mình bằng cái âm mưu hết sức hèn hạ kia? - Pitơ giận dữ quát to.
- Thưa ông, tôi đã xử sự không tốt đối với nàng và với các ông, nhưng tôi sẽ đền bù lại.
- Đền bù? Bằng cách nào? Trả nàng Macgaret lại cho tôi?
- Không, tôi không thể làm thế được. Thậm chí cả khi nàng muốn là điều mà tôi không tin lắm. Không, không bao giờ, chừng nào tôi còn sống!
- Hãy cho dẫn nàng tới đây, để nàng nói với tôi rằng nàng có muốn về hay không! - Pitơ gào to, hi  vọng Macgaret sẽ nghe thấy.
Nhưng Đacghila chỉ mỉm cưới lắc đầu.
- Cả điều này tôi cũng không làm nổi, - hắn nói, - nó sẽ gây đau đớn cho nàng. Vả lại, thưa ông, tôi sẵn sàng bắt các ông trả giá, cả với ông cũng thế, thưa ông. - Đacghila nói rồi cúi chào Caxten, là người không biết tư lúc nào đã bò xuống cầu thang, lúc này đang đứng sau Pitơ và nhìn Đacghila với vẻ mặt căm thù lạnh lùng. - Các ông đã gây cho chúng tôi những tổn thất ghê gớm, có đúng thế không? Các ông đuổi theo chúng tôi trên biển và giết chết khá nhiều người của chúng tôi. Vừa rồi các ông còn định bắt cả tàu chúng tôi và giết tất cả chúng tôi, nhưng Đức Chúa đã không cho các ông làm điều ấy. Vì vậy mạng sống của các ông đang nằm trong tay chúng tôi, và nếu bây giờ giết các ông, cũng chẳng ai chê chách chúng tôi được. Thế mà tôi sẽ tha cho cả hai ông. Và nếu có thể, tôi sẽ đưa các ông trở lại tàu “Macgaret” hay cho các ông lên bờ để các ông tự ý đi đâu thì đi. Vâng, tôi sẽ xử sự với các ông như thế đấy, và chắc không ai có thể chê trách tôi điều gì.
- Sao, ông cũng xem tôi là một thằng khốn nạn như ông chăng?- Pitơ hỏi với nụ cười khinh bỉ. - Chừng nào còn sống, tôi sẽ không rời khỏi con tàu này, nếu không có Macgaret đi cùng.
- Nếu thế thì thưa ông Brum, tôi e rằng ông sẽ chết, mà rồi có thể tất cả chúng tôi cũng thế, nếu không kịp lên bờ ngay. Con tàu đã ngập đấy dước. Tuy nhiên, biết tính cách ông, tôi đã chờ đợi sẽ được ông trả lời như thế, nhưng bây giờ tôi sẵn sàng đưa ra một đề nghị khác mà tôi tin ông sẽ không từ chối. Thưa ông, kiếm của chúng ta có độ dài như nhau, nên chăng chúng ta cứ thừ cho chúng đọ sức? Tôi la một nhà đại quý tộc Tây Ban Nha, hầu tước Môrela, và thiết nghĩ ông có đấu kiếm với tôi cũng chẳng phải là một điều nhục nhã.
- Tôi không tin như thế, - Pitơ đáp, - vì tôi cao hơn ông. Tôi là một người Anh chân chính, không bao giờ ăn cắp vợ của người khác. Tuy vậy, tôi cũng vui mừng được đấu kiếm với ông, trên biển cũng như trên cạn, hay bất cứ nơi nào và lúc nào chúng ta gặp nhau, chừng nào một trong hai chúng ta chưa về chầu thế giới bên kia. - Pitơ  chỉ về phía các thủy thủ Tây Ban Nha đang chú ý lắng nghe họ. - Họ sẽ không chém tôi phía sau lưng?
- Tôi đã nói với ông, thưa ông, rằng tôi không phải một tên giết người, vì đó sẽ là một hành động phản bội hèn hạ. Còn về điều kiện thì Macgaret sẽ thuộc về người thắng. Nếu ông giết được tôi, thì nhân danh những người bạn của tôi ở đây tôi thề rằng ông sẽ cùng nàng bà bố nàng được ra đi một cách an toàn tuyệt đối. cũng thế, bây giờ hai ông phải thề rằng nếu tôi giết được ông, thì nàng sẽ ở lại cùng tôi, và không ai còn được phép yêu sách gì tôi nữa. Còn người phụ nữ đi theo nàng, tôi sẽ trả lại tự do.
- Không! - Từ nãy tới giờ Caxten mới lên tiếng. - Tôi yêu cầu khi tay tôi khỏi, tôi cũng được quyền đấu kiếm với ông.
- Tôi từ chối, - Đacghila kiêu ki đáp. - Tôi không thể giơ kiếm của mình trên đầu một ông già, bố cô gái mà tôi muốn lấy làm vợ. Vả lại tôi không thể đấu kiếm với một tên lái buôn và là người Do Thái được. Không, không, xin ông đừng nói nữa, để những người đang có mặt ở đây sau này không phải nhớ tới những lời độc ác của ông. Tôi sẽ là người hào hiệp và sẽ giải phóng cho ông khỏi những lời đã thề. Ông cứ làm tất cả những gì ông muốn để chống lại tôi, và sau đó hãy cho phép tôi xử ác với ông, thưa ông Caxten. Thưa ông Brum, trời đã tối, và nước biển đang ngập dần vào tàu. Ông sẵn sàng rồi chứ?
Pitơ gật đầu, và cả hai người bước lại gần nhau.
- Còn một điều này nữa, - Đacghila hạ kiếm xuống nói. - Thưa các bạn, vừa rồi các bạn nghe rõ điều kiện cuộc đấu của chúng tôi chứ? Các bạn có đồng ý nhân danh nước Tây Ban Nha và lí tưởng hiệp sĩ của mình, thề rằng sẽ làm đúng các điều kiện ấy, rằng nếu tôi chết, các bạn sẽ cho hai người đàn ông này và hai người phụ nữ trong kia được an toàn sang tàu của mình hay lên cạn không?
Thay mặt toàn thể thủy thủ, thuyền trưởng tàu “Xanh Antôniô” và người giúp việc của ông ta thề sẽ làm đúng như thế.
- Ông nghe rồi chứ, thưa ông Brum? Còn bây giờ thể lệ cuộc đấu như sau: Chúng ta sẽ đấu với nhau cho đến khi chết mới thôi, nhưng nếu cả hai chúng ta cùng bị bức hại, Ngược lại, chúng ta sẽ được chăm sóc cho đến khi bình phục trở lại hay phải chết theo ý Chúa.
- Ông muốn nói rằng chúng ta chỉ chết vì mũi kiếm của nhau thôi, và rằng nếu một trong hai chúng ta ngẫu nhiên gặp một hoàn cảnh bất lợi nào đấy, thì đối thủ không được lợi dụng điều đó để tấn công, có đúng thế không?
- Vâng thưa ông, vì trong hoàn cảnh của chúng ta bây giờ điều ấy rất có thể xảy ra, - nói đoạn, Đacghila bắt đầu chỉ về những ngọn sóng khổng lồ nổi lên xung quanh và đang đe dọa nuốt chửng vào bụng mình con tàu nhỏ bé đã ngập đầy nước. - Chúng ta sẽ không lợi dụng những hoàn cảnh thuận lợi như thế, vì chúng ta đều muốn giải quyết mối bất hòa của mình một cách ngay thẳng và bằng chính bàn tay của mình.
- Vâng, thế thì được, - Pitơ. - Ông Caxten đây sẽ làm chứng cho cuộc đấu của chúng ta.
Đacghila gật đầu đồng ý, hắn khẽ hôn chiếc chuôi kiếm có hình thánh giá để một lần nữa khẳng định lại lời thề, rồi cúi chào một cách lịch sự và bắt đầu đứng thủ thế.
Họ đứng im, mặt đối mặt với nhau một vài giây - thật là một cặp đối thủ tương xứng. Dưới những tia sáng màu đỏ được chiếu xuống từ đường viền của đám mây đen trôi trên trời, Pitơ nhanh nhẹn, người gầy có khuôn mặt giận dữ, trông thật đáng sợ. Đacghila cũng cao và cân đối, nhưng nhìn hắn, người ta có thể nghĩ rằng hắn đang chơi một trò giải trí nào đấy, chứ không phải là một trận đấu sống mái, mà phần thưởng là một người phụ nữ. Đacghila đội chiếc mũ  sắt, mặc áo giáp che ngực được làm bằng một thứ thép màu đen có những hình điêu khắc bằng vàng. Để che mình, Pitơ chỉ mặc chiếc áo da trâu ngắn, đầu đội chiếc mũ có những đường sọc bằng kim loại. Nhưng bù lại, thanh kiếm thẳng và sắc của chàng nặng hơn,và có lẽ dài hơn một chút so với kiếm của đối thủ.
Cứ thế họ đứng đối diện nhau, còn Caxten và tất cả thủy thủ của tàu “Xanh Antôniô” - trừ người cầm lái đang đưa con tàu vào vịnh, thì tạm quên mọi nguy hiểm đang đe dọa mình - đứng lặng quan sát họ.
Người tấn công đầu tiên là Pitơ - mũi kiếm được hướng thẳng vào cổ họng của Đacghila, nhưng hắn đã khéo léo gạt đỡ nên mũi kiếm chỉ đâm ngang bên cổ, và trước khi Pitơ kịp định thần lại thì Đacghila đã đánh đòn của mình. Kiếm của hắn đánh trúng thanh gỡ kim loại trên mũ Pitơ rồi trượt xuống vai trái, nhưng vì cú đánh không mạnh nên không gây thương tích gì. Ngay lập tức lại một đòn tấn công nữa, và cũng không phải nhẹ nhàng - lưỡi kiếm chém mạnh vào áo giáp của Đacghila làm hắn lảo đảo. Pitơ nhảy lên phía trước, thầm nghĩ có thể chàng đã thắng cuộc, nhưng đúng lúc ấy con tàu đi ngang qua dãy núi đá bao quanh bờ vịnh, nghiêng hẳn về một bên, và cả hai đối thủ đều bị hất vào thành tàu. Sau cú hất ấy còn xảy ra những lần nghiêng ngả khác. Pitơ và Đacghila vẫn tiếp tục tấn công nhau, luôn bị hất từ thành tàu bên này sang thành tàu bên kia, tay trái họ có bám vào một cái gì chắc chắn để giữ thăng bằng, cho đến khi cùng mệt mỏi và bị thâm tím khắp người, họ bị xô ngã về hai phía đối diện nhau.
- Thật là một chỗ đấu kiếm chẳng ra gì! - Đacghila vừa thở hổn hển, vừa nói.
- Tôi nghĩ nó cũng xứng đáng với vai trò của mình, - Pitơ đáp lại với vẻ cương quyết không nản chí, rồi lại lao vào tấn công Đacghila.
Đúng lúc ấy một ngọn sóng khổng lồ đổ sập xuống con tàu, tràn qua  boong, làm cả hai đối thủ ngã, rồi cuốn họ về một phía như những sợi rơm nhỏ. Pitơ là người đầu tiên đứng dậy, nhỏ nước biển ra khỏi miệng rồi đưa tay chùi mắt. Chàng nhìn thấy Đacghila đang nằm trên boong, tay trái cầm chặt lấy tay phải, còn kiếm thì lăn lóc bên cạnh.
- Ông bị chém bị thương hay chỉ bị sóng quật ngã? - Pitơ hỏi.
- Bị sóng quật ngã, - Đacghila đáp, - hình nhưkhuỷu tay bị gãy, nhưng tôi còn có tay trái. Hãy giúp tôi đứng dậy và chúng ta tiếp tục cuộc đấu củamình.
Đacghila chưa xong những lời này thì một cơn gió mạnh, mạnh  nhất trong tất cả những cơn gió trước đây, chẳng khác gì cơn lốc trong hẻm núi, đã hất tàu “Xanh Antôniô” vào tận cửa vịnh và hầu như lật nghiêng nó.
Cứ tưởng chỉ một tích tắc nữa là con tàu lệch hẳn và sẽ chìm xuống đáy biển, nhưng đúng lú ấy cây cột buồm lớn nhất bị gãy đôi như một que sậy rồi rơi ập xuống biển. Được giải phóng khỏi sức nặng của cột buồm, con tàu từ từ lấy lại thế cân bằng. Chiếc thanh ngang của cánh buồm rơi mạnh xuống boong, một đầu rơi đúng và làm vỡ đô cabin trong đó có Môrela và Bêti, còn đầu kia thì trúng đầu Pitơ, trượt qua mũ xuống cổ và vai. Bị một cú đánh như thế, Pitơ ngã xuống bất tỉnh nhân sự, tay phải vẫn cầm chặt thanh kiếm.
Từ đống gẫy nát của cabin, Macgaret và Bêti bò lên. Macgaret trông nhợt nhạt và đầy vẻ hoảng sợ, còn Bêti thì luôn miệng cầukinh. Vì một sự ngẫu nhiên may mắn nào đó, cả hai không bị thương tích gì. Tay bám vào các dây trên tàu, họ lần đi tới khoảng giữa. Chiếc thanh ngang của cánh buồm nặng nề kia vẫn tiếp tục treo trên đầu họ, một đầu gác vào phần còn lại của cabin, đầu kia dính vào mạn tàu. Sau đó nó rơi xuống biển. Cột buồm chính bị gãy ngăn đường họ. Đúng lúc Macgaret nhìn thây Pitơ đang nằm sấp, máume đầy mặt. Người chàng bị hất đi hất lại theo nhịp sóng.
Macgaret không nói được lời nào. Nàng im lặng chỉ về phía Pitơ rồi quay sang Đacghila lúc ấy đang đứng cách đấy không xa. Đacghila bám vào dây thừng, đi đến gần Macgaret rồi hét to vào tai nàng:
- Thưa tiểu thư, đây không phải là lỗi tại tôi. Chúng tôi đấu kiếm với nhau một cách công bằng và có luật. Đó là cột buồm gãy và giết chết Pitơ, đừng buộc tội tôi về cái chết của anh ta, ma hãy tìm kiếm sự an ủi ở Đức Chúa.
Macgaret vừa nghe vừa ngơ ngác nhìn quanh, rồi bất chợt nhìn thấy Caxten đang loạng choạng đi lại phía mình, nàng kêu lên một tiếng rồi ngã xuống ngực ông, bất tỉnh nhân sự.

Chương XII
CHA ENRIKÊ
Đ
êm ập xuống một cách đột ngột, và lập tức những tia sáng cuối cùng của mặt trời đang lặn chìm ngay vào đám mây đen nặng nề khổng lồ chốc chốc lại lóe lên những tia chớp sáng rực. Mưa bão bắt đầu đổ sập xuống con tàu đang chìm. Những tiếng sấm đinh tai nhức óc. Người thuỷ thủ cầm lái con tàu đi đâu? Chỉ những cơn sóng bằng nhỏ dần chứng tỏ họ đã vào tới vịnh. Chẳng bao lâu sau tùa "Xanh Antôniô" lao vào núi đá, giật mạnh, làm Caxten lúc ấy đang cúi xuống người Macgaret bất tỉnh bị bắn vào thành tàu.
Trong bóng tối có người kêu lên: "Tàu đang chìm!". Nước chảy mạnh lên boong, nhưng Caxten không biết đấy là sóng biển hay nước mưa. Sau đó ông lại nghe có tiếng kêu: "Lên thuyền nhanh lên, không chết hết cả bây giờ!" và tiếng kêu loảng xoảng của những chiếc thuyền được hạ xuống. Con tàu lắc đi lắc lại một vài lần nữa rồi đứng yên. Trong ánh chớp Caxten nhìn thấy Bêti đang ôm Macgaret bất tỉnh trong đôi tay khoẻ mạnh của mình. Cô ta cũng nhìn thấy Caxten và nói to với ông để ông cùng xuống thuyền. Caxten đi theo cô ta, nhưng chợt nhớ tới Pitơ. Biết đâu Pitơ đang sống! Ông sẽ nói gì với Macgaret nếu để chàng chết chìm. Caxten lần tới chỗ Pitơ nằm, rồi gọi một người thuỷ thủ đang chạy ngang tới giúp đỡ. Anh ta chửi rủa câu gì đấy rồi biến mất trong bóng tối. Còn lại một mình, Caxten cố nâng thân hình nặng nề của Pitơ lên, nhưng vì tay phải của ông bất động, nên ông chỉ nâng được nửa người phía trên rồi chậm chạp kéo Pitơ tới chỗ ông nghĩ đang có thuyền.
Nhưng thuyền ở đây không có, và ông nghe có tiếng nói vọng lại phía đối diện - phải kéo lê Pitơ tới đấy. Khi hai người tới nơi, tất cả đã lắng xuống, và trong ánh chớp Caxten nhìn thấy một chiếc thuyền chở đầy người đang chao đảo trên đầu ngọn sóng, cách tàu năm mươi mét. Những người không còn chỗ trên thuyền thì bám lấy đuôi và mũi thuyền mà bơi. Caxten kêu to nhưng không ai trả lời ông, có thể không ai nghe tiếng ông giữa lúc hỗn loạn như thế.
Lúc này Caxten hiểu rằng ông đã làm tất cả những gì có thể. Ông kéo Pitơ tới chỗ có mặt boong phía trên của con tàu làm mái che, ít ra thì cũng phần nào tránh được cơn mưa, rồi đặt chiếc đầu đang chảy máu của chàng lên gối, cao hơn mực nước. Sau đó, ở cái tư thế ấy, ông bắt đầu cầu nguyện và chờ cái chết.
Ông không nghi ngờ một chút nào rằng cuộc đời của ông đến đây là chấm dứt. Trong làn chớp ông nhìn thấy boong tàu hầu như ở ngang với mặt nước biển. Đành rằng ở đây, trong vịnh, biển yên tĩnh hơn nhiều. Ông đoán biết được điều ấy vì mưa vẫn mạnh và gió vẫn ào ạt như trước, nhưng sóng biển không té lên người ông. Con tàu chìm dần, chìm dần, cho đến khi nước ngập hết boong. Ông buộc phải đi lên boong trên theo chiếc cầu thang mà từ đó Pitơ đã tấn công Đacghila. Một chốc sau Caxten cảm thấy con tàu không chìm nữa. Ông không hiểu điều ấy có nghĩa là gì. Cơn bão đã quá, gió lặng và bầu trời xuất hiện những vì sao. Trời trở nên ấm hơn, và điều này đã làm ông rất mừng, nếu không, trong bộ quần áo ướt thế này, ông có thể bị chết rét. Nhưng dù sao đây cũng là một đêm dài, dài nhất trong cuộc đời ông.  Thế mà ông chẳng ngủ được để tạm quên đi nỗi đau, hay để nhẹ nhàng đón nhận cái chết.
Cứ thế ông ngồi yên, thầm đoán Macgaret còn sống hay không. Pitơ thì ông cho là đã chết từ lâu, và nghĩ không hiểu linh hồn họ trên thiên đường có chờ ông lên nhập bọn hay không. Ông nhớ lại những ngày ông sống hạnh phúc, buon bán phát đạt, cho đến lúc ông nhìn thấy khuôn mặt đáng nguyền rủa của Đacghila; về gia tài của mình và về những gì sắp xảy ra với nó. Thậm chí ông còn nghĩ rằng nếu Macgaret chết đi thì hơn, vì sông mà nhục nhã thì chẳng nên sống làm gì.
Chẳng bao lâu sau ông bắt đầu rơi vào sự lãng quên và ý nghĩ cuối cùng ông còn nhớ được là con tàu đang chìm, và theo nó, ông cũng đang chìm vào đáy sau của cái chết.
... Bỗng có tiếng người nào đấy gọi ông, ông chợt tỉnh dậy. Trời đã sáng. Trước ông là Pitơ đang đứng, tay dựa vào cầu thang. Khuôn mặt chàng tái nhợt, dính đầy máu, hai hàm rằng va vào nhau cầm cập, còn đôi mắt thì mờ đi một cách không tự nhiên.
- Thưa bố, bố vẫn sống đấy chứ? - Chẳng hỏi. - Hay cả hai chúng ta đã chết và đang ở địa ngục?
- Không, tôi còn sống, - Caxten đáp, - cả hai chúng ta đang ở thế giới bên này.
- Chuyện gì đã xảy ra ? - Pitơ hỏi. - Con vừa rơi vào bóng đêm nào đó.
Caxten vắn tắt kể cho chàng nghe tất cả những gì đã xảy ra. Nghe xong, Pitơ chuệch choạng đi về phía thành tàu, và không nói một lời nào, chàng nhìn đăm đăm về phía xa.
- Con không thấy gì cả,  - Cuối cùng chàng nói. - Sương mù dày quá, nhưng con nghĩ chúng ta không ở xa bờ lắm. Bố giúp con một tay. Cần phải tìm thức ăn, con yếu lắm rồi.
Caxten đứng dậy, xoa bóp đôi chân cứng đờ của mình, rồi đi lại gần Pitơ. Ông đưa cánh tay lành lặn ôm chàng, và cứ thế, cả hai người đi về phía đuôi tàu, nới Caxten nghĩ chắc phải có phòng của các thuỷ thủ. Họ tìm thấy phòng ấy và đi vào phía trong. Đây là một phòng nhỏ nhưng được bày biện sang trọng, trên bức tường phía sau có dính một cây thánh giá bằng gỗ chạm trổ. Trên sàn lăn lóc một vài mẩu thịt và một ít bánh mì khô, là thứ các thuỷ thủ vẫn hay ăn. Chắc chúng rơi từ bàn ăn xuống. Trong chiếc túi lưới treo trên bàn có mấy chiếc chai đựng rượu và nước uống. Caxten tìm cốc rót đầy rượu rồi đưa cho Pitơ. Pitơ uống hết ngay rồi đưa lại cho ông, và đến lượt mình, Caxten cũng uống một hơi hết cả cốc. Sau đó họ dùng con dao của mình cắt mỗi người một miếng thịt và ăn hết, mặc dù Pitơ phải gượng lám mới nuốt nổi vì những vết thương trên đầu và cổ. Sau đó họ lại tiếp tục uống rượu, rồi cảm thấy đã khoẻ hơn, họ rời khỏi khoang tàu.
Sương mù vẫn dày đặc, không nhìn thấy gì, nên họ lại đi vào chiếc canbin đã sụp đổ, nơi Macgaret và Bêti đã ở trước đấy. Họ ngồi xuống giường của hai  và bắt đầu đợi. Pitơ để ý nhận thấy cabin được bố trí một cách sang trọng, như thể đó là nơi dành riêng cho những người đàn bà quý phái. Thậm chí đồ ăn ở đây cũng bằng bạc, và trong chiếc tủ để hở thấy có những bộ quần áo lộng lẫy. ở đấy có cả những cuốn sổ chép tay. Trong cuốn sổ  Macgaret có ghi chép những điều gì đấy. Nàng còn chép cả vào đây một đoạn kinh cầu Chúa bảo vệ mình, cầu Pitơ và bố nàng được sống sót để biết sự thật những điều đã xảy ra. Macgaret cũng cầu các thánh thần cho nàng thoát nạn để sớm đoàn tụ với bố nàng và Pitơ. Cuốn sổ này Pitơ đem giấu dưới áo, để lúc rỗi có thể xem lại kĩ hơn.
Mặt trời nhô lên khỏi những dãy núi bao quanh vịnh. Rời canbin, Pitơ và Caxten leo lên núi tàu rồi đưa mắt nhìn xung quanh. Họ nhận thấy họ đang ở trong một cái vịnh khép kín bốn bên và cách bờ không hơn một trăm mét. Cột một mảnh sắt tây vào dây, họ thả xuống nước để đo độ sâu, và thấy rằng tàu mắc cạn, ở phần mũi nước chỉ hơn một mét. Sau khi biết rõ điều ấy họ quyết định bơi vào bờ.
Trước khi rời tàu, họ quay lại cabin, tìm thấy một chiếc túi da, rồi cho thức ăn và rượu nho vào đấy. Sau đó họ bỗng nghĩ tới việc tìm phòng của Đacghila. Họ đã tìm thấy nói. ở đấy họ thấy một chiếc hòm có khoá, và họ đã dùng một thanh sắt để cậy nắp lên. Trong hòm có một số vàng khá lớn - có lẽ dùng để trả côn cho các thuỷ thủ - và các đồ trang sức quý. Họ không động đến đồ trang sức, còn tiền thì chia đôi, mỗi người giấu vào mình một nửa, vì sau này có thể sẽ cần đến, nếu họ bơi được vào bờ. Sau đó họ rửa và băng bó vết thương cho nhau, rồi đi theo chiếc thang bằng dây, nơi những người Tây Ban Nha đã xuống thuyền, và thế là họ rời tàu "Xanh Antôniô".
Lúc ấy gió lặng, mặt trời chiếu sáng rực rỡ, sưởi ấm lại dòng máu đã bị giá lạnh của họ. Biển hoàn toàn yên tĩnh, và nước chỉ đến lưng. Đáy biển có cát và bằng phẳng.
Khi Pitơ và Caxten tới gần bờ, họ nhìn thấy một đám đông đang tụ tập trên đó, và nghĩ họ là dân của thành phố nhỏ Môtrin ở dọc bờ sông đổ vào vịnh. Ngoài ra họ còn nhìn thấy ở trên bờ chiếc thuyền của tàu "Xanh Antônio" đang nằm trên cát, trong thuyền rất ít nước. Điều này làm họ vui mừng, vì thế nghĩa là con thuyền đã vào bờ một cách an toàn. Cạnh đấy có năm hay sáu xác chết - chắc là xác những người thuỷ thủ bơi theo hoặc bám vào mạn thuyền, nhưng trong số các xác chết ấy không thấy có phụ nữ.
Khi Pitơ và Caxten lên tới bờ thì còn một ít người ở lại đấy. Phần lớn đã lao ra cướp phá con tàu, số còn lại đi chuẩn bị thuyền cùng nhằm mục đích ấy. Họ chỉ gặp phụ nữ, trẻ con, ba ông già và một vị linh mục. Ông linh mục có đôi mắt tham lam và láu lỉnh, khuôn mặt giả dối. Ông ta đi về phía họ, lên tiếng chào hỏi một cách lịch sự rồi nói rằng họ phải cảm ơn Chúa đã cứu sống họ.
- Chúng tôi sẽ làm điều đó, tất nhiên, - Caxten đáp, - nhưng thưa cha, xin cha cho biết những người đi cùng tàu với chúng tôi bây giờ đang ở đâu?
- Một số người đang ở đây, - ông linh mục vừa nói vừa đưa tay chỉ các xác chết. - Còn số khách thì cùng với hai tiểu thư đã về Granađa cách đây hai giờ. Hầu tước Morela có nói với chúng tôi rằng tàu của ông ta chìm và chẳng còn ai sống sót. Sương mù dày đặc không nhìn thấy gì, nên chúng tôi tin là thế thật. Vì vậy, chúng tôi không tới đây sớm hơn, nếu không... - Ông ta nói thêm một cách đầy hàm ý. - Chúng tôi là những người nghèo, mà Chúa thì ít khi cho chúng tôi những vụ đắm tàu thế này.
- Họ đi tới Granđa bằng cách nào, thưa cha? - Caxten lại hỏi. - Đi bộ à?
- Không, thưa ông, họ dùng sức bắt chết tất cả ngựa và la trong làng, mặc dù ông hầu tước có hứa sẽ trả lại và thanh toán tiền cho chúng tôi sau. Chúng tôi tin ông ấy vì chẳng còn cách nào khác. Hai tiểu thư kia thì khóc như mưa và yêu cầu chúng tôi cho họ trú lại, nhưng ông hầu tước không đồng ý, dù trông họ thật đau buồn và mỏi mệt. Mong Chúa trả lại những con ngựa kia cho chúng tôi, - ông linh mục kết thúc một cách thành thật.
- Thế có còn ngựa cho chúng tôi không? Chúng tôi có một ít tiền và có thể thanh toán được, nếu không đắt lắm.
- Chẳng còn con nào cả, thưa ông, họ bắt hết. Vả lại bây giờ các ông cũng khó mà cưỡi ngựa được, vì các ông đã trải qua nhiều thử thách như thế. - Rồi ông ta chỉ vào cái đầu bị thương của Pitơ và cánh tay quấn băng của Caxten.  - Tại sao các ông không ở lại dây nghỉ ngơi chút đã?
- Vì tôi là bố của một trong hai tiểu thư ấy, và tất nhiên nó tin chắc rằng tôi đã bị chết chìm. Còn ông này là chồng chưa cưới của nói.
- Ra thế đấy! - Ông linh mục nói rồi tò mò nhìn hai người. - Nếu vậy thì quan hệ giữa cô ta và hầu tước như thế nào? Nhưng có lẽ tôi không hỏi thì hơn, vì đây không phải là lễ xưng tội, có đúng thế không? Tôi thấy thông cảm với nỗi lo lắng của ông, vì ngài quý tộc ấy nổi tiéng là một người đàn ông quá vui vẻ. Ông ta là một tín dodò tuyệt diệu, nhưng rõ ràng là rất phóng túng trong sinh hoạt. - Rồi ông linh mục mỉm cười, lắc lắc chiếc đầu cạo trọc của mình. - Nhưng thôi, thưa các ông, mời các ông vào làng, ở đấy các ông có thể nghỉ ngơi và băng bó lại vết thương của mình. Sau đó chúng ta sẽ nói chuyện.
- Ta nên đi theo ông ta. - Caxten nói với Pitơ bằng tiếng Anh. - ở đây, trên bờ biển, không có ngựa, mà ta thì không thể cứ thế này đi bộ tới Granađa được.
Pitơ gật đầu, rồi ông linh mục - họ hỏi ra, biết ông là cha Enrikê - dẫn họ đi.
Lên tới đỉnh ngọn đồi cách bờ biển khoảng mấy trăm bước chân. Họ ngoái lại nhìn và thấy bây giờ tất cả những người khỏe mạnh trong làng đã lao ra cướp phá con tàu.
- Họ làm thế để bù lại cho mình đã bị cướp mất và la. - cha Enrike nhún vai nói.
- Vâng, tôi thấy, - Caxten đáp, nhưng cha...
- ồ, không phải lo cho tôi, - ông linh mục đáp với nụ cười láu lỉnh. - Nhà thờ không làm chuyện cướp bóc, nhưng cuối cùng chúng tôi cũng sẽ nhận được phần của mình. Dân ở đây biết điều lắm. Tôi chỉ sợ khi ông hầu tước biết tàu không chìm, ông ta sẽ bắt đền chúng tôi.
Họ đi qua ngọn đồi, nhìn thấy những bức tường trắng và các mái đỏ của những cụm nhà nằm dọc theo bờ sông. Năm phút sau cha Enrikê dừng lại trước một ngôi nhà rồi dùng khoá mở cửa.
- Đây là ngôi nhà tồi tàn của tôi khi tôi ở đây, chứ không phải ở Granađa, - ông ta nói. - Tôi có vinh dự được tiếp các ông trong ngôi nhà này. Bên cạnh là nhà thờ, các ông thấy đấy.
Họ đi sâu vào một khu sân nhỏ, nơi xung quanh một chiếc vòi phun nước nhỏ có mấy cây cam, còn cạnh tường là một cây thánh giá cao bằng người. Đi ngang qua thánh giá, Pitơ cúi đầu làm dấu, nhưng Caxten không làm theo. Ông linh mục vội đưa mắt nhìn ông.
 - Thưa ông, đáng lẽ ông phải cúi chào Đức Cháu đã cứu giúp ông thoát chết. Chả là ông hầu tước có nói với tôi rằng cả hai ông đã chết.
- Tay phải của tôi bị thương nặng. - không hề lúng thúng, Caxten đáp lại. - Nhưng tôi đã thầm đọc kinh trong lòng mình.
- Tôi hiểu, thưa ông, nhưng nếu ông đến đất nước này lần đầu tiên - mặc dù điều này ít có khả năng xảy ra, vì ông nói tiếng ở đây rất thành thạo, thì toi xin phép được bảo để ông biết rằng ở đây tốt hơn là không  chỉ đọc kinh thầm trong lòng. Thời gian gần đây các bậc cha của toà án dị giáo trở nên nghiêm khắc hơn nhiều, và họ rất chú trọng các nghi lễ bên ngoài. Khi có dịp tiếp xúc với toà án dị giáo thiêng liêng ở Xêvin tôi đã được tận mắt nhìn thấy một người bị thiêu sống vì anh ta dám coi thường các nghi lễ đó. Chúng ta có hai tay, một đầu, thưa ông, và thêm vào đó hai đầu gối để có thể quỳ xuống.
- Xin cha tha lỗi cho tôi, - Caxten đáp. - Nhưng lúc ấy tôi đang nghĩ về chuyện khác, cụ thể là việc con gái tôi đã bị hầu tước Môrela của các ông bắt đi.
Cha Enrikê không đáp lại câu trên của Caxten, và dẫn họ đi qua phòng khác vào một phòng ngủ có các cửa sổ với chấn song cao, nên mặc dầu căn phòng rộng, nó vẫn có cái gì đấy giống hệt phòng giam. Ông linh mục để các vị khác ở lại đây, nói là đi tìm ông thầy thuốc địa phương - đồng thời ông ta cũng là thợ cạo - nếu lúc này ông ta không bận "làm nhẹ con tàu". Ông ta khuyên họ cởi quần áo ướt và nằm nghỉ.
Một người phụ nữ mang tới cho họ nước nóng và quần áo để khoác tạm lên người, trong khi chờ quần áo của họ khô lại. Pitơ và Caxten cởi áo, tắm rửa, và hoàn toàn mỏi mệt, họ lăn xuống gường rồi ngủ thiếp đi. Trước khi ngủ, họ rút tiền ra nhét vào chiếc túi đựng thực phẩm, rồi Pitơ đem giấu dưới gối. Hai giờ sau họ bị đánh thức dậy bởi sự xuất hiện của cha Enrikê và ông thầy thuốc - thợ cạo. Cùng đi với họ còn có cả ba người hầu với những bộ quần áo đã được giặt sạch và phơi khô.
Khi thấy những vết thương ở cổ  và vai trái Pitơ tím bầm và bắt đầu sưng lên, ông thầy thuốc lắc đầu, tuyên bố rằng chỉ thời gian và sự yên tĩnh mới giúp được Pitơ khoẻ mạnh trở lại, và rằng có lẽ chàng được sinh ra dưới một ngôi sao hạnh phúc, vì nếu không có chiếc mũ sắt và chiếc áo da, thì chắc hẳn chàng không còn sống đến bây giờ. Vì các xương còn lành lặn, nên ông thầy thuốc chỉ phải bôi vào vết thương một miếng vải sạch. Sau đó ông ta quay sang chữa cánh tayảp của Caxten. Ông ta rửa nó bằng nước ấm và mỡ, băng bó lại rồi tuyên bố rằng hình như cơn bão có mạnh hơn ông ta tưởng, vì nó đã có thể cắm một mũi tên vào cánh tay đàn ông. Nghe thế, ông linh mục tỏ ra vẻ quan tâm.
Caxten không nói gì về nhận xét ấy. Ông đưa cho ông thầy thuốc một đồng tiền vàng, yêu cầu ông ta nếu có thể được thì kiếm ngựa và la hộ. Ông thầy thuốc rất hài lòng về khoản tiền công mà ông ta được nhận. Đối với một người Môtrin thì như thế là quá nhiều. ông ta hứa đến tối quay lại và sẽ báo tin nếu biết được ở đâu có ngựa và la. Ngoài ra ông ta còn hứa sẽ kiếm cho họ quần áo khoác Tây Ban Nha, vì mặc quần áo cũ mà đi thì e không tiện - chúng đã qúa bẩn và dính đầy máu.
Sau đó ông ta bỏ đi, cha Enrikê cũng đi theo, vì ông ta còn phải xem xét việc chia phần của cải lấy được từ con tàu, và để làm sao ông ta không bị thiệt. Người hầu gái tốt bụng mang súp đến cho Pitơ và Caxten. Sau đó họ lại nằm xuống giường và bắt đầu thảo luận sắp tới sẽ làm gì.
Caxten tỏ ra hoàn toàn nản chí. Ông nói rằng họ đã ở quá xa Macgaret, và bây giờ họ lại mất nàng, vì nàng đang nằm trong tay Môrela, họ khó lòng dứt ra khỏi. Vả lại, có lẽ nàng đã được đưa tới Granađa, thành phố của những người Mô, nơi toà án và các luật lệ Thiên Chúa không có tác dụng.
Nghe xong những lời ấy, Pitơ, người mà trái tim vẫn còn vừng vàng liền nói:
- Đức Chúa toàn năng, toàn quyền cả ở Granađa, cũng như Luân Đôn hay trên biển, là nơi Ngài vừa cứu sống chúng ta. Con tin rằng chúng ta có đủ cơ sở để cảm ơn Ngàim, vì đáng lẽ phải chết, chúng ta có thể hi vọng rằng nàng không bị thương gì. Ngoài ra, cái tên ăn cắp Tây Ban Nha chuyên bắt cóc phụ nữ kia có vẻ khá lạnh lùng. Theo lời hắn mà xét, nếu lời hắn có ít nhiều sự thật nào đó, thì mặc dù đã bắt cóc Macgaret, hắn không dám cưỡng đoạt nàng, mà chỉ muốn chiếm được tình yêu và sự đồng ý của nàng, là điều con nghĩ khó lòng xảy ra nổi... Vả lại, hắn tránh không giết người, thí dụ hắn để chúng ta sống, mặc dù có thể dễ dàng giết chúng ta.
- Bố từng gặp những người như thế, những người cho rằng có những tội lỗi có thể tha thứ được, trong những khi những tội lỗi khác thì không. Đó là kết qủ của sự mê tín.
- Thế thì ta phải cầu Chúa để hắn tiếp tục mê tín, và để chúng ta sớm đến được Granađa. Đừng quên rằng ở đấy chúng ta có bạn bè cả giữa những người  Do Thái và giữa những người Mô mà trong nhiều năm qua bố đã có quan hệ buôn bán. Họ có thể che giấu chúng ta. Vì vậy, mọi việc của cat bây giờ chưa phải đã đến lúc tồi tệ nhất, vì chúng có thể còn tồi tệ hơn nữa.
- Có lẽ đúng thế thật, nếu quả chúng đã đưa Macgaret tới Granađa. - Caxten đồng ý đáp, giọng đã bình tĩnh hơn. - Ta thử hỏi ông thợ cạo và cha Enrikê xem có biết thêm điều gì không.
- Con không tin ông cha ấy lắm; ồng ta láu kỉnh và là người của Môrela. - Pitơ nói.
Cả hai cùng im lặng. - họ đã quá mệt, vả lại cũng chẳng có gì thêm để nói, mặc dù họ phải nghĩ về rất nhiều việc.
Sau khi mặt rời lặn, ông thợ cạo lại đến để băng bó các vết thương cho Pitơ và Caxten. Ông ta mang theo những bộ quần áo Tây Ban Nha, mũ và hai chiếc áo khoác nặng rất tiện cho việc đi đường xa, và bắt họ phải trả một số tiền khá lớn. Ngoài ra, ông ta còn báo tin rằng đã có hai con la tuyệt vời đang chờ họ ngoài sân. Caxten đi ra xem. Hoá ra đó chỉ là hai con vật ốm yếu đáng thương, nhưng vì không còn cách nào khác nên ông buộc phải quay vào phòng để bàn về giá cả. Cuộc bàn kéo dài vì người thợ cạo  đã đòi gấp đôi cái giá đáng có. Caxten tuyên bố rằng những người nghèo, lại gặp tai nạn đắm tàu như ông, không thể trả cái giá ấy được. Cuối cùng họ thống nhất rằng ông thợ cạo sẽ dẫn hai con la về nhà mình, cho ăn uống tử tế, và sáng sớm hôm sau sẽ đem chúng lại cùng với người dẫn đường đưa họ tới Granađa. Tạm thời họ chỉ thanh toán cho ông ta tiền quần áo.
Caxten và Pitơ tìm cách mọi ở ông thợ cạo một vài tin tức gì đó về hầu tước Môrela, những người danh giá. Cứ tới Granađa hỏi, ai cũng biết. - Ông ta nói vậy.
Ông thợ cạo bỏ đi, để lại cho họ thuốc chữa bệnh. Chẳng bao lâu sau thì xuất hiện ông linh mục. Ông ta đang rất vui, vì trong số của cải cướp được trên tàu, ông ta được nhận các đồ trang sức mà Pitơ và Caxten để lại trong hòm sắt. Nhìn ông ta đem các đồ trang sức này ra ngắm ngiá một cách thích thú, Caxten đoán rằng ông ta rất tham lam và là một trong những người kinh bỉ sự nghèo đói, và vì tiền có thể làm tất cả mọi cái trên đời. Khi ông ta giận dữ nói về những tên ăn cắp đã xuống tàu trước đó và lấy cắp từ chiếc hòm sắt hầu hết tất cả số tiền vàng, thì Caxten thầm quyết định không để ông ta biết rằng những tên ăp cắp ấy là ai, nếu không, dọc đường tai họa có thể xảy ra với họ.
Cuối cùng cha Erikê cất các đồ trang sức đi và tuyên bố rằng họ sẽ ăn tối với ông ta. Nhưng ông ta cũng nói thêm rằng ông ta không thể mời họ uống rượu được, vì ông ta chỉ được uống nước mà thôi. Nghe thế, Caxten liền nhờ ông ta kiếm hộ mấy chai rượu, loại tốt nhất ở đây nếu có thể, và nói rằng ông sẽ trả tiền. Cha Enrikê cho người hầu gái đi mua rượu.
Sau khi mặc quần áo Tây Ban Nha vào người và giấu tiền vào hai chiếc thắt lưng cũng do ông thợ cạo bán, Caxten và Pitơ tới bàn ăn. Bữa ăn tối gồm có một món ăn Tây Ban Nha, gọi là "ôla pôđrila" (gần giống như thịt mỡ), bánh mì, pho mát và hoa quả. Trên bàn có cả rượu mà họ đã bỏ tiền ra mua, rất nặng và ngọn. Tuy nhiên Pitơ và Caxten hầu như không uống vì sợ ảnh hưởng tới các vết thương, nhưng họ đã hết sức mời mọc cha Enrikê. Kết quả là cuối bữa ăn, ông ta đã quên mất tính cảnh giác của mình và bắt đầu chuyện trò một cách thoải mái. Nhận thấy ông ta đã ngà ngà say, Caxten bắt đầu hỏi về hầu tước Môrela, về việc vì sao ông ta có một lâu đài ở Granađa, thủ đô của người Mô.
- Vì ông ta lai người Mô một nửa, - ông linh mục đáp. - Người ta nói rằng bố ông ta là hoàng thân Vian, còn mẹ ông ta là một phụ nữ người Mô có dòng máu hoàng tộc. Chính nhờ bà mà ông ta có được tài sản, đất đai và lâu đài ở Granađa. Ông ta sống ở đấy. Dù là con Chiên Cơ Đốc chính cống, nhưng ông ta có những sở thích của một kẻ phản đạo; giống những  người Mô khác, ông ta cũng luôn giữ bên mình rất nhiều phụ nữ đẹp. Sở dĩ tôi biết được điều ấy là vì ở Granađa không có linh mục, nên tôi phải tới đấy để làm linh mục riêng cho ông ta. Ngoài ra, ông ta hay sống ở Granađa còn vì một lí do khác; ông ta lai người Mô một nửa và đại diện của vua Phecđinăng và hoàng hậu Ixaben ở triều đình của vua Granađa là Bôapđin. Là những người nước ngoài, các ông phải biết nếu còn chưa biết, rằng các vua Tây Ban Nha từ lâu đã tiến hành chiến tranh với những người Mô, nhằm chiếm nốt phần còn lại của đất nước họ như đã từng chiếm Malaga, bắt nước họ nhập đạo Cơ đốc, và dùng máu và lửa để gột họ khỏi các thứ đạo đáng nguyền rủa khác.
- Vâng, ở nước Anh chúng tôi cũng được nghe điều ấy, - Caxten nói, - vì tôi là thương gia, buôn bán với Granađa, nên thường có việc tới đây.
- Thế tiểu thư mà ông nói là con gái ông, tơi Granađa để làm gì? Còn trận đánh giữa tàu "Xanh Antôniô" và chiếc tàu Anh chúng tôi nhìn thấy hôm qua trên bờ biển mà các thuỷ thủ kể lại là trận đánh nào vậy? Và bằng cách nào mà gió lại có thể làm cắm mũi tên vào tay ông được, ông bạn lái buôn thân mến của tôi? Và tại sao chỉ các ông là bị bỏ rơi trên tàu, trong khi ông hầu tước và người khác lên bờ được?
- Thưa cha, cha hỏi quá nhiều đấy ạ. Pitơ, rót vào đây một cốt nữa cho cha đi, chứ cha chẳng chịu uống gì cả. Cứ ở đây bao giờ cũng là tuần chay không bằng! Nào mừng sức khoẻ của cha! Thế, tốt lắm! Rót nữa đi, Pitơ, nào đưa chai rượu đây cho ta. Bây giờ tôi sẽ trả lời tất cả các câu hỏi của cha và kể về vụ đắm tàu vừa qua.
Rồi Caxten bắt đầu nói tràng giang đại hải về những cơn gió, những con sóng, những ngọn núi đá, những cánh buồm bị gãy, và về việc chiếc tàu Anh đã tìm cách giúp đỡ tàu "Xanh Antôniô" như thế nào..., cho đến khi cuối cùng ông linh mục quay ra ngã xuống ngủ say, sau khi liên tục uống hết cốc này đến cốc khác do Pitơ rót.
- Bây giờ thì chúng ta nên đi nằm. - Pitơ khẽ nói với Caxten bằng tiếng Anh. - Chúng ta đã moi được khá nhiều tin ở cái thằng thám báo mặc áo linh mục này, - con nghĩ hắn đúng là một tên như vậy - mà ta hầu như chẳng phải nói gì cả.
Họ lặng lẽ đi về phòng mình, uống thứ nước do ông thợ cạo để lại, mỗi người cầu Chúa theo một cách, đóng cửa rồi nằm xuống ngủ, chừng nào các vết thương và những ý nghĩ nặng nề cho phép họ.

Chương XIII
CHUYỆN XẢY RA Ở QUÁN TRỌ
Pitơ trằn trọc không ngủ được. Dù được ông thợ cạo băng bó, vết thương vẫn đau nhức nhối. Ngoài ra chàng rất lo lắng vì nghĩ Macgaret tin rằng họ đã chết, và chàng đang đau khổ. Và thiếp đi, chàng đã mơ thấy nàng khóc, nước mắt giàn giụa.
Khi những tia nắng đầu tiên lọt vào phòng qua các chấn song cửa sổ trên cao. Pitơ liền choàng dậy và đánh thức Caxten: nếu không giúp nhau, cả hai không tự mặc quần áo được. Nghe tiếng ồn ào ngoài sân, họ đoán đấy là ông thợ cạo và những con la của mình đã tới. Họ mở cửa đi ra, gặp người hầu gái đang ngái ngủ ngoài hành lang và yêu cầu bà ta cho ra khỏi nhà.
Quả đúng ông thợ cạo đến thật, và cùng ông ta là một gã thanh niên chột mắt cưỡi con ngựa nhỏ. Ông thợ cạo nói anh chàng này sẽ dẫn họ tới Granađa. Ông thợ cạo dùng Pitơ và Caxten quay vào nhà. Ông ta xem lại các vết thương của họ, và lắc đầu khi nhìn thấy vết thương của Pitơ. Ông ta nói đáng lẽ chàng không nên vội lên đường như thế. Sau đó họ lại mặc cả nhau về đôi la, chiếc xe và những cái túi họ dùng để đựng đồ, về tiền công cho người dẫn đường... vì Pitơ và Caxten sợ để lộ ra rằng họ có tiền. Cuối cùng mọi việc đã được thu xếp xong xuôi, và vì ông chủ của họ, cha Enrikê,  còn chưa thấy xuất hiện, nên họ quyết định cứ ra đi mà không cần chia tay với ông ta. Họ để lại một số tiền để cảm ơn lòng hiếu khách, và cũng để làm quà cho nhà thờ của ông ta. Nhưng đúng vào lúc họ đang đưa tiền cho người hầu gái thì ông linh mục đi vào. Ông ta chưa cạo râu, một tay ôm đầu. Ông ta nói rằng ông ta vừa làm lễ Mét ở nhà thờ - đó là một điều giả dối hoàn toàn - và hỏi phải chăng họ định ra đi thật.
Caxten và Pitơ gật đầu rồi đưa tiền cho ông ta. Không suy nghĩ nhiều, ông ta nhận ngay, và hình như sự hào phóng của khách làm ông ta càng có ý muốn giữ họ lại thêm. Ông ta nói như thể rằng họ đang còn yếu chưa thể làm một cuộc hành trình khó khăn như thế được, rằng đường đi không phải không nguy hiểm, rằng họ có thể bị người Mô bắt và giam dưới đất cùng những tù nhân theo đạo Thiên Chúa khác, vì không ai có thể lọt vào Granađa v.v... Nhưng Pitơ và Caxten vẫn một mực không chịu thay đổi ý định. Họ nhận thấy khi nghe những lời này, ông linh mục tỏ ra lo lắng, và cuối cùng nói rằng vì họ, ông ta có thể gặp chuyện phiền phức với hầu tước Môrela. Phiền phức như thế nào và vì sao thì thì ông ta không nói, nhưng Pitơ đoán ông ta sợ họ sẽ kể cho Môrela biết ông ta đã tham gia cướp con tàu mà hắn cho là đã chìm, và đang giữ các đồ trang sức của hắn. Cuối cùng, khi thấy cha Enrikê có thể làm bất cứ điều gì để giữ khách lại, họ liền gặt ông ta ra, nhảy lên lưng là rồi lên đường cùng gã thanh niên chột mắt.
Một hồi lâu họ còn nghe sau lưng tiếng ông ta giận dữ nguyền rủa ông thợ cạo đã bán la cho họ. Họ còn nghe rời rạc các câu: “Thám báo...” “các tiểu thư người Anh...”, “lệnh của hầu tước...”. Họ rất mừng khi vượt khỏi khu làng trong đó các đường ngõ rất ít người, và bây giờ, không còn bị ai quấy rầy nữa, họ đang đi trên con đường dẫn tới Granađa.
Họ khó có thể gọi chủ nghĩa đường này là tốt được, thêm vào đó, nó lại nhiều dốc, khi lên khi xuống. Mà đôi la thì lại còn tồi tệ hơn họ tưởng. Con Pitơ  cưỡi luôn vấp, suýt ngã. Họ hỏi gã thanh niên dẫn đường mất bao lâu thì có thể tới được Granađa, nhưng chỉ được nghe đáp lại:
- Ai mà biết được. Tất cả đều thuộc vào ý Chúa.
Một giờ sau họ lại hỏi một lần nữa, và lần này thì anh ta đáp:
- Có thể chiều hôm nay, có thể ngày  mai, mà cũng có thể chẳng bao giờ. Dọc đường đi có nhiều cướp lắm, và nếu khách bộ hành gặp may không rơi vào tay cướp, thì có lẽ họ cũng bị người Mô bắt.
- Con nghĩ một trong những tên cướp ấy đang ở cạnh ta. - Vừa nói bằng tiếng Anh, Pitơ liếc nhìn khuôn mặt gớm ghiếc của gã dẫn đường, rồi nói thêm bằng tiếng Tây Ban Nha bồi: - Này anh bạn, nếu chúng ta gặp cướp hay gặp bọn người Mô, thì người đầu tiên sang thế giới bên kia sẽ là anh. - Rồi chàng vỗ vỗ vào chuôi kiếm của mình.
Để đáp lại, gã dẫn đường lầu bầu một câu chửi gì đấy bằng tiếng Tây Ban Nha rồi quay ngựa như thể định trở lại Môtrin, nhưng liền sau đó hắn nghĩ lại rồi phi nhanh về phía trước. Trong suốt mấy giờ liền họ không đuổi kịp hắn.
Đường đi xấu, và đôi là yếu đến mức mặc dù họ đi suốt ngày không nghỉ, mặt trời vẫn lặn trước khi họ tới đỉnh Xiêra. Rất xa trước mặt họ nhìn thấy các nóc nhà thờ đạo Hồi và các cung điện Granađa đang chìm trong những tia nắng hoàng hôn. Pitơ và Caxten muốn đi tiếp, nhưng gã dẫn đường thề và nói rằng đi trong bóng tối họ sẽ rơi xuống vực trước khi tới được đồng bằng. Hắn còn nói rằng cách đây không xa có một  nhà nghỉ, hay nói một cách khác là một quán trọ nơi họ có thể nghỉ chờ tới sáng hôm sau.
Khi Caxten tuyên bố rằng họ không muốn tới quán trọ, thì gã dẫn đường nói họ không còn cách nào khác, vì thực phẩm đã hết, vả lại nếu ở đây, sẽ không kiếm được thức ăn cho la. Không biết làm gì hơn, ho đành phải miễn cưỡng đồng ý, vì biết nế không cho la ăn, họ sẽ chẳng bao giờ tới được Granađa. Trong lúc đó gã dẫn đường chỉ vào một ngôi nhà nhỏ đứng chơ vơ giữa một khu rừng thưa, cách đường khoảng một trăm bước, và nói rằng hắn phải báo cho người ta biết họ đã tới. Rồi hắn phóng ngựa đi.
Khi tới một quán trọ được bao bọc xung quanh bởi một bức tường lớn, có lẽ nhằm mục đích tự vệ, Caxten và Pitơ nhìn thấy gã dẫn đường chột mắt đang nói điều gì đấy, vẻ hết sức nghiêm túc với một người to béo có bề ngoài  gớm ghiếc, bên hông đeo một con dao găm lớn. Lão béo kia cúi chào, đi về phía họ và nói rằng lão là chủ ở đây. Lão đồng ý cho họ ăn và ngủ lại qua đêm.
Caxten và Pitơ vừa vào tới sân thì lão khóa ngay cổng lại, nói là để khỏi bị bọn cướp tấn công. Họ gặp may, lão nói thêm, vì đã vào được chỗ này, nơi có thể yên ngủ tới sáng. Sau đó một người Mô xuất hiện. Hắn dẫn đôi la vào chuồng, còn chủ quán thì dẫn khách tới tới một căn phòng lớn trần thấp, nơi có mấy người có bộ mặt thô lỗ và độc ác đang ngồi quanh bàn. Bọn người này đang uống rượu. Tới đây chủ quán bỗng đòi họ phải đưa tiền trước, viện cớ rằng lão không tin những người lạ mặt. Pitơ định cãi lại nhưng Caxten nghĩ nên đồng ý thì hơn, và ông bắt đầu cởi áo để lấy tiền. Các túi đều rỗng, vì số tiền còn lại không giấu ông đã tiêu hết ở Môtrin.
Tay phải của Caxten vẫn chưa cử động được nên ông moi tiền bằng tay trái, nhưng vì vụng về nên đã để một đồng đupblôn vàng tuột ra, rơi xuống đất. Quên chưa buộc lại thắt lưng, Caxten cúi xuống nhặt và một lúc hai mươi đồng tiền vàng cùng rơi xuống. Pitơ nhận thấy lão chủ quán và những người đang ngồi trong phòng liếc mắt nhìn nhau đầy ý nghĩa. Tuy nhiên chúng cũng dậy nhặt giúp những đồng tiền bị rơi. Lão chủ đưa tiền lại cho Caxten và nhăn nhó mỉm cười nói rằng giá biết khách giầu như thế, lão sẽ đòi nhiều hơn.
- ồ không, chúng tôi không giàu đâu, - Caxten nói. - Đó là tất cả những gì chúng tôi có.
Nhưng đúng lúc ông nói những lời ấy, thì một đồng tiền vàng nữa, lần này là một đồng đupblôn lớn đâu đó trong áo, rơi xuống đất...
- Tất nhiên, thưa ông, - lão chủ nói, cúi xuống nhặt đồng tiền và niềm nở trao lại cho ông. - Tuy thế, ông cứ giũ người một lần nữa, có thể trong áo ông còn dính một hai đồng vàng nữa cũng nên.
Caxten làm theo, và lúc này những đồng tiền vàng giấu trong thắt lưng, do còn lại ít hơn, nên va vào nhau kêu lanh canh. Những người có mặt trong phòng mỉm cười, còn chủ quán thì chúc mừng Caxten đang ở trong mộtngôi nhà tử tế, chứ không phải đang đi trong túi để làm mồi cho những người xấu.
Làm ra vẻ như không có chuyện gì xảy ra, Caxten giấu tiền rồi buộc chặt thắt lưng lại. Sau đó ông và Pitơ ngồi riêng về một phía rồi yêu cầu cho họ ăn tối. Chủ quán sai người hầu mang thức ăn tới, còn lão thì ngồi cạnh họ và bắt đầu hỏi chuyện. Từ những câu lão hỏi, có thể biết là gã dẫn đường đã kịp để cho lão nghe tất cả mọi chuyện.
- Ai nói cho ông biết chuyện đắm tàu? - Thay cho câu trả lời, Caxten hỏi.
- Ai à? Người của hầu tước Môrela. Hôm qua, khi hầu tước cùng hai tiểu thư đi về Granađa, họ đã dừng lại đây và uống mỗi người một cốc rượu. Ông hầu tước có nói rằng tàu Xanh Antôniô chìm, nhưng không chắc gì tới chuyện các ông con ở lại trên tàu.
- Nếu thế thì thưa ông, vì chuyện của chúng tôi chẳng có gì đáng làm ông quan tâm, xin ông cho phép chúng tôi cũng không phải nói gì cả, vì chúng tôi đã quá mệt và đang muốn nghỉ.
- Tất nhiên, thưa ông, tất nhiên - lao chủ xin xoe nói. - Để tôi giục bọn chúng mang thức ăn lên, và cả một chai  rượu Granađa nữa, cho xứng với cương vị của ông.
Lão  bỏ đi, và một chốc sau bữa ăn đã được bê lên, gồm có món nóng khá ngon và rượu nho đựng trong một chiếc bình sành. Vừa rót rượu vào cốc cho khách, lão chủ vừa nói rằng chính lão đã đổ rượu từ chai vào bình để khỏi cặn.
Caxten cảm ơn lão rồi đề nghị cùng uống một cốc để chúc cho chuyến đi của họ gặp may mắn, nhưng lão từ chỗi, nói hôm nay là ngày ăn chay của lão và lão đã thề chỉ uống nước lã. Lúc ấy Pitơ từ nãy tới giờ không nói một lời nào nhưng đã kịp nhìn thấy nhiều đều, liền ghé cốc vào môi, chép miệng như thể uống thử, rồi khẽ nói với Caxten bằng tiếng Anh:
- Đừng uống, có thuốc độc!
- Con trai của ông gì thế? - Lão chủ quán hỏi.
- Nó nói rằng rượu của ông ngon tuyệt, nhưng vừa chợt nhớ rằng ông thấy thuốc ở Môtrin đã cấm uống rượu, nếu chúng tôi muốn các vết thương do vụ đắm tầu gây nên chóng khỏi. Nhưng cũng đừng để bình rượu này bỏ phí vô ích, ông hãy đem mời các bạn của ông, còn chúng tôi thì uống thứ khác cũng được.
Vừa nói thế, Caxten vừa cấm lấy bình đựng nước đặt trên bàn, rót một cốc to, uống cạn, rồi đưa bình cho Pitơ. Lão chủ quán nhìn họ với vẻ bực mình không giấu diếm.
Sau đó Caxten đứng dậy rồi lịch sự đưa chiếc bình đựng rượu với hai cốc đã rót đầy cho những người đàn ông ngồi bàn bên, nói rằng sẽ rất tiếc nếu họ không được nếm thử thứ rượu tuyệt vời này. Trong số những người ấy ngẫu nhiên có gã chột dẫn đường, - hắn vừa tới đây sau khi cho la ăn xong. Rồi hắn và một thằng ngồi bên vui vẻ cầm lấy những chiếc cốc đã rót đầy rượu và uống sạch. Lúc ấy lão chủ quán liền chửi thề, giật lấy bình rượu rồi biến mất.
Caxten và Pitơ bắt đầu ăn món nóng. Họ thấy  những người ngồi cạnh và cả lão chủ vừa quay lại cũng ngồi xuống ăn thứ thịt tương tự. Pitơ có cảm giác rằng lão chủ đang lo lắng theo dõi hai người đã uống rượu. Bỗng một trong hai người đó đứng dậy khỏi bàn, và vừa đi được mấy bước tới chiếc ghế dài đặt ở cuối phòng đối diện, hắn lặng lẽ gục xuống đất. Trong khi đấy thì hai tay thằng chột bất lực buông thõng xuống, và hắn gục xỉu xuống bàn, úp mặt vào chiếc đĩa không. Lão chủ quán liền nhỏm dậy, nhưng rồi dừng lại vẻ lưỡng lự. Thấy thế, Caxten cũng đứng dậy, nói có lẽ người dẫn đường tội nghiệp của ông đi mệt, nên nếu có thể, nhờ ông chủ làm ơn dẫn họ vào căn phòng được dành riêng cho họ.
Lão chủ quán vội vàng gật đầu - rõ ràng là lão muốn họ ra khỏi phòng càng sớm càng tốt, vả lại những khách trọ khác lúc ấy đã nhìn thấy những gì xảy ra với gã dẫn đường cùng bạn hắn, và đang thì thầm bàn tán với nhau.
- Vâng, xin mời các ông đi hướng này. - Lão nói rồi dẫn họ vào góc phòng nơi có chiếc cầu thang.
Tay cầm đèn bước lên theo cầu thang, lão chủ quán nâng tấm ván che rồi mời họ lên tầng trên. Caxten  leo lên còn Pitơ thì ngoái lại, chúc cả đám người đang nhìn theo họ ngủ ngon. Vừa nói, như thể ngẫu nhiên, chàng vừa rút phần nửa thanh kiếm của mình ra khỏi vỏ. Sau đó chàng leo lên theo chủ quán và Caxten, và thế là họ trên tầng gác.
Đó là một căn phòng nhỏ bé bỏ trống, đồ gỗ duy nhất chỉ có hai chiếc ghế và hai chiếc giường đóng một cách thô thiển, không có gối, được đặt cách nhau hơn một mét, dọc theo một bức tường ngăn bằng gỗ ván, có lẽ để ngăn với phòng bên. Gần sát nóc nhà là một lỗ hổng có che một chiếc bao tải, làm cửa sổ.
- Chúng tôi là những người nghèo, - lão chủ quán nói khi họ đưa mắt nhìn quanh căn gác tồi tàn, - nhưng nhiều bậc quý phái đã ngủ ở đây một cách ngon lành. Hi vọng các ông cũng thế. - Rồi lão quay xuống cầu thang.
- Không sao - Caxten nói. - Có điều nhờ ông nói với người của ông để họ không đóng cửa chuồng ngựa, vì rạng sáng mai chúng tôi đã ra đi, và xin ông để đèn lại đây cho chúng tôi.
- Tôi không thể để đèn ở đây được, - lão chủ quán bực mình lầu bầu, một chân lão đã đặt lên cầu thang.
Pitơ bước lại gần lão, rồi một tay túm chặt tay lão tay kia giành lấy chiếc đèn. Lão chủ quán chửi rồi đưa tay lần thắt lưng, có lẽ tìm dao găm, nhưng Pitơ bóp đau quá, làm lão buông tay, và chiếc đèn nằm trong tay Pitơ. Lão đang định dành lại  đèn thì mất thăng bằng, lăn theo cầu thang và phịch xuống đất.
Từ phía trên, Pitơ và Caxten nhìn thấy lão lồm cồm bò dậy, nguyền rủa họ, và vừa giơ nắm đấm dọa, lão vừa thề sẽ trả thù chuyện này. Pitơ đóng nắp cầu thang lại. Thì ra chiếc nắp này được đính một cách sơ sài vào sàn nhà, và không có then cài, dù có lỗ. Pitơ nhìn quanh tìm gậy hay một đoạn gỗ nào đấy để thay then cho vào lỗ, nhưng không thấy. Rồi chàng bỗng nhớ tới đoạn dây thừng chàng đang có trong túi quần dùng để buộc hai chiếc túi xách. Chàng lấy dây cột chặt nắp cầu thang lại. Bây giờ thì không thể nâng nó lên quá sàn nhà một vài centimet. Nhưng liền lúc ấy Pitơ chợt nghĩ rằng nếu khẽ nhấc nắp cầu thang lên thì qua kẽ hở có thể dùng dao cắt đứt dây thừng nên chàng lấy một chiếc ghế đặt hai chân ghế lên nắp cầu thang. Sau đó chàng nói với Caxten:
- Chúng ta như những con chim đã bị rơi vào bẫy. Nhưng trước khi xoắn cổ ta, chũng cũng phải chui vào chiếc bẫy đó. Thuốc độc đã được bỏ vào rượu. Nếu có thể, chúng sẽ giết ta để lấy tiền hoặc giao cho thằng cột dẫn đường làm điều đó. Đêm nay ta không ngủ thì hơn.
- Bố cũng nghĩ thế. - Caxten nói, giọng lo lắng. - Này hãy lắng nghe chúng nói gì phía dưới.
Quả thật từ phía dưới đang có tiếng nói vọng lên, hình như là tiếng cãi nhau, nhưng một chốc sau thì im dần. Khi tất cả im lặng, pitơ và Caxten chăm chú quan sát căn gác xép nhưng không phát hiện thấy  điều gì khả nghi. Pitơ nhìn lên cái lỗ hổng thay thế cửa sổ, thấy nó đủ rộng để một người chui qua, liền định kéo chiếc giường về phía nó. Chàng nghĩ nếu có ai chui qua cửa sổ để vào phòng, thì sẽ rơi thẳng vào tay chàng. Nhưng chàng liền nhận thấy giường đã được dính chặt vào sàn không thể xê dịch nổi. Không biết làm gì hơn, hai người ngồi xuống hai giường với thanh kiếm tuốt trần trong tay và chờ đợi. Thời gian cứ thế trôi qua.
Cuối cùng chiếc đèn từ lầu đã phụt phụt, bốc khói rồi tắt hẳn. Hết dầu. Thế là cả hai chìm trong bóng tối. Nguồn sáng duy nhất còn lại là chiếc cửa sổ mà họ đã lột bỏ chiếc bao tải che.
Một lúc sau họ nghe tiếng vó ngựa, tiếng cửa mở và đóng lại phía dưới và tiếng nói chuyện với nhau. Trong số những giọng nói họ đã nghe trước đấy lần này họ nghe một giọng nói khác mà Pitơ cảm thấy quen quen.
- Con đã nhận ra nó, - Pitơ khẽ nói với Caxten.- Đó là cha Enrikê. Ông ta tới đây để biết khách của mình ăn ngủ thế nào.
Nửa giờ nữa trôi qua, vầng trăng nhợt nhạt nhô lên dọi vào phòng những tia sáng yếu ớt. Lại lần nữa nghe có tiếng vó ngựa. Pitơ bước lại  gần cửa sổ. Phía dưới, lão chủ quán đang giữ dây cương một con ngựa tuyệt đẹp. Sau đó một người bước lại, nhảy lên yên, lão nói với ông ta điều gì đấy, và khi người ấy ngẩng đầu, Pitơ nhận ra đó là cha Enrikê. Lão chủ quán và cha Enrikê còn thì thào vưói nhau một chốc nữa, rồi cha Enrikê cảm ơn lão và ra đi. Pitơ và Caxten lại nghe có tiếng khóa cổng.
- Ông ta lên đường tới Granađa để báo cho ông chủ Môrela của mình biết chúng ta đang đi tới đấy, - Caxten nói sau khi họ lại ngồi xuống giường. - Cũng có thể để báo với hắn rằng chúng ta sẽ không bao giờ có thể tới Granađa. Nhưng dù sao ông ta cũng không làm gì được ta.
Thời gian trôi qua một cách vô cùng chậm chạp, và do quá mệt mỏi, Caxten ngả xuống giường, ngủ thiếp đi. Bỗng nhiên chiếc ghế đặt trên nắp cầu thang ngã ầm một tiếng. Caxten vội nhỏm dậy nhìn Pitơ.
- Đó chỉ là một con chuột, - Pitơ đáp, không muốn nói lộ sự thật cho ông biết.
Chàng lặng lẽ đi lại gần chiếc nắp cầu thang, sờ dây thừng - nó còn nguyên - và lại đặt ghế vào chỗ cũ. Làm xong điều ấy, Pitơ quay lại giường rồi nằm phịch xuống như thể chuẩn bị đi ngủ, mặc dù hơn lúc nào hết, chàng đang rất tỉnh táo. Trong lúc ấy sự mệt mỏi lại làm Caxten ngủ thiếp đi.
Xung quanh im ắng, chỉ một lần có cái gì đấy che khuất ánh trăng và trong giây lát Pitơ có cảm giác như chàng nhìn thấy một khuôn mặt xuất hiện trên cửa sổ, nhưng nó liền biến mất và sau không thấy nữa. Nhưng bây giờ chàng nghe có tiếng động rất khẽ nào đấy, như tiếng ai nín thở, chân trần đi dọc giường Caxten. Sau đó là một tiếng rít khẽ và tiếng sột soạt trên tường như tiếng chuột cào, và bỗng một bàn tay để trần cầm dao găm thò qua bức tường chắn bằng gỗ, đúng vào chỗ mà anh trăng dọi tới.
Trong một giây, mũi dao găm treo lơ lửng trên ngực của Caxten đang ngủ say - vâng, điều này chỉ kéo dài một giây, vì giây sau Pitơ đã chồm dậy, vớ lấy thanh kiếm đang nằm sẵn sàng cạnh chàng, rồi chém một nhát đứt hẳn cánh tay ấy.
- Có chuyện gì thế? - Caxten hỏi khi thấy có vật gì rơi cạnh ông.
- Rắn! - Pitơ đáp. - Rắn độc. Bố hãy tỉnh dậy mà xem!
Caxten nhỏm dậy, lặng lẽ nhìn cánh tay ghê tởm vẫn còn nắm chặt dao găm. Bên kia bức tường ngăn nghe tiếng rên khe khẽ, và tiếng những bước chân nặng nề đang xa dần.
- Thế đấy! - Pitơ nói - Phải đi thôi, nếu không ta sẽ phải ở lại đây suốt đời. Lát nữa cái thằng ấy sẽ quay lại đây tìm chiếc tay bị chặt đứt của hắn.
- Đi à? - Caxten hỏi.
- Nhưng đi bằng cách nào? Hình như chúng ta chỉ còn lại một con đường duy nhất và rất nguy hiểm, đó là chui qua cửa sổ rồi vọt ra ngoài đường, - Pitơ đáp. - Kìa, chúng đang tới đấy.
Chàng chưa kịp nói xong thì đã nghe có tiếng ai đang bước lên cầu thang.
Không có thằng nào đứng gác dưới cửa sổ,mà mặt đất chỉ cách không hơn ba mét. Pitơ giúp Caxten chui ra, giữ lấy cánh tay lành của ông rồi cố đưa ông xuống càng thấp càng tốt. Caxten nhảy xuống, đứng không vững và ngã xuống đất, nhưng liền đứng dậy được. Pitơ đang định nhảy theo ông thì đúng lúc ấy nghe có tiếng ghế đổ, chàng quay lại và thấy nắp chiếc cầu thang đã bị bật tung. Chúng đã cắt đứt dây thừng.
Trong ánh sáng mờ mờ hiện rõ hình một người cầm dao găm trong tay. Tiếp đến là một người khác. Bây giờ thì Pitơ không còn có thể trốn qua cửa sổ được nữa, vì làm thế, chàng sẽ bị đâm vào lưng. Chàng cầm chặt kiếm bằng cả hai tay của mình rồi nhảy vào đối thủ. Có lẽ mũi kiếm đâm trúng đích, vì tên kia ngã xuống sàn và không thấy động đậy vì nữa. Lúc ấy tên thứ ai đã chống gối lên gờ của nắp cầu thang. Chàng đâm tiếp một nhát nữa và hắn lộn cổ xuống, rơi lên đầu những thằng đang đứng phía dưới. Chiếc cầu thang cũng đổ theo. Và thế là những kẻ tấn công bị dồn vào một cục trên nền nhà. Chỉ một tên bám tay được vào miệng cầu thang. Pitơ đóng sập cửa lại, hắn kêu lên một tiếng man dại rồi rơi xuống đất. Vì chẳng còn gì hơn, Pitơ liền lấy xác của tên bị giết chết chặn lên nắp cầu thang.
Sau đó chàng chạy tới cửa sổ, vừa chạy vừa đút kiếm vào vở, chui ra ngoài, bám tay đu đưa rồi nhảy xuống. Chàng chạm đất một cách anh toàn, vì chàng là một người khá nhanh nhẹn, vả lại do hồi hộp, lúc ấy chàng hoàn toàn không cảm thấy cái đau ở đầu và vai.
- Đi đâu bấy giờ? - Caxten hỏi khi Pitơ đứng trước ông và đang hổn hển thở.
- Vào chuồng lấy la... mà không, làm thế chỉ vô ích vì ta không có thời gian để mắc yên vào lưng chúng. Vả lại, cổng bị đóng chặt. Chạy lại phía tường, nhanh lên! Ta phải trèo qua nó mà thoát ra. Chỉ một phút nữa chúng sẽ tới đây.
Pitơ và Caxten chạy bổ lại bức tường, và rất mừng khi thấy bức tường dù cao gần ba mét nhưng được xây dựng bằng những tảng đá lớn nên có thể bám vào mà leo lên được.
Pitơ leo lên đầu tiên, nằm ngang qua bức tường, chìa tay cho Caxten rồi vất vả kéo ông lên, vì người ông vốn nặng lại đang bị thương. Đúng lúc ấy họ nghe có tiếng ai đó đang kêu to từ phía gác xép:
- Những thằng quỷ Anh trốn rồi! Chạy ngay tới cổng bắt chúng lại!
Caxten và Pitơ nhảy xuống, hay nói đúng hơn là bị rơi thẳng từ trên tường vào bụi gai. Bụi gai làm họ đỡ va mạnh vào nền đất, nhưng gai châm vào khắp người làm họ đau đến suýt kêu lên. Tuy nhiên, bằng cách nào đấy họ cũng thoát ra được, và khắp người bị gai đâm chảy máu, họ lần ra tới đường và cắm cổ chạy về phía Granađa.
Chạy chưa được một trăm mét, họ đã nghe sau lưng có tiếng người kêu, và hiểu rằng họ đang bị đuổi theo. Vừa đúng chỗ ấy con đường cắt ngang qua một thung lũng mọc đầy bụi rậm và ngổn ngang những hòn đá lớn. Sau thung lũng là một khoảng rộng trống trải. Pitơ vội kéo Caxten về phía thung lũng. Tại đây họ tìm thấy một chỗ kín sau tảng đá lớn, giống như một chiếc hang nhỏ mọc đầy bụi rậm và cỏ tốt um tùm. Họ trốn vào đấy và nín thở chờ đợi.
- Bố hãy tuốt kiếm ra, - Pitơ nói với Caxten. - Nếu bị chúng tìm thấy, ta phải bắt chúng trả giá mạng sống chúng ta một cách đắt nhất.
Caxten nghe theo và kiếm vào tay trái của mình.
Họ nghe bọn cướp chạy dọc theo đường cái, rồi sau đó không tìm thấy gì lại quay lại và bắt đầu tìm kiếm khắp thung lũng. Chiếc hang nhỏ tối om vì ánh trăng hầu như không lọt vào được, nên chúng không tìm thấy họ. Có hai đứa đứng cạnh họ chỉ năm bước, một đứa nói có lẽ những con lợn kia đang trốn trong sân hay đã chạy trở về Môtrin.
- Tớ không biết chúng trốn ở đâu, - tên kia đáp, - nhưng công việc chẳng ra quái gì cả. Lão béo Pêđrô bị chặt đứt một cánh tay và có lẽ bị chảy hết máu. Hai thằng khác thì đã chết hoặc đang chết. Cái tên người Anh chân dài kia chém khỏe thật, - đấy là chưa kể hai đứa uống phải rượu có thuốc độc. Có lẽ chúng cũng sẽ chẳng bao giờ tỉnh dậy nữa. Mà tất cả những điều ấy chỉ vì mấy đồng tiền vàng và để chiều ý lão linh mục. Nhưng dù sao, nếu bắt được những con lợn kia, nhất định tao sẽ..., - hắn nói một lời đe dọa thật khủng khiếp. - Tao nghĩ là tốt nhất cứ nằm chờ sẵn ở lối ra khỏi thung lũng để đề phòng trường hợp chúng đang trốn ở đây.
Pitơ nghe rõ toàn bộ câu chuyện này. Nhưng tên cướp khác đã bỏ đi. Chàng đang rất tức giận, vả lại chàng bị bụi gai đâm đau quá. Không nói một lời nào, chàng nhảy ra khỏi hang, tay cầm chặt thanh kiếm đáng sợ của mình.
Hai tên kia thấy chàng liền kêu lên kinh sợ. Đối với một thằng đó là tiếng kêu cuối cùng trong đời. Thằng còn lại thì cắm cổ bỏ chạy.
Đó chính là thằng đã đe dọa trừng trị họ một cách khủng khiếp nhất.
- Đứng lại! - Pitơ quát to khi gần đuổi kịp hắn. - Đứng lại và làm cái điều mày định làm đi?
Hắn quay lại rồi van xin tha chết, nhưng Pitơ nhất thiết không nghe.
- Buộc phải làm thế, - Pitơ nói với Caxten. - Bố đã nghe chúng nói rằng chúng sẽ rình ta chứ?
- Bố nghĩ từ nay chắc chúng không còn bao giờ muốn tấn công một người Anh nào ở cái quán trọ kia nữa, - Caxten vừa hổn hển nói, vừa đuổi theo Pitơ.

Chương XIV
INEX VÀ KHU VƯỜN CỦA NÀNG
S
uốt hai giờ liền Giôn Caxten và Pitơ lần mò đi theo con đường dẫn tới Granađa. Những nơi đường phẳng họ chạy, và đi những nơi đường xấu. Thỉnh thoảng họ dừng lại để nghỉ lấy hơi và lắng nghe xung quanh. Tuy nhiên đêm vẫn yên tĩnh - có lẽ không còn ai đuổi theo họ nữa. Chắc những tên cướp sống sót đã đi về hướng khác, hay cho rằng câu chuyện mạo hiểm này như thế quá đủ đối với chúng, và chúng không còn muốn dính líu gì với mũi kiếm của Pitơ nữa.
Cuối cùng bình minh đã hé rạng trên khu đồng bằng rộng lớn bị sương mù bao phủ. Mặt trời lên xua tan sương, và họ đã nhìn thấy thành phố Granađa trên một ngọn đồi cách khoảng mười hai dặm trước mặt. Họ nhìn nhau và thấy mình thật thảm hại: người nào cũng bị gai châm toàn thân, máu bê bết. Pitơ đầu trần, vì càng đã để mất mũ. Lúc này, khi cơn hăng không còn nữa, chàng cảm thấy rất đau đớn, mỏi mệt và muốn ngủ. Ngoài ra mặt trời cũng bắt đầu thiêu nóng, đến nỗi Pitơ suýt ngất đi. Họ lấy cỏ kết thành một cái đội thay mũ. Đội nó lên đầu, trông Pitơ thật kì dị, đến nỗi gặp chàng, mấy người Mô tưởng chàng là một thằng điên nên đã cắm cổ bỏ chạy.
Pitơ và Caxten tiếp tục đi, một giờ không hơn một dặm, chốc chốc lại uống nước ở những hố mương gặp dọc đường. Đến giữa trưa thì không chịu được cái nóng nữa. Họ buộc phải nằm xuống nghỉ dưới bóng một cây gì đó như cây cọ, và ở đây, hoàn toàn mỏi mệt họ đã ngủ say như chết.
Họ chợt thức vì nghe có tiếng người nói và chồm đứng dậy, tay rút kiếm khỏi vỏ. Họ nghĩ đó là bọn cướp đã đuổi kịp họ. Tuy nhiên, thay cho những khuôn mặt gớm ghiếc của bọn giết người, lúc này họ thấy trước họ tám người Mô đang cưỡi những con ngựa trắng tuyệt đẹp, và mặc những chiếc áo khoác bay phấp phới mà xưa nay Pitơ chưa hề thấy. Những người Mô này nhìn họ với vẻ bình tĩnh, và có lẽ không phải không có phần thương hại.
- Các ông hãy cho kiếm vào vỏ đi, - người cầm đầu cả toán nói bằng tiếng Anh rất thông thạo. - Có vẻ như ông ta là một người Tây Ban Nha mặc quần áo phương Đông. - Chúng tôi đông, các ông chỉ hai người, mà lại đang bị thương.
Không biết làm gì khác, Pitơ và Caxten đành nghe theo.
- Xin các ông hãy cho chúng tôi biết, mặc dù không  cần phải  hỏi mới biết được, rằng các ông có phải là hai người Anh bị bỏ rơi trên tàu Xanh Antôniô và  đã thoát chết lên bờ khi tàu chìm hay không? - Người kia hỏi tiếp.
Caxten gật đầu:
- Chúng tôi ở trên ấy để tìm...
- Các ông tìm gì không quan trọng, - Người trưởng toán ngắt lời ông. - Họ tên của các tiểu thư đáng kính không được nhắc đến khi có mặt người lạ. Nhưng sau đấy các ông lại gặp tai họa ở quán trọ, nơi xinho cao to đây ra rất dũng cảm. Chúng tôi đã được nghe chuyện này và xin bảy tỏ sự kính trọng của mình đối với một người biết sử dụng kiếm tài giỏi như thế.
- Cảm ơn ông, - Caxten đáp, - nhưng chúng tôi thì liên quan gì tới các ông?
- Thưa ông, ông chủ của chúng tôi, ngài hầu tước Môrela đáng kính cho chúng tôi tới đây để tìm và đưa các ông về Granađa như những vị khách của ngài.
- Nghĩa là ông linh mục đã kể hết mọi chuyện, - Pitơ lầu bầu nói. - Con biết trước rồi mà.
- Chúng tôi yêu cầu các ông đi theo chúng tôi mà không được chống đối, vì chúng tôi không muốn phải dùng sức lực với những người dũng cảm như các ông, - người trưởng toán nói tiếp. - Mời các ông làm ơn ngồi lên những con ngựa này.
- Tôi là một thương gia, - Caxten nói. - Tôi có  nhiều bạn bè ở Granađa. Chúng tôi có thể tới họ được không, nếu không muốn chấp nhận lòng hiếu khách của hầu tước?
- Không, thưa ông, chúng tôi đã có lệnh, và lệnh của hầu tước chủ chúng tôi là luật pháp ở đây, mà luật pháp thì không thể vi phạm được.
- Tôi nghĩ vưa Granađa là Bôapđin, - Caxten nói.
- Tất nhiên, ngài là vua, và theo ý Đức Ala, ngài sẽ còn tiếp tục là vua, nhưng hầu tước là người bà con của ngài, vả lại chừng nào chưa xảy ra chiến tranh thì hầu tước còn là đại sứ của vua và hoàng hậu Tây Ban Nha ở đất nước chúng tôi.
Theo hiệu của trưởng toán, ai người Mô liền vội vã dẫn ngựa của mình tới cho Pitơ và Caxten và mời họ ngồi lên yên.
- Chẳng biết làm gì hơn, - Pitơ nói. - Đành phải đi vậy.
Pitơ và Caxten nhảy lên lưng ngựa một cách khá vụng về, vì cả hai lúc ấy đang rất ốm yếu, và lên đường, với sự tháp tùng của toán lính. Khi họ tới cổng thành Granađa thì trời xế chiều - họ đã ngủ khá lâu dưới gốc cây. Từ các nhà thờ đạo Hồi nghe vọng lại tiếng cầu kinh buổi chiều.
Pitơ chỉ còn nhớ một cách lờ mờ thủ đo của người Mô, khi chàng được toán lính hộ vệ đi ngang qua nó. Những đường phó nhỏ, ngoằn ngoèo, những ngôi nhà trắng cửa sổ có ván bịt kín, các toán đông những người lịch sự và ít lời, mặc những chiếc áo khoác bay phấp phới; những cổng ra vào chóp nhọn có các hình điêu khắc và một tòa nhà đồ sộ, lộng lẫy  như trong chuyện cổ tích được xây trên một ngọn đồi. Vì đau và mệt nên càng khó có thể cảm nhận được điều gì khi đi dọc theo thành phố kì lạ và hùng vĩ này. Trông chàng thật ngộ nghĩnh - một thân hình có hai cẳng chân dài, máu me be bết và đầu đội chiếc mũ bằng cỏ kì dị.
Tuy nhiên không ai cười giễu chàng: Có thể vì dưới cái vỏ ngoài buồn cười ấy người ta vẫn nhận thấy chàng là một chiến binh dũng cảm. Cũng có thể tin đồn về thanh kiếm tài giỏi của chàng ở quán trọ và trên tàu đã bay tới đây. ít ra thì trong thái độ của dân chúng thành phố này có một sự bắt cảm tình với những người theo đạo Thiên Chúa pha lẫn với sự kính trọng đối với kẻ đang gặp nạn.
Cuối cùng, sau một hồi lâu lên dốc, họ đã từng lại trước một toà lâu đài, phía đối diện là một pháo đài khổng lồ  tường đỏ, ngự trị lên tất cả thành phố. Sau này Pitơ biết được đó là Angambra. Giữa lâu đài và pháo đài là một khoảng đất bằng phẳng, rộng lớn. Tòa lâu đài là một công trình đồ sộ nằm dọc theo ba cạnh của một hình tứ giác, có những khu vườn bao bọc. Trong vườn, những cây thông hình chóp nhọn vươn cao những mũi giáo dài của mình lên bầu trời trong xanh. Họ vượt qua rất nhiều cổng, cho đến khi vào một cái sân, nơi có những tên đầy tớ cầm đuốc chạy ra đón. Người thì đỡ Pitơ xuống ngựa, người dẫn chàng đi theo những bậc thang đá trắng, phía dưới là một đài phun nước. Họ đi vào một căn phòng lớn mát mẻ có trần chạm hình điêu khắc. Sau đó chàng không còn nhớ gì nữa.
Thời gian trôi qua, rất nhiều thời gian đã trôi qua - không ít hơn một tháng - trước khi Pitơ mở mắt và lại nhìn thấy thế giới xung quanh. Không thể nói suốt cả thời gian ấy chàng không tỉnh lại lần nào - thỉnh thoảng chàng lại nhận ra căn phòng lớn mát mẻ này và những người đang nói về chàng, đặc biệt là một người phụ nữ mắt đen xinh đẹp, đội khăn trắng luôn nhẹ nhàng đi lại. Hình như người này chăm sóc chàng. Đôi khi chàng tưởng đó là  Macgaret, nhưng dù sao chàng cũng biết rằng không phải thế, vì người đàn bà này giống nàng. Pitơ nhớ là một hai lần chàng đã nhìn thấy khuôn mặt kiêu căng và đẹp đẽ của Môrela cúi xuống đầu chàng; hình như hắn muốn biết liệu chàng có sống nổi không. Pitơ định nhỏm dậy để đánh nhau với hắn, nhưng liền bị một tay phụ nữ mềm mại, trắng trẻo nhưng khỏe mạnh lạ thường giữ lại.
Bây giờ, khi đã trở lại hoàn toàn tỉnh táo, chàng nhìn thấy người phụ nữ ấy đang ngồi cạnh mình. Khuôn mặt nàng được chiếu sáng bởi tia nắng mặt trời xuyên qua ô cửa sổ trên cao. Nàng ngồi yên, tay chống cằm nhìn chàng với vẻ tò mò. Pitơ lên tiếng nói với nàng bằng thứ tiếng Tây Ban Nha sai bét của mình, vì không hiểu do đâu, nhưng chàng biết là nàng không nói được tiếng Anh.
- Cô có phải là Macgaret không? - Chàng nói.
Sự trầm tư lập tức biến khỏi mặt nàng, nàng hoạt bát hẳn lên và đi lại gần chàng. Nàng có một thân hình thật kiều diễm.
- Không, không, - nàng nói, cúi xuống chạm những ngón tay thon nhỏ của mình vào trán chàng. - Tên tôi là Inex. Ông vẫn còn mê sảng, thưa ông.
Inex nào?
- Một Inex bình thường, - nàng đáp Inex, một phụ nữ Granađa. Còn tất cả các điều khác đã bị lãng quên. Inex, một cô gái có nhiệm vụ chăm sóc người ốm.
- Thế thì Macgaret ở đâu, cô Macgaret người Anh ấy?
Pitơ có cảm giác khuôn mặt của người phụ nữ này đầy vẻ bí ẩn, và khi trả lời, giọng nàng đã thay đổi, không còn chân thật nữa. Hay do đầu óc chàng sau cơn bệnh đã trở lên bất bình thường, nghĩ ra như vậy?
- Tôi không biết cô Macgaret người Anh nào cả. Thế ông yêu cô ta à?
- Vâng, - Pitơ đáp. - Người ta đã cướ nàng đi. Nàng còn sống hay đã chết?
- Tôi nói rồi, thưa ông, rằng tôi không biết gì cả. - Rồi giọg nàng trở lại tự nhiên. - Nhưng tôi hiểu rằng ông đang yêu một người nào đấy, qua những lời ông nói trong lúc mê sảng.
Pitơ ngẫm nghĩ một lát. Chàng bắt đầu nhớ lại đôi điều.
- Thế ông Caxten đâu?
- Ông Caxten à? Có phải ông bạn cùng đi với ông, người có cánh tay bị thương và trông giống một tên Do Thái không? Tôi không biết ông ta ở đâu. Có lẽ ở một khu  khác trong thành phố này. Tôi nghĩ người ta đã đưa ông ta tới với bạn bè của mình. Đừng hỏi về những chuyện này, tôi đơn giản chỉ là một người phụ nữ chăm sóc ông. Vừa rồi ông ốm  nặng, thưa ông. Mời ông xem đây! - Rồi Inex đưa cho chàng một chiếc gương nhỏ được làm bằng một tấm bạc đánh bóng, nhưng hiểu chàng quá yếu không cầm nổi, nên nàng đã giơ ngay chiếc gương trước mặt chàng.
Nhìn thấy mình trong gương, Pitơ buồn bã thở dài - Khuôn mặt chàng quá ốm yếu và nhợt nhạt.
- Cũng may mà Macgaret không thấy mình với bộ râu như thế này! - Chàng nói, cố mỉm cười. - Làm sao cô có thể chăm sóc được một người đàn ông khung khiếp như tôi?
- Tôi không thấy ông khủng khiếp - Inex dịu dàng đáp. - Vả lại đây là công việc của tôi. Nhưng ông phải nằm yên nghỉ ngơi, không được nói chuyện. Ông ăn cái này đi rồi nằm nghỉ.
Inex đưa cho chàng món xúp được đựng trong một chiếc bát bằn bạc. Pitơ ăn xúp một cách ngon lành rồi ngủ thiếp đi.
Mấy ngày sau, khi Pitơ đang bình phục lại dần, thì người hầu gái xinh đẹp của chàng lại đến ngồi bên cạnh, và nhìn chàng với đôi mắt phương Đông dịu dàng đầy vẻ thương cảm.
- Có chuyện gì xảy ra thế, Inex? - Thấy cô ta buồn, Pitơ hỏi.
- Thưa ông Pêđrô(1), hôm nọ, khi lần đầu ông tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài, ông có hỏi tôi về một cô Macgaret nào đó, có đúng thế không? Tôi đã hỏi dò về tiểu thư Macgaret ấy, và tôi đang có tin buồn cho ông đây.
Pitơ nghiến chặt răng khẽ nói:
- Cô cứ nói đi, nói cả những điều kinh khủng nhất.
- Cô Macgaret ấy đã đi chơi với hầu tước Môrela.
- Hắn bắt cóc nàng. - Pitơ vội nói ngay.
- Than ôi! Có thể như thế thật. Nhưng ở Tây Ban Nha và nhất là Granađa này, thì khó ai có thể nghĩ tốt về một cô gái, khi cô ta đi chơi với hầu tước Môrela.
- Nếu thế thì càng tồi tệ hơn đối vơi Môrela, khi sau này khỏi bệnh, tôi và hắn gặp nhau. - Pitơ lầu bầu nói một cách giận dữ. - Cô còn muốn nói gì nữa với tôi không, Inex?
Inex tò mò nhìn khuôn mặt gấy yếu và khắc khổ của Pitơ.
- Tin buồn thôi. Tôi đã nói với ông là tin buồn. Có tin đồn rằng một hôm người ta thấy tiểu thư Macgaret chết ngay dưới chân một chiếc tháp cao nhất trong lâu đài của hầu tước. Cô ta ngã, hay bị vứt xuống thì không ai biết.
Pitơ thở dài đau khổ. Cả hai cùng im lặng, sau đó chàng hỏi:
- Cô nhìn thấy xác nàng à?
- Không! Thưa ông, người khác nhìn thấy.
- Và giao cho cô nói với tôi? Tôi không tin điều ấy. Nếu tiểu thư Macgaret, vợ chưa cưới của tôi, chết thì tôi đã biết. Trái tim tôi nói rằng nàng đang sống.
- ÔNg tin trái tim của ông đến thế cơ à? - Inex hỏi với vẻ thán phục.
Pitơ nhận thấy Inex không cãi lại.
- Vâng, tôi tin, - chàng đáp. - Tôi chẳng còn gì ngoài niềm tin vào trái tim, và đó là một nguồn cổ vũ không nhỏ.
Pitơ lại im lặng, và chỉ một chốc sau mới lên tiếng tiếp:
- Xin cô cho biết, tôi đang ở đâu?
- Trong nhà tù, thưa ông.
- Cô nói sao? Trong tù, với tên coi tù là một cô gái xinh đẹp như cô, và đầy tớ là những người phụ nữ xinh đẹp khác như cô này hay sao? - Chàng nói rồi chỉ một cô gái đang bê một cái gì đấy vào phòng. - Mà bản thân nhà tù cũng không đến nỗi quá tồi. - Chàng đưa mắt nhìn những cột đá cẩm thạch có các hình điêu khác tuyệt đẹp.
- Bên  kia, sau các cánh cửa, không phải phụ nữ nữa mà là đàn ông, - Inex mỉm cười đáp.
- Tôi cũng nghĩ là thế. Người ta cũng có thể lấy dây lựa để trói các tù nhân được lắm. Thế nhà tù này là một người coi ngục.
- Thế ai trả tiền cho cô?- Có thể người ta  chẳng trả gì cho tôi cả. Có thể tôi làm việc ở đây vì tình yêu, - nàng đưa mắt liếc nhanh Pitơ, - hoặc vì căm thù mà thôi. - Khi nói những tiếng ấy khuôn mặt nàng thay đổi hẳn.
- Hi vọng không phải vì lòng căm thù ông đâu. Làm sao tôi có thể thù một người bất lực và tử tế như ông?
- Thế thật à? Tôi rất biết ơn cô, vì chính cô đã chăm sóc và đưa tôi trở lại cuộc sống. Nhưng nếu thế thì tại sao cô lại giấu không cho một người bất lực như tôi biết sự thật?
Inex đưa mắt nhìn quanh, lúc ấy trong phòng không có ai ngoài họ. Nàng cúi xuống gần Pitơ, khẽ nói:
- Thế ông không bao giờ bị bắt buộc phải che giấu sự thật à? Nhìn mặt ông, tôi đoán là không. Vả lại ông không phải là người phụ nữ, một phụ nữ tội lỗi.
Họ nhìn thẳng vào mắt nhau trong mấy giây, sau đó Pitơ hỏi:
- Có đúng tiểu thư Macgaret đã chết rồi không?
- Tôi không biết, người ta nói với tôi như thế. - Và như sợ để lộ chính mình, Inex quay đi, nhanh nhẹn bước ra khỏi phòng.
Ngày tiếp ngày trôi qua, dần dần Pitơ bắt đầu bình phục trở lại. Nhưng chàng vẫn không hiểu nổi chàng đang ở đâu và vì sao. Tất cả những gì chàng biết được là chàng đang bị giam giữ trong một lâu đài lộng lẫy. Nhưng cả điều này chàng cũng không tin lắm. Không ai đến với chàng, ngoài cô Inex xinh đẹp và một anh chàng người Mô hoặc là điếc, hoặc không hiểu tiếng Tây Ban Nha. Kể ra còn có những người phụ nữ khác, những người đầy tớ gái mà cô nào cũng đẹp như cô nào, nhưng họ không được phép đến gần chàng. Chàng chỉ nhìn thấy họ từ xa.
Nghĩa là người duy nhất có thể nói chuyện với Pitơ là Inex, và càng ngày họ càng trở nên thân thiện hơn. Chỉ một lần nàng cho phép hé mở chiếc khăn choàng bí mật đang che giấu những ý nghĩ thật của mình. Phải một thời gian khá lâu nàng mới tin Pitơ. Ngày nào chàng cũng hỏi nhiều câu hỏi khác nhau, và ngày nào nàng cũng tìm ra cách tránh không trả lời thẳng, mà không hề cảm thấy bực mình hay giận dữ. Cả hai người kia, nhưng tạm thời phần thắng trong cuộc chơi này còn thuộc về Inex, cái cuộc chơi mà hình như nàng lấy làm thích. Pitơ hỏi nàng về rất nhiều chuyện - về đất nước Tây Ban Nha, về triều đình người Mô, về mối nguy hiểm đang đe dọa Granađa... Tất cả các vấn đề này họ đem ra bàn luận với nhau, và Inex tỏ ra là một người có đầu óc thông minh. Kết quả là Pitơ đã được thông báo khá đầy đủ về các điều kiện chính trị xảy ra ở Caxtili và Granađa, đồng thời kiến thức tiếng Tây Ban Nha của chàng cũng khá hơn rõ rệt.
Tuy nhiên, mỗi lần chàng ngẫu nhiên hỏi về hầu tước Môrela , về Macgaret và Caxten - chàng cố làm điều này khi có dịp - thì khuôn mặt nàng liền thay đổi, và đôi môi nàng như bị khóa lại.
- Thưa ông, - Một hôm Inex cười nói - ông muốn biết điều bí mật mà có lẽ toi sẽ đem nói với ông nếu ông là chồng hay là tính nhân của tôi, nhưng ông đừng chờ nghe điều ấy ở một người hầu gái mà tính mạng phụ thuộc vào việc cô ta có biết giữ kín điều bí mật ấy hay không. Điều này hoàn toàn không có nghĩa rằng tôi muốn ông phải trở thành chồng hay tình nhân của tôi, - nàng nói thêm với nụ cưởi mỉa mai.
Pitơ nghiêm túc nhìn nàng.
- Tôi biết cô không muốn điều ấy, - chàng nói. - Tôi có cái gì để có thể chiếm được cảm tình của một người phụ nữ xinh đẹp và thông minh như cô?
- Thế mà hình như ông đang chiếm được cảm tình của cô Macgaret người Anh đấy, - Inex giận dữ nói.
- Cô muốn nói rằng tôi đã chiếm được cảm tình của nàng, có đúng thế không? Vì chính cô cho tôi biết rằng nàng đã chết.
Biết là mình đã lỡ lời, Inex cắn môi im lặng.
- Tuy nhiên, - Pitơ  nói tiếp, - dù có lẽ điều này không quan trọng với cô, nhưng tôi cũng phải nói rằng cô đã biến tôi thành một người bạn tốt của cô.
- Bạn ư? - Inex mở to mắt hỏi lại. - Ông nói gì vậy? Lẽ nào một người phụ nữ như tôi có thể có một người bạn đàn ông dưới sáu mươi tuổi?
- Vâng, có thể thế thật, - Pitơ mỉm cười.
Khẽ cúi chào chàng, Inex đi ra khỏi phòng.
Hai ngày sau nàng lại xuất hiện, hình như có điều gì đang lo lắng.
- Thế ngày sau nàng lại xuất hiện, hình như có điều gì đang lo lắng.
- Thế mà tôi đã nghĩ rằng cô hoàn toàn bỏ rơi tôi,k - Pitơ nói. - Rất vui mưng được gặp lại cô. Tôi đã chán ngấy cái gã người Mô câm điếc kia và cả cái lâu đài lộng lẫy này nữa. Tôi muốn được ra ngoài hít thở không khí trong lành.
- Tôi đoán biết điều ấy nên hôm nay tới đây để đưa ông ra vườn đi dạo.
Pitơ suýt nhảy lên vì vui mừng. Chàng vớ lấy thanh kiếm mà người ta vẫn để lại cho chàng, rồi định đeo vào người.
- Chẳng cần kiếm làm gì, - Inex nói.
- Lúc ở quán trọ tôi cũng nghĩ tôi không cần kiếm, thế mà... - Pitơ lầu bầu nói.
Inex phá lên cười và đặt một tay lên vai chàng.
- Này, ông bạn thân mến, hãy nghe tôi nói đây, - nàng khẽ nói với Pitơ . - Ông muốn được ra ngoài phải không? Ngoài ra còn có đôi điều có thể làm ông quan tâm, mà tôi thì đang muốn nói cho ông biết về những điều ấy. Nhưng ở đây thì không được, các bức tường này có tai đấy. Còn khi chúng ta đi dạo giữa vườn, ông có xem việc đỡ vào hông tôi làmột sự tra tấn quá nặng nề không? Chả là vì ông vẫn còn phải tựa vào đâu đấy để đi mà.
- Xin cô cứ tin rằng điều ấy đối với tôi hoàn toàn không phải là một sự tra tấ, - Pitơ mỉm cười đáp. Suy cho cùng thì chàng cũng là một người đàn ông như ai, lại đang trẻ, mà eo hông của Inex thì cũng tuyệt vời như chính bản thân nàng vậy. - Tuy nhiên, điều này có thể bị hiểu lầm.
- Đúng thế, nhưng chính tôi lại muốn nó sẽ được hiểu lầm. Không phải tôi hiểu lầm, tất nhiên. Tôi thì tôi biết ông hoàn toàn không quan tâm gì tới tôi,và với ông, ôm tôi hay cái cột đá kia cũng thế thôi.
Pitơ mở miệng đinh cãi lại, nhưng Inex ngăn không cho.
- ồ! Đừng định nói dố nữa, ông không nói dối được đâu! Nàng nói với vẻ giận dữ không giấu giếm. - Nếu có tiền, có lẽ ông sẽ tìm cách giả công cho tôi chăm sóc ông, và tôi có thể đi dạo trong vườn với nhau được.
Pitơ vẫn do dự, nghi ngờ Inex có âm mưu gì chăng, nhưng lúc ấy nàng cúi xuống sát chàng, đến nỗi môi nàng gần như chạm vào tai chàng, và nàng nói:
- Tôi không thể nói với ông bằng cách nào, nhưng có thê, tôi nhắc lại: có thể, ông sẽ được nhìn thấy xác của tiểu thư Macgaret. Thế, thế! - Nàng mỉm cười một cách cay đắng và nói thêm: - Bây giờ suốt cả đường đi ông sẽ hôn tôi chư? Ông ngốc lắm, đừng do dự nữa. Hãy tận dụng cái khả năng này, vì có thể nó không bao giờ lặn lại nữa.
- Khả năng nào? Hôn cô à? Hay một cái gì khác?
- Rồi ông sẽ thấy, - nàng nhún vai đáp. - Nào ta đi!
Vẫn chưa hết do dự, Pitơ đi theo nàng. Inex dẫn chàng về góc phòng có cánh cửa ra vào, phía trên nó là một lỗ hổng bí mật để quan sát. Sau cánh cửa có một người Mô cao to đang đứng, tay cầm thanh gươ cong tuốt trần. Inex nói với ông ta điều gì đó, và ông ta giơ gươm chào rồi để họ đi về phía chiếc cầu thang xoắn ốc. Phía dưới lại có một cánh cửa nữa. Inex gõ vào cửa bốn lần. Có tiếng mở khóa lách cách và rồi một tên lính gác da đen mở rộng cửa. Sau cửa lại có một người Mô khác, cũng thanh gươm tuốt trần trong tay. Họ đi ngang qua người này, rẽ phải theo một hành lang nhỏ, phía cuối có những bậc lên xuống rồi đến trước một cánh cửa thứ ba. Đến đây Inex dừng lại.
- Bây giờ thì xin ông hãy sẵn sàng để đón nhận sự tra tấn.
- Sự tra tấn nào? - Pitơ hỏi, đứng tựa vào tường vì chân chàng vẫn còn yếu lắm.
- Tra tấn ở đây, - Inex đáp và chỉ vào hông mình. - Và ở đây nữa. - Nàng khẽ chạm chạm đầu ngón tay thon nhỏ vào đôi môi đỏ mong. - Hay trước khi ra ngoài, ông muốn làm thử trước một ít chăng, ông hiệp sĩ người Anh ngây ngô của tôi? Tôi sợ ông vụng về không đóng nổi vai mình.
- Tôi nghĩ một sự diễn kịch thế này có thể ít nhiều sẽ nguy hiểm cho tôi - Pitơ nói, vì tính khôi hài của sự việc đã trở nên quá rõ ràng. - Có thể chính cô là người đầu tiên chán cái trò này. Tôi quyết định để hoãn việc làm thú vị ấy cho đến khi chúng ta ra tới vườn.
-Tôi cũng nghĩ như thế, - Inex nói. - Nhưng cẩn thận, ông phải đóng tốt cái vai của mình đượcgiao, nếu không tôi sẽ bị phiền phức đấy.
-Tôi nghĩ có thể cả tôi cũng sẽ bị phiền phức, -  Pitơ lầu bầu nói, nhưng khẽ đến mức Inex không nghe thấy.
 -Không đâu, ông bạn Pêđrô của tôi ạ, - nàng quay  lại nói với Pitơ, - trong những trường hợp thế này người chịu đau khổ bao giờ cũng là phụ nữ. Phụ nữ phải chịu hậu quả, còn đàn ông thì biến mất để lại tiếp tục một trò chơi mới. - Rồi không nói thêm một lời nào nữa. Inex xô cánh cửa.
ở đây chẳng có người lính gác nào.
Trước họ là một khu vườn tuyệt đẹp. Bốn xung quanh nó những cây thông hình chóp nhọn cao vút với những cây cam trĩu quả, còn làn không khí phương nam mát dịu thì thoang thoảng mùi hương bay ra từ những bụi hoa nở rộ. Từ miệng những con sư tử bằng đá, từ dòng nước phun ra. Rải rác khắp vườn có những chỗ ngồi hóng mát và nói chuyện, trên ghế đá có các đệm gối màu sặc sỡ. Đây thực sự là một góc giải trí  thần tiên theo kiểu phương Đông mà Pitơ chưa bao giờ nhìn thấy. Vả lại, trong suốt những tuần kéo dài nặng nề do đau ốm vừa qua, chàng chưa lần nào được nhìn thấy bầu trời  và hoa cỏ. Khu vườn được cách li hoàn toàn, bốn xung quanh có tường bao bọc, chỉ ở một chỗ, giữa hai cây thông cao có một chiếc tháp xây bằng đá đỏ, không cửa sổ, và thuộc về một ngôi nhà khác nào đó.
-Đây là khu vườn của các cung tần mĩ nữ, - Inex khẽ nói. - Nhiều cô nàng xinh đẹp đã từng trải qua ở đây những ngày hè hạnh phúc, cho đến khi đông tới phải chết vì giá lạnh.
Inex trùm khăn che mặt rồi bắt đầu đi xuống theo các bậc thang.


(1) Tên Pitơ tiếng Anh, đọc theo kiu Tây Ban Nha là Pêđ