Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 42

 

GIANG VĂN MINH

(1573 -1638)

 

Tận trung và tiết nghĩa,

Sứ thần Giang Văn Minh.

Quyết “bất nhục quân mệnh” -

Không để nhục vua mình.

 

Ông đối đáp đanh thép

Với triều đình Trung Hoa.

Thà hy sinh tính mạng

Vì quốc sĩ nước nhà.

 

Ông quê làng Kẻ Mía,

Tổng Quảng Oai, Sơn Tây.

Tức là ở vùng đất

Xã Đường Lâm ngày nay.

 

Vốn thông minh, dĩnh ngộ,

Sớm đỗ đạt, thành công,

Ông là vị quan lớn

Đời vua Lê Thần Tông.

 

Năm Một Sáu Ba Bảy

Ông được giao dẫn đầu

Một đoàn sứ đông đúc

Sang thỉnh phong nước Tàu.

 

Vua Minh, Chu Do Kiểm,

Tức Hoàng Đế Sùng Trinh,

Còn cay cú Đại Việt

Xưa dám đánh Nhà Minh,

 

Nên tìm cách né tránh,

Gây nhiều nỗi phiền hà.

Hơn thế, còn chủ ý

Nhằm hạ nhục nước ta.

 

Hắn ra một vế đối:

“Đồng trụ chí kim đài

Dĩ lục” - nghĩa tiếng Việt -

Trụ đồng ở nước ai

 

Bây giờ rêu vẫn mọc.

Ý Mã Viện ngày xưa

Thắng Trưng Trắc, Trưng Nhị.

Sứ thần đã quên chưa?

 

Trước sự ngạo mạn ấy,

Giang Văn Minh đáp liền:

“Đằng Giang tự cổ huyết

Do hồng” - Không, chưa quên.

 

Sông Bạch Đằng ngày trước

Máu đỏ đến bây giờ.

Máu ai các vị biết.

Vua Minh quá sững sờ.

 

Sững sờ vì đối chỉnh.

Nhẹ nhàng mà thâm đau.

Hắn giận, sùi bọt mép

Liền ra lệnh chém đầu.

 

Không, như thế còn nhẹ.

Hắn sai lấy nhựa thông

Nung chảy rồi đem trám

Vào miệng và mắt ông.

 

Sau còn cho mổ bụng,

Ngay trước mặt quan Tàu,

Xem sứ thần Đại Việt

Gan mật to đến đâu.

 

Tối đến, khi nguôi giận,

Ngẫm lại, rất thực lòng

Khâm phục sự đối đáp

Và nghĩa khí của ông,

 

Hắn ra lệnh tắm rửa,

Thay sạch sẽ áo quần,

Rồi xác chánh sứ Việt

Được ướp bằng thủy ngân.

 

Được quân Minh hộ tống,

Cuối cùng xác của ông

Vượt bao nhiêu cách trở,

Đến được thành Thăng Long.

 

Cả vua Lê, chúa Trịnh

Bái lễ Giang Văn Minh.

Truy tặng ông mười chữ

Nói hộ tấm thịnh tình:

 

“Sứ bất nhục quân mệnh,

Vi thiên cổ anh hùng”.

Sứ không làm vua nhục,

Xứng đáng là anh hùng.

 

Trong điếu văn cảm động,

Vua Lê nói về ông,

Rằng sống, ai cũng sống,

Nhưng sống được như ông

 

Thì thật là đáng sống.

Ai cũng chết tất nhiên,

Nhưng chết nhu ông chết

Thì là bậc đại hiền.

 

 

NGUYỄN CƯ TRINH

(1716 - 1767)

 

Ông là một võ tướng

Vì nước và vì dân,

Đời chúa Nguyễn Phúc Quát

Và chúa Nguyễn Phúc Thuần.

 

Ông có công rất lớn

Giúp giữ vững biên cương.

Giúp Nhà Nguyễn Nam Tiến

Và mở mang giao thương.

 

Ông sinh ra ở Huế,

Xưa là phủ Triệu Phong.

Xứ Nghệ An, Hà Tĩnh

Là quê gốc của ông.

 

Từ nhỏ đã nổi tiếng

Hay chữ và thông minh.

Về sau giúp soạn thảo

Các luật lệ triều đình.

 

Sớm thi cử đỗ đạt,

Nhà Nguyễn giao cho ông

Lúc đầu chức Huấn đạo.

Sau, Tri phủ Triệu Phong.

 

Rồi Tuần phủ Quảng Ngãi,

Năm Một Bảy Năm Mươi.

Rồi Ký lục Bố Chính...

Cuối cùng, ông là người

 

Cất quân đánh Chân Lạp.

Là vị tướng tài ba,

Ông chiếm được nhiều đất,

Mở bờ cõi nước nhà.

 

Mười một năm sau đó

Ông trấn thủ biên cương.

Lo gom dân, lập ấp,

Phát triển việc giao thương.

 

Cuối cùng, ông về Huế.

Được chúa, Nguyễn Phúc Thuần

Đưa vào làm Bộ Lại.

Coi như bậc công thần.

 

 

THƠ NGUYỄN CƯ TRINH

 

1

Chuông sớm chùa Tiêu

 

Sương mù ẩm ướt, gió lung lay.

Chuông chùa vọng tới, lách qua cây.

Tiếng chuông làm rụng chùm sao lạnh,

Sáng dần rừng núi, trắng dần mây.

Người người tỉnh mộng, trong chùa Phật,

Sư ngừng tâm niệm, sách rời tay.

Tội nghiệp cho sư luôn phải thức,

Đợi đánh chuông lên, báo rạng ngày.

 

2

Trống đêm ở thành bên sông

 

Bên sông sừng sững bức tường thành.

Dưới ánh trăng tà, rộn trống canh.

Như mưa khi tạnh, khi dồn dập,

Tiếng trống lúc ngừng, lúc gõ nhanh,

Làm cá đầm xa không ngủ được,

Làm chim rừng cạnh thức trên cành.

Ai biết nhờ nơi này đánh trống,

Kinh đô mới được ngủ yên lành?

 

3

Cò đậu ở Châu Nham

 

Núi xanh như biển, trời không mây.

Ai đưa cò trắng đến nơi này?

Buổi sáng lò dò đi bắt cá.

Chiều đậu cành thông đợi hết ngày,

Ngắm nhìn bình thản triều lên xuống,

Không so loài khác béo hay gầy.

Nực cười những kẻ giàu sang rởm,

Khinh cò thanh bạch sống nơi đây.

 

4

Trăng sáng Đông Hồ

 

Một bơi dưới nước, một trên cao,

Ai đúc hai trăng, tự lúc nào?

Nước nói ấy trời quen bắt chước,

Trời rằng nước chụp lại trong ao.

Trăng sáng, thuồng luồng chui xuống đáy.

Tưởng ngày, chim vỗ cánh xôn xao.

Chợt nhớ Đào Chu xưa hết loạn,

Ra hồ uống rượu, ngắm trăng sao.

 

5

Làng chài bên Rạch Vược

 

Làng chài yên ả đón trăng lên.

Thấp thoáng xa xa mấy chấm đèn.

Già chẳng quan tâm Tần hay Hán.

Trẻ toàn giao tiếp với khách quen.

Một lưới mà thâu toàn vũ trụ.

Đôi chèo vùng vẫy cõi vô biên.

Nghe nói thuồng luồng nay đã lớn,

Giúp làng đánh cá sống bình yên.

 

6

Xóm nhỏ ở Mũi Nai

 

Người thưa, gò vắng, sống yên lành.

Nhà nghèo chẳng sợ mất lều tranh.

Chè đặc, trái cây mời giữ khách.

Chốc nữa vợ về nấu cháo canh.

Đủ ấm, đủ no, khinh phú quý.

Ơn trời lúa tốt với cây xanh.

Được nhàn, lại chẳng lo tô thuế,

Để đời thanh thản cứ trôi nhanh.

 

7

Uống rượu đêm

 

Ngại ngồi thơ phú suốt đêm thâu,

Giữ bạn lại nhà uống với nhau.

Ngày ngắn kéo dài bằng thắp nến.

Chén rượu làm vơi bớt nỗi sầu.

Thời loạn, quên mình trong ánh nguyệt,

Quên lời đơm đặt lẫn buồn đau.

Cũng chẳng lên rừng, cam ở ẩn.

Cuộc đời bèo bọt, đáng gì đâu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét