GIANG VĂN MINH
(1573 -1638)
Tận trung và tiết nghĩa,
Sứ thần Giang Văn Minh.
Quyết “bất nhục quân mệnh” -
Không để nhục vua mình.
Ông đối đáp đanh thép
Với triều đình Trung Hoa.
Thà hy sinh tính mạng
Vì quốc sĩ nước nhà.
Ông quê làng Kẻ Mía,
Tổng Quảng Oai, Sơn Tây.
Tức là ở vùng đất
Xã Đường Lâm ngày nay.
Vốn thông minh, dĩnh ngộ,
Sớm đỗ đạt, thành công,
Ông là vị quan lớn
Đời vua Lê Thần Tông.
Năm Một Sáu Ba Bảy
Ông được giao dẫn đầu
Một đoàn sứ đông đúc
Sang thỉnh phong nước Tàu.
Vua Minh, Chu Do Kiểm,
Tức Hoàng Đế Sùng Trinh,
Còn cay cú Đại Việt
Xưa dám đánh Nhà Minh,
Nên tìm cách né tránh,
Gây nhiều nỗi phiền hà.
Hơn thế, còn chủ ý
Nhằm hạ nhục nước ta.
Hắn ra một vế đối:
“Đồng trụ chí kim đài
Dĩ lục” - nghĩa tiếng Việt -
Trụ đồng ở nước ai
Bây giờ rêu vẫn mọc.
Ý Mã Viện ngày xưa
Thắng Trưng Trắc, Trưng Nhị.
Sứ thần đã quên chưa?
Trước sự ngạo mạn ấy,
Giang Văn Minh đáp liền:
“Đằng Giang tự cổ huyết
Do hồng” - Không, chưa quên.
Sông Bạch Đằng ngày trước
Máu đỏ đến bây giờ.
Máu ai các vị biết.
Vua Minh quá sững sờ.
Sững sờ vì đối chỉnh.
Nhẹ nhàng mà thâm đau.
Hắn giận, sùi bọt mép
Liền ra lệnh chém đầu.
Không, như thế còn nhẹ.
Hắn sai lấy nhựa thông
Nung chảy rồi đem trám
Vào miệng và mắt ông.
Sau còn cho mổ bụng,
Ngay trước mặt quan Tàu,
Xem sứ thần Đại Việt
Gan mật to đến đâu.
Tối đến, khi nguôi giận,
Ngẫm lại, rất thực lòng
Khâm phục sự đối đáp
Và nghĩa khí của ông,
Hắn ra lệnh tắm rửa,
Thay sạch sẽ áo quần,
Rồi xác chánh sứ Việt
Được ướp bằng thủy ngân.
Được quân Minh hộ tống,
Cuối cùng xác của ông
Vượt bao nhiêu cách trở,
Đến được thành Thăng Long.
Cả vua Lê, chúa Trịnh
Bái lễ Giang Văn Minh.
Truy tặng ông mười chữ
Nói hộ tấm thịnh tình:
“Sứ bất nhục quân mệnh,
Vi thiên cổ anh hùng”.
Sứ không làm vua nhục,
Xứng đáng là anh hùng.
Trong điếu văn cảm động,
Vua Lê nói về ông,
Rằng sống, ai cũng sống,
Nhưng sống được như ông
Thì thật là đáng sống.
Ai cũng chết tất nhiên,
Nhưng chết nhu ông chết
Thì là bậc đại hiền.
NGUYỄN CƯ TRINH
(1716 - 1767)
Ông là một võ tướng
Vì nước và vì dân,
Đời chúa Nguyễn Phúc Quát
Và chúa Nguyễn Phúc Thuần.
Ông có công rất lớn
Giúp giữ vững biên cương.
Giúp Nhà Nguyễn Nam Tiến
Và mở mang giao thương.
Ông sinh ra ở Huế,
Xưa là phủ Triệu Phong.
Xứ Nghệ An, Hà Tĩnh
Là quê gốc của ông.
Từ nhỏ đã nổi tiếng
Hay chữ và thông minh.
Về sau giúp soạn thảo
Các luật lệ triều đình.
Sớm thi cử đỗ đạt,
Nhà Nguyễn giao cho ông
Lúc đầu chức Huấn đạo.
Sau, Tri phủ Triệu Phong.
Rồi Tuần phủ Quảng Ngãi,
Năm Một Bảy Năm Mươi.
Rồi Ký lục Bố Chính...
Cuối cùng, ông là người
Cất quân đánh Chân Lạp.
Là vị tướng tài ba,
Ông chiếm được nhiều đất,
Mở bờ cõi nước nhà.
Mười một năm sau đó
Ông trấn thủ biên cương.
Lo gom dân, lập ấp,
Phát triển việc giao thương.
Cuối cùng, ông về Huế.
Được chúa, Nguyễn Phúc Thuần
Đưa vào làm Bộ Lại.
Coi như bậc công thần.
THƠ NGUYỄN CƯ TRINH
1
Chuông sớm chùa Tiêu
Sương mù ẩm ướt, gió lung lay.
Chuông chùa vọng tới, lách qua cây.
Tiếng chuông làm rụng chùm sao lạnh,
Sáng dần rừng núi, trắng dần mây.
Người người tỉnh mộng, trong chùa Phật,
Sư ngừng tâm niệm, sách rời tay.
Tội nghiệp cho sư luôn phải thức,
Đợi đánh chuông lên, báo rạng ngày.
2
Trống đêm ở thành bên sông
Bên sông sừng sững bức tường thành.
Dưới ánh trăng tà, rộn trống canh.
Như mưa khi tạnh, khi dồn dập,
Tiếng trống lúc ngừng, lúc gõ nhanh,
Làm cá đầm xa không ngủ được,
Làm chim rừng cạnh thức trên cành.
Ai biết nhờ nơi này đánh trống,
Kinh đô mới được ngủ yên lành?
3
Cò đậu ở Châu Nham
Núi xanh như biển, trời không mây.
Ai đưa cò trắng đến nơi này?
Buổi sáng lò dò đi bắt cá.
Chiều đậu cành thông đợi hết ngày,
Ngắm nhìn bình thản triều lên xuống,
Không so loài khác béo hay gầy.
Nực cười những kẻ giàu sang rởm,
Khinh cò thanh bạch sống nơi đây.
4
Trăng sáng Đông Hồ
Một bơi dưới nước, một trên cao,
Ai đúc hai trăng, tự lúc nào?
Nước nói ấy trời quen bắt chước,
Trời rằng nước chụp lại trong ao.
Trăng sáng, thuồng luồng chui xuống đáy.
Tưởng ngày, chim vỗ cánh xôn xao.
Chợt nhớ Đào Chu xưa hết loạn,
Ra hồ uống rượu, ngắm trăng sao.
5
Làng chài bên Rạch Vược
Làng chài yên ả đón trăng lên.
Thấp thoáng xa xa mấy chấm đèn.
Già chẳng quan tâm Tần hay Hán.
Trẻ toàn giao tiếp với khách quen.
Một lưới mà thâu toàn vũ trụ.
Đôi chèo vùng vẫy cõi vô biên.
Nghe nói thuồng luồng nay đã lớn,
Giúp làng đánh cá sống bình yên.
6
Xóm nhỏ ở Mũi Nai
Người thưa, gò vắng, sống yên lành.
Nhà nghèo chẳng sợ mất lều tranh.
Chè đặc, trái cây mời giữ khách.
Chốc nữa vợ về nấu cháo canh.
Đủ ấm, đủ no, khinh phú quý.
Ơn trời lúa tốt với cây xanh.
Được nhàn, lại chẳng lo tô thuế,
Để đời thanh thản cứ trôi nhanh.
7
Uống rượu đêm
Ngại ngồi thơ phú suốt đêm thâu,
Giữ bạn lại nhà uống với nhau.
Ngày ngắn kéo dài bằng thắp nến.
Chén rượu làm vơi bớt nỗi sầu.
Thời loạn, quên mình trong ánh nguyệt,
Quên lời đơm đặt lẫn buồn đau.
Cũng chẳng lên rừng, cam ở ẩn.
Cuộc đời bèo bọt, đáng gì đâu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét