Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 41

 

Vừa thù nữ tướng này.

 

Vua Tây Sơn, Cảnh Thịnh

Năm Một Tám Không Hai

Cất quân đánh chiếm lại

Vùng Phú Xuân, Phú Bài.

 

Được lệnh đi hộ giá,

Đô đốc Bùi Thị Xuân

Dẫn đầu đoàn binh tượng

Gồm hơn năm nghìn quân.

 

Trong trận huyết chiến lớn

Giành lại Lũy Trấn Ninh

Quân Tây Sơn yếu thế,

Cuối cùng phải lui binh.

 

Sau mấy tháng cầm cự

Và tháo chạy nhiều ngày,

Vợ chồng bà bị bắt,

Chịu hình phạt Voi Dày.

 

Nguyễn Ánh chưa quên chuyện

Xưa bà dùng tượng binh

Làm ông ta thua lớn

Trong trận Lũy Trấn Ninh.

 

Thì giờ bà phải chết.

Xưa lẫm liệt cưỡi voi.

Nay voi dày mà chết.

Tức chết dưới chân voi.

 

Nhưng bầy voi, thật lạ,

Không chịu dẫm lên bà.

Cả pháp trường náo động

Tiếng hò hét, kêu la.

 

Cuối cùng bà bị trói

Bằng sợi xích sắt to.

Rồi bị tẩm dầu đốt

Cho đến lúc thành tro.

 

 

NGUYỄN GIA THIỀU

(1741 - 1798)

 

Ông - nhà thơ nổi tiếng.

Tên hiệu - Ôn Như Hầu,

Xuất thân hàng quý tộc

Danh giá và rất giàu.

 

Nhiều đời làm quan lớn.

Thời vua Lê Hiển Tông.

Cả ông nội và bố

Đều có tước Quận Công.

 

Còn ông, chưa đỗ đạt,

Đã được phong tước hầu.

Được gia đình chiều chuộng,

Kiểu công tử nhà giàu.

 

Mẹ ông là quận chúa,

Em gái chúa Trịnh Cương.

Trịnh Doanh là cậu ruột,

Một ông vua bình thường.

 

Vì thế, lên năm tuổi,

Như các chị, các anh,

Ông được vào phủ chúa

Để lo việc học hành.

 

Không như nhiều người khác

Lo đèn sách đi thi,

Ông chẳng hề thi cử,

Cũng chẳng bằng cấp gì,

 

Mà năm mười tám tuổi

Đã được bổ làm quan.

Rồi thăng tiến vùn vụt

Thành quan to, quan nhàn.

 

Cả khi ở Hưng Hóa,

Làm đến chức Tổng Binh

Của một miền sơn cước,

Nay thuộc đất Hòa Bình,

 

Ông vẫn bỏ công việc

Để trốn về Hồ Tây

Cùng bạn bè trò chuyện

Và đàn hát nhiều ngày.

 

Tội ấy đáng xử trảm,

Nhưng vì là người nhà.

Chúa Trịnh tuy khó chịu,

Ngoảnh mặt mà cho qua,

 

Khi Tây Sơn Bắc tiến,

Ông trốn lên Hòa Bình.

Đọc sách, trồng cây thuốc

Vui ở ẩn một mình.

 

Nguyễn Huệ, sau đại thắng,

Mời ông ra làm quan.

Ông cáo bệnh từ chối

Để hưởng thú an nhàn.

 

Sau, ông về quê cũ

Sống nốt cuộc đời mình.

Chết, thọ năm bảy tuổi,

Ở Thuận Thành, Bắc Ninh.

 

*

Tác phẩm thơ lớn nhất

Ông để lại cho đời

Là Cung Oán Ngâm Khúc

Từng vang bóng một thời.

 

Thơ nói về nỗi khổ,

Nỗi buồn các cung tần

Bị giam trong phủ chúa,

Sống mà đang chết dần.

 

Cũng song thất lục bát,

Cũng viết bằng chữ Nôm

Bài Cung Oán Ngâm Khúc

Hơi hướng Chinh Phụ Ngâm.

 

Những áng thơ thật đẹp.

Đẹp cả cái buồn buồn.

Cái cô đơn, lạnh lẽo,

Cái mây gió, hoàng hôn.

 

Thơ chữ Hán, được biết,

Ông viết cũng rất nhiều.

Tiếc không lưu lại được.

Giờ chẳng còn bao nhiêu.

 

Ông hiểu biết sâu rộng

Về triết học, thơ văn,

Hội họa và kiến trúc,

Âm nhạc và thiên văn.

 

Họa - vẽ bức tranh lớn

Gọi là Tống Sơn Đồ.

Vua xem, khen tranh đẹp

Và ban thưởng rất to.

 

Kiến trúc - ông được chúa

Giao cho vẽ và xây

Tổng thể chùa Thiên Tích,

Còn giữ đến ngày nay.

 

Nhạc - ông là tác giả

Nhiều bản nhạc cung đình,

Như Sở Từ Điệu Nhạc

Và Sơn Trung Âm Tình.

 

Đa tài và liêm chính,

Một con người tuyệt vời.

Những gì ông để lại

Sống mãi trong lòng người.

 

*

CUNG OÁN NGÂM KHÚC, trich

 

Trải vách quế gió vàng hiu hắt,

Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng,

Oán chi những khách tiêu phòng,

Mà xui phận bạc nằm trong má đào.

 

Duyên đã may cớ sao lại rủi,

Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang,

Vì đâu nên nỗi dở dang,

Nghĩ mình, mình lại thêm thương nổi mình.

 

Trộm nhớ thuở gây hình tạo hoá,

Vẽ phù dung một đoá khoe tươi,

Nụ hoa chưa mỉm miệng cười,

Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung

 

Áng đào kiểm đâm bông não chúng,

Khoé thu ba rợn sóng khuynh thành,

Bóng gương lấp loáng trong mành,

Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.

 

Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn,

Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa,

Hương trời đắm nguyệt say hoa,

Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.

 

Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,

Nét đan thanh bậc chị chàng Vương,

Cờ tiên rượu thánh ai đang,

Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm.

 

Cầm điếm nguyệt phỏng tầm Tư Mã,

Địch lầu thu đường gã Tiêu Lang,

Dẫu nghề tay múa miệng xang,

Thiên tiên cũng xếp nghê thường trong trăng.

 

Tài sắc đã vang lừng trong nước,

Bướm ong còn xao xác ngoài hiên,

Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,

Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng.

 

Hoa xuân nọ còn phong nộn nhị,

Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang,

Hồng lâu còn khóa then sương,

Thâm khuê còn rấm mùi hương khuynh thành.

 

Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ,

Khách công hầu ngấp nghé mong sao,

Vườn xuân bướm hãy còn rào,

Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm hương.

 

Gan chẳng đá khôn đường khá chuyển,

Mặt phàm kia dễ đến Thiên Thai,

Hương trời sá động trần ai,

Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi.

 

Ngẫm nhân sự cớ gì ra thế,

Sợi xích thằng chi để vướng chân,

Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,

Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa duyên.

 

Kìa thế cục như in giấc mộng,

Máy huyền vi mở đóng khôn lường,

Vẻ chi ăn uống sự thường,

Cũng còn tiền định khá thương lọ là.

 

Đòi những kẻ thiên ma bách chiết,

Hình thì còn bụng chết đòi nau,

Thảo nào khi mới chôn nhau,

Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra!

 

Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,

Ai bày trò bãi bể nương dâu,

Trắng răng đến thuở bạc đầu,

Tử, sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần.

 

Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc,

Lớp cùng thông như đúc buồng gan,

Bệnh trần đòi đoạn tâm toan,

Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da.

 

Gót danh lợi bùn pha sắc xám,

Mặt phong trần nắng rám mùi dâu,

Nghĩ thân phù thế mà đau,

Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.

 

Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ,

Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu,

Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,

Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh.

 

Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,

Chết đuối người trên cạn mà chơi.

Lò cừ nung nấu sự đời,

Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.

 

Đền vũ tạ nhện giăng cửa mốc,

Thú ca lâu dế khóc canh dài,

Đất bằng bỗng rấp chông gai,

Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương.

 

Mồi phú quí dữ làng xa mã,

Bả vinh hoa lừa gã công khanh,

Giấc Nam Kha khéo bất bình,

Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.

 

Sân đào lý mây lồng man mác,

Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng.

Cánh buồm bể hoạn mênh mang,

Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh.

 

Quyền họa phúc trời tranh mất cả,

Chút tiện nghi chẳng trả phần ai,

Cái quay búng sẵn lên trời,

Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét