Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 51

 

ĐOÀN THỊ ĐIỂM

(1705 - 1749)

 

Xét về tài, về sắc,

Thì nữ sĩ họ Đoàn

Còn hơn nhiều nữ sĩ

Như Bà Huyện Thanh Quan;

 

Hơn con Nguyễn Đình Chiểu

Là bà Sương Nguyệt Anh;

Hơn Xuân Hương, nổi tiếng

Vừa đẹp vừa đành hanh.

 

Bà người làng Giai Phạm,

Huyện Yên Mỹ, Hưng Yên.

Bố dạy học, bốc thuốc.

Vui thú cảnh điền viên.

 

Ngày trẻ bà nổi tiếng

Đẹp nết, đẹp cả người,

Giỏi nữ công gia chánh

Thơ phú cũng tuyệt vời.

 

Đến năm mười sáu tuổi,

Cái tuổi đẹp tăng tròn,

Thượng thư Lê Anh Tuấn

Muốn nhận bà làm con.

 

Ông này thấy bà đẹp,

Thực chất muốn mua bà,

Sau dâng cho chúa Trịnh

Để vinh thân, phì gia.

 

Đoán biết ý định ấy,

Bà dứt khoát nói không,

Dù biết nếu đồng ý,

Gia đình bớt long đong.

 

Suốt cả thời thơ ấu

Và cả tuổi trưởng thành

Bà sống rất lặng lẽ

Cùng bố mẹ và anh.

 

Sau khi bố bà mất,

Rồi cả anh trai bà,

Để lại đàn con nhỏ

Tuổi lên năm, lên ba.

 

Bà làm thuốc, dạy học,

Vật lộn cuộc mưu sinh

Để nuôi mẹ, nuôi cháu.

Một mình bà, một mình.

 

Vì nổi tiếng giỏi chữ,

Có lần bà được mời

Vào phủ chúa dạy học.

Mơ ước của nhiều người.

 

Đó là chức Giáo Thụ,

Rất phù hợp, nhưng bà,

Không hiểu sao từ chức

Để trở về quê nhà.

 

Vì đoan trang, xinh đẹp,

Đã từng có nhiều người

Đến hỏi bà làm vợ,

Nhưng bà không nhận lời.

 

Mãi năm ba bảy tuổi

Bà mới lấy Nguyễn Kiều,

Một tiến sĩ góa vợ,

Giàu có và biết điều.

 

Năm Một Bảy Bốn Tám,

Chồng bà được thăng quan,

Được triều đình cất nhắc

Thành Tham Thị Nghệ An.

 

Bà theo chồng vào đó,

Không may dọc đường đi

Bị cảm nặng rồi mất,

Không kịp trăn trối gì.

 

*

Di sản Đoàn Thị Điểm

Để lại cho đời sau

Là những áng thơ đẹp

Nhưng thấm đẫm buồn đau.

 

Cuốn Truyền Kỳ Tân Phả

Là một tập văn xuôi

Được viết bằng chữ Hán,

In vào năm Tân Mùi.

 

Cuốn Nữ Trung Tùng Phận

Gần nghìn rưỡi câu thơ.

Phản ánh đúng tâm trạng

Người phụ nữ bấy giờ.

 

Nhưng quan trọng hơn cả

Là cuốn Chinh Phụ Ngâm.

Một ca khúc da diết

Với bao nỗi thăng trầm

 

Của một người vợ lính

Chồng đi chinh chiến xa.

Một người vợ mòn mỏi

Mong ngóng chồng về nhà.

 

Cuốn này bà không viết,

Mà dịch sang tiếng Nôm

Từ nguyên bản tiếng Hán

Của ông Đặng Trần Côn.

 

Bản dịch rất nhuẫn nhuyễn,

Như tiếng kêu nhói lòng.

Từ lâu đã được dạy

Trong chương trình phổ thông.

 

PS

Nghe đồn Đoàn Thị Điểm

Không chỉ giỏi văn chương,

Mà còn rất nổi tiếng

Trong ứng xử đời thường.

 

Nhiều lần, như ta biết,

Thi đối với Trạng Quỳnh,

Bà đã làm quan Trạng

Phải xấu hổ lặng thinh.

 

Lần nọ bà được cử

Ra đón tiếp sứ Thanh,

Trong vai cô thôn nữ

Bán mấy bó dưa hành.

 

Sứ Thanh thấy bà đẹp,

Có ý định trêu đùa,

Bèn đọc một câu đối,

Tin chắc bà chịu thua.

 

“Nam Phương nhất thốn thổ,

Bất tri kỷ nhân canh”

(Nước Nam có tí ấy

Mà khối kẻ tranh giành).

 

Bà liền cúi đầu đáp:

“Bắc quốc đại trượng phu

Giai do thử đồ xuất”.

(Nước Bắc, các trượng phu

 

Từ đó mà ra cả!”)

Sứ Thanh nghe, thẹn thò,

Khâm phục cô gái Việt,

Chuồn, không dám đôi co.

 

Thực ra câu đối ấy,

Muốn hiểu thanh thì thanh.

Hiểu tục thì rất tục.

Thật giỏi cô bán hành.

 

 

CHINH PHỤ NGÂM, trích

 

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.

Xanh kia thăm thẳm tầng trên,

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ?

 

Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,

Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.

Chín tầng gươm báu trao tay,

Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.

 

Nước thanh bình ba trăm năm cũ.

Áo nhung trao quan vũ từ đâỵ

Sứ trời sớm giục đường mây,

Phép công là trọng, niềm tây sá nào.

 

Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,

Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.

Bóng cờ tiếng trống xa xa,

Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.

 

Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt,

Xếp bút nghiên theo việc đao cung.

Thành liền mong tiến bệ rồng,

Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.

 

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.

Giã nhà đeo bức chiến bào,

Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.

 

Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,

Đường bên cầu cỏ mọc còn non.

Đưa chàng lòng dằng dặc buồn,

Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.

 

Nước có chảy mà phiền chẳng rửa,

Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây.

Nhủ rồi nhủ lại cầm tay,

Bước đi một bước dây dây lại dừng.

 

Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,

Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San.

Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,

Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.

 

Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử,

Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba.

Áo chàng đỏ tựa ráng pha,

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.

 

Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,

Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay.

Hà Lương chia rẽ đường này,

Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi.

 

Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu,

Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương.

Quân đưa chàng ruổi lên đường,

Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng ?

 

Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,

Hàng cờ bay trong bóng phất phơ.

Dấu chàng theo lớp mây đưa,

Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.

 

Chàng thì đi cõi xa mưa gió,

Thiếp thì về buồng cũ gối chăn.

Đoái trông theo đã cách ngăn,

Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh.

 

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

 

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.

Ngàn dâu xanh ngắt một màu,

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?

 

Chàng từ đi vào nơi gió cát,

Đêm trăng này nghỉ mát phương nao ?

Xưa nay chiến địa dường bao,

Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu.

 

Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,

Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon.

Ôm yên gối trống đã chồn,

Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.

 

Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,

Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.

Hình khe, thế núi gần xa,

Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.

 

Sương đầu núi buổi chiều như giội,

Nước lòng khe nẻo suối còn sâu.

Thương người áo giáp bấy lâu,

Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.

 

Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,

Mặt chinh phu ai vẽ cho nên ?

Tưởng chàng giong ruổi mấy niên,

Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan.

 

Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,

Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.

Lên cao trông thức mây lồng,

Lòng nào là chẳng động lòng bi thương !

 

Chàng từ sang Đông Nam khơi nẻo,

Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu ?

Những người chinh chiến bấy lâu,

Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.

 

Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước,

Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu ?

Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.

 

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.

Chinh phu tử sĩ mấy người,

Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.

 

Dấu binh lửa, nước non như cũ,

Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.

Phận trai già ruổi chiến trường,

Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về.

 

Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,

Ba thước gươm, một cỗ nhung yên.

Xông pha gió bãi trăng ngàn,

Tên reo đầu ngựa, giáo dan mặt thành.

 

Áng công danh trăm đường rộn rã,

Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.

Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai,

Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.

 

Trong cửa này đã đành phận thiếp,

Ngoài mây kia há kiếp chàng vay ?

Những mong cá nước sum vầy,

Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.

 

Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,

Chàng há từng học lũ vương tôn.

Cớ sao cách trở nước non,

Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu.

 

Khách phong lưu đương chừng niên thiếu,

Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.

Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,

Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành.

 

Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,

Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca.

Nay quyên đã giục, oanh già,

Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.

 

Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió,

Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông.

Nay đào đã quyến gió Đông,

Phù dung lại đã bên sông bơ sờ.

 

Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,

Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm ?

Ngập ngừng, lá rụng cành trâm,

Thôn trưa nghe dậy tiếng cầm lao xao.

 

Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ,

Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao ?

Ngập ngừng gió thổi chéo bào,

Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.

 

Tin thường lại, người không thấy lại,

Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh.

Rêu xanh mấy lớp chung quanh,

Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ.

 

Thư thường tới, người không thấy tới,

Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.

Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,

Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai.

 

Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,

Tiền sen này đã nẩy là ba.

Xót người lần lữa ải xa,

Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài.

 

Tình gia thất nào ai chẳng có,

Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương.

Mẹ già phơ phất mái sương,

Con thơ măng sữa, vả đương phù trì.

 

Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,

Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.

Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,

Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.

 

Nay một thân nuôi già dạy trẻ,

Nỗi quan hoài mang mể biết bao !

Nhớ chàng trải mấy sương sao,

Xuân từng đổi mới, Đông nào còn dư.

 

Kể năm đã ba tư cách diễn,

Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang.

Ước gì gần gũi tấc gang,

Giải niềm cay đắng để chàng tỏ hay.

 

Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá,

Gương lầu Tần dấu đã soi chung.

Cậy ai mà gửi tới cùng,

Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét