Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 50

 

 

NGUYỄN CÔNG TRỨ

(1778 - 1858)

 

Ông là quan nhà Nguyễn,

Đồng thời - chính trị gia,

Một nhà thơ; hơn thế,

Một vị tướng tài ba.

 

Bố ông người Hà Tĩnh,

Nổi tiếng rất công minh.

Nhiều năm làm tri huyện

Huyện Quỳnh Côi, Thái Bình.

 

Khi Tây Sơn Bắc tiến,

Mời bố ông tham gia,

Nhưng cụ đã từ chối.

Đưa con về quê cha.

 

Nguyễn Công Trứ từ bé

Sống trong cảnh nghèo hèn.

Mãi năm bốn mốt tuổi,

Đi thi - đậu Giải Nguyên.

 

Ông giữ chức tri huyện

Huyện Đường Hào, Hải Dương.

Tư Nghiệp Quốc Tử Giám.

Tức hiệu trưởng nhà trường.

 

Rồi sau ông thăng tiến

Làm Tham Tri Bộ Hình.

Kiêm chức Dinh Điền Sứ

Chăm lo chuyện mưu sinh

 

Cho các tỉnh miền bắc

Bằng lấn biển, khai hoang.

Lo kênh mương thủy lợi,

Đốc thúc chuyện mùa màng.

 

Rồi Tham Tán Quân Vụ,

Rồi Thị Lang Bộ Binh.

Rồi Án Sát Quảng Ngãi

Rồi đổi về Quảng Bình...

 

Sau nhiều lần thăng giáng,

Đổi công việc nhiều lần,

Cuối cùng ông xin nghỉ,

Để về quê, Nghi Xuân.

 

*

Cuộc đời Nguyễn Công Trứ

Đầy biến động lớn lao.

Ông đóng góp rất lớn

Cho đất nước, đồng bào.

 

Về kinh tế, xã hội -

Ông chiêu mộ nhà nông

Đắp đê và lấn biển

Mở rộng đất gieo trồng.

 

Nhờ thế nay mới có

Huyện Kim Sơn, Ninh Bình,

Và thêm một huyện nữa

Là Tiền Hải, Thái Bình.

 

Rồi ông lập nhà học,

Nhà chữa bệnh, miếu đường

Để nâng cao dân trí

Và đẩy mạnh giao thương.

 

Ngày nay hai huyện ấy

Có nhiều đền thờ ông,

Một người dân Nghệ Tĩnh

Mở rộng đất sông Hồng.

 

Về quân sự, thời ấy

Thường có loạn nhiều nơi,

Và chính Nguyễn Công Trứ,

Quan văn, lại là người

 

Được phái đi dẹp loạn.

Lần nào cũng dẹp xong.

Hóa ra ông cũng giỏi

Cả quân sự, binh phòng.

 

Ông cũng có công lớn

Trong chiến tranh Việt - Xiêm

Từ Một Tám Bốn Mốt

Đến Một Tám Bốn Lăm.

 

Khi đã tám mươi tuổi,

Ông vẫn xin triều đình

Tham gia đánh giặc Pháp

Theo cách riêng của mình.

 

Về thơ, ông để lại

Một trăm ba mốt bài.

Cả  chữ Nôm, chữ Hán.

Phần lớn giọng bi ai.

 

Cả thơ hát, thơ nói,

Thơ chính sự, thơ tình.

Qua thơ ông gửi gắm

Nỗi niềm riêng của mình.

 

*

Ông mất năm Mậu Ngọ,

Tám mươi tuổi, người dân

Luôn ghi nhớ công đức

Một con người tuyệt trần.

 

 

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

(1822 - 1888)

 

Ông là Cụ Đồ Chiểu.

Tên hiệu là Hối Trai.

Tên tự là Mạnh Trạch.

Một người có đức, tài.

 

Ông sinh làng Tân Khánh,

Huyện Bình Dương, Tân Bình,

Ngày nay thuộc về đất

Thành phố Hồ Chí Minh.

 

Bố ông gốc người Huế,

Quê ở tỉnh Thừa Thiên.

Mẹ là người Gia Định,

Có chữ và dịu hiền.

 

Bà dạy ông từ nhỏ.

Gia cảnh khá thanh bần.

Rồi Gia Định có biến,

Cả nhà ra Phú Xuân.

 

Ông quay lại Gia Định

Năm Một Tám Bốn Mươi.

Đỗ tú tài, sau đó,

Cùng đứa em, lên mười

 

Ông lại ra thành Huế

Để thi tiếp, bàng hoàng,

Nghe tin mẹ ốm chết,

Ông quay về chịu tang.

 

Dọc đường ông cảm lạnh,

Mưa nhiều, trời âm u.

Cả vì khóc thương mẹ,

Đôi mắt sưng, rồi mù.

 

Một thầy thuốc tốt bụng,

Quan Ngự y trước đây,

Thương ông, nhận chữa trị.

Dẫu không khỏi, người này

 

Đã dạy ông nghề thuốc.

Nhờ nó mà về sau,

Cùng với nghề dạy chữ,

Ông kiếm đủ cơm rau.

 

Hết tang, Nguyễn Đình Chiểu

Mở trường dạy trẻ con

Và một hiệu thuốc nhỏ

Ở Gia Định, Sài Gòn.

 

Chắc vì cảm nhân cách

Và tài đức của ông,

Một thôn nữ Cần Giuộc

Xin lấy ông làm chồng.

 

Cuốn Dương Từ - Hà Mậu

Và cả Lục Vân Tiên

Được viết những năm ấy,

Những năm nghèo, thiếu tiền.

 

Năm Một Tám Năm Tám

Pháp bắt đầu đánh ta.

Ông chuyển về Cần Giuộc,

Quê vợ, ở Thanh Ba.

 

Ông viết bài Chạy Giặc

Vào đúng thời gian này.

Bài thơ lên án Pháp

Bằng những lời gắt gay.

 

Năm Một Tám Sáu Mốt

Đau xót, ông viết bài

Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc,

Thông thiết và bi ai.

 

Số là vào năm ấy

Hơn mười nghìn nghĩa quân

Bỏ mạng khi chống Pháp

Để bảo vệ nhân dân.

 

Năm sau, ông đưa vợ

Và con về Bến Tre.

Lại dạy học, bốc thuốc,

Viết văn và ca vè.

 

Năm Một Tám Sáu Tám,

Pháp giết Phan Ngọc Tòng,

Ông viết mười bài điếu

Ca ngợi, tiếc thương ông.

 

Lạ là cả quan Pháp

Và quan Việt bấy giờ

Đều quí Cụ Đồ Chiểu,

Ông già mù làm thơ.

 

Lần nọ, quan tỉnh trưởng

Tỉnh Bến Tre, Ponchon,

Tự tìm đến gặp Cụ

Và ca ngợi hết lòng

 

Cuốn Vân Tiên Cụ viết.

Rồi khiêm tốn, ông xin

Được Cụ chữa hoàn chỉnh

Để chính quyền cho in.

 

Sau đó còn đề nghị

Trả cho Cụ đất đai

Bị người Pháp trót chiếm.

Cụ nghe rồi thở dài:

 

“Đất cả nước không trả.

Sá gì đất một người”.

Ponchon tuy tức giận,

Nhưng vẫn phải mỉm cười.

 

Cuối cùng, ông ta hỏi:

“Vậy nếu xin một điều,

Ông muốn gì?” Cụ đáp:

“Tôi không muốn gì nhiều,

 

Ngoài được phép tổ chức

Một lễ tế vong hồn

Các nghĩa sĩ Lục Tỉnh

Gia Định và Sài Gòn”.

 

Ông tỉnh trưởng đồng ý.

Và sau, ở Ba Tri,

Cụ tổ chức lễ ấy,

Cảm động và lâm ly.

 

Rất nhiều người đến dự.

Nghe Cụ Đồ mù lòa

Đọc bài điếu mà khóc,

Cả người trẻ, người già.

 

Năm Một Tám Tám Tám,

Cụ bệnh, rồi qua đời.

Để lại niềm thương tiếc

Sâu trong lòng mọi người.

 

Hôm đưa tang Đồ Chiểu,

Dân từ phố, từ làng

Kéo đến đưa tiễn Cụ.

Rợp màu trắng khăn tang.

 

Mộ Cụ và vợ Cụ

Trong vườn cây xum xuê.

Nay ở xã An Đức,

Huyện Ba Tri, Bến Tre.

 

PS

Nghe nói thực dân Pháp

Đã cho Tôn Thọ Trường,

Một người bạn học cũ

Vốn được Cụ yêu thương,

 

Đến tỏ ý dụ dỗ,

Mà đến những mấy lần.

Tặng Cụ hũ mắm lóc,

Gọi là để Cụ ăn.

 

Khi ăn hết hũ mắm,

Mới thấy mười nén vàng.

Cụ sai người trả lại.

Khiến ông bạn bẽ bàng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét