LÊ QUÝ ĐÔN
(1726 - 1784)
Lê Quý Đôn thời nhỏ
Tên là Lê Danh Phương.
Tên tự là Doãn Hậu.
Tên hiệu là Quế Đường.
Trấn Nam Sơn văn vật
Là nơi ông được sinh.
Nay là xã Độc Lập,
Huyện Hưng Hà, Thái Bình.
Ngày nhỏ ông ham học,
Rất thông minh, tài ba.
Mười bốn tuổi, đọc hết
Kinh sách của Nho Gia.
Thi Hương, mười tám tuổi,
Ông đỗ đầu, Giải Nguyên.
Thi Hội, hăm bảy tuổi,
Cũng đỗ đầu, Giải Nguyên.
Tới lần thi cao nhất,
Thời ấy gọi Thi Đình,
Ông đỗ nhì, Bảng Nhãn.
Làm xôn xao kinh thành.
Lần thi ấy giám khảo
Không cho ai Giải Nguyên.
Tức ba lần thi cử,
Ông đều đoạt Giải Nguyên.
Triều đình thấy ông giỏi,
Nên luôn cất nhắc ông.
Trao nhiều chức quan trọng,
Đến Thượng Thư bộ Công.
*
Ông là con mọt sách,
Lại đi nhiều, biết nhiều.
Tinh thông đến tận dáy
Mọi lĩnh vực, mọi điều.
Ông là nhà bác học,
Một Toàn Thư Bách Khoa.
Có kiến thức rộng nhất
Xưa nay ở nước ta.
Trong hai năm đi sứ
Ở Bắc Kinh, nhiều người,
Nhiều học giả Trung Quốc
Và Triều Tiên hết lời
Khen ngợi sứ thần Việt
Uyên bác và thâm sâu.
Nhân dịp này ông đọc
Rất nhiều sách nước Tàu.
Ông là người nổi tiếng
Sức làm việc phi thường.
Viết bốn mươi tác phẩm
Về chính sự, văn chương.
Về địa lý, lịch sử,
Về triết học, chiêm tinh,
Nông nghiệp và công nghiệp,
Và các nghề mưu sinh.
Như - Đại Việt Thông Sử,
Bộ lịch sử nước nhà.
Chính xác và chi tiết,
Không thêu dệt rườm ra.
Như - Vân Đài Luận Ngữ,
Viết lúc tuổi ba mươi.
Một cuốn sách tổng hợp
Về xã hội, con người.
Như - Toàn Việt Thi Lục
Gồm sáu quyển, rất dài.
Bảy mươi ba tác giả.
Tám Trăm Chín Bảy bài.
Riêng cuốn này, vua đọc
Thấy hay, liền cho ông,
Coi như tiền ban thưởng,
Hai mươi lạng bạc ròng.
Như - Phủ Biên Tiểu Lục,
Tập bút ký mà ông
Ghi chép lại phong tục
Và tập quán Đàng Trong...
*
Năm Giáp Thân, khi thấy
Nhiều quan trong triều đình
Không tôn trọng pháp luật,
Tham nhũng và lộng hành,
Ông dâng sớ, xin phép
Được chấn chỉnh điều này.
Thiết lập lại pháp chế
Vốn lỏng lẽo xưa nay.
Tiếc, vua không đồng ý.
Thay vào đó, cho ông
Làm Hải Dương Tham Chính
Hoặc Kinh Bắc Đốc Đồng.
Nhưng ông đã nhất mực
Xin từ quan về quê.
Viện cớ vợ mới mất,
Gia cảnh còn nặng nề.
Thực ra ông làm thế
Là vì thấy triều đình
Đang ngày càng thối nát,
Không chăm lo dân tình.
Ông mất ngày Mười Bốn,
Tháng Bốn năm Giáp Thìn.
Ở quê mẹ, Nguyễn Xá.
Nay thuộc huyện Duy Tiên.
Thương tiếc, chúa Trịnh Khải
Xin vua Lê Hiển Tông
Ba ngày không triều chính
Để tỏ lòng nhớ ông.
THƠ LÊ QUÝ ĐÔN
1
Sông Đại Đăng
Bụi cây màu đo đỏ.
Nắng dát vàng trên sông.
Gà lên chuồng, trăng mọc.
Mây biển phía đằng Đông
Dài dài tiếng ve khóc
Uể oải cánh chim mòng.
Triều lúc lên lúc xuống.
Ông chài không bận lòng.
2
Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
Bài một
Thu đep, nhìn không chán.
Cây xanh phủ kín đồi.
Trại lính hoang mờ khói.
Sông rộng, mặt trời trôi.
Mây trắng đùn hang núi.
Trăng đùa trên sóng dồi.
Khách văn mải ngâm vịnh.
Thuyền nghỉ, tựa bãi bồi.
1. Một địa danh thuộc huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Cả tám bài này viết khi ông đi sứ. Mỗi bài được ghép từ tám câu thơ của các tác giả nổi tiếng Trung Quốc.
3
Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
Bài hai
Gió thu từ đâu đến.
Làng xóm lạnh hơi sương.
Mờ mờ khói lam tỏa.
Cây xanh ngút dặm trường.
Sương chưa khô dưới nắng.
Suối cát trắng như gương.
Ra đi, tình bịn rịn,
Gửi theo dòng Tiêu Tương.
4
Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
Bài ba
Vời vợi, đường muôn dặm.
Đêm thu trăng sáng ngần.
Sông tối, mờ khói nước.
Tỉnh mộng, nhớ người thân.
Sương nhẹ, hoa vẫn nở.
Bãi vắng chim quây quần.
Sen, súng đua nhau nở.
Hương thấm áo sứ thần.
5
Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
Bài bốn
Lá rụng, báo thu đến
Gợi cái buồn mênh mông.
Mây mờ trên Ngân Hán 1).
Mưa ướt thành bên sông.
Rừng xa, màu xanh thẫm.
Sóng đưa, bóng ngả hống.
Việc vua dục đi gấp,
Dẫu việc nhà chưa xong.
6
Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
Bài năm
Thu đẹp, nhìn thật thích..
Cánh buồm trôi giữa dòng
Xa xa, núi lởm chởm.
Dưới nắng, sương màu hồng.
Khách vội vì công chuyện.
Chia tay bên bờ sông.
Trước cả quân vũ vệ
Mong được thấy mặt rồng 1).
1. Quan vũ vệ, lính canh trong cung câm. Ý tác giả nói muốn là người đầu tiên đươc thấy mặt vua.
7
Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
Bài sáu
Những ngày thu trời đẹp
Thường gợi buồn nhớ quê.
Khói đêm che sương trắng.
Nước biếc hắt lên hè.
Chim lạnh trên cây cụt.
Ngô đồng che bờ đê.
Thuyền nhẹ lướt theo sóng.
Thấp thoáng buồm quay về.
8
Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
Bài bảy
Quán bên sông, vời vợi.
Thu ý đã thấm đầy.
Mảnh cầu vồng sót lại.
Sương làm sẫm hàng cây.
Bờ xa liễu ai rủ.
Tiếng chuông gần đâu đây.
Phóng mắt nhìn trời đất.
Thuyền xuôi về phía tây.
9
Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
Bài tám
Rừng ngả màu thu sớm.
Từ thuyền nhỏ nhìn ra.
Trời như liền với nước.
Lơ lửng mảnh trăng tà.
Con đê ôm bãi vắng.
Cây bập bềnh xa xa.
Nghìn dặm tình man mác.
Day dứt nỗi nhớ nhà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét