Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 48

 

TÚ XƯƠNG

(1870 - 1907)

 

Vốn là một ông tú,

Tên thật - Trần Tế Xương.

Người đời thích ngắn gọn,

Gọi mãi thành Tú Xương.

 

Ông quê ở Nam Định.

Thuộc dòng dõi nho gia.

Suốt một đời lận đận,

Chỉ quanh quẩn ở nhà.

 

Thực ra ông họ Phạm.

Nhưng tổ tiên thời Trần

Do lập được công lớn,

Vua cho mang họ Trần.

 

Được học hành từ nhỏ,

Lại thông minh hơn người.

Thế mà thi cứ trượt.

Cái nghèo bám suốt đời.

 

Mười sáu tuổi lấy vợ.

Nhỏ thì bố mẹ nuôi.

Phận “dài lưng tốn áo”,

Lấy vợ thì vợ nuôi.

 

Thương bà vợ tần tảo,

Suốt ngày ở mom sông.

Phải nhịn ăn, nhịn mặc

Nuôi tám con một chồng.

 

Phải đối mặt cái đói

Và bất công hàng ngày,

Nên thơ ông đau đáu,

Châm biếm và chua cay.

 

Ông than thân trách phận,

Chửi cái rởm người giàu.

Chửi bọn quan cai trị...

Mà chửi thâm, chửi đau.

 

Như các nhà nho khác,

Ông viết kiểu thơ Đường.

Bốn, tám câu, bảy chữ,

Vần điệu và du dương.

 

Ông là hiện tượng hiếm,

Ông tổ một dòng thơ

Gọi là thơ trào phúng,

Phát triển đến bây giờ.

 

Cũng nhờ ông mới có

Tú Mỡ rồi Tú Poanh,

Tú Sụn và Tú Nạc,

Toàn giọng lưỡi đành hanh.

 

Người đời đã hiểu lạc

Về tên ông, Tú Xương.

Xương không phải xương thịt

Theo cách hiểu bình thường.

 

Ở đây, nghĩa tiếng Hán,

Xương là sướng, bố ông

Đặt tên mong con sướng

Mà suốt đời long đong.

 

Băm bảy tuổi, ông mất,

Mang theo cả cái nghèo.

Mong ông ở dưới ấy

Sướng hơn, thoát được nghèo.

 

 

Thơ Tú Xương

VỊNH KHOA THI HƯƠNG

 

Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Lọng cắm rợp trời, quan Sứ đến,

Váy lê quét đất, mụ đầm ra.

Nhân tài đất Bắc nào ai đó?

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.

 

GIỄU NGƯỜI THI ĐỖ

 

Một đàn thằng hỏng đứng mà trông,

Nó đỗ khoa này có sướng không?

Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,

Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng.

 

ÔNG CÒ

 

Hà Nam danh giá nhất ông cò,

Trông thấy ai ai chẳng dám ho.

Hai mái trống toang đành chịu giột,

Tám giờ chuông đánh phải nằm co.

Người quên mất thẻ âu trời cãi,

Chó chạy ra đường có chủ lo.

Ngớ ngẩn đi xia may vớ được,

Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to.

 

THƯƠNG VỢ

 

Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét