PHAN HUY CHÚ
(1782 - 1840)
Ông xuất thân quý tộc,
Vinh hiển đủ mọi bề.
Bố là Phan Huy Ích,
Đại thần thời Hậu Lê.
Mẹ là Ngô Thị Thực,
Chí lớn và tài cao.
Em gái Ngô Thì Nhậm,
Cũng là bậc anh hào.
Ông quê gốc Nghệ Tĩnh,
Nhưng sinh ở Đàng Ngoài.
Cuối thế kỷ Mười Tám,
Ở Sài Sơn, Quốc Oai.
Nhờ gia tộc, đỗ đạt,
Sớm thành công, thành danh.
Vua Minh Mạng nghe tiếng,
Cho mời vào kinh thành.
Ông được vua tin cậy
Cho giữ chức đứng đầu
Trường Quốc Tử Giám Huế.
Và một thời gian sau
Ông trình vua Minh Mạng
Bộ Lịch Triều Hiến Chương.
Loại Bách Khoa thời ấy.
Sâu rộng đến lạ thường.
Ông dày công viết nó
Khi còn là học trò.
Giờ chỉnh thêm, vua đọc
Và ban thưởng rất to.
Ông hai lần đi sứ
Sang Bắc Kinh, Trung Hoa
Và một lần công cán
Ở In-đô-nê-xia.
Cuối đời, Phan Huy Chú,
Không hiểu vì cớ gì,
Từ quan về sống ẩn
Dưới chân núi Ba Vì.
Ở đây ông dạy học
Và bốc thuốc cứu người.
Làm thơ và viết sách
Cho đến khi qua đời.
*
Ông là nhà nghiên cứu,
Nhà Bách Khoa Toàn Thư.
Viết văn xuôi là chính,
Nhưng cũng có nhiều thơ.
THƠ PHAN HUY CHÚ
1
Ở Hành Châu, đêm mưa nghe tiếng chuông
Con thuyền lướt nhẹ dọc sông Tương,
Cách ải Nam Quan vạn dặm đường.
Đêm mưa Hồi Nhạn nghe chuông gióng,
Thấy lòng da diết nhớ quê hương.
2
Nghỉ lại ở Tương Âm
Sắc núi mờ mờ, mưa lâm thâm.
Mái chèo rẽ sóng tới Tương Âm.
Thành vắng đêm mưa, thuyền tạm đỗ.
Canh cánh quê hương nỗi nhớ thầm.
3
Nghỉ lại ở Tương Âm
Bài hai
Mưa tạnh, mù tan, doi cát nông.
Nước trời pha lẫn, màu xanh trong.
Gió nam chưa gặp, buồm chưa kéo,
Buộc thuyền dưới liễu sát bờ sông.
MẠC THIÊN TÍCH
(1708 - 1780)
Ông là Mạc Thiên Tích,
Tên tự là Sĩ Lân.
Sống thời đầu Nhà Nguyễn,
Được tôn là danh thần.
Theo Đại Nam Liệt Truyện,
Đúng vào ngày ông sinh,
Có nhiều điềm rất lạ,
Kiểu Bồ Tát hiện hình.
Tổng binh trấn Mạc Phủ
Là thân phụ của ông,
Người đi theo chúa Nguyễn,
Và lập nhiều chiến công.
Từ ngày bố ông mất,
Ông nối nghiệp - bằng tiền
Và bằng nhiều cách khác,
Mở rộng đất Hà Tiên.
Nhờ công ông khai khẩn,
Mà vùng đất hoang này
Dần dần thành rộng lớn,
Đông đúc như ngày nay.
Nhiều lần ông chống trả,
Cả gần và cả xa,
Quân xâm lược chiếm đất
Từ Chân Lạp, Xiêm La.
Vì thế, chúa Nguyễn Phúc
Đặc cách phong cho ông
Tổng trấn binh Đô đốc,
Còn cấp ba thuyền rồng.
Cùng các con, ông giúp
Lấn chiếm và khai hoang
Một vùng đất rộng lớn,
Sau gọi là Trấn Gang.
Vùng đất phì nhiêu ấy
Là Cần Thơ ngày nay.
Triều đình Huế khen thưởng,
Ghi công ông việc này.
*
Hơn thế, Mạc Thiên Tích
Còn là một nhà thơ.
Một nhà thơ xuất chúng,
Mến mộ đến bây giờ.
Ông là người sáng lập
Hội Tao Đàn Chiêu Anh.
Nhiều nhà thơ nhờ thế
Mà thành công, hành danh.
THƠ MẠC THIÊN TÍCH, trích.
1
Chuông sớm chùa Tiêu
Sao đêm vương vãi sót trên trời.
Lẫn lộn cõi tiên với cõi người.
Thong thả báo tin ngày đã rạng,
Chuông chùa văng vẳng tựa đang rơi.
Lắng nghe, chim hạc giang đôi cánh.
Giật mình, con én liệng, chơi vơi.
Nhà nhà thức dậy, nghe chuông điểm.
Bất chợt tiếng gà rộn khắp nơi.
2
Trống đêm ở thành bên sông
Đầy trời gió thổi, cuộn mây đen.
Bên sông lạnh lẽo một bóng thuyền.
Một bức thành dài che bốn phía.
Trống canh chốc chốc lại vang rền.
Trống thức cho thành yên giấc ngủ,
Bảo vệ kinh đô, khắp mọi miền.
Tài sức xin đem thờ phụng Chúa,
Biên thùy đất Việt giữ bình yên.
3
Thạch động mây phủ
Cao tới Ngân Hà ngọn núi xanh.
Sáng ngời trong động, ngọc long lanh.
Khói mây không hẹn mà lui tới.
Mặn tình, cây cối vẫn bao quanh.
Dầm dãi gió sương, hình sắc lạ.
Thay nhau năm tháng cứ luân hành.
Kết tụ tinh hoa trời lẫn đất,
Tỏa khắp thôn quê ngọn gió lành.
4
Cò đậu ở Châu Nham
Ráng chiều điểm xuyết cánh mây trôi.
Cò trắng bay nghiêng phía mé đồi.
Cây đứng trang nghiêm như dàn trận.
Gió lùa, tán lá rẽ làm đôi.
Như làn khói trắng, cò bay chậm,
Lúc lượn khe sâu, lúc bãi bồi.
Ngang dọc bốn phương rồi cũng chỉ
Quay về nương tựa chỗ này thôi.
5
Trăng sáng Đông Hồ
Khói mờ, mây tạnh, trời xanh quang.
Buổi chiều, vụng nhỏ, cảnh hồng hoang.
Sóng lặng, biển xanh, nhìn hút mắt.
Ánh trăng kỳ ảo, cảnh mơ màng.
Như biển, trời trong, không vết bẩn.
Biển trời hòa một rộng mênh mang.
Cá rồng đang quẫy, khoe vây bạc.
Lung linh trên dưới mảnh trăng vàng.
6
Sóng yên Nam Phố
Nước trời một dãi, sáng mênh mông.
Biển lặng, gió yên, vệt ráng hồng.
Sau mưa trời sạch như vừa rửa.
Khói chiều vài sợi đọng trên không.
Triều dâng, thuyền cá đi ra biển,
Chở nặng trên mui mây bập bồng.
Rồng cá ẩn mình nơi đáy nước,
Êm đềm sóng ngậm ánh trăng trong.
7
Xóm nhỏ ở Mũi Nai
Gió thổi, nhà tranh tỉnh giấc nồng.
Quạ kêu, nhao nhác lượn trên không.
Cây xanh tỏa bóng che vườn cổ.
Cửa tím treo nghiêng vệt ráng hồng.
Bạn với hươu nai, lòng thanh thản,
Tháng ngày vui thú cạnh non sông.
Có người hỏi ai bên hàng xóm.
Văng vẳng bên tai sáo mục đồng.
8
Làng chài Rạch Vược
Vệt nước xanh xanh ngậm nắng tà.
Làng chài Rạch Vược phía xa xa.
Gờn gợn sóng ngang, thuyền ghé bến.
Xếp thành hàng dọc, cò bay qua.
Một chiếc áo tơi sương thấm lạnh.
Chèo khua mấy tiếng, ánh trăng nhòa.
Những muốn giúp đời mà chẳng thể,
Lòng buồn nhìn biển sóng bao la.
9
Thú câu nhàn nhã ở Lư Khê
Bài một
Thuyền câu một lá, trời xanh quang.
Sông như lụa trắng, lưỡi câu vàng.
Dây tơ buông nhẹ, mồi đang đợi.
Cần câu thanh mảnh giữ nằm ngang.
Cầu vồng xanh đỏ treo lơ lững.
Gió lặng sau mưa, sóng dịu dàng.
Sẫm tối, dân chài về, sót lại
Chiếc thuyền đơn độc giữa mênh mang.
10
Thú câu nhàn nhã ở Lư Khê
Bài hai
Trần truồng, trăng tắm dưới lòng khe.
Chuông chùa văng vẳng phía bờ tre.
Dưới trăng, nước lạnh như gương phẳng.
Một lưỡi câu buông, sóng bốn bề.
Muốn phó việc đời cho nước cuốn,
Chạnh lòng thương hộ cái le le.
Vô cảm, sương rơi vào chén rượu.
Thuyền nặng ánh trăng, chẳng muốn về.
11
Thú câu nhàn ở Lư Khê
Bài ba
Mây vàng, trời thẳm, nước xanh trong.
Núi đá bên khe đứng chập chồng.
Lún phún mưa rơi, tà áo mỏng.
Khói nhạt, thuyền con đứng giữa dòng.
Cá đã cắn câu, tay kéo nặng.
Nhẹ cánh buồm nâu, nước bập bồng.
Câu cá để chơi mà chốc chốc,
Vẫn nhìn xuống giỏ - được nhiều không?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét