Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 36

 

 

PHẠM QUÝ THÍCH

(1760 - 1825)

 

Ông là một danh sĩ,

Một nhà thơ tài ba

Thời cuối Lê đầu Nguyễn,

Nhiễu loạn và can qua.

 

Ông quê làng Lương Ngọc,

Huyện Bình Giang, Hải Dương.

Học giỏi, sớm đỗ đạt,

Thăng tiến chốn quan trường.

 

Ông được bổ làm việc

Trong Học viện Hàn lâm.

Rồi làm quan ngự sử

Mẫn cán suốt nhiều năm.

 

Khi Tây Sơn Bắc tiến,

Ông lánh nạn nhiều nơi.

Phải ăn nhờ ở đậu,

Phiêu bạt ở xứ người.

 

Khi Tây Sơn bị diệt,

Triều đình phong cho ông

Chức Thị trung Học sĩ,

Tước An hầu, nhưng ông

 

Đã khéo léo từ chối,

Xin ở lại Bắc Hà.

Rồi cử làm Đốc học,

Nhưng vẫn xin về nhà.

 

Từ đó ông dạy học.

Dạy Bà Huyện Thanh Quan,

Nguyễn Văn Siêu, Phạm Hội

Và cả Vũ Tông Phan...

 

Toàn những người nổi tiếng

Và thành đạt hơn thầy.

Nhưng ông vẫn lặng lẽ

Thanh bạch sống qua ngày.

 

Ngoài Thảo Đường Thi Tập,

Tập thơ lớn của ông,

Còn có nhiều tập khác,

Soạn thảo rất dày công.

 

Ông còn viết cả truyện

Những người đỗ Trạng nguyên,

Nam Long Thủ Liệt Truyện,

Gương sáng bậc tài hiền.

 

Ông dịch và bình luận,

Dễ hiểu, bằng văn vần

Các quẻ trong Kinh Dịch,

Cho những người bình dân.

 

*

Ông là bạn thân thiết

Của Nguyễn Du Tiên sinh.

Người đầu tiên giới thiệu

Cho học trò của mình

 

Tác phẩm Kiều bất hủ.

Và cũng ông là người

Giúp in tác phẩm ấy

Để lưu lại cho đời.

 

 

THỢ PHẠM QUÝ THÍCH, trich

 

1

Tan chầu, trở về nhà

 

Chầu về, rỗi việc tựa lan can.

Tháng Hai gió rét, cánh hoa tàn.

Không biết mùa xuân qua quá nửa,

Ngoài vườn chim chóc hót râm ran.

 

2

Mưa đêm

 

Nhè nhẹ mưa rơi, mưa như không.

Ý xuân rạo rực rộn trong lòng.

Ngủ dậy sáng mai, nhìn chắc thấy

Chồi non, cây cỏ mọc kín đồng.

 

3

Ngồi một mình trong thuyền

 

Trên sông, trăng chiếu chếch mui thuyền.

Gió lùa, trằn trọc ngủ không yên.

Cảnh đẹp thế này mà lắm bệnh.

Ngồi nghĩ bâng quơ trước ngọn đèn.

 

4

Nhớ chuyện xưa khi qua bến Chương Dương

 

Ngồi thuyền buổi sáng, lướt trên sông.

Chim bay nhao nhác, lượn theo dòng.

Chắc chỗ này đây, nơi nước xoáy,

Nhà Trần đại thắng giặc Nguyên Mông.

 

5

Bãi Tự Nhiên

 

Nhất Dạ đầm này, bãi Tự Nhiên.

Tiếc không may mắn gặp thần tiên.

Đành một mình buồn, ngồi uống rượu.

Lênh đênh giữa nước một con thuyền.

 

6

Đêm trăng nghe đàn

 

Đêm tĩnh yên, bất chợt

Nghe tiếng đàn đâu đây.

Mở cửa nhìn, chỉ thấy

Mảnh trăng và vườn cây.

 

7

Chiều thu

 

Chưa hết gió đêm, lại gió ngày,

Trước sân lặng lẽ lá vàng bay.

Chỉ riêng hoa cúc không tàn lụi,

Soi bóng long lanh chén rượu đầy.

 

8

Từ công đường về, ngẫu hứng mà thành

 

Một mình thơ thẩn đứng cầu thang.

Trước mặt, hai bên đầy cúc vàng.

Đừng hỏi vì sao hoa nở muộn -

Để người đỡ lạnh đón xuân sang.

 

9

Nhìn trăng, xúc cảm thành thơ

 

Đêm xuân rét, khó ngủ.

Trăng sáng, trời xanh trong.

Nhà nông đang gặp hạn,

Xin đừng chiếu xuống đồng.

 

10

Cảm hoài, ngồi dưới ánh trăng

 

Đêm thanh, ngõ vắng, gió trên đường.

Trên trời trăng sáng tựa vành gương.

Cũng chính trăng này đang chiếu sáng

Cả người xa xứ lẫn quê hương.

 

11

Mừng được mưa

 

Lâu ngày hạn hán, bỗng mưa to.

Quả tình ân lớn được trời cho.

Đêm nay kê gối nằm yên giấc,

Hạn hán, mất mùa chẳng phải lo.

 

12

Đêm trăng chiếu trại quân

 

Trại quân sương che phủ.

Đều đều trống điểm canh.

Từ lan can nhìn thấy.

Trăng lênh láng khắp thành.

 

13

Đêm rằm, ngồi dưới trăng, thấy

dân thôn đi tát nước về, làm bài thơ này

 

Trăng tròn vành vạnh phía hàng cây.

Có rượu, có trà để uống say.

Thật lạ, không đâu buồn vớ vẩn,

Lại buổi trăng thu đẹp thế này!

 

14

Thăm chùa Trấn Quốc ở Hồ Tây

Bài một

 

Thu vàng, chùa vắng, gió heo may.

Hành cung u tịch, lá rơi đầy.

Thuyền rẽ cánh sen, hồ sóng gợn.

Lên lầu ngắm cảnh nước và mây.

 

15

Đêm cuối cùng vào tháng cuối  xuân

 

Trong vườn mưa lớn, gió và mây.

Bên ao lặng lẽ lá rơi đầy.

Xuân đã đi qua, không ở lại.

Chim buồn đang hót giữa lùm cây.

Khách thơ trằn trọc đêm không ngủ.

Nỗi nhớ bạn hiền chẳng phút khuây.

Một tấm lòng trung, lo việc nghĩa,

Cam đoan xin có ngọn đèn này.

 

16

Thơ đề nơi ở

 

Âm dương, trời đất thật hài hòa.

Bốn mùa nẩy lộc, lại đâm hoa.

Vườn nhỏ đêm thanh, trăng chiếu chếch.

Then cửa không cài, đón gió xa.

Hứng lên, bày rượu mời tân khách,

Hoặc sai con trẻ kíp pha trà.

Muốn đứng hay nằm, tùy ý thích.

Ríu rít chim oanh hót trước nhà.

 

17

Thăm chùa Trấn Quốc ở Hồ Tây

 

Bên hồ chùa nhỏ, nước xanh trong.

Cổ thụ, dây leo, đá xếp chồng.

Nơi trước vua Trần ngồi ngắm cá,

Bây giờ còn lại bãi đất không.

Như gương, mặt hồ sau mưa tạnh

Mười dặm hoa sen tỏa hương nồng.

Không phải quy y và đốn ngộ, 

Đến đây cốt để thảnh thơi lòng.

 

18

Rét đầu xuân

 

Đầu xuân rét đậm, trời đầy sương.

Mưa bụi lây rây thấm ướt đường.

Việc công chưa đến, cài then cửa.

Việc tư không vội, ngủ trên giường.

Tỉnh dậy khêu đèn xem sách cổ.

Trước bụi trúc già thắp nén hương.

Cây tùng ngoài ngõ luôn xanh tốt,

Gió mưa, giá rét vẫn xem thường.

 

19

Ngủ dậy, ngẫu nhiên thành thơ

 

Mùa đông tùng bách vẫn tươi xanh.

Mùa xuân đào nở, đỏ trên cành.

Chuyện "Mộng kê vàng" ai cũng biết.

Đừng than đầu bạc, việc chưa thành.

Ở đời không lẽ không gì trọng?

Thánh hiền vô cớ chẳng thành danh.

Tỉnh dậy, ngoài sân vừa đứng bóng.

Tựa ghế một mình, nghĩ quẩn quanh.

 

20

Mừng trời mưa

 

Mưa lớn suốt sáng nay,

Xua cái hạn lâu ngày.

Sách và đàn ẩm ướt.

Sân vắng chim chóc bay.

Hoa sen hương thơm ngát.

Lá chuối ướt lung lay.

Chắc ngoài đồng ruộng mạ,

Đang lớn nhanh từng giây.

 

21

Đêm đông

 

Gió rên rỉ ngoài đường.

Tiếng dế kêu thê lương.

Không ngủ, đèn le lói.

Lá rụng, thấm đầy sương.

Với tay lấy sách đọc.

Đốt thêm trầm lò hương.

Thời vận vốn là vậy,

Việc gì phải vấn vương.

 

22

Đêm cuối năm, thức chờ giao thừa

 

Kinh kỳ trời ấm dần.

Một mình trong phòng văn

Nhìn chấm sao mờ nhạt,

Chờ năm mới đến gần.

Đọc lại thơ đã viết.

Uống rượu, đếm thời gian.

Chợt trong cung pháo nổ -

Mọi nhà bước vào xuân.

 

23

Ngóng mưa

 

Gió lặng, trăng rất sáng.

Trời không mây, xanh trong.

Nghĩa là vẫn còn hạn.

Quang cảnh thật đau lòng.

Thương những người khốn khổ.

Thẹn mình, đành ngồi không.

Mong trời cho mưa xuống

Để cứu giúp nhà nông.

 

24

Thơ tức sự: từ tháng Tư đến tháng Sáu hiếm mưa

 

Năm ngoái mưa to, nước ngập đồng.

Năm nay hạn lớn, đất khô cong.

Nhà nhà đều đói, khoai trừ bữa.

Cỏ cây khô cháy, nắng oi nồng.

Quang gánh, cày bừa đều tạm gác,

Mọi người túm tụm ngước mắt trông,

Thấy lính thu tô liền bỏ chạy.

Trăm bề cơ cực, khổ nhà nông.

 

25

Mừng thấy mưa

 

Gió từ khe núi thổi qua sông.

Mây kéo ùn ùn, báo sắp dông.

Cuối cùng hết hạn, mưa đang đến,

Mang lại xanh tươi cho ruộng đồng.

Giật mình tỉnh dậy nơi đất khách.

Uống cạn mừng mưa, chén rượu nồng.

Như vậy không còn lo hạn nữa.

Ầm ầm sấm chớp phía đằng đông.

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét