Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 31

 

 

Truyền Kỳ Mạn Lục

TRUYỆN NÀNG NHỊ THANH

 

1

Xưa, chàng Trình Trung Ngộ

Quê ở xứ Bắc Hà,

Vốn con nhà giàu có,

Thường đi buôn bán xa.

 

Thuyền chàng luôn neo đỗ

Dưới chân cầu Liễu Khê.

Chợ Nam Xang gần đấy,

Cây xanh tốt bốn bề.

 

Đêm, lên bờ đi dạo,

Chàng thường thấy một nàng

Trẻ tuổi, rất xinh đẹp.

Chắc con gái trong làng.

 

Sau vài lần trò chuyện,

Từ lạ thành quen thân.

Nàng lên thuyền tối tối

Hai người cùng ái ân.

 

Nàng còn giỏi đàn hát,

Biết luận bàn văn thơ.

Chàng Trình thêm mê mẩn,

Tưởng mình đang trong mơ.

 

Cứ thế, suốt một tháng,

Nàng đến lúc nửa đêm,

Ra về trời gần sáng,

Lửa tình càng bén thêm.

 

Một lần, do nài ép,

Nàng miễn cưỡng đưa chàng       

Đến một căn lều nhỏ

Ở tận cuối mép làng.

 

Khi vừa vào đến cửa,

Chàng giật mình, sững sờ

Thấy chiếc quan tài đỏ

Đặt trước chiếc bàn thờ.

 

“Giường em đây, - nàng nói,

Chỉ vào chiếc quan tài. -

Em không muốn chàng biết,

Nhưng chàng cứ van nài”.

 

Chàng hoảng hồn, bỏ chạy.

Nàng túm áo không cho.

Cũng may áo bị đứt,

Chàng về được bến đò.

 

Hôm sau, cho người hỏi

Thì biết nàng Nhị Thanh,

Chết đã được mấy tháng,

Xác quàn trong lều tranh.  

 

Thương cho Trình Trung Ngộ

Đổ bệnh rồi phát điên.

Suốt ngày đêm nằng nặc

Đòi được rời khỏi thuyền.   

 

Người ta trói chàng lại,

Không cho gặp Nhị Thanh,

Vì đêm nàng vẫn đến,

Tha thiết gọi người tình.

 

Một tối nọ, bất chợt,

Không ai biết chàng Trình

Bỗng nhiên biến đâu mất,   

Dẫu sông nước xung quanh.

 

Cuối cùng người ta thấy

Chàng chết trong túp lều,

Tay ôm quan tài đỏ

Bên cạnh xác người yêu.

 

Rồi cả hai xác ấy

Được đem chôn bên nhau

Bên một ngôi chùa cổ,

Mặc mưa gió dãi dầu.

 

Cũng đêm đêm, từ đó

Người ta thấy hai người

Cùng nắm tay đi dạo

Giữa mịt mùng mưa rơi...

 

 

Truyền Kỳ Mạn Lục

TÂY VIÊN KỲ NGỘ

 

Ở Thiên Trường thời ấy,

Thuộc Nam Định ngày nay,

Có một người trò giỏi

Lên kinh đô tìm thầy.

 

Hà Nhân là tên họ,

Khoảng vào năm Thiệu Bình,

Chàng được nhận vào học

Thầy Nguyễn Trãi Tiên sinh.

 

Chàng thông minh, chăm chỉ,

Không hư hỏng, chơi bời.

Một tấm gương sáng chói

Cho lớp trẻ cùng thời.

 

Hàng ngày chàng đi học

Tắt Tây Viên cho gần.

Đó là dinh cơ cũ

Của Thái Sư triều Trần.

 

Giữa những bức tường đổ,

Chàng thường thấy hai người,

Hai cô gái xinh đẹp

Nhìn chàng và mỉm cười.

 

Có khi họ hái quả

Hoặc ném hoa cho chàng.

Rất nhiều lần, cứ thế,

Chàng quen thân hai nàng.

 

Một, Nhu Nương, họ Liễu.

Hai, Họ Đào, Hồng Nương,

Cả hai là tỳ thiếp,

Được Thái Sư yêu thương.

 

Anh học trò nghèo ấy,

Vì ngoan và thông minh,

Đêm, rủ hai người đẹp

Đến nhà trọ của mình.

 

Việc sinh viên, sĩ tử

Rủ gái chơi đến nhà

Xưa nay không gì lạ.

Cái lạ đáng nói là

 

Anh chàng này khiêm tốn

Lại rủ cả hai nàng,

Không chỉ để trò chuyện,

Mà qua đêm với chàng.

 

Thế mới biết thời ấy

Sinh viên cũng chịu chơi.

Đêm nào họ cũng đến,

Chàng tiếp cả hai người.

 

Một hôm chàng cao hứng,

Đến thăm nhà hai nàng

Trong khu vườn đổ nát,

Mờ ảo dưới trăng vàng.

 

Giao hoan suốt đêm ấy,

Tỉnh dậy sáng hôm sau,

Thấy mình nằm trên cỏ

Và u u trong đầu.

 

Nghĩa là chàng cũng biết

Đang ăn nằm với ma.

Biết mà vẫn quyến luyến,

Chuyện học hành lơ là.

 

Nên dễ hiểu, sau đó

Chàng gầy như chiếc tăm.

Nghỉ học nhiều, bị đuổi,

Chỉ còn việc ngày nằm

 

Để đêm đến say đắm

Phục vụ cả hai nàng.

Cứ nghe mà phát khiếp.

Tôi thì xin đầu hàng.

 

Hơn thế, bỗng bố mẹ

Bắt lấy vợ mới gay.

Bạn nghĩ chàng từ chối?

Còn lâu; những anh gầy

 

Các cụ nói rất giỏi,

Giỏi cái “chuyện ấy” mà.

Vậy là chàng hăng hái

Một lúc chiều cả ba.

 

Rồi kiệt sức, chàng chết.

May để lại cho đời

Một bài học đắt giá:

Sinh viên đừng ham chơi.

 

Nhất là đừng trai gái.

Chuyện học chớ lơ là.

Nếu quả không đừng được

Thì đừng ngủ với ma.

 

Ngủ với người vừa ấm

Lại vừa được an toàn.

Nhưng chỉ một thôi nhé.

Nhiều hơn là đời tàn.

 

 

Truyền Kỳ Mạn Lục

ĐÔNG TRIỀU PHẾ TỰ

 

Dân chúng vào thời ấy,                 

Tức là đời nhà Trần

Ai ai cũng tin Phật

Và tin các quỉ thần.

 

Người qui y, xuống tóc

Đi tu ngày càng nhiều.

Chùa chiền mọc nhan nhản,

Nhất là vùng Đông Triều.

 

Tín ngưỡng được tôn trọng,

Dân chúng thì lòng lành,

Nên cầu gì được ấy,

Cuộc sống rất yên bình.

 

Đến đời vua Giản Định,

Binh lửa nổi triền miên,

Khắp nơi đều loạn lạc,

Giặc phá hết chùa chiền.

 

Sau nhờ Đức Lê Lợi

Đánh đuổi được nhà Minh,

Mọi người về quê cũ,

Lại sinh sống hòa bình.

 

Có điều, khác hẳn trước,

Không hiểu sao bây giờ

Hay xẩy ra trộm cắp,

Thường xuyên và bất ngờ.

 

Mất trộm từ gà vịt,

Đến quả chín trên cây,

Con cá nuôi trong ruộng.

Ban đêm lẫn ban ngày.

 

Những tưởng bọn hư đốn

Trong làng xóm gây ra.

Người ta tìm bắt chúng,

Nhưng tìm mãi không ra.

 

Hay thần linh giận dữ,

Và Đức Phật từ bi,

Do không được cúng độ,

Thôi phù hộ độ trì?

 

Ông nghè Nguyễn Tư Lập

Là tri phủ Đông Triều,

Thấy thế rất lo lắng,

Buồn, thấy chùa đổ xiêu.

 

Ông bèn cho sửa lại

Dẫu không được như xưa,

Nhưng cũng khá tươm tất,

Lễ cũng cũng dư thừa.

 

Thế mà nạn trộm cắp

Vẫn tiếp tục xẩy ra.

Tri phủ Nguyễn Tư lập

Nghĩ chắc có ma tà.

 

Ông cho mời phù thủy

Đốt vàng mã, yểm bùa,

Còn cho thuyền tống tiễn,

Nhưng cũng chẳng ăn thua.

 

Thấy thế, ông cả sợ,

Liền mời Vương tiên sinh,

Một thầy bói dịch giỏi,

Người ở huyện Kim Thành.

 

Vương gieo quẻ rồi nói:

Muốn trừ được nạn này,

Sáng mai cho nha lại

Cứ đi về hướng Tây.

 

Hễ thấy ai cưỡi ngựa,

Áo thợ săn da dê,

Đeo túi vải, tên thiếc,

Thì mời người ấy về.

 

Người ấy sẽ chắc chắn

Giúp được quan trừ tà.

Tư Lập nghe, mừng rỡ,

Thưởng ông rất nhiều quà.

 

Hôm sau, theo lời dặn,

Một người đúng thế này

Được mời đến huyện phủ,

Nhờ ra đức, ra tay.

 

Nhưng ông ta tự nghĩ

Mình chỉ là thợ săn

Chắc quan huyện nhầm lẫn

Mới tiếp đãi ân cần.

 

Nên ông rất khó xử,

Chẳng biết làm thế nào.

Muốn giúp, không giúp được,

Biết ăn nói ra sao?

 

Thế là khuya, đêm ấy

Ông trèo tường trốn đi.

Trăng mờ mờ, ảo ảo,

Núi một vệt đen sì.

 

Bất chợt ông nhìn thấy

Có hai người khổng lồ,

Vụng về và chậm chạp,

Đang đi từ phía hồ.

 

Hoảng sợ, ông lẩn trốn

Vào bụi rậm bên đường

Vừa run, vừa quan sát

Hai người ấy dị thường.

 

Họ cho tay xuống ruộng,

Bắt cá rồi ăn ngay,

Khoe với nhau những vụ

Trộm cắp ở vùng này.

 

Rồi họ đến ruộng mía,

Bẻ mía ăn như voi.

Một loáng, hết cả ruộng,

Vừa xoa bụng vừa cười.

 

Không nghi ngờ gì nữa,

Đây là hai con ma

Thủ phạm các vụ trộm

Người ta tìm chưa ra.

 

Ông thợ săn nghĩ thế,

Liền vội rút cung tên,

Bắn hai phát trúng đích,

Lập tức nghe tiếng rên.

 

Nghĩ một mình thế yếu,

Ông gọi to dân làng.

Dân làng nghe, chạy tới,

Đèn và đuốc sáng choang.

 

Họ lần theo vết máu,

Đến ngôi chùa giữa đồng

Lâu nay bỏ hoang phế,

Có cây gạo phía đông.

 

Trước ngôi chùa hoang ấy

Nổi tiếng cả Đông Triều,

Nhiều năm không hương khói,

Mái và tường vẹo xiêu.

 

Họ vào chùa, kinh ngạc

Thấy máu chảy ra ngoài.

Còn hai ông hộ pháp

Mũi tên cắm xuyên vai.

 

Đám dân chúng tức giận,

Xưa nay mất lợn gà,

Đập nát hai bức tượng

Rồi hoan hỉ về nhà.

 

Từ đấy tịnh không thấy

Một vụ trộm nào thêm.

Ma quỉ cũng chẳng có.

Mọi chuyện thế là êm.

 

Ngôi chùa hoang ngày ấy

Tồn tại đến ngày nay,

Thiếu hai ông hộ pháp.

Không ngẫu nhiên điều này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét