Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 32

 

 

MẠC ĐĂNG DUNG

(1483 - 1541)

 

Thời Lê Sơ thịnh trị

Kéo dài mấy mươi năm

Rất tiếc đã kết thúc

Cuối thế kỷ mười lăm.

 

Cũng bắt đầu từ đó

Nhà Lê suy yếu dần.

Vua quan lo hưởng lạc,

Không quan tâm đến dân.

 

Như vua Lê Uy Mục,

Đêm nào cũng tiệc tùng,

Khi uống say, cầm kiếm

Rồi chém giết lung tung.

 

Nội bộ thì chia rẽ,

Các phe phái tranh quyền.

Công thần xưa bị giết,

Lòng dân rất không yên.

 

Dười triều Lê Tương Dực,

Trịnh Duy Sản cầm đầu

Một phe phái hiếu chiến,

Suốt mười năm đánh nhau.

 

Năm Một Năm Một Bảy

Dân chết đói đầy đường,

Thậm chí ở vựa lúa

Kinh Bắc và Hải Dương.

 

Có nhiều cuộc khởi nghĩa.

Bắt đầu là Nguyễn Tuân

Năm Một Năm Một Một,

Thu hút hàng vạn dân.

 

Có lần quân khởi nghĩa

Đi thành đoàn rất đông,

Từ Sơn Tây kéo xuống

Uy hiếp thành Thăng Long.

 

Chỉ một năm sau đó,

Trịnh Hưng và Lê Hy

Nổi lên ở xứ Nghệ,

Sau lan ra Bắc Kỳ.

 

Ở vùng núi Tam Đảo,

Năm Một Năm Một Năm,

Phùng Chương dấy khởi nghĩa,

Cũng gây được tiếng tăm.

 

Nhưng quan trọng hơn cả

Là Trần Cảo, Quảng Ninh,

Năm Một Năm Một Sáu,

Với rất nhiều nghĩa binh.

 

Đầu họ được cạo trọc,

Chỉ chừa ba chỏm con,

Gọi là Quân Ba Chỏm,

Danh tiếng nổi như cồn.

 

Quân và tướng Ba Chỏm

Đã ba lần tấn công,

Trong đó một lần thắng,

Chiếm được thành Thăng Long.

 

Vua Lê phải bỏ chạy

Vào Thanh Hóa thoát thân,

Rồi tổ chức chiếm lại,

Cuộc khởi nghĩa tắt dần.

 

Các cuộc khởi nghĩa ấy

Cuối cùng bị dập tan.

Nhưng chính chúng đã khiến

Nhà Lê chóng suy tàn.

 

*

Trong bối cảnh tranh chấp

Các phe phái cung đình,

Cùng loạn lạc, khởi nghĩa,

Bất mãn của dân tình,

 

Xuất hiện một nhân vật,

Có khí phách anh hùng,

Vốn là một võ tướng.

Đó là Mạc Đăng Dung.

 

Ông nhanh chóng tiêu diệt

Các thế lực bất bình,

Giữ chức ngang tể tướng,

Nắm hết mọi quyền hành.

 

Năm Một Hai Năm Bảy,

Ông tiếm ngôi, xưng vương.

Bây giờ xin nói rõ

Về người này phi thường.

 

*

Theo truyền thuyết kể lại,

Thì xưa Mạc Đăng Dung

Vốn dòng dõi quyền quí

Nhưng sau thành bần cùng.

 

Ông làm nghề đánh cá,

Bố mẹ nghề chèo đò.

Bến sông ấy rất rộng,

Thường sóng lớn, gió to.

 

Có một thầy địa lý,

Nghe đâu là người Tàu,

Được hai người cứu sống,

Nên mang nặng ân sâu.

 

Để trả ơn, họ mách

Phải táng mộ ông bà

Vào chỗ có long mạch,

Sau sẽ thành vương gia.

 

Mạc Đăng Dung lập tức

Đem cốt tổ tiên mình

Táng vào nơi được chỉ,

Mong có ngày hiển vinh.

 

Năm sau, thầy địa lý

Quay lại và bảo ông

Đem một quan tiền mới,

Tức đúng một trăm đồng

 

Ra ngồi trên con dốc

Cách không xa bến đò,

Thấy ai vác chữ “khẩu”

Trên lưng mình, thì cho.

 

Ông chờ mãi, chỉ thấy

Một ông lão ra sông,

Đeo trên vai chiếc dặm.

Ông cho ba mươi đồng.

 

Chiều tối, ông lão ấy

Quay về, ông lại cho

Thêm ba lăm đồng nữa,

Rồi đi xuống chèo đò.

 

Tối về, nghe kể lại,

Thầy địa lý lầm bầm:

“Vậy nhà ông chỉ được

Làm vua sáu lăm năm.”

 

*

Đức vua Mạc Thái Tổ

Tên húy Mạc Đăng Dung,

Quê nơi nay là đất

Huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

 

Theo các tài liệu sử,

Ông là cháu bảy đời

Một trạng nguyên nổi tiếng -

Mạc Đỉnh Chi hơn người.

 

Ông thời bé nghèo khổ,

Chuyên chài lưới kiếm ăn,

Sau lớn lên, khỏe mạnh,

Đỗ “Lực sĩ xuất thân.”

 

Rồi thành quân túc vệ

Vào thời nhà Hậu Lê,

Đời vua Lê Uy Mục,

Đang rối ren trăm bề.

 

Nhờ thông minh, tài giỏi,

Được hoàng gia tin yêu,

Ông nhanh chóng thăng chức

Thành quan lớn trong triều.

 

Nhà Hậu Lê thời ấy

Yếu hèn và rối tung,

Nên dần dần quyền lực

Vào tay Mạc Đăng Dung.

 

Năm Một Năm Hai bảy,

Ông tiếm ngôi nhà Lê,

Lấy hiệu Mạc Thái Tổ,

Lúc thọ địch bốn bề.

 

Ông đúc tiền Thông Bảo,

Lo chấn chỉnh triều đình.

Thành Hải Dương được chọn

Làm kinh đô - Dương Kinh.

 

Năm Một Năm Hai Bảy

Ông nhường con ngai vàng.

Mạc Thái Tông kế vị,

Ông thành Thái thượng hoàng.

 

Năm Một Năm Bốn Mốt

Mạc Đăng Dung băng hà,

Hưởng thọ năm chín tuổi,

Và trước lúc đi xa

 

Ông dặn Mạc Phúc Hải

Không lập đàn ma chay,

Mà lo việc xã tắc,

Xây dựng nước sau này.

 

Như thầy địa lý nọ

Có lần đã lầm bầm,

Các vua Mạc cai trị

Tất cả sáu lăm năm.

 

*

“Toàn thư” nói nhà Mạc

Đem đất đai nước mình,

Gồm hai châu Quy, Thuận,

Nhục nhã dâng nhà Minh.

 

Thực ra hai châu ấy

Thủ lĩnh Nùng Trí Cao

Và anh, Nùng Trí Hội,

Dâng Tống từ đời nào.

 

Người đời sau xác nhận

Ông chỉ nhường ngoại bang

Năm hang động không lớn

Thuộc vùng đất Cao Bằng.

 

Mà rồi năm hang ấy

Vốn không phải đất mình,

Mà do Đại Việt lấn,

Giờ trả lại nhà Minh.

 

Ông còn bị chê trách

Vì tự trói, đầu hàng,

Dâng cho giặc đồ cống

Cùng hai bức tượng vàng.

 

Vì sao ông làm vậy?

Vì nhà Lê, hai lần,

Cầu nhà Minh đánh Mạc,

Mất nước và khổ dân.

 

Thấy lực mình đang yếu,

Muốn tránh cảnh can qua,

Vua Mạc đành nén nhục,

Quì gối xin giảng hòa.

 

Nhục, một mình vua chịu,

Mang tiếng xấu với đời,

Nhưng dân tình thoát khỏi

Cảnh máu chảy, đầu rơi.    

 

Sau cái nhục lần ấy,

Tự trói mình xin hòa,

Ông xấu hổ, lâm bệnh

Một năm rồi băng hà.

 

Giống như Trần Thủ Độ

Và cả Hồ Quý Ly,

Ông tiếm ngôi người khác,

Hoàn toàn không khác gì.

 

Vua các triều đại trước

Đã mục ruỗng, yếu hèn.

Theo qui luật lịch sử

Thì triều khác sẽ lên.

 

Tuy nhiên, có điều khác:

Truất ngôi Lê Cung Hoàng,

Mạc Đăng Dung không giết

Các đại thần quy hàng.

 

Ông cũng không hề giết

Một ai trong hoàng gia.

Một sự kiện hiếm có

Trong lịch sử nước nhà.

 

Những di sản kiến trúc

Và văn hóa Lê Sơ

Ông không hề phá hủy,

Nên còn mãi đến giờ.

 

*

Đức vua Mạc Thái Tổ

Có một thanh Long Đao

Bây giờ còn giữ được,

Thật quí giá nhường nào.

 

Cháu con ông giữ nó

Suốt năm trăm năm qua,

Nay thờ ở Kiến Thụy

Như vật báu quốc gia.

 

Đao dài hai mét rưỡi,

Nặng gần ba mươi cân,

Cán làm bằng sắt rỗng

Có chạm hình long vân.

 

Thanh đao của Quan Vũ

Được nói đến nhiều lần,

Tức Long Đao Yển Nguyệt,

Cũng chỉ ba bảy cân.

 

Châu Á giờ chỉ có

Hai long đao thế này.

Đao kia thuộc nước Tống,

Ở Trung Quốc ngày nay.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét