Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 33

Để lại chiếc ống quyển,

Dặn lúc nào thiếu tiền

 

Hay tiệt hết đường sống,

Gia cảnh quá bần hàn,

Thì mở ra, trong đó

Có bức thư gửi quan.

 

Chiếc ống quyển nhỏ bé

Giấu kỹ trên xà nhà,

Qua nhiều đời, ám khói

Được lấy xuống, mở ra.

 

Bên trong có thư thật.

Anh ta mang bức thư

Đến nhà quan sở tại,

Vẫn chưa rõ thực hư.

 

Lúc ấy quan đang nghỉ,

Nằm đọc sách trong nhà.

Thấy báo thư Cụ Trạng,

Liền vội vàng đi ra.    

 

Quan vừa đi đến cửa,

Bỗng nhiên có thanh dầm,

Chắc lâu ngày bị mọt,

Rơi đúng chỗ quan nằm.

 

Quan hoảng hồn, thoát chết,

Liền mở thư ra xem.

Thư có dấu, chữ ký

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 

Bức thư ngắn, chỉ viết:

“Tôi cứu ông vừa rồi.

Vậy xin ông giúp đỡ

Cháu bảy đời của tôi.”

 

*

Nguyễn Bỉnh Khiêm là Trạng,

Một thi nhân diệu kỳ,

Một đại quan chính trực

Và một nhà tiên tri.

 

Ông sinh ở Vĩnh Lại,

Nay Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

Đúng vào thời thịnh trị

Của vua Lê Thánh Tông.

 

Tên thật Nguyễn Văn Đạt,

Hiệu Cư Sĩ Bạch Vân,

Mẹ là Nhữ Thị Thục,

Giỏi tướng số, thơ văn.

 

Bà là con quan lớn,

Khó tính khi kén chồng,

Mãi đến lúc luống tuổi

Mới chịu lấy cha ông,

 

Tức là Nguyễn Văn Định,

Tài năng loại thường thường,

Có tướng sinh quí tử,

Sau dễ thành đế vương.

 

Để con thành hoàng đế,

Bà đã bắt bố ông

Mười hai giờ đêm ấy

Mới được vào động phòng.

 

Bố ông, chắc nóng vội,

Vào sớm hơn ít nhiều,

Nên con bà, thật tiếc,

Chỉ đại thần trong triều.

 

Sau chuyện ấy, bà giận,

Về với bố mẹ mình,

Rồi lấy ông chồng khác,

Rồi tính giờ, năm sinh,

 

Bà sinh được Trạng nữa,

Lại Lưỡng Quốc Trạng Nguyên,

Trạng Bùng, Mai Nham Tử,

Phùng Khắc Khoan, đại hiền.                

 

Nguyễn Bỉnh Khiêm từ nhỏ

Được bà mẹ cầu kỳ

Dạy đến nơi đến chốn,

Không sót một môn gì.

 

Về sau, khi khôn lớn,

Tìm thầy tận xứ Thanh,

Lương Đắc Bằng, bảng nhãn,

Giúp hoàn thiện học hành. 

 

Ông thầy này uyên bác,

Từng là quan đại thần,

Sau từ quan, chán nản,

Về quê sống thanh bần.

 

Cậu trò Bắc học giỏi,

Chăm chỉ và thông minh,

Được thầy trước khi chết

Tặng “Thái Ất Thần Kinh”.

 

Đó là cuốn sách quí

Ông mang từ nước Tàu,

Về Chu Dịch, bói toán,

Bắt phải học thuộc làu.                 

 

Thời ấy chính sự loạn,

Nguyễn Bỉnh Khiêm ở nhà,

Không bon chen thi thố

Chín kỳ thi đại khoa.

 

Khi nhà Mạc thành lập,

Đời ít nhiều tạm yên,

Ông mới ra thi cử,

Lập tức đậu Trạng nguyên.

 

Năm ấy bốn lăm tuổi,

Ông được bổ làm quan

Đông Các Đại học sĩ,

Lo soạn thảo công văn.

 

Ông nhanh chóng thăng tiến,

Đến chức Tả Thị lang

Của bộ Hình, bộ Lại,

Bạn của Thái thượng hoàng,

 

Tức vua Mạc Thái Tổ.

Tiếc là ông vua này

Đã qua đời quá sớm

Để ấu chúa lên thay.

 

Chính sự lại nát bét,

Đói kém, mất lòng dân.

Ông dâng sớ đòi chém

Mười tám tên lộng thần.

 

Trong mười tám tên ấy

Có con rể, Phạm Dao.

Thế mới biết quan Trạng

Chính trực đến mức nào.

 

Vua không chấp thuận sớ.

Năm Một Năm Bốn Hai,

Sau tám năm tại vị,   

Ông về với trúc mai.

 

Nhưng hai năm sau đó

Vua Mạc lại mời ông

Làm Thượng thư bộ Lại,

Tước hiệu Trình Quốc công.

 

Cũng nhờ tước hiệu ấy

Ông trở thành Trạng Trình.

Một đại thần hòa nhã,

Liêm khiết và công minh.

 

Bảy ba tuổi, từ chức,

Ông dựng Am Bạch Vân,

Tức là Lều Mây Trắng,

Rồi xây Quán Trung Tân.

 

Thỉnh thoảng vua có việc

Lại đón ông vào kinh.

Các quyết định quan trọng

Đều hỏi ý Trạng Trình.

 

Ông mở lớp dạy học

Bên bờ sông Tuyết Giang.

Nhiều học trò vinh hiển,

Thành một danh sách vàng.

 

Vào cuối năm Ất Dậu,

Tức Một Năm Tám Năm,

Ông qua đời lặng lẽ

Ở tuổi đời chín lăm.

 

Đích thân Mạc Đôn Nhượng

Cùng các quan đại thần

Về quê ông cúng viếng

Để bày tỏ tình thân.

 

Vừa là nhà chính trị,

Nhà tiên tri đại tài,

Ông là nhà thơ lớn,

Sáng tác khoảng nghìn bài.

 

Cả chữ Nôm, chữ Hán,

Thơ ông thật trữ tình,

Về thiên nhiên, sông nước,

Về thế thái, nhân tình.

 

Về số, ông là nhất

Trong năm trăm năm thơ.

Về chất, cũng loại nhất,

Đọc, không thể hững hờ.

 

Tuy nhiên, phải thừa nhận

Ông nổi tiếng ở đời

Nhờ những bài sấm ký

Về sự việc, về người.  

 

Thật lạ, nhiều tiên đoán

Lại rất đúng sau này,

Như việc quân Pháp phá

“Tan tành Cổ Am Mây.”

 

Hay việc ông đoán đúng

Thế chiến lần thứ hai.

“Diễn ra năm Thân - Dậu”,

Tàn khốc và kéo dài.

 

Năm Một Năm Sáu Tám,

Nghe lời khuyên của ông

Mà Nguyễn Hoàng yên chí

Vào lập nghiệp Đằng Trong.

 

Ở Thăng Long, Trịnh Kiểm

Muốn bỏ Lê, lên ngôi,

“Thờ Phật thì ăn oản”,

Ông nói thế, đành thôi.

 

Trước khi mất, nhà Mạc

Đến hỏi kế dài lâu.

Đáp: “Đất Cao Bằng nhỏ,

Nhưng lợi thế về sau”.

 

Nhờ thế mà nhà Mạc

Đã chọn vùng đất này

Lập căn cứ, lánh nạn,

Tồn tại thêm nhiều ngày.

 

 

TRUYỀN THUYẾT VỀ TRẠNG TRÌNH

 

Có không ít truyền thuyết

Về Trạng Trình xưa nay.

Nhân tiện xin được kể

Thêm vài chuyện thế này.

 

Hồi học ở Thanh Hóa

Với Bảng nhãn họ Lương,

Ông được thầy rất quí

Vì thông minh khác thường.         

 

Đến mức trước khi chết

Thầy truyền lại cho ông

Cuốn “Thái Ất” quí giá

Mà thầy đã thuộc lòng.       

 

Cuốn sách này khó hiểu

Do đạo sĩ Triệu Nga

Rất nổi tiếng Đời Tống

Đúc kết rồi soạn ra.

 

Thầy có người cùng họ

Làm quan, sống bên Tàu,

Tên là Lương Nhữ Hốt,

Chỗ thân tình từ lâu.

 

Một lần thầy đi sứ,

Sang gặp lại người này.

Ông cho thầy cuốn sách,

Lưu giữ đến hôm nay.

 

Thực ra cuốn sách ấy,

Dẫu uyên bác, thông minh,

Bỉnh Khiêm chưa hiểu lắm,

Nhưng luôn giữ bên mình.

 

Lại nói, rời Thanh Hóa,

Đời loạn, chưa muốn thi,

Ông theo một hảo hán

Tên là Lý Hưng Chi.

 

Có lần, khi phiêu bạt,

Cùng vị hảo hán này

Ông vượt qua biên giới,

Sống tạm giữa rừng cây.     

 

Một sáng nọ, tỉnh dậy,

Ông thấy một ông già

Dáng dị thường, quắc thước,

Cứ lởn vởn quanh nhà.

 

Ông già ấy, thật lạ,

Cứ nhìn ông chằm chằm,

Tay mân mê bối rối

Chiếc gậy trúc đang cầm,

 

Nguyễn Bỉnh Khiêm ra hỏi.

Ông đáp: Đi ngang qua

Thấy có luồng khí lạ

Bốc lên từ mái nhà.

 

Và rằng ông vất vả

Tìm kiếm khắp đó đây

Một cuốn sách rất quí,       

Tìm đã hai năm nay.

 

Khi ông già được hỏi

Cuốn sách đó là gì,

Ông đáp: Đó là cuốn

“Thái Ất Kinh tiên tri”.

 

Rằng thầy tôi ngày trước

Đem tặng nó một người

Là sứ thần Đại Việt,

Rồi người ấy qua đời

 

Trao nó cho môn đệ.

Giờ tôi tìm người này.

Vì thấy có khí lạ,

Nên tôi đã đến đây.

 

Người ấy có cuốn sách,

Nhưng cũng chẳng làm gì

Khi không có lời giải

Để hiểu lời tiên tri.

 

Tôi thì có lời giải,

Thầy trao khi qua đời.

Khi tìm được cuốn sách,

Sẽ có ích hai người.

 

Nguyễn Bỉnh Khiêm nghe thế,

Liền lẳng lặng vào nhà,

Lấy cuốn sách “Thái Ất”,

Hai tay đưa ông già.

 

Ông già nhìn thấy nó,

Sụp xuống lạy rất lâu.

Rồi ông chăm chú đọc,

Đọc và giảng từng câu.

 

Hai người đọc, bàn luận

Bảy ngày bảy đêm dài.

Đọc và hiểu mọi chuyện

Quá khứ và tương lai.

 

Rồi cả hai vội vã,

Chia tay, người một nơi

Sợ hãi vì phạm thượng

Do hiểu được ý trời.

 

Ông già lên phương Bắc.

Nguyễn Bỉnh Khiêm một mình

Về nước, thi, đỗ trạng,

Rồi sau thành Trạng Trình.

 

*

Có một anh trò giỏi

Đến thăm thầy Trạng Trình.

Hôm ấy ba mươi Tết,

Ông đang ở làng mình.

 

Hai người đang bàn luận

Về tướng số, tử vi,

Về nhân tình thế thái,

Về sấm ký, tiên tri.

 

Bỗng ngoài cổng ai đó

Bảo có việc muốn nhờ.

Ông sai anh đầy tớ

Bảo người ấy hẵng chờ.

 

Rồi thầy trò nhà Trạng

Cùng bấm quẻ tử vi

Để đoán biết người ấy

Sang đây để làm gì.   

 

Cả hai người bốc quẻ,

Trúng “thiết đoản, mộc trường”.

Tức “gỗ dài, sắt ngắn.”

Một quẻ rất bình thường.

 

“Theo con, người ấy đến

Để hỏi mượn chiếc mai.

Chiếc mai lưỡi sắt ngắn,

Mà cán gỗ lại dài.”

 

Quan Trạng nghe, liền đáp:

“Theo ý thầy, ông này

Đến để mượn chiếc búa.

Mời ông ta vào đây.”

 

Và rồi ông hàng xóm

Bước vào, chào hai người,

Hỏi mượn tạm chiếc búa,

Lúc ra về, mỉm cười.

 

Thấy học trò ngơ ngác,

Thầy Trạng nói ôn tồn:

“Con bấm quẻ rất khá,

Ta có lời khen con.

 

Nhưng đúng quẻ chưa đủ,

Còn phải đoán, phải suy.

Hôm nay ba mươi Tết,

Hỏi mượn mai làm gì?

 

Phải chăng là mượn búa?

Cũng “thiết đoản, mộc trường”

Để bổ củi, nấu bánh,

Đơn giản và bình thường.   

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét