Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 21

 

 

CHU VĂN AN

(1292 - 1370)

 

Đại Việt Sử Ký chép:

“An là người Thanh Đàm

(Nay thuộc đất Hà Nội.

Thanh Trì và Linh Đàm).

 

Tính cương nghị, thẳng thắn.

Tiết tháo, không cầu vinh.

Trong và ngoài đều sạch.

Đạm bạc và giữ mình.

 

Chỉ ở nhà đọc sách.

Nổi tiếng khắp gần xa.

Học trò đứng đầy cửa.

Nhiều người đỗ đại khoa.

 

Lớn như Phạm Sư Mạnh

Và Lê Quát đại thần

Cũng xưng trò lễ phép

Và quỳ lạy dưới sân.

 

Được thầy tiếp, trò chuyện,

Dẫu chỉ một vài câu,

Đã lấy làm mừng lắm.

Sợ, không dám ngẩng đầu.

 

An là người nghiêm khắc.

Ai sai thì phê bình.

Thậm chí còn quát tháo.

Nhưng có nghĩa, có tình.

 

Vua Minh Tông quý mến

Mời ông ra làm quan

Tư nghiệp Quóc Tử Giám,

Dạy con vua, con quan.

 

Thấy quan trái phép nước,

Vua không lo cho dân,

Ông dâng sớ đòi chém

Bảy tên quan nịnh thần.

 

Đó là Thất Trảm Sớ.

Tiếc là vua không nghe.

Ông buồn chán thế sự,

Treo mũ, xin về quê.

 

Nơi ông chọn về ẩn

Là khu núi Chí Linh.

Triều đình có việc lớn

Thì đi kiệu về kinh.

 

Vua Dụ Tông nhiều bận

Muốn được trao cho ông

Đảm việc lớn chính sự.

Ông một mực nói không.

 

Hiến Từ Thái Hậu nói:

Một người như ông ta

Cái tâm lớn, chí lớn,

Đâu dễ làm sai nha.

 

Vua nghe, rất cảm kích,

Bèn sai bọn nội thần

Mang quần áo đến tặng.

Ông nhận, rồi cho dân.

 

Hay tin Dụ Tông mất,

Chọn vua mới lên thay,

Ông cả mừng, vội vã

Chống gậy vào triều ngay.

 

Làm xong các nghi lễ,

Ông lại chống gậy về.

Không nhận chức nào hết.

Mặc cho người khen chê.

 

Đúng là bậc cao thượng.

Thiên hạ kính trọng ông.

Lúc về già, ông mất,

Người đến viếng rất đông.

 

Vua sai quân đến tế

Rồi ban lệnh từ nay

Văn Miếu Quốc Tử Giám

Phải thờ con người này”.

 

*

Cuốn Sử Ký viết thế.

Đủ biết ông là ai.

Một nhà thơ, nhà giáo.

Một nhân sĩ hiền tài.

 

Ông đã có công lớn

Truyền bá vào nước ta

Các giá trị đạo đức

Và văn hóa Nho Gia.

 

Một tấm gương liêm khiết

Và dũng cảm hơn người.

Ông đáng được kính trọng

Và tôn vinh muôn đời.

 

*

Chu Văn An tên thật.

Đơn giản chỉ Chu An,

Tên chữ là Linh Triệt.

Khi về ẩn, an nhàn

 

Ông lấy hiệu Tiều Ẩn -

Ông tiều thích ngủ khì.

Quê ở xã Thanh Liệt,

Nay thuộc huyện Thanh Trì.

 

Ông là người chính trực,

Từng đỗ Thái học sinh,

Nhưng ở nhà dạy học,

Chọn hai chữ yên bình.

 

Trường mở, đông người học,

Bên kia bờ sông Tô.

Ông có công truyền bá

Các tư tưởng Đạo Nho.

 

Không ít các trò học

Thành nổi tiếng sau này.

Phạm Sư Mạnh, Lê Quát

Vẫn cung kính thăm thầy.

 

Ông là thầy dạy học,

Của vị vua tương lai

Là Thái tử Trần Vượng,

Dạy cả đức lẫn tài.

 

Sau khi Minh Tông mất,

Vua Dụ Tông lên thay,

Một ông vua hèn yếu,

Thích đàn hát suốt ngày.

 

Vua ham chơi như thế

Nên quan nịnh lộng quyền,

Triều chính không ổn định,

Lòng dân cũng không yên.

 

Ông lui về ở ẩn

Ở vùng núi Phượng Hoàng,

Viết sách và dạy học

Cho lũ trẻ trong làng.

 

Cuộc đời ông thanh bạch,

Liêm khiết và chí công

Được xem là gương sáng

Vào thời đại của ông.

 

Ông còn viết nhiều sách:

Thơ gồm hai tập dày,

Chữ Nôm và chữ Hán,

Tinh tế và rất hay.

 

Cả “Tứ Thư thuyết ước”

Cũng là sách của ông,

Ngoài ra còn mấy cuốn

Thuốc Bắc và thuốc Đông.

 

Hiện còn có lăng mộ

Và ngôi đền thờ ông

Nằm lưng chừng Núi Phượng,

Người đến viếng rất đông.

 

*

Chuyện rằng ông mở lớp

Ngay bên bờ sông Tô.

Lớp, nghe nói, không lớn,

Nhưng rất đông học trò.

 

Trong số học trò ấy,

Ông để ý một người,

Sáng nào cũng đến sớm,

Ghi chép kỹ từng lời.

 

Ông khen, hài lòng lắm,

Nhưng không biết người này,

Con nhà ai, giàu, đói

Và từ đâu đến đây.

 

Bèn cho người lặng lẽ

Theo anh kia về nhà,

Nhưng khi đến Đầm Đại

Thì biến mất bất ngờ.

 

Cái Đầm Đại ngày ấy

Nhiều sen và vân sam,

Bây giờ vẫn chưa lấp.

Đó là hồ Linh Đàm.

 

Mọi người lấy làm lạ,

Nhưng sáng ngày hôm sau,

Người học trò vẫn đến,

Kinh sử thuộc làu làu.

 

Một lần, trời hạn lớn,

Lúa ngoài đồng cháy khô.

Chu Văn An buồn bã

Nói với các học trò,

 

Rằng nếu ai có thể

Thì làm mưa giúp dân.

Người học trò lạ ấy

Đứng trước thầy, phân vân:

 

“Thưa thầy, con làm được,

Tuy trái với lệnh trời.

Nhưng con nghĩ thà chết,

Không thể không giúp người.”

 

Rồi người ấy thong thả

Bước ra giữa sân trường,

Sau khi đọc thần chú,

Vung mực khắp bốn phương.

 

Khi nghiên mực đã cạn,

Anh tung nó lên cao.

Lập tức trời nổi gió

Rồi mưa xối ào ào.

 

Trời mưa suốt đêm đó.

Phía Đầm Đại chớp lòa

Rồi sấm nổ liên tục.

Sáng tỉnh dậy, người ta

 

Thấy giữa hồ trôi nổi

Một con thuồng luồng to.

Chu Văn An vội vã

Cho gọi đám học trò

 

Vớt nó lên chôn cất.

Rồi dân lập miếu thờ.

Cái mộ ấy, nghe nói,

Còn tận đến bây giờ.

 

Theo truyền thuyết kể lại,

Chỗ rơi xuống chiếc nghiên

Sau gọi là Đầm Mực,

Vì nước nó màu đen.

 

Còn quản bút rơi trúng

Đất làng Tả Thanh Oai,

Nên về sau đất ấy

Sinh ra lắm hiền tài.  

 

 

THƠ CHU VĂN AN

 

1

Tạp hứng ở Linh Sơn

 

Núi rừng như cảnh vẽ bình phong:

Bờ khe lơ lửng mặt trời hồng.

Lối đi cỏ mọc, người thưa thớt.

Thỉnh thoảng chim kêu trong tán thông.

 

2

Tạm nghỉ ở núi thôn Nam

 

Như áng mây chiều, lòng thảnh thơi.

Gió mát xua tan hết sự đời.

Cõi trần, cõi Phật xa vời vợi.

Ngoài thềm chim hót, cánh hoa rơi.

 

3

Kính họa thơ vua

 

Hạc múa ngoài sân, mây sát thềm.

Cầm hoa như chén, uống sương đêm.

Gió xuân thổi nhẹ rung đàn đá.

Dạo dưới hoa đào, lòng tĩnh êm.

 

4

Sông Thanh Lương

 

Hoàng hôn, vệt nắng vắt qua đồi.

Thuyền chài trên bến đứng từng đôi.

Ngắm mãi Thanh Lương không biết chán,

Triều dâng, ráng lạnh, áng mây trôi.

 

5

Đêm trăng, đi dạo trên con đường

có thông mọc ở núi Tiên Du

 

Con đường rợp bóng cây.

Xóm vắng, khói mờ bay.

Chiều buông, ai thổi sáo.

Trời thấp và nhiều mây.

Dưới khe lạnh cá nhảy.

Chim ngủ trong sương dày.

Người thổi sênh đâu vắng,

Để núi lạnh thế này?

 

6

Ao Miết Trì

 

Hoàng hôn, bóng nguyệt giỡn bóng tà.

Dưới ao sen nở, lá xen hoa.

Chỉ thấy cá bơi, rồng không thấy.

Trời chiều vắng bóng hạc bay qua.

Rêu non đẫm nước che lấp cửa.

Thoang thoảng đường đi mùi quế già.

Lòng này chưa nguội như tro lạnh.

Nhắc đến Tiên hoàng, giọt lệ sa.

 

7

Thơ làm ở Giang Đình

 

Một mình buồn đứng, ngắm thuyền câu.

Nước dâng, sáo thổi gợi thêm sầu.

Xế bóng hoàng hôn, thi hứng cạn.

Hiu hắt trời thu biếc một mầu.

Sự nghiệp công danh thành cõi mộng.

Giang hồ du ngoạn đỡ buồn đau.

Đi ở tự mình, không trói buộc,

Khác nào ngang dọc cánh chim âu.

 

8

Sáng xuân

 

Thảnh thơi, nhà nhỏ giữa rừng cây.

Màu xanh của lá át màu mây.

Liếp mỏng nghiêng nghiêng che rét nhẹ.

Cánh hoa sương ướt, trời như say.

Lòng như mặt giếng, luôn thanh thản.

Bên rừng lưu luyến cánh mây bay.

Khói thông sắp hết, trà đang nguội.

Một tiếng chim kêu, tỉnh mộng ngày.

 

9

Đầu hè

 

Nhà tranh, núi vắng, giấc mơ màng.

Gió thổi hàng cây, nắng nhạt vàng.

Chim én rủ nhau tìm tổ cũ.

Ve sầu đầu hạ hát âm vang.

Sen nở dưới khe không gợn bẩn.

Trúc mọc xanh tươi phía cuối làng.

Cành ngô phượng đậu, lâu thành biếng.

Tập sách trên bàn, gió lật trang.

 

10

Trông về Thái Lăng

 

Xế chiều, rừng bách ngát màu xanh.

Hòn đá to nghiêng cỏ bám quanh.

Gió thổi, núi buồn thêm ảm đạm.

Trên trời mây rách dạt trôi nhanh.

Hoa rụng bờ khe, mưa lất phất.

Ngoài đồng im bặt tiếng chim oanh.

Bát ngát cỏ xuân, xanh đến lạ.

Dùng dằng định bước, bước không đành.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét