HUYỀN QUANG LÝ ĐẠO TÁI
(1254 - 1334)
Huyền Quang Lý Đạo Tái
Là bậc đại thiền minh,
Người Vạn Tải, Nam Sách,
Huyện Gia Bình, Bắc Ninh.
Gia cảnh ông nghèo khổ,
Bị họ hàng chê cười,
Nên bố mẹ quyết chí
Làm ăn ở đất người.
Ông không được đi học,
Thường lên chùa đứng rình
Để nghe lỏm, học mót,
Mà thuộc chữ, làu kinh.
Lúc ông hai mươi tuổi,
Năm Một Hai Bảy Hai,
Đỗ Trạng nguyên, đầu bảng,
Nổi tiếng về văn tài.
Sau đó ông được bổ
Làm trong viện Nội hàn,
Soạn văn, tiếp sứ Bắc,
Rồi treo áo từ quan.
Vua trọng tài, đức độ,
Gả con gái cho ông,
Nhưng ông muốn thoát tục
Nên cúi bẩm, xin không.
Ông qui y, theo Phật,
Tu ở chùa Hoa Yên
Ở vùng núi Yên Tử,
Nhanh chóng thành sư thiền.
Trước đấy, như ta biết,
Đức vua Trần Nhân Tông
Lên Yên Tử tu luyện,
Lập Trúc Lâm Thiền tông.
Năm Một Ba Không Tám
Ngài viên tịch, Pháp Loa
Nhận từ Ngài y bát
Của dòng Thiền nước nhà.
Năm Một Ba Một Bảy,
Lúc viên tịch, Pháp Loa
Truyền cho ông y bát,
Thành vị Tổ thứ ba.
Vua Anh Tông, lần nọ,
Đã dùng kế mỹ nhân
Để thử thách đạo hạnh
Của Huyền Quang người trần.
Tất nhiên vua thất bại,
Lòng hối hận, đức vua
Bắt mình phải vất vả
Leo lên núi, vào chùa
Xin lỗi Ngài, sau đó
Phong Ngài làm quốc sư,
Một trí tuệ sáng láng,
Một cõi tâm nhân từ.
Năm Một Ba Ba Bốn,
Ở tuổi hơn tám mươi,
Ngài viên tịch, để lại
Một tấm gương cho đời.
Huyền Quang Lý Đạo Tái
Còn là một thi nhân
Tinh tế và sâu sắc
Về cõi Phật, đời trần.
May mắn còn giữ được
Một số bài của ông
Mà khi đọc không thể
Không xao xuyến nỗi lòng.
THƠ LÝ ĐẠO TÁI
1
Tức cảnh ngày xuân
Người đẹp ngồi thêu dải gấm dày.
Dưới cành hoa đỏ, cánh chim bay.
Thương biết bao nhiêu xuân ý ấy,
Khi nàng tư lự chợt ngừng tay.
2
Trong thuyền
Một lá thuyền con, một khách chèo,
Ra khỏi mé rừng, gió đuổi theo.
Hoàng hôn, nước lớn, con chim trắng,
Hòa lẫn sông trong với nắng chiều.
3
Nhà đá
Nửa gian nhà đá lẫn trong mây.
Áo ấm mùa đông cũng đủ dày.
Sách kinh trên án, sư trên chiếu.
Mặt trời đã quá mấy tầm cây.
4
Họa bài thơ đề trên vách chùa Bảo Khánh
Cỏ vàng, khói nhạt, sóng lăn tăn.
Quán bắc, lầu nam nắng tắt dần.
Tiếc thơ không hứng, xuân không chủ,
Mấy bụi hoa buồn trước gió xuân.
5
Ngủ trưa
Sau mưa khe núi sạch, ban ngày
Ngủ một giấc dài dưới bóng cây.
Tỉnh dậy nhìn đời đầy bụi bặm,
Mà tưởng như mình đang lúc say.
6
Trước bếp lò, tức cảnh
Hương tắt từ lâu, củi đã tàn.
Tay cầm ống thổi, quạt hoa nan.
Trẻ con hỏi chữ, vu vơ đáp.
Ai chê ta biếng, quá an nhàn?
7
Ngủ ngày
Tự mình cày cấy ruộng ông cha.
Cây cao bóng rợp mát quanh nhà.
Con chim ngoài cửa thôi không hót.
Đánh một giấc dài bên khóm hoa.
8
Nhà trong núi
Xao xuyến hương thu chạm bức rèm.
Nhà gối rừng cây tựa gối mềm.
Lòng ta yên tĩnh như sông núi.
Sao dế ngoài vườn khóc suốt đêm?
9
Chơi thuyền
Gặp gió, thuyền con lướt giữa dòng.
Sông xanh, núi biếc, trời mênh mông.
Tiếng sáo làng chài sau bãi sậy.
Vô ý, trăng chiều rơi đáy sông.
10
Đề núi non bộ của thí chủ ở Động Hiên
Cũng núi nhấp nhô, cũng cỏ cây.
Trăng lồng khói lạnh, cánh hoa bay.
Bây giờ tục lụy thôi vương vấn,
Giấc ngủ an nhàn trong gió mây.
11
Gửi những người trẻ tuổi
đang tấp tểnh muốn làm quan
Giàu sang khó bắt giống như mây.
Thời gian như nước, ngày qua ngày.
Sao không về ẩn nơi rừng núi,
Rừng thông là chiếu, gối là mây?
12
Đề chùa Đạm Thủy
Bên chùa cây cỏ tốt, xanh tươi.
Chiều xế, trời quang, vắng bóng người.
Nhân tiện đi ngang vào Đạm Thủy,
Giúp chùa chuông mõ, nhặt hoa rơi.
13
Thu sớm
Đêm thu, hơi mát lọt qua mành.
Lá cây khẽ chạm mái nhà tranh.
Quên mất trong nhà hương đã lụi.
Ngoài vườn trăng kẹt tán cây xanh.
14
Hoa cúc
Bài một
Quên cả chính mình, quên nhớ thương,
Ngồi lặng đìu hiu, lạnh mép giường.
Không lịch, trong rừng nhìn cúc nở,
Giật mình mới biết đã Trùng Dương.
15
Hoa cúc
Bài hai
Người ở trên lầu, hoa dưới sân.
Thắp hương, phiền muộn tự tan dần.
Hoa người tương hợp, so hoa khác,
Hoa cúc trội hơn gấp bội phần.
16
Hoa cúc
Bài ba
Tưởng Hủ tiên sinh 1) thông vạn mẫu.
Tây Hồ xử sĩ 2) lắm mai vàng.
Nghĩa khí bất đồng thường khó gặp.
Vườn đầy cúc nở lúc xuân sang.
17
Hoa cúc
Bài bốn
Hàng năm thu đến, lúc sương rơi,
Gió mát trăng trong, ngẫm sự đời.
Cúc vàng đẹp thế, sao không thích?
Muôn nhà rực rỡ cúc vàng tươi.
18
Nhân có việc, viết thơ đề ở chùa Cửu Lan
Thẹn mình đức mỏng mà nên nghiệp,
Luống để Hàn Sơn, Thập Đắc buồn.
Chi bằng theo bạn lui về ẩn,
Sống giữa muôn trùng núi với non.
19
Thơ đề am núi Yên Tử
Am thiền cao chót vót.
Cửa mở trên tầng mây.
Động Rồng, mặt trời chiếu.
Khe Hổ, băng còn dày.
Vụng về, không mưu chước,
Yếu, chiếc gậy cầm tay.
Rừng trúc nhiều chim đậu,
Quá nửa bạn sư thầy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét