Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 21

 

HUYỀN QUANG LÝ ĐẠO TÁI

(1254 - 1334)

 

Huyền Quang Lý Đạo Tái

Là bậc đại thiền minh,

Người Vạn Tải, Nam Sách,

Huyện Gia Bình, Bắc Ninh.

 

Gia cảnh ông nghèo khổ,

Bị họ hàng chê cười,

Nên bố mẹ quyết chí

Làm ăn ở đất người.

 

Ông không được đi học,

Thường lên chùa đứng rình

Để nghe lỏm, học mót,        

Mà thuộc chữ, làu kinh.      

 

Lúc ông hai mươi tuổi,

Năm Một Hai Bảy Hai,

Đỗ Trạng nguyên, đầu bảng,

Nổi tiếng về văn tài.

 

Sau đó ông được bổ

Làm trong viện Nội hàn,

Soạn văn, tiếp sứ Bắc,

Rồi treo áo từ quan.  

 

Vua trọng tài, đức độ,

Gả con gái cho ông,

Nhưng ông muốn thoát tục

Nên cúi bẩm, xin không.

 

Ông qui y, theo Phật,

Tu ở chùa Hoa Yên

Ở vùng núi Yên Tử,

Nhanh chóng thành sư thiền.

 

Trước đấy, như ta biết,

Đức vua Trần Nhân Tông

Lên Yên Tử tu luyện,

Lập Trúc Lâm Thiền tông.

 

Năm Một Ba Không Tám

Ngài viên tịch, Pháp Loa

Nhận từ Ngài y bát

Của dòng Thiền nước nhà.

 

Năm Một Ba Một Bảy,

Lúc viên tịch, Pháp Loa

Truyền cho ông y bát,

Thành vị Tổ thứ ba.  

 

Vua Anh Tông, lần nọ,        

Đã dùng kế mỹ nhân

Để thử thách đạo hạnh

Của Huyền Quang người trần.

 

Tất nhiên vua thất bại,

Lòng hối hận, đức vua

Bắt mình phải vất vả

Leo lên núi, vào chùa

 

Xin lỗi Ngài, sau đó

Phong Ngài làm quốc sư,

Một trí tuệ sáng láng,

Một cõi tâm nhân từ.

 

Năm Một Ba Ba Bốn,

Ở tuổi hơn tám mươi,

Ngài viên tịch, để lại

Một tấm gương cho đời.     

 

Huyền Quang Lý Đạo Tái

Còn là một thi nhân

Tinh tế và sâu sắc

Về cõi Phật, đời trần.

 

May mắn còn giữ được

Một số bài của ông

Mà khi đọc không thể

Không xao xuyến nỗi lòng. 

 

 

THƠ LÝ ĐẠO TÁI

 

1

Tức cảnh ngày xuân

 

Người đẹp ngồi thêu dải gấm dày.

Dưới cành hoa đỏ, cánh chim bay.

Thương biết bao nhiêu xuân ý ấy,

Khi nàng tư lự chợt ngừng tay.

 

2

Trong thuyền

 

Một lá thuyền con, một khách chèo,

Ra khỏi mé rừng, gió đuổi theo.

Hoàng hôn, nước lớn, con chim trắng,

Hòa lẫn sông trong với nắng chiều.

 

3

Nhà đá

 

Nửa gian nhà đá lẫn trong mây.

Áo ấm mùa đông cũng đủ dày.

Sách kinh trên án, sư trên chiếu.

Mặt trời đã quá mấy tầm cây.

 

4

Họa bài thơ đề trên vách chùa Bảo Khánh

 

Cỏ vàng, khói nhạt, sóng lăn tăn.

Quán bắc, lầu nam nắng tắt dần.

Tiếc thơ không hứng, xuân không chủ,

Mấy bụi hoa buồn trước gió xuân.

 

5

Ngủ trưa

 

Sau mưa khe núi sạch, ban ngày

Ngủ một giấc dài dưới bóng cây.

Tỉnh dậy nhìn đời đầy bụi bặm,

Mà tưởng như mình đang lúc say.

 

6

Trước bếp lò, tức cảnh

 

Hương tắt từ lâu, củi đã tàn.

Tay cầm ống thổi, quạt hoa nan.

Trẻ con hỏi chữ, vu vơ đáp.

Ai chê ta biếng, quá an nhàn?

 

7

Ngủ ngày

 

Tự mình cày cấy ruộng ông cha.

Cây cao bóng rợp mát quanh nhà.

Con chim ngoài cửa thôi không hót.

Đánh một giấc dài bên khóm hoa.

 

8

Nhà trong núi

 

Xao xuyến hương thu chạm bức rèm.

Nhà gối rừng cây tựa gối mềm.

Lòng ta yên tĩnh như sông núi.

Sao dế ngoài vườn khóc suốt đêm?

 

9

Chơi thuyền

 

Gặp gió, thuyền con lướt giữa dòng.

Sông xanh, núi biếc, trời mênh mông.

Tiếng sáo làng chài sau bãi sậy.

Vô ý, trăng chiều rơi đáy sông.

 

10

Đề núi non bộ của thí chủ ở Động Hiên

 

Cũng núi nhấp nhô, cũng cỏ cây.

Trăng lồng khói lạnh, cánh hoa bay.

Bây giờ tục lụy thôi vương vấn,

Giấc ngủ an nhàn trong gió mây.

 

11

Gửi những người trẻ tuổi

đang tấp tểnh muốn làm quan

 

Giàu sang khó bắt giống như mây.

Thời gian như nước, ngày qua ngày.

Sao không về ẩn nơi rừng núi,

Rừng thông là chiếu, gối là mây?

 

12

Đề chùa Đạm Thủy

 

Bên chùa cây cỏ tốt, xanh tươi.

Chiều xế, trời quang, vắng bóng người.

Nhân tiện đi ngang vào Đạm Thủy,

Giúp chùa chuông mõ, nhặt hoa rơi.

 

13

Thu sớm

 

Đêm thu, hơi mát lọt qua mành.

Lá cây khẽ chạm mái nhà tranh.

Quên mất trong nhà hương đã lụi.

Ngoài vườn trăng kẹt tán cây xanh.

 

14

Hoa cúc

Bài một

 

Quên cả chính mình, quên nhớ thương,

Ngồi lặng đìu hiu, lạnh mép giường.

Không lịch, trong rừng nhìn cúc nở,

Giật mình mới biết đã Trùng Dương.

 

15

Hoa cúc

Bài hai

 

Người ở trên lầu, hoa dưới sân.

Thắp hương, phiền muộn tự tan dần.

Hoa người tương hợp, so hoa khác,

Hoa cúc trội hơn gấp bội phần.

 

16

Hoa cúc

Bài ba

 

Tưởng Hủ tiên sinh 1) thông vạn mẫu.

Tây Hồ xử sĩ 2) lắm mai vàng.

Nghĩa khí bất đồng thường khó gặp.

Vườn đầy cúc nở lúc xuân sang.

 

17

Hoa cúc

Bài bốn

 

Hàng năm thu đến, lúc sương rơi,

Gió mát trăng trong, ngẫm sự đời.

Cúc vàng đẹp thế, sao không thích?

Muôn nhà rực rỡ cúc vàng tươi.

 

18

Nhân có việc, viết thơ đề ở chùa Cửu Lan

 

Thẹn mình đức mỏng mà nên nghiệp,

Luống để Hàn Sơn, Thập Đắc buồn.

Chi bằng theo bạn lui về ẩn,

Sống giữa muôn trùng núi với non.

 

19

Thơ đề am núi Yên Tử

 

Am thiền cao chót vót.

Cửa mở trên tầng mây.

Động Rồng, mặt trời chiếu.

Khe Hổ, băng còn dày.

Vụng về, không mưu chước,

Yếu, chiếc gậy cầm tay.

Rừng trúc nhiều chim đậu,

Quá nửa bạn sư thầy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét