Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 19

 

 

PHẠM SƯ MẠNH

(1300 - 1384)

 

Ông là một vị tướng

Trấn thủ vùng biên cương/

Quê ở làng Hiệp Thạch,

Huyện Kinh Môn, Hải Dương.

 

Là học trò xuất sắc

Của thầy Chu Văn An,

Ông cũng rất nổi tiếng

Cả về tài thơ văn.

 

Danh sĩ Phan Huy Chú

Hết lời khen thơ ông:

“Một hồn thơ lai láng,

Vang vọng khắp non sông”.

 

Thơ ông thiên tả thực,

Ngoài phong cảnh thiên nhiên,

Còn phản ánh cuộc sống,

Đặc biệt ở vùng biên.

 

Là vị quan mẫn cán

Phục vụ ba vua Trần,

Ông có nhiều đóng góp

Cho triều đình, cho dân.

 

Vì giỏi khoa đối đáp,

Ông được Trần Dụ Tông

Cho đi sứ Trung Quốc

Thuyết về chuyện “trụ đồng”.

 

Chả là sứ Trung Quốc

Không ít lần khinh ta,

Hay nhắc chuyện Mã Viện

Đã “yểm bùa” Hai Bà.

 

Sau lần đi sứ ấy,

Nhờ hùng biên của ông,

Mà vua quan phương Bắc

Thôi nhắc chuyện “trụ đồng”.

 

Về nước, ông thăng tiến,

Danh tiếng nổi như cồn.

Giữ chức Tri Khu Mật

Và Nhập Nội Nạp Ngôn.

 

Mất Một Ba Tám Bốn

Khi ở ẩn về già,

Ngoài tiếng thơm, để lại

Một di sản thơ ca.

 

Đó là tập thơ lớn

Còn lưu đến ngày nay,

Là Hiệp Thạch Thi Tập,

Được trích trong bài này.

 

 

THƠ PHẠM SƯ MẠNH, trích

 

1

Trên thuyền, tức sự làm thơ

 

Ba vua thay đổi vẫn làm quan.

Những mong lên núi sống an nhàn.

Đốt hương ngồi ngắm trăng sông Nhị.

Quê nhà chợt nhớ, nghĩ lan man.

 

2

Đi ngang qua mộ An Phủ Nguyễn Sĩ Cố

 

Hàng nghìn mẫu trúc rộng bao la.

Trước mồ An Phủ ngẫm xót xa.

Trong núi, nhà xưa ngồi uống rượu,

Nay ngựa dừng chân giữa bóng tà.

 

3

Đề chùa Cam Lộ

 

Tia nắng bình minh gõ cửa thiền.

Bóng chùa dưới nước hiện dần lên.

Thơ cũ Mục Lăng nay đọc lại.

Gió vờn sương trắng lẫn tóc đen.

 

3

Qua động Hoàng Long

 

Phố Nha, núi Thạch đứng bên sông.

Buồm căng, thuyền đến động Hoàng Long.

Núi núi kề nhau như chuỗi ngọc.

Bầu trời như nước, rất xanh trong.

 

4

Lầu trên hồ ở chùa Đông Sơn

 

Chùa cổ hồ xưa cỏ mọc dày.

Trúc thông kín núi, gió mưa bay.

Người già trong xóm giờ còn kể:

Thái sư nam tiến ghé nơi này.

 

5

Qua Tiêu Tương 1)

 

Tiêu Tương, Thanh Thảo ở kề nhau.

Thu về, phong rụng, lá vàng au.

Hai bà phi mất 2), cung không mở.

Chiều xế, chim kêu những gợi sầu.

 

1. Tiêu Tương, nơi hợp lưu hai con sông Tiêu và Tương, phía bắc huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam. Thanh Thảo, một hồ nước gần đó. Có lẽ Phạm Sư Mạnh làm bài này khi đi sứ Trung Quốc.

2. Tương truyền Nga Hoàng và Nữ Anh là con gái vua Nghiêu và là vợ vua Thuấn. Khi vua Thuấn mất, hai bà phi khóc thương ở bờ sông Tiêu cho đến chết.

 

6

Họa thơ sứ nhà Minh, đề trạm Nhị Hà 

 

Sứ thần triều mới bước thong dong

Một mình chống gậy dạo ven sông.

Văn Lang thành cổ trông như núi

Sông Nhị phù sa thấm mát đồng.

Tản Viên núi đẹp, xanh cây lá.

Đền thờ ông Trọng 1) phủ mây hồng.

Đề thơ, mực ướt trên tường trạm.

Triều này chắc nỏi tiếng Tam Ung 2).

 

1. Tức Lý Ông Trọng, một danh tướng Việt nam được Tần Thủy    Hoàng trọng dụng. Đền thờ ông ở Chèm, Hà Nội.

2. Trong Hán Thư, tam ung là Bích Ung (nhà giảng học), Minh Đường (nhà ban hành chính lệnh) và Linh Đài (nhà xem thiên văn. Ý câu này khen nhà Minh mở  mang văn hóa không kém các triều đại trước.

 

7

Thơ đề khi lên chơi núi Thiên Kỳ

 

Đông Triều nổi tiếng đẹp xưa nay.

Bận, chưa cáo nghỉ để về đây.

Thèm nhìn ruộng lúa, cây che khuất.

Muốn bám xe rồng, mây cuốn bay

Gió, nước ngoài hiên, rêu ẩm ướt.

Trúc, hoa bên dậu, đá khô gầy.

Tiên Hoàng ngày trước từng lưu lại.

Giờ nhìn xuân vãn, thấy buồn lây.

 

8

Thơ đề ở tháp Báo Thiên

 

Đông tây trấn giữ, vững kinh thành.

Tháp cao sừng sững, chọc trời xanh.

Vững chãi non sông nhờ cột đỡ.

Mãi mãi không mòn đỉnh tháp canh.

Gió thổi, chuông kêu như ứng đáp.

Như đèn, sao sáng suốt năm canh.

Tháp làm bút vẽ, sông làm mực,

Những muốn làm thơ vịnh thắng danh.

 

9

Lên núi Dục Thúy, đề thơ

 

Được cùng vua theo hầu.

Thuyền đậu bến Nha Đầu.

Lên cao - đâu cũng biển.

Nước và trời như nhau.

Chùa chùa nơi Bồng Đảo.

Buồm buồm chốn Doanh Châu 3).

Tuổi mới sáu mươi sáu.

Lòng hướng Phật từ lâu.

 

10

Đi chơi núi Phật Tích, ngẫu nhiên đề thơ

 

Leo lên đỉnh núi, khách làng văn

Ngắm cảnh, quên bao nỗi nhọc nhằn.

Gió thổi rừng thông thành sóng lạnh.

Mây vờn quanh núi tựa vành khăn.

Chín khúc nhạc Thiều vang khắp núi.

Đỉnh non mây trắng tự Tam Thần

Thôi, chuyện họ Từ 3) đừng nói nữa.

Ngâm thơ, thổi sáo, bước tần ngần.

 

11

Miếu Hạng Vũ ở Ô Giang

 

Cả đời bàn mãi chuyện hưng vong.

Rượu thơm một chén viếng Trùng Đồng.

Giết kẻ đầu hàng, còn bội ước.

Mưu đồ nghiệp bá thoắt thành không.

Trăng khóc anh hùng, soi đất Hạ.

Mây buồn việc nước, phủ Giang Đông.

Bao kẻ hơn người tài nhổ núi,

Mà xác thành tro dưới cỏ đồng.

 

12

Đi kinh lý trong quận

 

Đậu thuyền bến đá ngược dòng sông.

Đón sứ thần lên, người rất đông.

Lô Thủy, Thao Giang dân tụ họp.

Văn Lang, 1) Thục Quốc 2) sử ghi công.

Nay nước nhà yên, dân một mối,

Dẫu đang lắm chuyện chửa xuôi dòng.

Ta vâng mệnh vua đi kinh lý,

Dẹp loạn, trừ gian vì việc công.

 

(1) Tên n¬ước ta vào thời Hùng V¬ương.

(2) Tức Thục An D¬ương v¬ương.

 

13

Đi tuần ở châu Chân Đăng

 

Đất trời tạo dựng Tam Giang lộ.

Chưa thấy ở đâu đẹp thế này.

Cổ lũy bao quanh trăm tộc thượng.

Chân Đăng to lớn phía miền tây.

Đá như tường chắn, ao làm lũy.

Nhà chòi ngất ngưởng tít trên cây.

Muốn lên Côn Luân thăm Huyền Phố,

Cưỡi mây, đạp gió tựa chim bay.

 

14

Lên núi Thiên Kỳ, đề thơ lưu niệm

 

Sông núi Đông Triều tựa cõi tiên.

Chẳng toan ở ẩn, bởi vua hiền.

Nay về thăm lại đồng xanh lúa.

Núi rồng mây phủ khó leo lên.

Lối trúc đường hoa toàn đá đẹp.

Nhà bên dòng nước, gió ngoài hiên.

Đây nơi tiên đế xưa du thưởng.

Xuân đến thường buồn, chẳng ngẫu nhiên.

         

15

Thơ đề ở động Bảo Phúc, huyện Hiệp Sơn

 

Được buổi đi chơi, rỗi việc công.

Động nằm sát biển, nước xanh trong.

Tử Phủ, Thanh Đô, kia, trên nước.

Núi ẩn trong mây xốp bập bồng.

Thu đến, Bạch Đằng thêm sinh khí.

Kỳ quan vũ trụ hiện đằng đông.

Ướm hỏi Cát Tiên xem có thể

Cho ta một nửa núi này không?

 

16

Thơ đề núi Hoa Nham, Đông Triều

 

Như đóa hoa sen vút chọc trời,

Trấn giữ nghìn năm sát biển khơi.

Mây như cung điện tài điêu khắc,

Chùa tựa bình phong hoa thắm tươi.

Bắc phương - Vạn Kiếp như dương kích.

Xuân Thủy nam phương mộc sáng ngời.

Chống gậy chiều chiều lên ngắm cảnh.

Tinh hoa sông núi thấm vào người.

 

17

Họa thơ "Đề trạm Nhị Hà" của sứ thần nhà Minh

Bài một

 

Ao Chấn Tân soi, thấy mặt gầy.

Tay áo phất phơ trước gió bay.

Chiều xế, núi in hình xuống nước.

Ba sông cuồn cuộn đổ về đây.

Vạn dặm ruổi rong, đầu bạc trắng.

Làm quan, nhẩm tính, đã lâu ngày.

Lòng vẫn nhớ quê, hồn chợt hứng,

Khi đọc thơ ngài thấy tứ hay.

 

18

Họa thơ "Đề trạm Nhị Hà" của sứ thần nhà Minh

Bài hai    

 

Nước bạc từng ô, sáng giữa đồng.

Chiều thu, chống gậy bước thong dong.

Dập dờn trăng nổi sông Ngân Hán,

Sông Nhị hoàng hôn thoáng bóng rồng.

Nét chữ ngài đanh như thép bạc.

Mềm mại câu thơ tựa ráng hồng.

Trong trạm sứ thần thường rảnh rỗi,

Kể nhiều chuyện lạ khắp tây đông.

 

19

Đi chơi trên núi

Bài một

 

Mây tạnh, trời quang, lòng thảnh thơi.

Lên núi chiều thu dạo, nghỉ ngơi.

Bóng tùng cổ kính che tầm mắt.

Lững lờ suối lạnh cá đang bơi.

Đồng Long cuồn cuộn xuôi ra biển.

Hương Tượng núi cao đến chạm trời.

Cùng bạn đồng liêu vui ngắm cảnh.

Phủi rêu trên đá, viết thơ chơi.

 

20

Đi chơi trên núi

Bài hai

 

Vốn vẫn thích châu hẻo lánh này.

Cùng nhau cưỡi ngựa dạo hôm nay.

Quan chức ở đời như hạt cát,

Mà việc như sông chảy suốt ngày.

Sống mãi kinh thành giờ bạc tóc.

Trên núi nhà tranh sách chứa đầy.

Những muốn xin vua, vua có hiểu,

Cho về ở ẩn giữa rừng cây?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét