Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 18

 

TUỆ TĨNH

(Mất 1330)

 

Tuệ Tĩnh là pháp hiệu.

Ông là một thiền sư,

Tên thật Nguyễn Bá Tĩnh,

Tài giỏi và nhân từ.

 

Ông được tôn ông tổ

Ngành Nam dược nước ta.

Tiếc ông bị giặc bắt,

Sớm đưa về Trung Hoa.

 

Ông là thầy thuốc giỏi,

Lại vừa một nhà sư,

Viết “Nam dược thần hiệu”

Và “Hồng nghĩa giác tư”.

 

Ông xuất thân nghèo khổ,

Gia cảnh rất bình thường,

Quê ở xã Cẩm Vũ,

Huyện Cẩm Giàng, Hải Dương.

 

Khi mới lên sáu tuổi,

Bố mẹ ông qua đời,

Chùa Hải Triều, Giao Thủy,

Nuôi ông lớn thành người.

 

Năm tròn hăm hai tuổi,

Ông đậu Thái học sinh,

Vẫn ở chùa nghiên cứu,

Bốc thuốc giúp dân lành.

 

Đến năm ba mươi tuổi,

Ông về chùa Yên Trang,

Làm trụ trì ở đấy,

Nay thuộc huyện Cẩm Giàng.

 

Tuệ Tĩnh đỗ Hoàng giáp

Năm Một Ba Tám Năm,

Bị đem cống Trung Quốc

Khi tuổi đời năm lăm.

 

Ông tiếp tục bốc thuốc,

Nổi tiếng, dù ẩn cư.

Vua Minh yêu tài đức,

Phong “Đại y Thiền sư”.

 

Ông qua đời ở đấy,

Hàng nghìn dặm xa nhà.

Tài, không được cống hiến,

Ngẫm, chạnh lòng xót xa.

 

Tuệ Tĩnh đặt nền móng

Ngành y dược nước nhà,

Xây dựng thành nếp nghĩ -

Người ta dùng thuốc ta.

 

Nhờ ông mà cả nước,

Mỗi gia đình, đền chùa,

Có một vườn thuốc nhỏ

Cung cấp thuốc bốn mùa.

 

Nhiều lương y nổi tiếng

Làm tiếp việc của ông

Hoàng Đôn Hòa là một,

Dưới triều Lê Thế Tông.

 

Ông dùng các toa thuốc

Của Tuệ Tĩnh sư thiền

Chữa sốt rét cho lính,

Dập dịch vùng Thái Nguyên.

 

Có một đồ đệ khác,

Là Hải Thượng Lãn Ông,

Viết “Lĩnh Nam Bản Thảo”

Về thuốc Nam, thuốc Đông.

 

Ông trích nhiều toa thuốc

Của Tuệ Tĩnh Thiền sư,

Cả phần dưỡng sinh khí

Bằng hít thở từ từ.

 

Ở quê hương Tuệ Tĩnh,

Để ghi nhớ công ơn,

Có đền Thuốc Nam Thánh,

Và đền ở Tân Sơn.

 

Ông cũng được thờ cúng

Ở Thủy Nguyên, Hải Phòng,

Làm Thành hoàng một xã,

Có cả miếu thờ ông.

 

Đại danh y dân tộc,

Chết từ lâu, xa nhà,

Triết lý ông vẫn sống:

Người ta dùng thuốc ta!     

 

 

THƠ TUỆ TĨNH

 

1

Phò giá về kinh đô

 

Chương Dương, cướp giáo giặc.

Hàm Tử, bắt quân Hồ.

Giang sơn này phải giữ.

Lúc thái bình càng lo.

 

2

Tặng sứ bắc Sài Trang Khanh và Lý Chấn Văn

 

Vâng mệnh thiên triều đến tận đây.

Vua giao đi sứ chiếu cầm tay.

Quan lớn Bắc triều lưu luyến tiễn.

Dân Nam biết tiếng đã bao ngày.

Nói lời oai phúc thay thiên tử,

Mong tình hai nước nặng từ nay.

Cũng mong các vị lòng nhân đức,

Che chở cho dân của nước này.

     

3

Tiễn sứ Bắc Sài Trang Khanh

 

Tiễn người về nước sáng hôm nay.

Xăm xăm ngựa bước, rợp cờ bay.

Người đi kẻ ở, lòng lưu luyến,

Tần ngần chủ khách, rượu cầm tay.

Mới gặp ngày nào vui xướng hoạ,

Mà giờ ly biệt, nước cùng mây.

Không biết bao giờ còn gặp lại,

Để mong nói rõ tấm lòng này.

 

4

Thơ đề ở đền Bạch Mã

 

Bao đời nổi tiếng rất oai linh,

Nghe nói đến thần, ma quỷ kinh.

Bốn bề lửa cháy, đền không cháy.

Sấm chớp, cuồng phong chẳng giật mình.

Chỉ huy ba vạn quân yêu quái.

Trấn áp trăm nghìn ma quỉ binh.

Mạo muội mong thần xua giặc Bắc,

Để dân Nam Việt sống yên bình.

 

5

Bến đò Lưu Gia

 

Bến cũ Lưu Gia rợp bóng cây.

Xưa theo thuyền ngự đến nơi này.

Sông thu tháp nhỏ nghiêng soi bóng.

Đền hoang mộ cổ lá rơi đầy.

Thái Bình phủ rộng, trăm nghìn dặm.

Giang sơn nhà Lý chục đời nay.

Trở lại, khách thơ đầu đã bạc.

Hoa mai như tuyết rụng, đang bay.

 

6

Cảm hứng ngày xuân

Bài một

 

Mưa rơi cây tốt, ướt cành hoa.

Khách thơ đóng cửa ngồi trong nhà.

Một nửa đời xuân đành bỏ phí.

Năm mươi, cũng tự biết mình già.

Mang nặng ân vua, không ở ẩn.

Đêm ngày mong nhớ chốn quê xa.

Dũng khí ngày xưa chưa để mất,

Giờ ngồi uống rượu, xướng thơ ca.

 

7

Cảm hứng ngày xuân

Bài hai

 

Nhàn nhạt trăng khuya, đêm sắp tàn.

Hơi xuân lành lạnh, gió miên man.

Rặng liễu chao mình, hoa khép nụ.

Khóm trúc xạc xào, ngủ bất an.

Nhờ mưa, cây cỏ đang xanh tốt.

Tuổi làm tóc bạc, kém dung nhan.

Giải sầu tạm uống dăm ba chén.

Vỗ kiếm, một mình tựa lan can.

 

8

Thơ đề ở nhà nhỏ đồng quê

 

Nhà nhỏ đồng quê mới dựng xong.

Quanh năm đào lý tỏa hương nồng.

Áo lá nông phu in bãi biếc.

Lầu cao sáo vẳng, ánh trăng lồng.

Khe suối chia đôi bờ đất đỏ.

Đường làng mềm mại uốn cong cong.

Sống ẩn quả đây là lý tưởng.

Gió mát, trăng thanh, sáo mục đồng.

 

9

Vườn Phúc Hưng

 

Phúc Hưng, vùng đất nước bao quanh.

Ta có khu vườn mấy mẫu xanh.

Đình trúc mượt mà như ngọc bích.

Như châu, mai nở trắng trên cành.

Sau mưa, sai trẻ chăm vườn thuốc.

Nắng lên, mời bạn uống trà thanh.

Yên ổn trời Nam, không có giặc.

Gối cao nằm ngủ giấc ngon lành.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét