TRẦN BÌNH TRỌNG
(1259 - 1285)
Danh tướng Trần Bình Trọng,
Trong kháng chiến lần hai
Chống Nguyên Mông xâm lược,
Đã đem hết sức tài
Bảo vệ hai chủ tướng
Là Thái Tông, Thánh Tông,
Rồi bị giặc bắt sống,
Son sắt một tấm lòng.
Lần ấy giặc Mông Cổ
Đem năm mươi vạn quân
Chia làm hai mũi lớn
Cùng tấn công nhà Trần.
Sau trận đầu thất bại,
Tiết chế Hưng Đạo vương
Quyết định phải tạm rút
Về căn cứ Thiên Trường.
Ông giao Trần Bình Trọng
Một nhiệm vụ nặng nề:
Phải chốt giữ Thiên Mạc
Và các khu liền kề,
Để cầm chân quân địch,
Và giúp hai vua Trần
Cùng chỉ huy kháng chiến,
Rút bí mật, dần dần.
Thoát Hoan sai tướng giỏi
Là Khoan Triệt, Lý Hồng,
Đem tinh binh truy đuổi,
Cả đường bộ, đường sông.
Chính ở bãi Thiên Mạc,
Huyện Khoái Châu, Hưng Yên,
Ông đã cầm chân giặc
Liên tục mấy ngày liền.
Do vậy, giặc mất dấu
Đường rút của vua Trần.
Ta bảo toàn lực lượng
Để phản công khi cần.
Tuy nhiên, trong trận ấy,
Thế giặc mạnh và đông,
Quân ta dần đuối sức,
Giặc bắt sống được ông.
Chúng tìm cách mua chuộc
Để ông khai việc binh.
Ông nhất quyết không chịu,
Còn giục chúng giết mình.
Trần Bình Trọng lần ấy
Để lại cho đời sau
Một câu nói nổi tiếng,
Rằng thà bị chém đầu,
Thà nước Nam làm quỉ
Còn hơn được làm vương
Ở nước giặc phương Bắc.
Một khí phách quật cường.
Biết không thể khuất phục,
Cuối cùng chúng giết ông,
Năm ông hăm sáu tuổi.
Xác quẳng xuống dòng sông.
*
Dòng dõi Trần Bình Trọng
Là từ Lê Đại Hành,
Sinh Hà Nam, nhưng gốc
Huyện Thọ Xuân, xứ Thanh.
Ông xuất thân quí tộc.
Sử chỉ nói vợ ông
Là công chúa Thụy Bảo,
Trước có một đời chồng.
Con ông thành hoàng hậu,
Mẹ vua Trần thứ năm,
Tức Minh Tông hoàng đế,
Có đức và có tầm.
Tài liệu sử cho biết
Rằng tướng Lê Phụ Trần,
Nhờ có công chống giặc,
Trần Thái Tông ban ân
Bằng cách gả Chiêu Khánh,
Tức vợ vua, cho ông,
Sau sinh Trần Bình Trọng.
Đúng là thật lòng vòng.
Dù con ai chăng nữa,
Thì ông cũng là người
Nêu tấm gương trung liệt
Về lẽ sống ở đời.
TRẦN QUANG KHẢI
(1241 - 1294)
Ông là một quí tộc,
Một đại thần nhà Trần,
Làm đến chức Tể tướng,
Đánh quân Nguyên ba lần.
Trần Thái Tông là bố,
Mẹ là Lý Ngọc Oanh.
Trong nhà, ông phải gọi
Trần Thánh Tông là anh.
Một lần, khi còn nhỏ,
Ông ốm nặng, Thái Tông
Để áo bào, gươm báu
Cạnh giường bệnh của ông,
Và nói: “Hãy khỏi bệnh.
Nếu khỏi, ta sẽ trao,
Hai thứ này quí giá -
Gươm báu và áo bào.”
Lần ấy, ông khỏi bệnh,
Quả thật vua cho ông
Chiếc áo ngài đang mặc,
Còn gươm báu thì không.
Trần Quang Khải từ bé
Được phong Chiêu Minh Vương,
Lê Văn Hưu dạy dỗ,
Thông tuệ bậc khác thường.
Năm Một Hai Năm Tám,
Vua cho cưới Phụng Dương,
Em gái nuôi, sau đó
Ban ấp ở Thiên Trường.
Năm Một Hai Bảy Mốt
Ông đã là đại thần,
Chức Tướng quốc Thái úy,
Cao hơn Đức thánh Trần.
Khi quân Nguyên xâm lược,
Ông theo lệnh vua cha,
Vào Nghệ An trấn giữ
Không cho giặc đánh ra.
Rồi ông lập công lớn
Trận đánh bến Chương Dương.
Vua xếp ông cao nhất
Khi ban thưởng, tuyên dương.
Ông và Trần Hưng Đạo,
Theo sử, có bất hòa.
Điều ấy rất nghiêm trọng
Với hưng vong nước nhà.
Hưng Đạo, như ta biết,
Đã chủ động làm hiền,
Kỳ lưng cho Quang Khải,
Khi ông xuống thăm thuyền.
Sau lần ấy, hai vị
Bỏ thù riêng, cùng nhau
Gắng công lo việc nước,
Hai vị quan hàng đầu.
Trần Quang Khải nổi tiếng
Còn là một thi nhân.
Ông viết khi rỗi rãi,
Đẹp ý, đẹp cả vần.
THƠ TRẦN QUANG KHẢI
1
Phò giá về kinh đô
Chương Dương, cướp giáo giặc.
Hàm Tử, bắt quân Hồ.
Giang sơn này phải giữ.
Lúc thái bình càng lo.
2
Tặng sứ bắc Sài Trang Khanh và Lý Chấn Văn
Vâng mệnh thiên triều đến tận đây.
Vua giao đi sứ chiếu cầm tay.
Quan lớn Bắc triều lưu luyến tiễn.
Dân Nam biết tiếng đã bao ngày.
Nói lời oai phúc thay thiên tử,
Mong tình hai nước nặng từ nay.
Cũng mong các vị lòng nhân đức,
Che chở cho dân của nước này.
3
Tiễn sứ Bắc Sài Trang Khanh
Tiễn người về nước sáng hôm nay.
Xăm xăm ngựa bước, rợp cờ bay.
Người đi kẻ ở, lòng lưu luyến,
Tần ngần chủ khách, rượu cầm tay.
Mới gặp ngày nào vui xướng hoạ,
Mà giờ ly biệt, nước cùng mây.
Không biết bao giờ còn gặp lại,
Để mong nói rõ tấm lòng này.
4
Thơ đề ở đền Bạch Mã
Bao đời nổi tiếng rất oai linh,
Nghe nói đến thần, ma quỷ kinh.
Bốn bề lửa cháy, đền không cháy.
Sấm chớp, cuồng phong chẳng giật mình.
Chỉ huy ba vạn quân yêu quái.
Trấn áp trăm nghìn ma quỉ binh.
Mạo muội mong thần xua giặc Bắc,
Để dân Nam Việt sống yên bình.
5
Bến đò Lưu Gia
Bến cũ Lưu Gia rợp bóng cây.
Xưa theo thuyền ngự đến nơi này.
Sông thu tháp nhỏ nghiêng soi bóng.
Đền hoang mộ cổ lá rơi đầy.
Thái Bình phủ rộng, trăm nghìn dặm.
Giang sơn nhà Lý chục đời nay.
Trở lại, khách thơ đầu đã bạc.
Hoa mai như tuyết rụng, đang bay.
6
Cảm hứng ngày xuân
Bài một
Mưa rơi cây tốt, ướt cành hoa.
Khách thơ đóng cửa ngồi trong nhà.
Một nửa đời xuân đành bỏ phí.
Năm mươi, cũng tự biết mình già.
Mang nặng ân vua, không ở ẩn.
Đêm ngày mong nhớ chốn quê xa.
Dũng khí ngày xưa chưa để mất,
Giờ ngồi uống rượu, xướng thơ ca.
7
Cảm hứng ngày xuân
Bài hai
Nhàn nhạt trăng khuya, đêm sắp tàn.
Hơi xuân lành lạnh, gió miên man.
Rặng liễu chao mình, hoa khép nụ.
Khóm trúc xạc xào, ngủ bất an.
Nhờ mưa, cây cỏ đang xanh tốt.
Tuổi làm tóc bạc, kém dung nhan.
Giải sầu tạm uống dăm ba chén.
Vỗ kiếm, một mình tựa lan can.
8
Thơ đề ở nhà nhỏ đồng quê
Nhà nhỏ đồng quê mới dựng xong.
Quanh năm đào lý tỏa hương nồng.
Áo lá nông phu in bãi biếc.
Lầu cao sáo vẳng, ánh trăng lồng.
Khe suối chia đôi bờ đất đỏ.
Đường làng mềm mại uốn cong cong.
Sống ẩn quả đây là lý tưởng.
Gió mát, trăng thanh, sáo mục đồng.
9
Vườn Phúc Hưng
Phúc Hưng, vùng đất nước bao quanh.
Ta có khu vườn mấy mẫu xanh.
Đình trúc mượt mà như ngọc bích.
Như châu, mai nở trắng trên cành.
Sau mưa, sai trẻ chăm vườn thuốc.
Nắng lên, mời bạn uống trà thanh.
Yên ổn trời Nam, không có giặc.
Gối cao nằm ngủ giấc ngon lành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét