PHẠM NGŨ LÃO
(1255 - 1320)
Nhà sử học Đại Việt,
Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên
Đã xếp Phạm Ngũ Lão
Bậc đại nhân, đại hiền.
Ông nói: “Phạm Ngũ Lão
Không chỉ giỏi thơ ca,
Mà còn là kỳ tướng
Trong lịch sử nước nhà.
Ông dùng binh tinh diệu,
Cả phòng thủ, tấn công.
Đã xuất quân là thắng.
Hiếm người được như ông”.
Ông có công rất lớn
Vào thế kỷ mười ba
Chống quân Nguyên xâm lược
Lần thứ hai, thứ ba.
Lịch sử đã ghi nhận
Ông là người phi thường.
Về danh tiếng, công trạng,
Chỉ sau Hưng Đạo Vương.
Ông người làng Phù Ủng,
Huyện Ân Thi, Hưng Yên.
Gia cảnh không khá giả,
Phải đan sọt kiếm tiền.
Theo gia phả họ Phạm,
Ông là cháu tám đời
Của danh tướng Phạm Hạp
Từng vang bóng một thời.
Lần nọ, Phạm Ngũ Lão
Ngồi đan sọt bên đường.
Ngừng tay, đang đọc sách,
Đúng lúc Hưng Đạo Vương
Có việc qua Phù Ủng.
Ông vẫn đọc mê say.
Đến mức không nhận biết
Sự kiện quan trọng này.
Một tên lính lấy giáo
Đâm mạnh vào đùi ông.
Đến máu chảy lênh láng.
Ồn ĩ cả đám đông.
Hưng Đạo Vương dừng ngựa,
Cho mời ông lại gần.
Ngài ngạc nhiên khi thấy
Một chàng trai nông dân
Lại đối đáp trôi chảy,
Có tướng mạo khác thường
Của một vị tướng giỏi.
Cuối cùng, Hưng Đạo Vương
Ra lệnh, sai binh lính
Băng vết thương cho ông,
Rồi dùng kiệu, nhanh chóng
Đưa về thành Thăng Long.
Và rồi, phá mọi lệ,
Một chàng trai nông dân
Được đặc cách đề bạt
Đứng đầu Cấm Vệ Quân.
Trong hai cuộc kháng chiến
Chống lại giặc Nguyên Mông,
Phạm Ngũ Lão xuất trận,
Lập được nhiều chiến công.
Cùng với Trần Quang Khải,
Ông tiến đánh Chương Dương.
Thắng lớn trận Hàm Tử,
Thu được nhiều quân lương.
Phá tan đội thuyền giặc,
Thừa thắng, quân của ông
Tiêu diệt quân Mông Cổ
Đang chiếm thành Thăng Long.
Rồi ông nhận được lệnh
Đem ba vạn tinh binh
Phục kích ở Vạn Kiếp
Trên những bãi nước sình.
Cuối cùng, chúng tháo chạy
Về Lạng Sơn, Cao Bằng.
Ta bắt được hai tướng
Là Lý Quán, Lý Hằng.
Năm Một Hai Tám Bảy,
Kháng chiến lần thứ ba,
Ông cũng lập công lớn
Giúp bảo vệ nước nhà.
Trận thủy chiến nổi tiếng
Trên sông Bạch Đằng Giang,
Ông cùng nhiều tướng khác
Khiến quân giặc kinh hoàng.
Quân ông đã bắt sống
Nhiều tướng của quân Nguyên -
Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp...
Thu được nhiều chiến thuyền.
Sau đó, theo đường bộ
Ông truy đuổi Thoát Hoan.
Hắn phải chui vào cống
Mới trốn thoát an toàn.
Năm Một Ba Không Một,
Sau chiến thắng, vua Trần
Ban ông nhiều bổng lộc,
Và chức Đại Tướng Quân.
Ba lần Phạm Ngũ Lão
Cất quân đánh Ai Lao,
Vì tội luôn quấy phá
Đất đai của đồng bào.
Ông hai lần vâng mệnh
Dẫn quân đi Nam Chinh.
Cả hai lần thắng lớn.
Lần một, vua Chiêm Thành
Đầu hàng, xin cống nạp.
Lần hai, cùng hoàng gia,
Vua nước này hoảng sợ,
Trốn sang đảo Java.
Ngày Một tháng Mười Một
Năm Một Ba Hai Mươi
Đại tướng Phạm Ngũ Lão
Đã lặng lẽ qua đời.
Trần Minh Tông xuống chiếu
Nghỉ chầu năm ngày liền
Để tưởng nhớ vị tướng
Giúp đánh bại quân Nguyên.
Ông còn được phong tặng
Tước Thượng Đẳng Phúc Thần.
Xưa nay hiếm người có.
Đó là một đặc ân.
THƠ PHẠM NGŨ LÃO
1
Tỏ nỗi lòng
Bao năm múa giáo với non sông.
Dũng mãnh ba quân tựa hổ rồng.
Nợ nước làm trai chưa trả được,
Nghĩ tới Khổng Minh, thẹn với lòng.
2
Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo đại vương
Tiếng chuông Trường Lạc 1) tiễn đưa ông.
Hiu hiu gió thổi, thật đau lòng.
Gương sáng muôn đời nay đã vỡ.
Tường thành vạn dặm, có thành không.
Buồn thấy mây che đường sạn đạo 2).
Lệ trào, mưa phủ kín trên sông.
Đọc văn, xúc động lời cô đúc.
Ngâm thơ, lai láng nước xuôi dòng.
1. Tên một cung đời Hán. Tác giả dùng để chỉ một cung nhà Trần thời bấy giờ.
2. Đường sạn đạo là lối đi trên cao, thông từ nơi này sang nơi khác ở những vùng núi non hiểm trở. Điển cố này này dùng để nhắc đến công lao của Hàn Tín khi giúp Hán Cao Tổ. Tác giả ví Trần Hưng Đạo với Hàn Tín.
YẾT KIÊU
(1242 - 1303)
Ngày xưa ở Làng Hạ
Có người tên Yết Kiêu.
Sống bằng nghề đánh cá,
Hết sớm rồi lại chiều.
Một đêm, ra bờ biển
Ông thấy hai con trâu,
Dưới ánh trăng vằng vặc,
Đang ghì sừng húc nhau.
Ông dùng chiếc ống gậy
Đánh chúng, thật bất ngờ.
Cả hai chạy xuống biển,
Và không quay lên bờ.
Ông đứng lặng, kinh ngạc
Đoán đây là trâu thần.
Nhìn xuống, thấy mấy sợi
Lông của chúng dưới chân.
Ông cho vào miệng nuốt,
Từ đấy trở thành người
Có sức khỏe vô địch,
Hơn gấp năm, gấp mười.
Đặc biệt, tài lội nước
Thì có một không hai.
Xưa nay giỏi như thế
Quả thật chưa có ai.
Ông đi lại dưới nước
Như đi trên đất liền.
Sáu bảy ngày lặn ngụp
Mới một lần ngoi lên.
*
Thời ấy giặc Mông Cổ
Sang đánh chiếm nước mình.
Cho một trăm tàu lớn
Tiến vào cửa Vạn Ninh.
Chúng thẳng tay cướp bóc,
Phá thuyền của dân ta.
Gây biết bao tang tóc
Cho nhiều người, nhiều nhà.
Vua sai quân nghênh chiến,
Tiếc là thường bị thua.
Bèn cầu người tài đức
Ra giúp nước, giúp vua.
Yết Kiêu đến, xin phép
Được giết giặc Nguyên Mông.
“Bẩm, thần đã có cách
Dìm chúng xuống đáy sông”.
Vua cả mừng, liền hỏi:
“Ngươi cần bao nhiêu quân?
Bao nhiều tàu lớn nhỏ?”
Yết Kiêu đáp: “Không cần”.
Vua nghe xong, lập tức,
Xuống chiếu phong cho ông
Được giữ chức Đô Thống,
Chống lại giặc Nguyên Mông.
Với một toán quân nhỏ,
Yết Kiêu xuống Vạn Ninh.
Sai lính làm chiếc búa
Và chiếc khoan cho mình.
Rồi ông lặn xuống nước,
Đến chỗ tàu quân Nguyên,
Dùng khoan và dùng búa
Đục thủng đáy tàu thuyền.
Ông khoan, đục lặng lẽ,
Chiếc nọ rồi chiếc này.
Tàu giặc thi nhau đắm.
Mấy chục chiếc một ngày.
Chúng bàng hoàng, không biết
Chuyện gì đang xẩy ra.
Bọn lính liền lặn xuống
Và nhìn thấy từ xa
Một người đang hý húi
Đục đáy thuyền dưới sông.
Chúng liền giăng lưới sắt.
Cuối cùng bắt được ông.
Tên tướng giặc tra khảo:
“Mày là ai? Ở đây
Bao nhiêu người biết lặn
Và bơi giỏi như mày?”
“Lặn mười ngày không thở
Phải đến hàng trăm người.
Cỡ như tao nhiều lắm.
Nhiều như sao trên trời.
Bây giờ tao bị bắt.
Có chết cũng không sao.
Nhưng hiện giờ dưới nước
Còn nhiều người như tao”.
Bọn giặc nghe, cả sợ,
Quay sang mua chuộc ông:
“Mày đưa đi bắt chúng.
Rồi có thưởng, muốn không?”
Khoảng mấy chục tên lính
Mang lưới sắt lên thuyền.
Cùng ông ra cửa biển.
Sóng dữ, thủy triều lên.
Nhân lúc chúng sơ ý,
Ông nhảy xuống, trốn đi.
Bọn lính đành bất lực,
Chẳng biết phải làm gì.
Tàu của giặc bị đắm
Không giảm mà càng nhiều.
Cuối cùng rút về nước.
Vì một người - Yết Kiêu.
Vua ban thưởng hậu hĩnh,
Phong tước vương cho ông.
Ở Vạn Ninh hiện có
Một ngôi đền thờ ông.
*
Một trong năm mãnh tướng
Dưới trướng Đức Thánh Trần,
Ông lập nhiều công lớn
Với đất nước, nhận dân.
Tên thật, Phạm Hữu Thế,
Quê Hải Dương, và ông
Nhà nghèo nên từ bé
Phải bắt cá trên sông.
Vì thế ông rất giỏi
Bơi lặn nhiều giờ liền
Rất thoải mái dưới nước
Như đi trên đất liền.
Sau nhờ cái tài ấy,
Ông lập nhiều chiến công
Giúp Nhà Trần chiến thắng
Giặc xâm lược Nguyên Mông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét