TRẦN HƯNG ĐẠO
(1232 - 1300)
Tên thật là Quốc Tuấn,
Trần Hưng Đạo đại vương
Là một người đặc biệt,
Tài đức bậc phi thường.
Ông là nhà chính trị,
Nhà quân sự thiên tài,
Góp phần giữ độc lập
Cho thế hệ tương lai.
Ông là con Trần Liễu,
Cháu vua Trần Thái Tông.
Rất khôi ngô, tuấn tú,
Văn và võ tinh thông.
Ông lớn lên đúng lúc
Nước thọ địch bốn bề.
Giặc Nguyên Mông phương Bắc
Đang đêm ngày lăm le.
*
Năm Một Hai Năm Bảy
Đức vua Trần Thái Tông
Xuống chiếu giao chức vụ
Đại Tiết Chế cho ông.
Tiết chế là Tư Lệnh,
Theo cách hiểu thông thường.
Ông đem quân thủy bộ
Ra trấn giữ biên cương.
Sau lần đầu thắng giặc
Ông được đức vua Trần
Phong Quốc công Tiết chế,
Thống lĩnh cả ba quân.
Là vị tổng tư lệnh,
Năm Tám Tư, mùa đông,
Ông cho duyệt quân ngũ
Bến Hàng Than, sông Hồng.
Rồi bài “Hịch tướng sĩ”,
Một đệ nhất hùng văn,
Được ông đọc dõng dạc
Trước toàn bộ ba quân.
Chỉ một năm sau đó,
Quân Nguyên sang đánh ta.
Kể từ lần thứ nhất,
Hăm bảy năm trôi qua.
Đường bộ và đường thủy,
Hai mũi chúng tấn công.
Đường bộ từ phía Bắc,
Đường thủy từ phía đông.
Từ Nghệ An, Thanh Hóa,
Chúng còn vòng đánh ra.
Để bảo toàn lực lượng,
Cân nhắc địch và ta,
Trần Hưng Đạo quyết định
Tạm rút khỏi Thăng Long,
Làm vườn không nhà trống,
Quân và dân một lòng.
Vào tháng Năm năm ấy,
Từ căn cứ Thiên Trường,
Ông đánh trận Hàm Tử,
Rồi Tây Kết, Chương Dương...
Đội quân Nguyên hùng mạnh,
Như đám mây âm u,
Bị quân Trần quét sạch,
Xua hết bóng quân thù.
Năm Một Hai Tám Bảy
Quân Nguyên lại đánh ta,
Hai năm sau lần trước,
Giờ là lần thứ ba.
Đoàn thuyền lương quân địch
Bị diệt ở Vân Đồn.
Hay tin, Thoát Hoan sợ,
Rút chạy, vãi linh hồn.
Trần Hưng Đạo cho lính
Chốt giữ cửa Bạch Đằng.
Sau Vân Đồn, binh lính
Khí thế đang rất hăng.
Tháng Tư năm Tám Tám,
Đoàn thuyền Ô Mã Nhi
Bị Đại Việt phá sạch,
Lương thực chẳng còn gì.
Tướng Thoát Hoan nghe thế,
Liền vội vã rút về,
Chui ống đồng mà rút,
Thật nhục nhã, ê chề.
*
Năm Một Hai Tám Chín,
Vua luận công, biểu dương,
Rồi phong Trần Hưng Đạo
Là Hưng Đạo Đại vương.
Ông lui về Vạn Kiếp
An hưởng nốt tuổi già,
Nơi ông được phong ấp,
Cách Chí Linh không xa.
Tháng Sáu năm Canh Tý,
Tức Một Ba Không Không,
Ông lâm bệnh, ốm nặng,
Đích thân Trần Anh Tông
Cùng nhiều đại thần khác
Về thăm hỏi tận nơi.
Nhưng hai tháng sau đó
Ông lặng lẽ qua đời.
Ông dặn con khi chết,
Hãy hỏa táng xác ông,
Đựng cốt trong lọ sứ,
Chôn giữa các gốc thông
Trong góc vườn An Lạc.
Chôn rồi, phủ đất lên,
Lại trồng cây như cũ,
Thật khéo và tự nhiên
Để trường hợp, nếu muốn,
Người của các đời sau
Không thể nào đoán biết
Mộ ông chôn ở đâu.
Ông được dân cả nước
Tôn là Đức Thánh Trần,
Lập đền thờ cúng viếng,
Hương khói đều quanh năm.
TRUYỆN VỀ TRẦN HƯNG ĐẠO
1
Năm Một Hai Ba Bảy,
Trần Thủ Độ bỗng nhiên
Ép cha ông, Trần Liễu,
Nhường vợ là Thuận Thiên
Cho chú ông, Trần Cảnh,
Lúc ấy ngự ngai vàng.
Mà Thuận Thiên công chúa
Là chị Lý Chiêu Hoàng.
Với cái thai ba tháng,
Thuận Thiên thành vợ vua,
Dẫu vua không đồng ý,
Cứ đòi bỏ lên chùa.
Trần Liễu thì uất ức,
Dấy binh nhưng bất thành.
Thủ Độ tha không giết,
Nhờ vua xin cho anh.
Trần Liễu tìm người giỏi
Làm thầy dạy con trai,
Tức là Trần Hưng Đạo,
Mong văn võ toàn tài.
Trước khi chết, ông dặn:
“Con hãy cố vì cha
Mà lấy cả thiên hạ,
Thế mới đẹp lòng ta.”
Tức là ý ông dặn
Con tiếm ngôi về sau.
Hưng Đạo không muốn thế,
Nhưng ghi nhớ trong đầu.
Khi đã nắm toàn bộ
Quyền lực vào tay mình,
Ông giả đò ướm hỏi
Thân tín trong triều đình.
Yết Kiêu và Dã Tượng
Nói là điều không nên.
Ông gật đầu khen ngợi,
Còn thưởng họ nhiều tiền.
Ông hỏi cả con trưởng
Và con thứ điều này.
Người con trưởng phản đối.
Anh con thứ khen hay.
Lập tức ông rút kiếm
Định chém đầu anh ta,
Bảo là phường nghịch tặc,
Không cho nhận là cha.
Rồi lệnh: khi ông chết,
Đậy nắp quan tài xong,
Mới cho anh con thứ
Được đi vào viếng ông.
*
Theo sử cũ ghi lại
Trần Quang Khải và ông
Có mối tư thù nhỏ
Vẫn canh cánh trong lòng.
Trong cuộc chiến lần một,
Trần Thánh Tông cầm quân,
Tể tướng Trần Quang Khải
Luôn hộ giá vua Trần.
Thượng hoàng thì có ý,
Khi Hưng Đạo ở nhà,
Phong ông chức Tể tướng
Nhân Quang Khải đi xa.
Trần Hưng Đạo vội vã
Cúi đầu xin không nghe,
Nói rằng những việc ấy
Chờ Tể tướng quay về.
Một hôm, Trần Hưng Đạo
Đi thuyền tới Thăng Long,
Trần Quang Khải nghe tiếng,
Xuống thuyền chơi với ông.
Quang Khải vốn sợ tắm,
Hai người ăn uống xong,
Hưng Đạo tự cởi áo
Rồi kỳ lưng cho ông.
“Nhờ bác thăm thuyền chiến,
Tôi may mắn hôm nay
Được tắm cho Tể tướng.
Phải ghi nhớ ngày này!”
Trần Quang Khải cúi tạ:
“Được Quốc công kỳ lưng,
Thật là diễm phúc lớn,
Xin mở tiệc ăn mừng.”
*
Sử cũ cũng chép việc
Con trai Hưng Đạo vương
Lấy công chúa Thiên Thụy,
Thế mà trái đạo thường,
Trần Khánh Dư, tướng giỏi,
Lại thông dâm với nàng,
Khiến vua phải xuống chiếu
Đuổi về núi Phượng Hoàng.
Vậy mà khi Mông Cổ
Đánh Đại Việt lần ba,
Hưng Đạo quên chuyện cũ,
Cho vị tướng tài ba
Ra trấn thủ biên giới.
Trần Khánh Dư lập công,
Góp phần làm chiến thắng,
Suốt đời kính phục ông.
Hơn thế, Trần Hưng Đạo,
Đã chọn Trần Khánh Dư
Viết lời tựa cho cuốn
“Vạn Kiếp bí truyền thư”.
*
Năm Một Hai Tám Mốt,
Vua Nguyên sai Sài Xuân
Đi sứ sang Đại Việt.
Thằng này láo, có lần
Cứ ngồi trên lưng ngựa
Đi qua cửa Dương Minh.
Hắn còn dùng roi cứng
Quất vào đầu vệ binh.
Tể tướng Trần Quang Khải
Đến chào hắn, vậy mà,
Bất chấp cả nghi lễ,
Hắn nằm khểnh, không ra.
Hay tin, Trần Hưng Đạo,
Mặc áo vải, cạo đầu,
Đi thẳng đến quán sứ
Xem binh tình ra sao.
Thế mà lạ, lập tức
Hắn đứng dậy, cúi mình
Lễ phép mời uống nước,
Đàm đạo khá thân tình.
Một thằng hầu của hắn
Cầm mũi tên, đứng sau,
Chọc vào Trần Hưng Đạo
Đến chảy cả máu đầu.
Nhưng ông vẫn bình thản,
Nét mặt không đổi thay.
Lúc về, Sài Xuân tiễn,
Còn nhắc mãi chuyện này.
ĐỨC THÁNH TRẦN
Đặt vận mệnh đất nước
Cao hơn mối tư thù,
Lấy Trung thay chữ Hiếu,
Là khí của Đại Phu,
Là tâm của Đại Thánh.
Đó là Đức Thánh Trần,
Đại Vương Trần Hưng Đạo,
Sống mãi trong lòng dân.
*
Thái Sư Trần Thủ Độ,
Được xem là gian thần,
Một tay chuyển Nhà Lý
Sang triều đại Nhà Trần.
Lý Chiêu Hoàng, vua Lý,
Mới tám tuổi, bị ông
Gả cho cháu, Trần Cảnh,
Sau thành Trần Thái Tông.
Khi con trai đầu mất,
Hoàng hậu Lý Chiêu Hoàng
Suốt ba năm chờ đợi
Mà không thấy có mang,
Thái Sư Trần Thủ Độ
Sợ không ai nối ngôi
Cho triều Trần mới dựng,
Rất lo lắng, và rồi
Đưa ra một quyết định,
Loại có một không hai,
Là ép vua Trần Cảnh
Lấy vợ của anh trai,
Tức Thuận Thiên Công Chúa,
Đang ba tháng mang bầu,
Vợ Khâm Minh Trần Liễu,
Vào hàng đại công hầu.
Còn Hoàng Hậu họ Lý,
Dẫu được chồng yêu thương,
Bị giáng xuống Công Chúa,
Gần như người bình thường.
Về sau bà được gả
Cho tướng Lê Phụ Trần.
Một tướng có công lớn,
Tục danh là Lê Tần.
Bà thọ sáu mốt tuổi,
Có hai con, một người
Là tướng Trần Bình Trọng
Theo lời kể người đời.
Người phụ nữ duy nhất
Trong lịch sử nước nhà
Được lên ngôi Hoàng Đế,
Mà đời buồn, xót xa.
Lại nói vua Trần Cảnh,
Không chấp nhận loạn luân,
Đã bỏ lên Yên Tử
Nương nhờ sư Phù Vân.
Nhà sư khuyên xuống núi,
Nhanh chóng trở về triều.
Không biết làm gì khác,
Vua đành phải nghe theo.
Còn Hoài Vương Trần Liễu,
Bị cướp vợ, giận anh,
Bèn dấy binh làm phản,
Nhưng việc đã không thành.
Cuối cùng phải tự trói,
Cúi đầu xin vua tha.
Ngẫm mình cũng có lỗi,
Lại anh em một nhà,
Nên Trần Cảnh không giết,
Giáng thành An Sinh Vương.
Còn xuống chiếu cấp đất
Ở Hưng Yên, Hải Dương.
Về sau ông sinh hạ
Được một người con trai,
Tên là Trần Quốc Tuấn,
Văn và võ toàn tài.
Trước đó, ôm hận cũ,
Ông cho người tìm thầy
Dạy con trai thao lược
Để trả thù sâu này.
Năm Một Hai Năm Mốt,
Biết mình sắp qua đời,
Ông gọi con, Quốc Tuấn,
Lúc ấy ngoài hai mươi.
“Hãy đoạt lấy thiên hạ.
Hãy cố gắng vì ta.
Ta không thể nhắm mắt,
Chưa trả xong thù nhà!”
Đó là lời trăng trối
Của bậc sinh ra mình.
Người Việt trọng chữ hiếu,
Và truyền thống gia đình.
Nhưng khi Trần Quốc Tuấn
Thành Tiết Chế Đại Vương,
Nắm hết mọi quyền bính
Trong cung và chiến trường.
Ông đã không làm phản,
Không vâng theo lời cha
Để “đoạt lấy thiên hạ
Và trả mối thù nhà”.
Đặt vận nước trên hết,
Ông phò Trần Thánh Tông
Một lòng cùng các tướng
Tiêu diệt giặc Nguyên Mông.
Ông chọn cái phải chọn,
Là Tổ Quốc, Nhân Dân.
Nhờ sự lựa chọn ấy,
Ông thành Đức Thánh Trần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét