TRẦN NHẬT DUẬT
(1255 - 1330)
Chuyện kể ràng ngày nọ,
Khi tuần du Thiên Trường,
Trần Thái Tông, dừng ngựa,
Nghỉ lại ở dọc đường.
Nơi ấy là làng Miễu.
Dân tập trung rất đông,
Dâng hoa quả, lễ vật
Chào đón Trần Thánh Tông.
Ngài ân cần thăm hỏi,
Chuyện làm ăn, mùa màng.
Không phải các bô lão,
Làng Miễu cử một nàng
Trẻ và rất xinh đẹp
Bước ra trả lời ngài.
Đó là Vũ Thị Vượng,
Tuổi vừa mới hăm hai.
Thấy nàng đã xinh đẹp,
Còn đối đáp thông minh,
Vua cho mời lên kiệu
Về làm phi của mình.
Về sau nàng sinh hạ
Cho vua một con trai.
Đó là Trần Nhật Duật,
Một vị tướng đại tài.
Cuốn Thần Phả làng Miễu,
Còn giữ đến ngày nay,
Nói về sự kiện ấy
Rất kỳ lạ thế này.
Sau một tháng cầu tự,
Một hôm nàng nằm mơ
Thấy có ngôi sao lớn
Rơi xuống giường bất ngờ.
Hôm ấy, đúng giờ Ngọ,
Nàng trở dạ sinh ông,
Tức là Trần Nhật Duật,
Với chữ Chiêu Văn Đồng.
Chiêu Văn là Đón, Đẹp.
Cái đẹp của thánh thần.
Nên vua cha vì thế
Phong hiệu là Chiêu Văn.
*
Ông là con thứ sáu
Vua tổ Trần Thái Tông.
Người có công rất lớn
Chiến thắng giặc Nguyên Mông.
Rất tôn sùng Đạo Phật,
Thâm kinh điển Nho Gia,
Hiểu nhiều và biết rộng,
Là một chính trị gia,
Ông không chỉ am hiểu
Về các nước lân bang,
Mà còn nói tiếng họ
Lưu loát và dễ dàng.
Đại Việt Sử Ký chép:
“Ông cưỡi voi đi thăm
Ba Già, nơi giam giữ
Các tù binh người Chăm.
Ông ở lại với họ,
Có lúc ba bốn ngày.
Trò chuyện để chuẩn bị
Lần chinh phạt sau này”.
Khi đã là Tể Tướng,
Ông đàm đạo rất nhiều
Với một người nước Tống,
Tên là Trần Đạo Chiêu.
Cũng vì giỏi ngoại ngữ,
Mới ở tuổi hai mươi,
Ông được giao phụ trách
Đối ngoại với nước người.
Không cần qua phiên dịch,
Ông tiếp sứ thần Nguyên.
Nói chuyện rất thoải mái,
Khiến họ phải ngạc nhiên.
Có lần, Sách Mã Tích,
Nay là Singapore,
Cử sứ sang triều cống.
Vua nhà Trần rất lo.
Một nước xa lạ thế,
Ai làm phiên dịch đây?
Thế mà ông lần ấy
Đã làm tốt việc này.
Vua hỏi: Sao ông biết?
Bẩm, thời Trần Thái Tông
Họ có sang đi sứ,
Ở hết cả mùa đông.
Họ có người phiên dịch
Biết tiếng ta làu làu.
Thần chơi thân với họ,
Rồi học, cũng rất mau.
*
Sau thất bại lần một,
Năm Một Hai Tám Năm
Vua Nguyên, Hốt Tất Liệt,
Xua quân đánh Nước Nam.
Cánh quân bằng đường bộ
Do Thoát Hoan cầm đầu.
Toa Đô đánh đường thủy,
Tập hậu từ phía sau.
Đại binh giặc rầm rộ
Từ Vân Nam đánh sang.
Lúc ấy Trần Quang Khải
Đang chốt ở Tuyên Quang.
Theo quyết sách từ trước,
Ông liền cho thoái binh.
Xuôi theo dòng sông Chảy,
Về ém ở Thái Bình.
Vua Trần, trong khi đó,
Cũng rút khỏi Thăng Long.
Co cụm ở Nam Định,
Chờ thời cơ phản công.
Sau đó ông được lệnh
Vào Xứ Nghệ, Xứ Thanh
Chặn Toa Đô Bắc tiến.
Nhưng việc đã không thành.
Để tránh thế giặc mạnh,
Thượng hoàng Trần Thánh Tông
Tạm thời rút chiến lược,
Rời bỏ thành Thăng Long.
Gặp vườn không nhà trống,
Giặc thiếu lương, đói ăn.
Tinh thần và kỷ luật
Từng bước, suy sụp dần.
Thấy thời cơ đã điểm,
Quân Đại Việt đồng lòng,
Tất cả từ mọi hướng
Cùng nhất loạt phản công.
Được lệnh, Trần Nhật Duật
Cùng Hưng Đạo Đại Vương
Cho quân tiến đánh giặc
Ở Hàm Tử, Chương Dương.
Trận này ta thắng lớn,
Xoay chuyển được tình hình.
Đánh chìm nhiều thuyền giặc.
Bắt được nhiều tù binh.
Đại Việt Sử Kỳ viết:
“Xét công đánh giặc Nguyên,
Phải nói Trần Nhật Duật
Được xếp ở bậc trên”
Trong lần kháng chiến tiếp,
Tức chống Nguyên lần ba,
Không hiểu sao, thật tiếc,
Không thấy các sử gia
Nói về Trần Nhật Duật,
Dẫu chỉ một vài dòng.
Chắc không thể không có
Phần đóng góp của ông.
Trần Nhật Duật tạ thế
Năm Một Ba Ba Mươi.
Nhưng chiến công để lại
Sẽ sống mãi muôn đời.
HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA
(1287 - 1340)
Mấy trăm năm về trước
Đất nước ta thân yêu
Có tên là Đại Việt,
Diện tích bé hơn nhiều.
Có một vương quốc cổ
Ở miền Trung ngày nay.
Chiêm Thành là tên gọi.
Rất hung hãn nước này.
Còn vùng đất Nam Bộ
Của chúng ta bây giờ
Lại thuộc một nước khác,
Cũng vào loại đáng ngờ.
Thời ấy vua Đại Việt
Có công chúa Huyền Trân,
Không thể nói xinh đẹp,
Mà phải nói tuyệt trần.
Nàng yêu một dũng tướng
Tên là Trần Khắc Chung.
Chàng có tài, còn trẻ,
Cũng yêu nàng vô cùng.
Nghe tiếng nàng xinh đẹp,
Vua Chiêm Thành, Chế Mân,
Liền cho người đem lễ
Dâng vua Việt, cầu thân.
Quà cầu hôn còn có
Hai vùng đất rất to,
Trù phú, dân thưa thớt,
Là Châu Lý, Châu Ô.
Công chúa buồn, đau khổ
Khi nghe tin bố mình
Quyết định gả con gái
Cho vua nước Chiêm Thành.
Yêu Khắc Chung tha thiết,
Nhưng nàng hiểu vua cha
Làm thế là chủ ý
Vì đại sự quốc gia.
Thế là nàng gạt lệ
Chia tay cùng Khắc Chung
Để lên đường Nam tiến,
Vượt muôn núi chập chùng.
Chỉ ít năm sau đó
Vua Chế Mân qua đời.
Theo tục lệ bản xứ,
Hoàng hậu phải là người
Lên dàn thiêu chịu chết
Để hồn đi theo chồng.
Một tục lệ man rợ
Của nhiều nước phương Đông.
Đắc Chung nghe tin dữ
Đem mấy nghìn tinh binh
Đi ngày đêm không nghỉ
Tới kinh đô Chiêm Thành.
Dẫu ở trong lòng địch,
Quân mình ít, địch đông,
Chàng cướp được công chúa,
Đưa về thành Thăng Long.
Từ đó họ hạnh phúc
Ở bên nhau trọn đời.
Gương Huyền Trân Công chúa
Sống mãi trong lòng người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét