Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 14

 

TRẦN NHẬT DUẬT

(1255 - 1330)

 

Chuyện kể ràng ngày nọ,

Khi tuần du Thiên Trường,

Trần Thái Tông, dừng ngựa,

Nghỉ lại ở dọc đường.

 

Nơi ấy là làng Miễu.

Dân tập trung rất đông,

Dâng hoa quả, lễ vật

Chào đón Trần Thánh Tông.

 

Ngài ân cần thăm hỏi,

Chuyện làm ăn, mùa màng.

Không phải các bô lão,

Làng Miễu cử một nàng

 

Trẻ và rất xinh đẹp

Bước ra trả lời ngài.

Đó là Vũ Thị Vượng,

Tuổi vừa mới hăm hai.

 

Thấy nàng đã xinh đẹp,

Còn đối đáp thông minh,

Vua cho mời lên kiệu

Về làm phi của mình.

 

Về sau nàng sinh hạ

Cho vua một con trai.

Đó là Trần Nhật Duật,

Một vị tướng đại tài.

 

Cuốn Thần Phả làng Miễu,

Còn giữ đến ngày nay,

Nói về sự kiện ấy

Rất kỳ lạ thế này.

 

Sau một tháng cầu tự,

Một hôm nàng nằm mơ

Thấy có ngôi sao lớn

Rơi xuống giường bất ngờ.

 

Hôm ấy, đúng giờ Ngọ,

Nàng trở dạ sinh ông,

Tức là Trần Nhật Duật,

Với chữ Chiêu Văn Đồng.

 

Chiêu Văn là Đón, Đẹp.

Cái đẹp của thánh thần.

Nên vua cha vì thế

Phong hiệu là Chiêu Văn.

 

*

Ông là con thứ sáu

Vua tổ Trần Thái Tông.

Người có công rất lớn

Chiến thắng giặc Nguyên Mông.

 

Rất tôn sùng Đạo Phật,

Thâm kinh điển Nho Gia,

Hiểu nhiều và biết rộng,

Là một chính trị gia,

 

Ông không chỉ am hiểu

Về các nước lân bang,

Mà còn nói tiếng họ

Lưu loát và dễ dàng.

 

Đại Việt Sử Ký chép:

“Ông cưỡi voi đi thăm

Ba Già, nơi giam giữ

Các tù binh người Chăm.

 

Ông ở lại với họ,

Có lúc ba bốn ngày.

Trò chuyện để chuẩn bị

Lần chinh phạt sau này”.

 

Khi đã là Tể Tướng,

Ông đàm đạo rất nhiều

Với một người nước Tống,

Tên là Trần Đạo Chiêu.

 

Cũng vì giỏi ngoại ngữ,

Mới ở tuổi hai mươi,

Ông được giao phụ trách

Đối ngoại với nước người.

 

Không cần qua phiên dịch,

Ông tiếp sứ thần Nguyên.

Nói chuyện rất thoải mái,

Khiến họ phải ngạc nhiên.

 

Có lần, Sách Mã Tích,

Nay là Singapore,

Cử sứ sang triều cống.

Vua nhà Trần rất lo.

 

Một nước xa lạ thế,

Ai làm phiên dịch đây?

Thế mà ông lần ấy

Đã làm tốt việc này.

 

Vua hỏi: Sao ông biết?

Bẩm, thời Trần Thái Tông

Họ có sang đi sứ,

Ở hết cả mùa đông.

 

Họ có người phiên dịch

Biết tiếng ta làu làu.

Thần chơi thân với họ,

Rồi học, cũng rất mau.

 

*

Sau thất bại lần một,

Năm Một Hai Tám Năm

Vua Nguyên, Hốt Tất Liệt,

Xua quân đánh Nước Nam.

 

Cánh quân bằng đường bộ

Do Thoát Hoan cầm đầu.

Toa Đô đánh đường thủy,

Tập hậu từ phía sau.

 

Đại binh giặc rầm rộ

Từ Vân Nam đánh sang.

Lúc ấy Trần Quang Khải

Đang chốt ở Tuyên Quang.

 

Theo quyết sách từ trước,

Ông liền cho thoái binh.

Xuôi theo dòng sông Chảy,

Về ém ở Thái Bình.

 

Vua Trần, trong khi đó,

Cũng rút khỏi Thăng Long.

Co cụm ở Nam Định,

Chờ thời cơ phản công.

 

Sau đó ông được lệnh

Vào Xứ Nghệ, Xứ Thanh

Chặn Toa Đô Bắc tiến.

Nhưng việc đã không thành.

 

Để tránh thế giặc mạnh,

Thượng hoàng Trần Thánh Tông

Tạm thời rút chiến lược,

Rời bỏ thành Thăng Long.

 

Gặp vườn không nhà trống,

Giặc thiếu lương, đói ăn.

Tinh thần và kỷ luật

Từng bước, suy sụp dần.

 

Thấy thời cơ đã điểm,

Quân Đại Việt đồng lòng,

Tất cả từ mọi hướng

Cùng nhất loạt phản công.

 

Được lệnh, Trần Nhật Duật

Cùng Hưng Đạo Đại Vương

Cho quân tiến đánh giặc

Ở Hàm Tử, Chương Dương.

 

Trận này ta thắng lớn,

Xoay chuyển được tình hình.

Đánh chìm nhiều thuyền giặc.

Bắt được nhiều tù binh.

 

Đại Việt Sử Kỳ viết:

“Xét công đánh giặc Nguyên,

Phải nói Trần Nhật Duật

Được xếp ở bậc trên”

 

Trong lần kháng chiến tiếp,

Tức chống Nguyên lần ba,

Không hiểu sao, thật tiếc,

Không thấy các sử gia

 

Nói về Trần Nhật Duật,

Dẫu chỉ một vài dòng.

Chắc không thể không có

Phần đóng góp của ông.

 

Trần Nhật Duật tạ thế

Năm Một Ba Ba Mươi.

Nhưng chiến công để lại

Sẽ sống mãi muôn đời.

 

 

HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA

(1287 - 1340)

 

Mấy trăm năm về trước

Đất nước ta thân yêu

Có tên là Đại Việt,

Diện tích bé hơn nhiều.

 

Có một vương quốc cổ

Ở miền Trung ngày nay.

Chiêm Thành là tên gọi.

Rất hung hãn nước này.

 

Còn vùng đất Nam Bộ

Của chúng ta bây giờ

Lại thuộc một nước khác,

Cũng vào loại đáng ngờ.

 

Thời ấy vua Đại Việt

Có công chúa Huyền Trân,

Không thể nói xinh đẹp,

Mà phải nói tuyệt trần.

 

Nàng yêu một dũng tướng

Tên là Trần Khắc Chung.

Chàng có tài, còn trẻ,

Cũng yêu nàng vô cùng.

 

Nghe tiếng nàng xinh đẹp,

Vua Chiêm Thành, Chế Mân,

Liền cho người đem lễ

Dâng vua Việt, cầu thân.    

 

Quà cầu hôn còn có

Hai vùng đất rất to,

Trù phú, dân thưa thớt,

Là Châu Lý, Châu Ô.

 

Công chúa buồn, đau khổ

Khi nghe tin bố mình

Quyết định gả con gái

Cho vua nước Chiêm Thành.

 

Yêu Khắc Chung tha thiết,

Nhưng nàng hiểu vua cha

Làm thế là chủ ý

Vì đại sự quốc gia.

 

Thế là nàng gạt lệ

Chia tay cùng Khắc Chung

Để lên đường Nam tiến,

Vượt muôn núi chập chùng.

 

Chỉ ít năm sau đó

Vua Chế Mân qua đời.

Theo tục lệ bản xứ,

Hoàng hậu phải là người

 

Lên dàn thiêu chịu chết

Để hồn đi theo chồng.

Một tục lệ man rợ

Của nhiều nước phương Đông.

 

Đắc Chung nghe tin dữ

Đem mấy nghìn tinh binh

Đi ngày đêm không nghỉ

Tới kinh đô Chiêm Thành.  

 

Dẫu ở trong lòng địch,

Quân mình ít, địch đông,

Chàng cướp được công chúa,

Đưa về thành Thăng Long.

 

Từ đó họ hạnh phúc

Ở bên nhau trọn đời.

Gương Huyền Trân Công chúa

Sống mãi trong lòng người.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét