Thơ Chữ Hán Trung Quốc
SẦM THAM
Nhà thơ lớn đời Đường, không rõ
năm sinh năm mất, người Nam Dương, nay là huyện Đặng, tỉnh Hà Nam, đỗ tiến sĩ
năm Thiên Bảo thứ 3 (774), từng làm Giám chầu thứ sử. Tác phẩm: Sầm Than tập.
443. Cảnh xuân,
nhà trên núi
Vườn Lương cánh quạ giữa chiều tà.
Xơ xác buồn tênh mấy nóc nhà.
Trong sân không biết người đi hết,
Háo hức xuân về, cây trổ hoa.
444. Thơ đề trên
cây liễu bên cầu
sông Phần, quận
Bình Dương
Ngày xưa ta đã sống nơi này.
Nhiều năm lưu lạc lại về đây.
Không nhận ra ta, nhìn lạ lẫm,
Cây liễu sông Phần thật đến hay.
445. Bên bờ sông
Vị, nhớ Tần Xuyên
Sông Vị chảy về đông,
Bao giờ tới châu Ung?
Xin gửi về quê cũ
Nước mắt lạnh đôi dòng.
446. Giấc mơ
xuân
Đêm xuân gió lạnh thổi qua giường.
Nhớ người gặp gỡ giữa sông Tương.
Người đẹp trong mơ về chốc lát,
Nghìn dặm Giang Nam vẫn vấn vương.
447. Tiễn bạn về
kinh đô
Một mình một ngựa hướng về tây.
Vung roi, người ngựa phóng như bay.
Tháng Chín, Giao Hà đưa tiễn bạn,
Đề thơ trong tuyết, lệ rơi đầy.
448.
Tháng Chín hành quân, nhớ vườn cũ ở Trường An
Xóm nhỏ Đăng Cao, đã đến đây,
Chẳng ai có rượu uống kỳ say.
Chợt thương khóm cúc vườn quê cũ.
Giá chi nó nở chiến trường này.
449. Từ đài
phong Mục Túc gửi về nhà
Bên đài Mục Túc đón mùa xuân.
Hồ Lư sông dữ, lệ đầy khăn.
Quê cũ vợ buồn, nơi chiến trận
Tướng sĩ buồn hơn đến vạn lần.
450. Giữa sa
mạc, cảm tác
Xa nhà, rong ruổi ngựa về tây.
Hai lần trăng khuyết lại trăng đầy.
Không lửa, không người, sa mạc rộng,
Biết ngủ nơi nào qua đêm nay?
451. Từ cửa Ngọc
Quan, gửi cho
quan chủ bạ ở
Trường An
Muôn dặm Trường An ở phía đông,
Sao chẳng thương nhau viết mấy dòng.
Ngoảnh mặt về tây, buồn, đã thế
Mai lại hết năm, cảnh não lòng.
452. Nhớ vườn cũ ở Trường An
Muốn leo núi, lại sợ
Không có rượu dọc đường.
Thương hàng cúc vườn cũ
Vẫn nở cạnh chiến trường.
453. Gặp sứ giả vào kinh đô
Trông về
quê cũ xa vời vợi,
Vạt áo
run run, lệ ứa tràn.
Trên
ngựa gặp nhau, không giấy bút,
Xin nhờ
nhắn hộ: Vẫn bình an.
454. Viết trên sa mạc Hạ Diên, lúc mặt trời
mọc
Mặt trời
mọc trên cát.
Cát lại
nuốt mặt trời.
Công
danh là gì vậy
Mà đến
đây, phí đời?
455. Lên gác Tổng Trì
Chạm mặt
trời chót vót.
Nhìn ra
từ tháp này,
Thấy
muôn nhà, cây cối.
Vùng Năm
Làng đầy mây.
Núi Tần
bé và thấp.
Sông Vị
giống sợi dây.
Giác ngộ
được cái tĩnh,
Nguyện
thờ Phật từ nay.
456. Họa bài thơ "Buối sớm vào chầu
cung Đại Minh"của xá
nhân Giả Chí
Ngoài
làng gà gáy, tiếng xôn xao.
Oanh hót
trong cung, nắng phớt đào.
Chuông
điểm đền vàng, muôn cửa mở.
Lọng ô
thềm ngọc, sáng gươm đao.
Sương
sớm chưa khô, tha thướt liễu.
Hoa lắng
tai nghe tiếng nói chào.
Ai đó
xướng thơ bên ao Phụng,
Các quan
không biết họa thế nào.
457. Có việc ở tỉnh Tây Dịch
Tây
Dịch, mây tan, trời lại sáng.
Mưa nhẹ
Bắc Sơn, ướt áo chầu.
Tử Vi
thành cổ hoa thơm ngát.
Thanh
Tỏa xanh xanh liễu biếc màu.
Sáng xếp
hàng uyên, tay cầm hốt.
Chiều
cưỡi ngựa về, giống hệt nhau.
Thà về ở
ẩn nơi rừng núi,
Hơn làm
quan vụng, bạc hết đầu.
458. Tiễn anh
Trương đi làm úy ở Nam Hải
Anh ngại
đến Nam Hải
Vì mẹ
già, nhà neo.
Ở đấy
người Giao sống,
Lâu đài
như ốc nghêu.
Hoa đầy
núi Ngũ Lĩnh.
Núi Tam
Sơn mưa nhiều.
Nơi ấy
nhiều ngọc quí,
Nhưng
đừng quên quê nghèo.
TRƯƠNG QUÂN
Chưa rõ tiểu sử tác giả
459. Cảnh chiều ở Nhạc Dương
Chim
nhạn đã quay lại.
Hoàng
hôn, quạ lượn vòng.
Nước
long lanh ánh nắng.
Ráng
mỏng nhuốm mặt sông.
Vườn đỏ
ối lá thị.
Lau
trắng xóa bãi sông.
Trường
Sa luôn rét ẩm,
Mà áo
chửa may xong.
LƯU PHƯƠNG
BÌNH
Không rõ năm sinh, năm mất,
là nhà thơ nổi tiếng thời Thịnh Đường, học giỏi nhưng không đi thi, suốt đời ở
ẩn, người quê Hà Nam.
460. Khúc xuân
oán
Bên song cửa sổ ánh dương tà.
Còn ướt trên bàn giọt lệ sa.
Không thấy người đâu, nhà vắng lạnh.
Các cửa ra vào kẹt xác hoa.
461. Trăng đêm
Nửa nhà trăng chiếu, sát lan can
Là sao Bắc Đẩu, ánh trăng tàn.
Hơi xuân vừa bén, đêm trời ấm.
Ngoài vườn tiếng dế đã râm ran.
462. Nỗi oán giận ngày xuân
Xế
chiều, nắng nhạt lụi ngoài hiên.
Nhà
vắng, lệ rơi, ngại đốt đèn.
Trống
trải sân vườn, xuân đến muộn.
Hoa lê
đầy đất, cổng cài then.
LƯU TRƯỜNG KHANH
Sinh năm 709, mất năm 786, tự
Văn Phòng, người Hà Giang, nay thuộc tỉnh Hà Bắc; đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên
thứ 21 (733) đời Đường Huyền Tông, từng giữ các chức quan nhỏ nhưng luôn gặp
điều xấu, bị vu cáo, chết tại nhiệm sở; vì vậy mà thơ ông thường buồn. Tác phẩm: còn lưu được "Lưu Tùy
chân tập " gồm hơn 400 bài.
463. Ngủ ở núi
Phù Dung, gặp tuyết
Chiều đông, núi lạnh, hoàng hôn nhòa.
Gió thổi, nhà tranh, sân đầy hoa.
Sau phên chó sủa, khuya, bên cạnh
Có ai mang tuyết bước vào nhà.
464. Tức cảnh,
tặng Lý Mục
Thuyền con một chấm cuối chân trời,
Đi mãi mà rồi chẳng tới nơi.
Những muốn mở phên mời khách tới.
Ngại nghèo, nhà dột, lá vàng rơi.
465. Lên núi,
ghé thăm nhà họ Trịnh
Hoa rụng, cỏ thơm, nhà quạnh hiu.
Vắng người, vườn mận tiếng chim kêu.
Chó sủa đâu đây. Sao đóng cửa
Để phí bao nhiêu cảnh núi đèo?
466. Tiễn Linh
Triệt
Chùa Trúc Lâm xa xa.
Tiếng chuông chiều văng vẳng.
Nón sen đong nắng tà.
Một mình, đường núi vắng.
467. Nghe chơi
đàn cầm
Như gió thổi rừng cây,
Nhạc vang trên bảy dây.
Điệu cũ tuy ưa thích,
Ít ai đàn thời nay.
468. Ngày thu, lên chùa trên đài ông Ngô,
trông ra xa
Chạnh
lòng nhớ quê cũ..
Đài xưa
cỏ mọc dày.
Chùa
vắng người qua lại.
Xa vời
nước và mây.
Nắng
chiều vương bờ lũy.
Tiếng
khánh lạnh rừng cây.
Chuyện
Nam Triều đã cạn.
Nước
Trường Giang vẫn đầy.
469. Đi từ Hạ
Khẩu đến bãi Anh Vũ, trông sang
Nhạc Dương, gửi cho ông Nguyên Trung Thừa
Bãi sông
không sóng cũng không sương.
Khách Sở
ngồi buồn, dạ vấn vương.
Hán
Khẩu, nắng chiều nâng cánh nhạn.
Động
Đình, gió thổi, thoảng mùi hương.
Thành
ven vách núi, đêm thuyền đậu.
Một cây
đơn lẻ đứng bên đường.
Giả Nghị
dâng thư mong giúp Hán,
Phải
xuống Trường Sa, nghĩ thật thương.
470. Vô đề
Đường
dài hút heo, sông tạnh.
Trời xế,
thuyền không cột dây.
Người đi
trên sông xuôi ngược.
Ngoài
đồng cỏ vắng chim bay.
Khe sâu
trăng soi lạnh lẽo.
Lờ lững
trên đầu mây bay.
Phải đến
Trường Sa, thật khổ.
Bên
sông, cỏ dại mọc dày.
471. Tìm đạo sĩ Thường ở Nam Khê
Ai qua
đây, đường nhỏ
Còn in
dấu chân người.
Bãi nông
mây trắng phủ.
Ngoài
thềm cỏ tốt tươi.
Qua màn
mưa ngắm núi.
Theo con
suối dạo chơi.
Ý thiền
và cảnh đẹp
Gặp
nhau, chẳng nên lời.
472. Đi ngang
qua mộ Phiếu Mẫu 1)
Chịu ơn
từng bát gạo,
Nên cho
xây mộ này.
Mộ xưa
lẫn trong cỏ.
Triều
trước như mây bay.
Người
qua đường hương khói.
Đỗ quyên
kêu trên cây.
Bốn xung
quanh xuân biếc.
Vương
Tôn từng tới đây.
1. Mộ người đàn bà giặt vải được Hàn Tín xây để nhớ ơn bà cưu mang
mình thuở hàn vi, mộ mẹ Hàn Tín đối diện, cách thành Hoài An bốn mươi dặm về
phía tây.
473. Thơ làm lúc năm mới
Xa nhà,
xuân đến sớm.
Năm mới
buồn ủ ê.
Già rồi
còn ở đậu.
Chua xót
nỗi nhớ quê.
Bạn với
bầy vượn núi.
Mây
khói, liễu bên khe.
Chẳng
khác gì Giả Nghị.
Mấy năm
nữa được về?
474. Tiễn Vương Mười Một đi chơi miền nam
Nhìn con
thuyền rời bến,
Lệ đầm
đìa, vẫy tay.
Núi cũng
nhìn theo bác.
Chim lưu
luyến lượn bay.
Vào xuân
năm hồ lớn.
Ra đi
cánh buồm gầy.
Rau tần
trắng trên bãi
Vì bác,
cũng buồn lây.
475. Đi qua quê của Trương Minh Phủ,
trước giữ chức An Nghi
Có ông
già tóc bạc,
Nhà
ngoài góc thành đông.
Trả ấn
về ở ẩn,
Năm cây
liễu ông trồng.
Chiều ra
bến câu cá.
Sáng cày
cấy ngoài đồng.
Thích ôm
đàn đi dạo.
Nhưng
ông có vui không?
476. Ở Giang Châu, tiễn hai quan viên
ngoại là ông Sáu Tiết và ông
Tám Liễu
Từng
trải sự đời, lo ứng biến.
Cũng vì
cơm áo, phải đi xa.
Hà Nam
lá rụng, nhiều núi Sở.
Trường
Giang trăng sáng, nhạn bay qua.
Tạm vui
ngoài chốn Thương Châu ấy.
Ngắm
nhìn, tóc đã điểm sương pha.
Hai bác
quan tâm, lo bảo trọng.
Dẫu sao
ta đã lớp người già.
477. Qua nhà Giả Nghị ở Trường Sa
Ba năm
chịu cảnh sống lưu đày,
Để niềm
thương tiếc tới hôm nay.
Thơ thẩn
mình ta tìm dấu vết.
Rừng
lạnh, gió thu, đã xế ngày.
Văn Đế
anh minh mà bạc nghĩa.
Sông
Tương hờ hững chảy qua đây.
Quang
cảnh xung quanh buồn, xơ xác.
Thương
ông sao phải tới nơi này.
TÔN ĐỊCH
Không rõ năm sinh, mất năm
761, người Bác Châu, nay thuộc tỉnh Sơn Đông, làm quan đến chức thái tử thiêm
sự.
478. Lầu Vân Môn
Chùa nằm
sát vách đá.
Mây khói
chốn thâm tu.
Đèn
treo, đêm phủ núi.
Màn vén,
hồ vào thu.
Mành lụa
vẽ sao sáng.
Vách đầy
hình chim cu.
Ngỡ mình
nơi thượng giới,
Đang
cưỡi mây chu du.
LÝ ĐOAN
Năm sinh, năm mất không rõ,
tên chữ là Chính Kỷ, tự gọi mình là Hành Ngạc u nhân, người Triệu Châu, nay
thuộc tỉnh Hà Bắc, đỗ tiến sĩ năm Đại lịch thứ 5 (770). Cuối đời từ quan về ở
ẩn tại Hành Sơn. Tác phẩm: "Lý Đoan thi tập" hiện còn hơn 180 bài.
479. Vái trăng
mới
Mở rèm, thấy trăng mới,
Liền quỳ vái trước sân.
Không ai nghe lời khấn.
Gió thổi bay dải quần.
480. Đàn tranh
Người đẹp ngồi bên cửa
Chơi đàn như mọi ngày.
Muốn Chu lang 1) để ý
Cố tình gẩy nhầm dây.
(1) Tøc Chu
Du, tíng nhµ Ng« thêi Tam Quèc, næi tiÕng lµ ngêi sµnh ©m nh¹c. Mét h«m Lç
Tóc mêi ®Õn ch¬i, cho mét c« g¸i giái ®µn ch¬i ®µn tranh cho Du nghe. Gi÷ thÓ
diÖn, Du kh«ng tiÖn nh×n ngang nh×n ngöa nªn suèt buæi ngåi yªn. C« g¸i cè t×nh
g¶y sai d©y ®µn, xem Du cã biÕt kh«ng.
481. Dạo chơi bên suôi, gặp mưa, tặng Liễu
Trung Dung
Đêm
buông, núi mờ tối.
Mưa hắt
hiu, mịt mờ.
Cùng
nghe chung vượn hót,
Mà hai
người hai bờ.
LÝ GIA HỰU
Chưa rõ tiểu sử
tác giả.
482. Lầu trúc
Chức
quan nho nhỏ, diễu quan to.
Lầu trúc
dựng xong, chén thật no.
Gió nam
đang thổi, không cần quạt,
Ngủ một
giấc say trước lũ cò.
TIỀN
KHỞI
Sinh năm 722, mất năm 780,
tên chữ là Trọng Vân, người Ngô Hưng, nay là tỉnh Chiết Giang, đỗ tiến sĩ, làm
quan đến chức Khảo công Lang trung. Tác
phẩm: "Tiền Trọng Văn tập".
483. Giang hồ
gặp nhau
Giang hồ nước Yên, Triệu
Gặp nhau đất Hán này.
Nỗi lòng chưa nói hết,
Nắng đã tàn phía tây.
484. Ngày thu
Ngoài hiên, chiều bóng xế.
Buồn, không ai giãi bày.
Đường vắng người, hiu quạnh.
Gió thổi, lúa lung lay.
485. Chim nhạn
về
Tiêu Tương sông biếc, cỏ xanh đê.
Chim nhạn vì sao bỗng kéo về.
Có phải có người đàn dưới nguyệt,
Tiếng đàn ai oán, nhạn về nghe?
486. Viết khi đi
thuyền trên sông
Ngủ say trong thuyền lá.
Không giật mình, sóng êm.
Mặc trên bờ lau sậy
Thao thức hoài suốt đêm.
487. Chiều xuân,
về lều tranh núi cũ
Tân Di xuân hết, chẳng còn hoa.
Không cả cành mai trước cổng nhà.
Thương thương khóm trúc kề song cửa,
Luôn vẫn xanh buồn, đứng đợi ta.
488. Đề ở nhà họ
Thôi, ẩn dật trên núi
Đường hoa thược dược phủ rêu dày.
Kề bên cửa sổ núi và cây.
Dưới hoa, ông chủ nằm say khướt,
Mơ thành con bướm nhởn nhơ bay.
489. Đi thuyền trên sông, ngắm núi Khuông
Lư
Gần mà
không lên được
Vì mưa
lớn, gió nhiều.
Có thể
trên chùa ấy
Còn sư
đời Lục Triều.
490. Tiễn nhà sư về Nhật Bản
Có dịp
đến thượng quốc,
Không
phải đến trong mơ.
Nước hòa
trời xanh biếc.
Thuyền
đạo trôi hững hờ.
Cá rồng
nghe kinh Phật.
Trăng
thiền, nước ngẩn ngơ.
Vời vợi
trong đôi mắt
Lung
linh ngọn đèn mờ.
491. Trong phòng văn ở Cốc Khẩu,
gửi Dương Bổ Khuyết
Bờ dậu
ráng mây phủ.
Khe cỏ
mọc bời bời.
Trúc và
núi thật đẹp.
Xế
chiều, mưa ngừng rơi.
Hoa rụng
như chậm lại.
Mấy cánh
cò chơi vơi.
Sai trẻ
quét sân, ngõ -
Bác hẹn
chiều đến chơi.
TRƯƠNG
KẾ
Sinh và mất khoảng trước sau
năm 766, tên chữ là Từ Tốn, người Nhương Châu, nay là Hồ Nam, đỗ tiến sĩ thời
Thiên Bảo, làm quan đến chức Từ Bộ viên ngoại lang. Rất nổi tiếng với bài Phong
Kiều dạ bạc.
492. Đêm đậu
thuyền ở bến Phong Kiều 1)
Sương bạc, trăng tà, phong đứng yên,
Xóm chài lấp lóe lửa hai bên.
Đêm vắng, tiếng chuông chùa Núi Lạnh
Từ phía Cô Tô vọng tới thuyền.
(1) ë phÝa t©y thµnh C« T« (T« Ch©u), tØnh Giang
T«.
493. Lên lầu
Dân bị
quan bắt lính.
Ruộng
hóa cỏ mọc dày.
Lên lầu
nhìn: Đang Tết,
Ít nhà
có khói bay.
UNG ĐÀO
Tác giả: Chưa rõ tiểu sử.
494. Thơ đề
“Cầu đứt tình”
Chỉ có
tình yêu bền chặt mãi.
Sao ai
gọi thế chiếc cầu nay.
Tốt hơn
xin đổi thành “bẻ liễu” 1),
Để tình
còn đó, chỉ chia tay.
1. Đời xưa người Trung Quốc có
tục bẽ cành liễu khi chia tay.
ĐÁI
THÚC LUÂN
Sinh năm 732, mất năm 789,
người Thuận Châu, nay thuộc tỉnh Giang Tô, đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Phủ
Châu thứ sử, sau bỏ quan làm đạo sĩ. Tác phẩm: " Đái Thúc Luân tập".
495. Miếu Tam Lư
Nguyên, Tương cứ chảy mãi.
Khuất Nguyên buồn, đau lòng.
Hiu hắt rừng cây lạnh.
Chiều, gió thổi trên sông,
496. Mơ về Ngư Dương
Đầu thôn
liễu mơn mởn.
Bãi dâu
xanh bên đường.
Mang
giỏ, quên hái lá.
Đêm
trước mơ Ngư Dương.
497. Bạn cũ quê Giang Nam
tình cờ hội họp ở quán khách
Vào thu,
trăng lại sáng.
Bóng đêm
phủ mờ mờ.
Lại gặp
nhau như trước.
Cứ ngỡ
gặp trong mơ.
Chim
giật mình, gió thổi.
Dế giun
kêu thờ ơ.
Say sưa
nơi đất khách,
Sợ
chuông báo hết giờ.
498. Đêm giao thừa, trọ ở trạm Thạch Đầu
Một mình
trong quán trọ.
Bạn với
chiếc đèn dầu.
Đêm cuối
năm sắp hết,
Xa nhà
kể đã lâu.
Buồn
suốt đời phiêu bạt.
Toàn
nghĩ chuyện buồn rầu.
Mặt buồn
và tóc bạc,
Chờ xuân
đến hôm sau.
LƯ LUÂN
Không rõ năm sinh, năm mất, tự Doãn Ngôn,
người đất Bồ, phủ Hà Trung, nay thuộc tỉnh Sơn Tây. Khoảng thời gian từ 766 đến
778 nhiều lần thi không đỗ, sau được tiến làm chức úy huyện Văn Khánh. Tác phẩm có Thi Tập gồm mười quyển.
Khúc hát Tái Hạ
Bài một
Cờ làm
bằng lụa đẹp.
Tên -
lông chim đại bàng.
Tướng
đọc to lệnh mới,
Cả vạn
quân hô vang.
Khúc hát Tái Hạ
Bài ba
Quân
Thiều Vu bỏ chạy.
Trăng
mờ, nhạn bay cao.
Cho quân
kỵ rượt đuổi.
Tuyết
bám đầy cung đao.
Khúc hát Tái Hạ
Bài bốn
Doanh
trại trải chiếu ngọc.
Thắng
giặc, mừng chiến công.
Say, mặc
giáp nhảy múa.
Tiếng
trống vang khắp đồng.
499. Tiễn Lý Đoan
Ải cũ
toàn cỏ úa.
Cảnh ly
biệt buồn sao.
Đường ra
- đầy mây lạnh.
Chiều
tuyết rơi - đường vào.
Bác xa
quê từ nhỏ,
Lắm hoạn
nạn, lao đao.
Lặng
nhìn mà gạt lệ.
Biết hẹn
nhau nơi nào?
500. Chiều đỗ thuyền ở Ngạc Châu
Mây
tạnh, mờ mờ thấy Hán Dương,
Thuyền
đi còn mất một ngày đường.
Nước
lặng cả ngày, khách muốn ngủ.
Suốt đêm
cánh lái đợi triều cường.
Ba
Tương, tóc bạc, mùa thu tới.
Chạnh
lòng, trăng sáng nhớ quê hương.
Buồn
nghe trống trận vang sông nước.
Quá đủ
sinh linh ngã chiến trường.
501. Chiều xuân
ở Trường An
Gió thổi
mưa qua núi.
Đất trời
thắm sắc xuân.
Sông ít
người qua lại.
Đồng xa
nối đồng gần.
Trên
trời, mảnh trăng khuyết.
Bao giờ
gặp người thân?
Đời nhà
nho khổ thế -
Phơi mặt
nơi ải Tần.
THÔI HỘ
Năm sinh, năm mất không rõ, tự Ân Công, người Bắc Lăng, nay là
huyện Định, tỉnh Trực Lệ. Ông lận đận trong thi cử, khi đỗ tiến sĩ tuổi đã cao,
thuộc thế hệ sau Đỗ Phủ, trước Bạch Cư Dị. Ông làm quan đến chức Tiết độ sứ
Lĩnh Nam. Bài thơ dưới đây rất được người đương thời ưu thích.
502. Thơ đề chỗ
gặp gỡ ngày trước
Năm
ngoái ngày này, cũng nơi này,
Mặt hoa,
mặt người đỏ hây hây.
Người cũ
đi đâu giờ chẳng thấy,
Để lại
một mình hoa ở đây.
HÀN HỦ
Không rõ năm sinh, năm mất,
đỗ tiễn sĩ năm 754, tự Quận Bình, người Nam Dương (Hà Nam). Tác phẩm có
"Thi tập", gồm 5 quyển.
503. Tiết hàn
thực
Khắp thành đâu cũng thấy hoa bay.
Hàn thực, gió đông uốn liễu gầy.
Vua Hán trong cung truyền thắp nến.
Dinh thự Ngũ Hầu nhiều khói bay.
504. Thơ tặng nhân tiếp Trình Cận
Trải
chiếu tre hóng gió.
Trên
thành trăng rất cao.
Đêm, nhà
nhà giã gạo.
Nhạn bay
giữa trời sao.
Thu
muộn, định ngủ sớm,
Quên
cuộc đời lao đao.
Mải đọc
thơ, không biết
Quạ kêu
sớm lúc nào.
HẠO NHIÊN
Không rõ năm sinh, năm mất. Hạo Nhiên là
pháp danh, ông họ Tạ, tên Trú, vào lúc có tuổi bỏ đi tu, rất được Vi Ứng Vật
kính trọng
505. Tìm Lục Hồng Tiệm, không gặp
Đường
quê cây rậm rạp.
Nhà ở mé
thành xa.
Cúc mới
trồng sát dậu,
Thu rét
chửa ra hoa.
Gõ cửa,
chó không sủa.
Hỏi nhà
bên, người ta
Bảo: Ông
lão vào núi,
Chiều
tối mới về nhà.
TƯ KHÔNG THỰ
Sinh năm 720, mất 790, tự Văn
Minh, người Quảng Bình, nay thuộc tỉnh Hà Bắc, đỗ tiến sĩ và từng giữ nhiều
chức quan khác nhau. Tác phẩm:
"Tư Không Văn Minh thi tập" gồm hơn 70 bài còn giữ được.
506. Chuyện ở
thôn ven sông
Vội về, quên níu cột thuyền câu.
Thôn chài trăng xế, ngủ từ lâu.
Đêm, gió thổi thuyền trôi đâu đấy.
Chắc cũng gần thôi, quanh bãi dâu.
507. Từ biệt Lư
Tần Khanh
Biết anh đang có hẹn,
Không dễ dàng biệt ly.
Rượu ngon và gió ngược
Không giữ được anh đi.
508. Cùng ngắm
hoa và uống rượu, say với Vệ Tượng
Mái tóc cả hai cùng điểm bạc.
Quê người, cùng ngắm một cành hoa.
Sáng nay được dịp say cùng bác,
Quên mình đang ở tận Trường Sa.
509. Giặc yên, tiễn người về bắc
Loạn,
xuống nam lánh nạn.
Yên, về
bắc một mình.
Quê
người tóc bạc trắng.
Về nhà
thấy núi xanh.
Lũy cũ
trăng non chiếu.
Ải xưa
sao lung linh.
Chim
lạnh và cỏ úa,
Như mặt
người, buồn tênh.
510. Từ giã Hàn Thân ở Vân Dương
Chia tay
nơi sông biển.
Cách
nhau mấy trời mây.
Giờ gặp
nhau bất chợt,
Buồn vui
muốn giải bày.
Ngọn đèn
soi mưa lạnh.
Bụi trúc
khói mù bay.
Sáng hôm
sau gạt lệ,
Lại nâng
chén chia tay.
511. Mừng được người em
bên ngoại là Lư Luân đến thăm
Không
láng giềng, đêm vắng.
Lá vàng
trong mưa ngâu.
Nhà vốn
nghèo, trống trải.
Đèn mờ,
người bạc đầu.
Mừng hôm
nay gặp chú.
Nhà vắng
khách đã lâu.
Ở đời
cần giao tiếp,
Huống bà
con với nhau.
LÝ HẠ
Sinh năm 789,
mất 816, người Phúc Xương, nay thuộc tỉnh Hà Nam. Ông là tôn thất nhà Đường,
không thi tiến sĩ và chỉ được làm một chức quan nhỏ. Ông mất sớm, để lại ba quyển
thơ.
512. Măng non ở
vườn bắc Xương Cốc
Viết
thơ, tre nhỏ chẻ từng thanh.
Phấn
xuân, hương nhị, mực long lanh.
Ai thấy
cái buồn sau chữ viết?
Khói
nhẹ, sương treo trên lá cành.
VƯƠNG KIẾN
Sinh năm 751, mất năm 835,
tên chữ là Trọng Sơ, người Khoản Châu, nay là Hứa Xương, tỉnh Hà Nam, đỗ tiến
sĩ, làm quan đến Tư mã Thiểm Châu. Tác phẩm: "Vương Từ Mã tập".
513. Lời nàng
dâu mới
Sau cưới được ba ngày,
Vào bếp nấu canh này.
Nhờ em chồng nếm trước.
Chiều mẹ chồng sao đây?
514. Cung cũ
Tiêu điều cung cũ bám rêu phong.
Hoa rụng đầy sân, trắng lẫn hồng.
Mấy bà cung nữ xưa đầu bạc,
Ngồi buồn kể chuyện đức Huyền Tông.
515. Vịnh cung Hoa Thanh
Đi hết
Giang Nam mấy chục dặm,
Trăng
tàn, gần sáng đến Hoa Thanh.
Gió tây
trên gác Triều Nguyên thổi,
Hút ẩm
Tương Dương, mưa xuống thành.
516. Đêm rằm
ngắm trăng
Sân sau,
con quạ đậu trên cây.
Sương
lạnh long lanh bụi quế gầy.
Mọi
người vui ngắm vầng trăng sáng.
Nhà nào
thu đến, buồn đêm nay?
517. Đá vọng
phu
Đứng chờ
chồng mỏi mắt
Bên
sông, trên núi cao.
Lặng lẽ
biến thành đá.
Không
ngoảnh lại lần nào.
518. Cuối năm,
tự thương mình
Mọi
người muốn trẻ, có ai không?
Thời
gian làm tóc trắng như bông.
Trăm
cách trốn già, già cứ đến.
Muốn vui
mà cứ phải đau lòng.
Nhà chưa
dựng được, đang chờ dựng.
Thông dẫu
khó trồng, vẫn phải trồng.
Nâng
chén rượu này, xin một việc:
Thêm hai
chục lần được tiễn đông.
VI ỨNG VẬT
Sinh năm 736, mất năm 830,
người Kinh Triệu, Tràng An, nay là thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, từng làm
Thứ sử Tô Châu nên cũng gọi là Vi Tô Châu, phong cách thơ gần với lối sơn thủy
của Vương Duy.
519. Nghe sáo trên sông, tiễn quan thị ngự họ Lục
Nâng chén này tiễn bác.
Văng vẳng sáo trên sông.
Buồn, trong đêm nằm ngủ.
Tiếng sáo vọng tới phòng.
520. Khe phía
tây ở Trừ Châu
Âm thầm cỏ mọc sát bờ sông.
Oanh vàng ríu rít giữa cành phong.
Sắp tối, triều xuân, đò vắng chủ,
Tự ý quay ngang, đứng giữa dòng.
521. Tiết hàn
thực, gửi em ở Kinh Sư
Cấm lửa, trời mưa, phòng lạnh tanh.
Lắng nghe chim yến hót trên cành.
Nhớ em, uống rượu, nhìn hoa nở.
Đỗ Lăng hàn thực cỏ xanh xanh
522. Trả lời Lý
Cán
Vừa đọc Kinh Dịch xong.
Rỗi, ngắm chim trên sông.
Nghe Sở nhiều hào kiệt,
Người nào chơi với ông?
523.
Đêm thu, gửi Viên ngoại họ Khâu
Đêm thu, dạo một mình.
Ngâm thơ, thường nhớ anh.
Trái thông rơi trên núi.
Ai nỡ ngủ cho đành?
524. Ở Phù Đắc, mưa chiều, đưa tiễn Lý Tào
Mưa phùn
ở Đông Sở.
Chuông
Kiến Nghiệp, chiều tà.
Man mác
thuyền chở nặng.
Chầm
chậm nhạn bay qua.
Cửa sông
không thấy đáy.
Mờ mờ cây xa xa.
Chia
tay, tình lai láng,
Cánh tay
áo lệ nhòa.
525. Gửi đạo sĩ trong núi Toàn Tiêu
Sáng,
phòng lạnh, chợt nhớ
Có người
trên núi cao
Nhặt củi
gai dưới suối
Về đun
trà thanh tao.
Muốn
giúp ông đỡ lạnh,
Tặng một
vò rượu đào.
Nhưng
núi đầy lá rụng,
Biết tìm
ông nơi nào?
526. Đêm đỗ thuyền ở huyện Vu Di
Bến đò
cạnh ngõ trạm.
Thuyền
đậu ở Phố Hoài.
Gió
thổi, nước cuộn sóng.
Tia nắng
chiếu xiên khoai.
Người về
nơi xóm núi.
Nhạn
xuống ngủ bãi ngoài.
Nhớ ải
Tần, đêm vắng.
Nghe
tiếng chuông ngân dài.
527. Bắt đầu ra đi ở Dương Tử,
gửi cho ông hiệu thư Nguyên
Đại
Buồn,
chia tay ly biệt,
Người đi
vào khói sương,
Người
bùi ngùi quay mũi
Cho
thuyền về Lạc Dương.
Biết bao
giờ gặp lại,
Phiêu
dạt chốn dặm trường?
Đời, như
thuyền trên sóng,
Trôi mãi
theo lẽ thường.
528. Gặp Phùng Trứ ở Trường An
Mưa Ba
Lăng ướt áo.
Khách từ
xa tới đây.
"Chắc
bác có công chuyện?"
"Vâng,
mua rìu đốn cây".
Xuân đến
rồi, hoa nở,
Én non
chấp chới bay.
Mai tóc
thêm sợi bạc.
Chia tay
bác hôm nay.
529. Bắt chước Đào Bành Trạch
Sương
lạnh, cây cỏ héo,
Chỉ hoa
cúc tươi màu.
Sự đời
vốn vẫn vậy,
Nóng hay
lạnh mặc dầu.
Hoa thơm
ngâm rượu đục,
Tối ngồi
uống với nhau.
Mái nhà
tranh, vò rượu -
Đời có
cần nhiều đâu.
530. Tiễn Vương chủ ở Phần Thành
Làm quan
lúc còn trẻ,
Từng đi
tới đất Phần.
Nơi cỏ
thơm xanh tốt,
Nhiều
bạn cũ, người thân.
Cây
trong cung khói phủ.
Thành
chìm trong mưa xuân.
Chia tay
trên cầu nhỏ.
Gió
thổi, sóng lăn tăn.
531. Trên sông
Hoài, mừng gặp bạn cũ ở Lương Xuyên
Lưu lạc
ở Giang Hán.
Gặp nhau
trong tiệc say.
Mười năm
nước đã chảy,
Cũng
chừng ấy mây bay.
Mừng vui
gặp bạn cũ.
Tóc đã
bạc thế này.
Sao bác
chưa về nhỉ?
Sông
Hoài chảy đêm ngày.
532. Gửi Lý Đàm
và Nguyên Tích
Năm
ngoái trong vườn, tiễn các anh.
Hôm nay
hoa lại nở trên cành.
Việc đời
rối rắm, không lường được.
Xuân mới
mà buồn, ngủ một mình.
Đau ốm,
nhớ quê, về chẳng được.
Dân
nghèo, bổng lộc hưởng không đành.
Các anh
bảo đến, chờ, không đến.
Mấy bận
lầu tây trăng khuyết vành.
533. Cánh đồng
phía đông
(Lược dịch)
Việc
quan luôn bận bịu.
Nay ra
ngoài thành đông.
Khóm
liễu chao theo gió.
Núi xanh
làm vợi lòng.
Trên
núi, nghỉ tùy thích.
Ven khe,
đi lòng vòng.
Mùa
xuân, chim ríu rít.
Mưa nhỏ
rơi trên đồng.
534. Ở ẩn
(Lược dịch)
Ở đời
phải vật lộn.
Sang hèn
do chức quan.
Riêng ta
không ràng buộc
Nên có
được cái nhàn.
Xuân,
núi rừng quang đãng.
Chim
chóc bay từng đàn.
Dạo cùng
người đốn củi.
Cùng đạo
sĩ - luận bàn.
535. Từ Củng
Lạc đi thuyền vào sông Hoàng Hà,
gửi các bạn cùng làm quan ở phủ và huyện
Trời
nước đằng đông biếc một màu.
Đằng tây
núi lạnh, nước sông sâu.
Vời vợi
cây xanh nhìn hút mắt.
Nắng
quái xiên khoai những gợi sầu.
Bên kia
bờ suối làng heo hắt.
Sau mưa,
chấp chới cánh chim âu.
Nhắn bạn
làm quan nơi huyện, phủ:
Lòng tôi
không buộc, giống thuyền câu.
LIỄU TÔNG NGUYÊN
Sinh năm 773, mất năm 819, tự
Tử Hậu, người Kinh Triệu Vạn Niên, nay là Tây An, Thiểm Tây, đỗ tiến sĩ năm
Trinh Nguyên thứ 9 (793), năm thứ 14 (798) lại đỗ khoa Bác học Hoằng tử, được
giữ chức giám sát Ngự sử, sau bị thất sủng. Tác phẩm: "Liễu Hà Đông
tập".
536. Tuyết trên
sông
Không bóng chim trong núi.
Không dấu chân trên đường.
Cô đơn, thuyền ông lão
Rong câu, câu tuyết sương.
537. Cùng đi xem
núi với nhà sư Hạo Sơ,
gửi bạn bè thân
thiết ở Kinh Đô
Thu đến không đâu, buồn vấn vương.
Bốn bề núi đứng tựa gươm giương.
Thân này giá biến thành muôn vạn
Để từ đỉnh núi ngóng quê hương.
538. Ông chài
Uống
nước sông Tương, đun củi Sở.
Giường
là phiến đá, gối - cành cây.
Một
tiếng hò chèo vang sông núi.
Không
gặp một ai suốt cả ngày.
Lặng lẽ
bầu trời in đáy nước.
Hững hờ
mây núi đuổi nhau bay.
539. Ở miền khe núi
Bị chức
quan trói buộc,
May được
đầy đến đây,
Xứ Nam
di hẻo lánh,
Thế mà
vui cả ngày.
Tối chèo
thuyền khe núi.
Sáng dẫy
cỏ, đi cày.
Toàn
người không quen biết.
Hứng,
hát vang rừng cây.
540. Sáng sớm
đọc sách thiền ở viện Siêu Sư
(Lược dịch)
Súc
miệng bằng nước lạnh.
Phủi bụi
khỏi áo quần.
Lời
người xưa sâu sắc,
Giúp rèn
luyện tinh thần.
Nhà đạo
sĩ vắng lặng.
Rêu, tre
mọc đầy sân.
Vui, tự
đọc, tự biết.
Nghe và
nói không cần.
MẠNH GIAO
Sinh năm 751, mất năm 814, tên chữ là Trọng Sở, người Hồ Châu, nay
là tỉnh Chiết Giang, năm mươi tuổi mới đỗ tiến sĩ, làm quan đến Phiên Dương uý.
Tác phẩm: "Mạnh Đông dã
tập".
541. Khúc ngâm
gửi theo thư
Mực hòa cùng nước mắt,
Viết thư gửi người thân.
Thư đi, hồn cũng mất,
Chỉ trơ lại xác trần.
542. Cổ ly biệt
Chàng
lại đi đâu nữa?
Biệt ly,
níu áo chàng.
Không
giận vì về muộn,
Chỉ đừng
tới Lâm Ngang.
543. Khúc ngâm
người con đi chơi xa
Con đi
xa, bà mẹ
Đưa bàn
tay tảo tần
Từng
đường kim, sợi chỉ,
Khâu áo
rất ân cần.
Ai bảo
lòng tấc cỏ
Đền đáp
được mùa xuân?
544. Bài hát người liệt nữ
Chờ nhau
đến già rũ,
Phượng
đậu cây ngô đồng.
Uyên
ương chết từng cặp,
Vợ hiền
chết theo chồng.
Lòng em
như giếng nước,
Thề bao
giờ cũng trong!
545. Bài từ
người đàn bà dệt vải
Chàng là
trai đồng ruộng.
Phận
thiếp gái nhà quê.
Kể từ
ngày xuất giá.
Dệt vải
chọn làm nghề.
Suốt
ngày bên khung cửi,
Dệt từ
sáng đến khuya,
Mà vải
mình người mặc,
Mình áo
rách, người chê.
HÀN DŨ
Sinh năm 768, mất năm 824,
tên chữ là Thoái Chi, người Nam Dương, chống lại chủ trương của Phật giáo, khởi
xướng phong trào tân văn, rất có ảnh hưởng đến đương thời và sau này.
546. Đầu xuân,
mưa nhỏ
Như sữa, mưa rơi ướt lá cành.
Vạt cỏ xanh mà không phải xanh.
Đây suốt năm xuân, gì cũng đẹp,
Đẹp hơn khói liễu chốn đô thành.
547. Xuân muộn
Xuân chẳng dừng lâu chờ cỏ cây
Khoe sắc trăm hoa, ngày tiếp ngày.
Hoa dương đang rụng, không tình ý,
Chỉ biết bay bay như tuyết bay.
548. Bị giáng chức đổi đi xa,
đến Ải Nam, dặn lại cháu là
Tương
Buổi
sáng can vua, chiều có lệnh
Đày
xuống Châu Triều, chịu án oan.
Chỉ muốn
vì dân, trừ gian tặc,
Đâu vì
tuổi tác, muốn cầu an.
Mây che
Tần Lĩnh, nhà không thấy.
Tuyết
phủ chặn đường tới Lâm Quan.
Cháu từ
xa đến, sau hãy nhớ
Xương ta
tìm nhặt bãi sông Hàn.
549. Trong tiệc
rượu, dâng
Lý tướng công ở Tương Dương
Phụng sự
nhà vua, lo việc công,
Nhưng
tôi là chuột, ông là rồng.
Ấm bụng,
không từ ly rượu yến.
Đau lòng
tin vắng, mỏi mắt trông.
Đuốc bạc
chưa tàn, trời đã rạng.
Chén
vàng say dở, xuân thêm nồng.
Được
biết nay mai ông nhậm chức,
Xin cho
chức nhỏ, kình nhờ ông.
TRƯƠNG TỊCH
Sinh năm 768, mất năm 839, tự
Văn Xương, người Ngô Quận, nay là Tô Châu, Giang Tô; đỗ tiến sĩ năm 798, làm
quan đến chức Quốc Tử Tư nghiệp. Tác phẩm: "Trương Tư Mã tập".
550. Gửi nhà sư
ở Tây Phong
Suối chảy dưới rừng thông.
Đêm thanh mà khó ngủ.
Trăng chếch đỉnh Tây Phong.
Nhớ mái nhà tranh cũ.
551. Ý nghĩ mùa thu
Lạc Dương gió thổi, héo tàn hoa.
Viết thư, lo lắng hỏi tin nhà.
Vội vã, chỉ e chưa
nói hết,
Người sắp lên đường, còn mở ra.
552. Khúc hát
Thành Đô
Cẩm Giang khói nước phía đằng tây.
Mới mưa, vải chín đỏ trên cây.
Dọc hai bên cầu nhiều quán rượu.
Khách chọn quán nào khi tới đây?
553. Tặng nhà sư Nhật Nam ở trong núi
Trước
cổng hai ngọn núi.
Chỉ nhìn
núi mà già.
Sách
kinh trên lá chuối.
Áo treo
bên bụi hoa.
Đào đất
xây thành giếng.
Vào rừng
trồng dâu gia.
Khách
Nam Hải thường hỏi:
Nhà của
bác đấy à?
554. Thương bạn cũ mất tích ở đất Phiên
Anh đi lính năm ngoái.
Giờ sống chết không hay.
Nghe nghìn, vạn người chết.
Tin tức vắng lâu ngày.
Ngựa anh không trở lại.
Cờ
trướng không có đây.
Muốn tế
anh, chỉ sợ
Anh còn
sống lúc này.
555. Gửi sứ
quân họ Lưu ở Hòa Châu
Xa nhau
lần ấy đã bao ngày.
Tôi đang
ở quận, vẫn thường say.
Sa Khẩu,
qua đê đưa tiễn khách.
Thùy
Tâm, ngồi ngắm cánh chim bay.
Mặt sông
buổi sáng mù sương khói.
Sườn núi
buổi chiều mưa lây rây.
Tình thơ
đến bác xa vời vợi,
Có hứng,
ngâm thơ nào ai hay.
TRƯƠNG HỰU
Năm sinh không rõ, mất 853, tự Thừa Cát, người Nam Dương, không ra
làm quan mà sống ẩn dật.
556. Đài Tập
Linh 1)
Mặt trời
buổi sáng đã nhô cao.
Long
lanh sương lạnh cánh hồng đào.
Thượng
Hoàng đêm trước ban phù lục 2).
Thái
Chân 3) cười mỉm, vén rèm cao.
1. Còn nền cũ
bên núi Ly Sơn, huyện Lâm Đồng, tỉnh Thiểm Tây, do vua Đường Minh Hoàng lập để
thờ Lão Tử.
2. Bùa vẽ trên
giấy trắng.
3. Tức Dương
Quí Phi.
557. Khúc hát
“Hà Mãn Tử” 1)
Quê cũ
xa nghìn dặm.
Hai mươi
năm trong cung.
Nghe bài
“Hà Mãn Tử”.
Nước mắt
chảy hai dòng.
558. Thơ đề bến
Kim Lăng
Bên bến
Kim Lăng, một mái lầu.
Đến
nghỉ, tự dưng thấy buồn rầu.
Sông đêm
triều rút, trăng nhàn nhạt.
Đèn mờ
run rẩy phía Qua Châu.
CHU KHÁNH DƯ
Sinh năm 797, không rõ mất
năm nào, người Việt Châu, nay thuộc tỉnh Chiết Giang; đỗ tiến sĩ năm 826, nổi
tiếng thơ hay, được Trương Tịch rất đề cao.
559. Bài thơ
cung nữ
Cổng đóng, hoa đào nở lặng yên.
Buồn buồn người đẹp đứng bên hiên.
Chuyện kín trong cung không dám kể.
Ngại ngùng con vẹt sát kề bên.
560. Hỏi chồng
Đêm động
phòng, sáng dậy
Để lạy
cha mẹ chồng.
Hỏi
chồng lúc trang điểm:
Mày em
tô được không?
TIẾT ĐÀO
Nữ thi sĩ đời đường, sinh năm
768, mất năm 831, tự Hồng Độ, người Trường An, thân phụ bà làm quan ở đất Thục
nên bà lưu ngụ ở đó. Bà biết làm thơ từ thuở lên tám, giao du nhiều với các nhà
thơ nổi tiếng cùng thời như Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tich, Đỗ Mục, vân vân.
561. Bài từ ngóng xuân
Không
cùng ngắm hoa nở.
Không
cùng thương hoa tàn.
Nhớ nhau
là chỗ ấy,
Khi hoa
nở, hoa tàn.
LÝ THIỆP
Không rõ năm sinh, năm mất,
tự Thanh Khê, người Lạc Dương, nay thuộc tỉnh Hà Nam; làm quan một thời gian
rồi ở ẩn và ngao du sông hồ.
562. Từ Tần Thành về, lại đề thơ ở cửa Vũ Quan
Xa cách Tần Thành đã khá lâu.
Đuổi nhau, núi chạy đến Thương Châu.
Khe lạnh cửa quan không chắn được,
Suốt đêm nước chảy, người thêm sầu.
563. Lên núi
Suốt ngày mơ mộng suốt ngày say.
Nghe nói xuân tàn, mới đến đây.
Chùa cổ gặp sư, ngồi chuyện gẫu,
Nhàn rỗi phù du thêm nửa ngày.
LƯƠNG HOÀNG
Chưa rõ tiểu sử tác giả.
564. Bài từ về cô gái xinh đẹp
Hoa đào
nở bên giếng.
Đôi én
bay song song.
Có cô
gái xinh đẹp
Màu xuân
vương áo hồng.
Luôn soi
gương, cánh cửa
Nửa muốn
khép, nửa không.
Khách
qua đường vô ý
Ngửi mùi
son phấn nồng.
TRƯƠNG BÍCH
Chưa rõ tiểu sử tác giả.
565. Nhà nông
Trời
chưa sáng hẳn đã ra đồng.
Được mùa
vui sướng cảnh nhà nông.
Nhưng
thóc lại vào tay kẻ khác.
Vợ con
chết đói, nghĩ đau lòng.
LÝ HOÀN
Năm sinh chưa rõ, mất năm 840, là con của
Hiến Tông, em Kinh Tông, lên ngôi năm 827, lấy hiệu Thái Hòa (827 - 835).
566. Thơ đề trong cung
Vườn
Thượng Lâm hoa nở.
Đường đi
cỏ mọc dày.
Thiên
nhiên tình ý vậy,
Bọn quan
hầu đâu hay.
TRƯƠNG DIỄN
Tự Dục Chi. Cuộc đời và sự nghiệp chưa rõ.
567. Hội xuân
Dưới núi
Nga Sơn gạo lúa đầy.
Lợn gà
im tiếng mấy hôm nay.
Sắp hết
hội xuân, cây xế bóng,
Không có
nhà nào không khách say.
THÍCH XỬ MẠC
Chưa rõ tiểu sử, có lẽ là một nhà sư (Thích),
pháp danh là Xử Mặc.
568. Chùa Thánh Quả
Đường
lên từ núi giữa,
Đầy cỏ
rậm quanh co.
Bên kia
núi - đất Việt.
Đến
sông, hết đất Ngô.
Xanh
xanh rừng cổ thụ.
Trăng
trắng, sóng lô xô.
Phía
dưới là thành quách.
Tiếng
chuông lẫn tiếng hồ.
LÝ THÂN
Năm sinh không rõ, mất năm
846, tự Công Thủy, người Nhuận Châu, nay thuộc tỉnh Giang Tô, đỗ
tiến sĩ năm 806, được bổ làm Hàn lâm học sĩ, lúc trẻ nổi tiếng ngang tàng. Tác phẩm: Truy tích du thi (ba
quyển), Tạp thi (một quyển), vân vân. Bài một Thơ cổ phong dưới đây chắc được
một nhà Nho nào đấy dịch ra thành ca dao: "Cày đồng đang buổi ban
trưa"...
569. Thơ cổ phong
Bài một
Cuốc
giữa nắng chang chang,
Mồ hôi
đổ từng hàng.
Ăn bát
cơm mới biết
Mỗi hạt
quí như vàng.
570. Thơ cổ phong
Bài
hai
Đấu thóc
gieo đầu xuân,
Đến mùa
thu gấp bội.
Ruộng
đất không bỏ hoang,
Thế mà
nông dân đói.
571. Vào cửa
sông Tứ
Liền với
Thanh Hoài là nhánh sông.
Hoa lau
thu úa mọc đầy đồng.
Châu
Dương xuất hiện sau mây biển.
Đầm Sở
xa xa, giữa khói lồng.
Chân
trời vời vợi, miền Giang Hán.
Chợt
nghĩ về quê, thấy chạnh lòng.
Khách
thấy bâng khuâng nơi lối rẽ.
Mặt trời
về tây, sông về đông.
GIẢ ĐẢO
Sinh năm 779, mất 843, tự
Lãng Tiên, người Phạm Dương, nay thuộc tỉnh Hà Bắc, lúc trẻ nghèo túng, từng đi
tu, sau hoàn tục; thi tiến sĩ nhiều lần không đỗ. Thơ ông có ảnh hưởng lớn đến
những nhà thơ Vãn Đường và Nam Tống sau này. Tác phẩm: "Trường Giang
tập", khoảng 400 bài.
572. Tuyệt cú
Ba năm được hai câu,
Thành hai dòng lệ sầu.
Bạn không khen thì mỗ
Lên núi nằm vuốt râu.
573. Tháng Ba,
ngày ba mươi, tiễn xuân
Đêm nay đêm cuối của tháng Ba.
Buồn nhìn cảnh đẹp, ngồi ngâm nga.
Tiễn xuân, ta hãy cùng thức trắng.
Chưa nghe chuông sớm, vẫn xuân mà.
574. Tìm người ở
ẩn không gặp
Tìm người, hỏi cậu bé.
Đáp: "Hái thuốc từ lâu,
Chỉ quẩn quanh trong núi"
Mây nhiều biết tìm đâu?
575. Tuyệt cú
Nghìn
nhà phá hết để đào ao.
Chỉ
trồng cây hường, không trồng đào.
Khi gió
thu thổi, hường rụng hết,
Cành
trụi đầy vườn, mới biết sao?
LƯU VŨ TÍCH
Sinh năm 772, mất 842, tự
Mộng Đắc, người Lạc Dương (Hà Nam), đỗ tiến sĩ năm Trung Nguyên thứ 9 (793),
sau lại đỗ khoa Bác học hoàng tử, được làm Giám sát ngự sử. Ông là nhà tư tưởng
theo chủ nghĩa duy vật, nổi tiếng đời Đường với cuốn "Thiên luận" gồm
ba thiên, nêu rõ phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật. Tác phẩm: "Vương Tư
Mã Tập", nay còn 500 bài.
576. Tiễn Linh
Triệt
Chùa Trúc Lâm xanh xanh.
Tiếng chuông chiều văng vẳng.
Trở về núi một mình.
Nón đội nghiêng đầy nắng.
577. Uống rượu
ngắm hoa mẫu đơn
Ngồi uống rượu ngắm hoa.
Vui mấy chén gọi là.
Chỉ e hoa bỗng nói:
Đâu nở cho người già!
578. Thành Thạch
Đầu
Thành xưa núi bọc bốn xung quanh.
Sóng vỗ, triều lên, lại rút nhanh.
Từ phía sông Hoài trăng nhợt nhạt,
Đêm khuya vẫn chiếu chếch qua thành.
579. Lời mùa
xuân
Xuân buồn bị nhốt chốn thâm sâu.
Trang điểm vừa xong, dạo cạnh lầu.
Chuồn chuồn đến đậu trên trâm ngọc.
Giữa vườn mà chẳng thấy hoa đâu.
580. Gió thu về
Gió thu thổi đến tự nơi nào,
Mang cả theo mình cánh nhạn chao.
Chỉ khách xa nhà nghe thấy trước.
Gió sớm trong sân lá xạc xào.
581. Điệu hát
Trúc Chi
Bài một
Nước sông phẳng lặng, liễu soi mình.
Tiếng chàng hát gợn sóng lung linh.
Bên nắng, bên mưa nhìn lẫn lộn
Như thể vô tình mà có tình.
582. Điệu hát
Trúc Chi
Bài hai
Mùa xuân hoa núi đỏ xen vàng.
Vỗ vào vách đá, nước mênh mang.
Buồn buồn sông chảy như lòng thiếp.
Hoa phai nhanh chóng tựa tình chàng.
583. Nỗi oán trong phòng khuê
Chồng đi
lính biên ải.
Vợ phòng
khuê não lòng.
Ngoài ấy
chắc gầy yếu,
Áo gửi
có rộng không?
584. Xóm Áo Đen
Xanh
xanh cỏ mọc cầu Chu Tước.
Xóm nhỏ
Áo Đen nắng xế chiều.
Chim én
xưa bay lầu họ Tạ,
Nay sang
lượn giữa xóm dân nghèo.
585. Lại đến chơi quán Huyền Đô
Rụng hết
hoa đào, hoa cỏ nở.
Nửa sân
trăm mẫu phủ rêu dày.
Đạo sĩ
trồng đào nay chẳng thấy.
Chàng
Lưu thuở trước lại về đây.
586. Trà Mỏ Ưng
Mỏ Ưng
quả đúng đệ nhất trà.
Thật quí
ông già gửi tặng ta.
Trăng
sớm sông Tương soi đáy chén,
Trong
chén trà đầy lấp lánh hoa.
587. Đền thờ
tiên chủ nước Thục 1)
Hùng khí
đầy trời đất.
Nghìn
thu còn vấn vương.
Thế chia
thành chân vạc.
Cơ đồ
giữ một phương.
Được
tướng tài giúp sức. 2)
Tiếc
sinh con tầm thường. 3)
Thương
kỹ nữ nước Thục
Phải múa
hầu Ngụy vương.
1. Tức Lưu Bị
thời Tam Quốc.
2. Ý nói Khổng
Minh.
3. Chỉ Lưu
Thiện, con trai Lưu Bị, hèn nhát đầu hàng Ngụy.
588. Đêm cuối năm bày tỏ nỗi lòng
Năm tới
rồi sao nhỉ?
Buồn
suốt một năm qua.
Bạn bè
vui thuở trước
Còn mấy
người ngoài ta?
Sống,
lấy nhàn làm chính.
Vui cả
vì tuổi già.
Mới hay
cũ đều vậy,
Xuân đến
với mọi nhà.
589. Ngày xuân,
viết thơ bày tỏ nỗi lòng gửi
hai quan thứ tử ở Đông Lạc là ông Bạch Hai
Mươi Hai và ông Dương Tám
Từng đã
vào chùa ngồi học thiền.
Bây giờ
mọi chuyện cũ đều quên.
Ở đời,
danh lợi không coi trọng.
Thích
đùa, uống rượu với thanh niên.
Khắp nơi
cây cỏ như hoa gấm.
Trời
xanh như lụa, cảnh thần tiên.
Ma thơ
muốn được mà không được,
Vậy làm
tiên rượu, uống triền miên.
590. Ngắm cảnh
xuân ở thành Hán Thọ
Hán Thọ,
đầu xuân, cỏ mọc dày.
Hoang
vắng dãy mồ, mấy bụi cây.
Trên
đường khách đứng xem nghê đá.
Dưới
ruộng nông dân bận cấy cày.
Cột hoa
cao ngất, khinh mưa gió.
Mới
dựng, bia văn bụi bám đầy.
Bao giờ
đến lúc đời thay đổi,
Phố xá
đông vui ở đất này?
591. Thơ đề ở
nhà cũ của hòa thượng Linh Hộ
Đã trót
có thân, phải khổ đau.
Phòng
thiền vắng vẻ, cảnh u sầu.
Lối đi
cỏ úa, màu thu nhạt.
Người
mất, người còn, buồn khóc nhau.
Tiếng
trúc xạc xào xen tiếng khánh.
Hoa
rụng, ngậm ngùi nước mắt lau.
Cuốn
kinh lật sẵn bên song cửa.
Nhớ ngày
gặp gỡ giữa rừng sau.
LƯU THƯƠNG
Không rõ năm
sinh, năm mất. nhà thơ thời Thịnh Đường, người Hà Nam. Ông học giỏi nhưng không
đi thi, cũng không ra làm quan mà ở ẩn suốt đời.
592. Ở Hoài
Dương, nhớ chuyện xưa
Vui buồn
nhiều chuyện ở nơi đây.
Chạnh
lòng khách ngắm buổi hôm nay.
Kinh cũ
đời Tần bên Vị Thủy.
Lăng Hán
Hàm Dương cỏ mọc dày.
Biên ải
xa xôi, nghe tiếng nhạn.
Thấy lửa
đèn chài trong khóm cây.
Xanh
xanh trời đất, lòng man mác.
Núi lạnh
rùng mình, mây trắng bay.
BẠCH CƯ DỊ
Sinh năm 772, mất 846, tự Lạc
Thiên, cuối đời gọi là Hương Sơn cư sĩ, người Thái Nguyên (Sơn Tây); đỗ tiến sĩ
năm Trinh Nguyên thứ 16 (800), gặp thăng trầm nhiều trong nghiệp làm quan. Thơ
ông gồm hai mảng lớn là phúng dụ và trữ tình thiên nhiên. Ông đã sáng lập
trường phái đề cao tính hiện thực trong thơ, người sau gọi là "Nguyên Bạch
thi phái" Tác phẩm hiện còn
lưu lại được "Bạch Thị Trường Khánh tập" gần 3000 bài.
593. Trên ao
Có cô bé bơi thuyền
Trộm hái vài bông sen.
Vụng về không biết giấu,
Để bèo dạt hai bên.
594. Suối Bạch
Vân
Nơi trời yên tĩnh, nước lăn tăn,
Từ núi Thiên Bình, suối Bạch Vân.
Suối đổ xuống đây, thành thác chảy,
Cho sóng thêm to ở cõi trần?
595. Ở huyện Hàm
Đan, đêm nhớ người thân
Hàm Đan, đông chí, trước đèn hoa
Chỉ một mình ta với bóng ta.
Ở quê có lẽ còn chưa ngủ,
Mọi người đang nhắc kẻ đi xa.
596. Tử vi
Ty Luân gác đỏ, ánh dương tà.
Trên lầu chuông điểm giọt ngân nga.
Gấp sách một mình ngồi, không bạn -
Tử vi người với tử vi hoa.
597. Hoa hạnh ở
thôn Triệu
Thôn Triệu hoa hồng nở tháng Ba.
Ta đã nhiều lần tới ngắm hoa.
Bảy mươi ba tuổi, nay lần cuối.
Có lẽ sang năm đã quá già.
598. Tự nói với
mình
Đi thi năm ấy, dẫu nghèo hèn,
Áo dài đổi rượu đãi người quen.
Một đấu mười nghìn còn dám uống.
Nay có lương quan, chẳng tiếc tiền.
599. Chim vẹt đỏ
An Nam cống nạp vẹt lông hồng,
Biết nói như người - chuyện tây đông,
Văn chương, luân lý đều am hiểu.
Giỏi thế làm sao thoát khỏi lồng?
600. Đêm xuân
Hoa chẳng phải hoa, sương chẳng sương.
Hình như ngày đã rạng ngoài đường.
Đêm xuân giấc ngủ như mây mỏng,
Hết tụ rồi tan, chẳng vấn vương.
601. Lời cung nữ
Không ngủ năm canh, lệ thấm đầy.
Tiếng đàn đã tắt, gió mành bay.
Nhan sắc chưa phai, vua ghẻ lạnh.
Tựa gối ngồi nghiêng tới rạng ngày.
602. Hỏi Lưu
Thập Cửu
Có vò rượu mới cất,
Lại sẵn bếp than hồng.
Tuyết đang rơi, trời lạnh.
Có làm một chén không?
603. Bên ao
Tây ao dựng nhà nhỏ.
Đông ao trồng khóm cây
Để đón trăng và gió.
Ai đoán hiểu điều này?
604. Nghỉ trọ
dưới núi
Trọ một mình dưới núi.
Đi dưới ánh trăng tà.
Tiếng chày giã cối đá
Vang dọc suối xa xa.
605. Có bạn đến
thăm ban đêm
Chiếu ngoài thềm, gió mát.
Chén rượu ngời ánh trăng.
Một mình đã thấy thích.
Có bạn, còn gì bằng?
606. Mưa đêm
Dế kêu rồi im lặng.
Đèn hết sáng lại mờ.
Rì rào trên lá chuối -
Biết là trời đang mưa.
607. Tiếng dế
đêm thu
Trời tối, ngoài cửa sổ
Dế rền rĩ không nguôi
Làm càng thêm nhớ vợ.
Mưa thu, buồn tê người.
608. Đêm cô đơn
đầu thu
Cây khô soi giếng lạnh.
Tiếng chày vang trong sương.
Ngủ ngoài hiên, chợt tỉnh,
Thấy trăng sáng nửa giường.
609. Đêm đông
nghe tiếng dế
Tiếng dế đêm đông nghe thật lạ.
Đang vui cũng thấy buồn không đâu.
Ta đã già rồi, nghe chả sợ.
Người trẻ đừng nghe, khéo bạc đầu.
610. Các kỹ nữ
của ông Trương Bộ Dịch quá cố
Cần người múa hát, mở hầu bao,
Ông bỏ tiền mua gái má đào,
Rồi dạy đủ trò... ông kiệt sức,
Chết chẳng mang theo được ả nào.
611. Ngày mười
lăm tháng giêng, ở Trường An
Kinh thành năm mới, cảnh vui tươi.
Ốm phải ở nhà, chẳng dạo chơi.
Trăng rằm tháng giêng, đêm trời mát,
Nhưng vạn người vui, buồn một người.
612. Ở sông
Khúc, nhớ Nguyên Cửu
Buồn vì vắng bạn, chẳng chơi xuân.
Ba phần vui thú giảm hai phần.
Sáng nay đã thế trong vườn hạnh
Gặp toàn người lạ, vắng người thân.
613. Bày tỏ nỗi
lòng thay cho ông lão hàng xóm
Con người mong muốn chẳng bền lâu.
Ngày trước bây giờ khác xa nhau.
Trước mong chóng già thành thông thái.
Giờ tiếc thời gian nhuộm trắng đầu.
614. Bên bàn
tiệc ngày Trùng dương, vịnh cúc trắng
Trong vườn tất cả hoa đều đỏ,
Một bông lại trắng, chẳng hài hòa.
Sáng nay cũng vậy, bên bàn tiệc
Mọi người đều trẻ, chỉ ta già.
615. Bài hát hái
sen
Lá sen lay động, nước chao chao.
Thuyền rẽ hoa sen cứ lướt vào.
Gặp chàng muốn nói mà cúi thẹn,
Để chiếc trâm vàng rơi xuống ao.
616. Bài hát
thương xuân
Bên thềm, hoa đậm nhạt trên cây.
Ngoài cửa chim oanh hót suốt ngày.
Rèm rũ, má son nhòe thấm lệ.
Thương tiếc cho xuân, xuân chẳng hay.
617. Cô gái bán củi nghĩ về các kỹ nữ
Vào rừng
đốn củi chửa tan sương.
Đầu rối,
khăn thô, khổ mọi đường.
Loại gái
gì kia mà áo đỏ,
Thong
dong cưỡi ngựa bến Tiền Đường?
618. Người phụ nữ nhớ chồng
Gió xuân
thổi nhẹ phía trời đông,
Làm cả
vườn hoa nở rực hồng.
Nhưng
không xua được mây trên mặt
Người vợ
cô đơn, khổ, nhớ chồng.
619. Đê Ngụy Vương
Trời lạnh, hoa chưa nở.
Chim không hót trên cành.
Ngựa đưa thư rảo bước.
Đê Ngụy Vương liễu xanh.
620. Nhớ cây liễu bên sông
Tự trồng
khóm liễu sát bờ sông.
Đi xa
thấm thoắt mấy năm ròng.
Giờ liễu
ra hoa, ai được bẻ?
Tự nhiên
vương vấn nhớ trong lòng.
621. Trồng vải
Như
ngọc, hạt hồng, quí lắm đây.
Quan
thái thú già thật đến hay.
Mười năm
bói quả, ông còn sống,
Mà chút
sân con vải mọc dày?
622. Khúc ngâm trên sông buổi chiều
Xế
chiều, vệt nắng nhạt trên sông.
Một nửa
đen đen, một nửa hồng.
Tháng
Chín, mồng ba, trăng rất mảnh,
Sương
như màn ngọc phủ tầng không.
623. Ba năm xa cách
Xa nhà
mới đó đã ba năm.
Nhớ quê
nhiều nhất những đêm rằm.
Đã ba
mươi sáu lần trăng sáng,
Đứng
buồn, ngong ngóng chốn xa xăm.
624. Tiễn Hạ Chiêm bên sông
Tiễn bác
đi xa, nhỏ lệ sầu.
Bảy
mươi, già yếu, cửa nhà đâu?
Buồn
nữa, đúng hôm trời nổi gió.
Giữa
sóng bạc đầu khách bạc đầu.
Lời Chiêu Quân 1)
Khi sứ
trở về, xin hỏi hộ:
Vua Hán
bao giờ mới chuộc ta?
Nếu vua
có hỏi nhan sắc thiếp,
Chớ bảo
rằng không bằng ở nhà.
1). Tên người con gái đẹp được tuyển vào
cung vua Hán, bị nịnh thần giấu không cho vua biết sắc đẹp của nàng, nên nàng
bị vua đem gả cho vua Hung Nô để gây hòa hiếu. Sau vua biết thì đã muộn
Người đàn bà nhớ thương
Gió xuân
lồng lộng thổi hôm nay.
Nhớ
thương, chinh phụ khẽ chau mày.
Gió ngắt
hết hoa, làm rụng lá,
Nhưng
không xóa được nét chau này.
625. Ngồi tĩnh
lặng
Trăng
sáng, ngồi tĩnh lặng.
Mới dậy,
sắp bình minh.
Chiếu
thấm sương, ẩm mát.
Ngọn đèn
mờ lung linh.
Hương
trầm còn phảng phất.
Với tay
kéo tấm mành.
Nhà ai
đang dạy vẹt.
Nghe vẹt
nói, giật mình.
626. Ngồi ở
đình bên sông, ngắm trời tạnh
Khói tan
trên mặt nước.
Gió thổi
nhẹ làn mây.
Cầu vồng
chợt xuất hiện.
Chèo
khua, chim nhạn bay.
Cổng
đóng, quan vừa nghỉ.
Vắng tin
nhà nhiều ngày.
Mai đã
tết Trùng Cửu,
Biết
cùng ai uống say?
627. Tan tiệc
Trăn
treo trên cầu nhỏ.
Cuối
cùng tiệc cũng tan.
Con hát
tản đi hết.
Đèn mờ
ngoài lan can.
Ve kêu,
báo thu đến,
Chim
nhạn bay thành đàn.
Trước
khi lên giường ngủ,
Uống nốt
chén rượu tàn.
628. Tiết hàn thực, nhìn ra cánh đồng
Trước
nhà họ Quách, mộ đầy đồng.
Hàn
thực, nhà ai khóc não lòng.
Mộ xưa
cỏ mọc xanh nhiều lớp.
Mấy tờ
tiền giấy lượn trên không.
Ly biệt
âm dương, người sống chết.
Liễu
buồn soi bóng xuống dòng sông
Suối
vàng có khóc, không nghe thấy.
Người
về, người ở giữa chiều đông.
629. Tiễn người trên sông thu
Chim
hồng nối nhau bay.
Vượn
buồn kêu suốt ngày.
Hôm ấy
trên thuyền nhỏ
Khách ra
đi nơi này.
Mưa dầm
dầm ướt áo.
Mảnh mai
cánh buồm gầy.
Khói
sóng buồn heo hắt.
Rượu Tầm
Dương không say.
630. Nhà lá mới dựng xong dưới chân núi Tân
Bốc,
ngẫu hứng đề thơ lên vách
phía đông
Thềm đá,
vách tre, cột gỗ quế,
Ba gian
nhà lá nhìn ra hồ.
Cửa bắc
suốt hè luôn gió mát.
Hiên nam
đông ẩm nắng hong khô.
Suối đổ
trên cao, vườn được tưới.
Bờ tre
cao thấp đ ứng nhấp nhô.
Mùa xuân
mái nhà thơm hương gỗ.
Vuốt
giấy, kê bàn viết sách Nho.
631. Cỏ
Mỗi năm
một lần úa,
Rồi lại
xanh một lần.
Lửa đồng
đốt không cháy,
Nẩy mầm
cùng gió xuân.
Xanh
xanh bên thành cũ.
Mùi thơm
tỏa xa gần.
Tiễn
người đi, bịn rịn,
Nặng
tình, cỏ níu chân.
632. Buổi
chiều, từ Hồ Tây trở về
Đảo
Thông, hồ Liễu với chùa Sen.
Thuyền
quay trở lại, triều đang lên.
Lư quất
gặp mưa, thêm nặng hạt.
Lá tĩnh
lư run trước mũi thuyền.
Nước
sông man mác soi trời biếc.
Dưới
nắng lô nhô mấy nóc đền.
Cặp bến,
mời anh nhìn ngoái lại:
Giữa
nước, Bồng Lai đang mọc lên.
633. Thơ đề ở
chùa Tiên Du khi
đưa tiễn bác Vương Mười Tám về núi
Núi Thái
Bạch kia từng vãn cảnh.
Tiên Du
chùa cổ mấy lần qua.
Nhìn rõ
đáy đầm khi nước lặng.
Mây
trắng tan rồi, thấy động xa.
Trong
rừng, đốt lá, ngồi hâm rượu.
Quét rêu
trên đá, chép thi ca.
Buồn
không trở lại nơi từng đến.
Mong bác
về xem cúc nở hoa.
634. Mới dọn
đến ở chân núi Hương Lô,
nhà cỏ vừa làm xong, chợt hứng
đề bài thơ này lên vách phía đông
Trời
sáng đã lâu, còn biếng dậy.
Hai lớp
chăn dày, rét khỏi lo.
Tựa gối
nghe chuông chùa Ái điểm.
Vén rèm
ngắm tuyết núi Hương Lô.
Tư Mã 1), chức
quan khi lớn tuổi.
Khuông
Lư 2) về ẩn, tránh buồn lo.
Nhàn
nhạ, yên thân là sướng nhất.
Cần gì
cứ phải sống thành đô.
1. Chức quan
coi việc hình pháp.
2. Tức Lư Sơn,
tên ngọn núi ở Cửu Giang, tỉnh Giang Tây.
635. Ý nghĩ mùa thu
Ráng
chiều như lửa đỏ.
Trời xanh
trong, bao la.
Mây có
hình thú vật.
Mỏng
tang trăng mồng ba.
Chim
nhạn bay về bắc.
Tiếng
chày đá xa xa.
Mùa thu
buồn như thế
Khiến
chưa già mà già.
636. Mùa xuân, dạo bên hồ Tiền Đường
Chùa Cô
Sơn bắc, Giả đình tây.
Nước hồ
phẳng lặng, trời nhiều mây.
Nhà ai
chim én tha bùn mới.
Con oanh
líu ríu giữa lùm cây.
Hoa nở
muôn màu, làm rối mắt.
Dấu ngựa
mờ phai, lối cỏ gầy.
Thật
thích, ven hồ đi, đi mãi.
Bờ đê
cát trắng, liễu xen dày.
637. Đêm xuân, đề thơ trên hồ
Đẹp như
tranh vẽ cảnh hồ xuân.
Xung
quanh núi đứng, nước trong ngần.
Thông
xanh lớp lớp trên sườn núi.
Trăng
vàng soi bóng, sóng lăn tăn.
Lúa nếp
một khoanh như tấm thảm.
Vệt cỏ
bồ non giống dải quần.
Chưa bỏ
Hàng Châu mà đi được
Phần vì
hồ đẹp, níu bàn chân.
638.
Từ khi Hà Nam trải qua loạn lạc, vùng trong cửa ải nghẽn đường bị đói, anh em
tan tác mỗi người một nơi, nhân trông trăng xúc cảm viết tả nỗi nhớ, gửi anh cả
ở Phù Lương, anh Bảy ở Ư Tiềm, anh Mười Lăm ở Ô Giang, cùng nhắn các em trai,
em gái ở Phù Ly và Hạ Khuê
Loạn
lạc, mất mùa, cảnh đáng thương.
Phiêu
dạt anh em, người một đường.
Ruộng
vườn hoang hóa vì binh lửa.
Ruột
thịt chia lìa khắp bốn phương.
Thương
nhạn lạc bầy nơi cát bụi.
Tiếc cỏ
bồng tàn giữa tuyết sương.
Một lúc
năm nơi giờ có lẽ
Năm
người ngắm nguyệt, nhớ quê hương.
639. Chơi hồ
Tiểu Động Đình
Bên cạnh
hồ to lại có hồ.
Hoa sen
thơm ngát cõi hư vô.
Sao đêm
chi chít, chia thành khoảnh.
Mây sáng
năm màu, núi nhấp nhô.
Chim đậu
trên cây, trăng sáng lạnh.
Dịu dàng
gió thổi, sóng lô xô.
Hồ
thiêng, cảnh đẹp như tranh vẽ,
Bốn mùa
trong vắt, nước không khô.
640. Vịnh Vũ
Hầu 1)
Tiên
sinh ở ẩn chốn rừng sâu.
Chúa
giỏi ba phen đến thỉnh cầu.
Cá ở Nam
Dương đang độ béo.
Rồng lên
thượng giới gọi mưa ngâu.
Vua gửi
con côi, bày lễ trọng. 2)
Ông đền
nợ nước nặng tình sâu.
Bài biểu
ra quân đầy khích lệ,
Khiến
đọc ai ai cũng lệ sầu.
1. Tức Khổng
Minh Gia Cát Lượng, Lưu Bị ba lần đến lều cỏ mời, mới xuống núi phò Hán diệt
Ngụy.
2. Trước khi
chết Lưu Bị gửi gắm con mình là Lưu Thiện cho Khổng Minh. Thiện sau này hóa ra
là người nhu nhược, ham chơi, nghe lời quan hoạn mà để mất nước.
641. Nghe tiếng chày đêm
Ai đó
nhớ chồng đang đập lụa.
Trăng
mờ, gió lạnh suốt đêm thâu.
Mùa thu,
tháng tám, đêm dằng dặc.
Muôn
nghìn tiếng đập nối theo nhau.
Thêm một
tiếng chày, thêm sợi bạc.
Có lẽ
sáng mai trắng hết đầu.
642. Đêm mưa, trên thuyền
Gió lạnh
thổi không dứt.
Mây trên
sông, tối đen.
Sóng vỗ
vào hai mạn,
Mưa rắc
trên mui thuyền.
Trong
khoang có người ốm
Bị giáng
đi châu Yên.
643. Thuế nặng
(Lược dịch)
Dân
trồng dâu, cấy lúa
Để có
mặc, có ăn.
Thế mà
trẻ phải đói,
Già
không gì che thân.
Quan ráo
riết thu thuế,
Chất đầy
kho, đầy sân.
Trong
khi dân đói rét,
Trong
kho vải mục dần.
644. Anh học
trò nghèo
(Lược dịch)
Anh học
trò nghèo đói
Sống
trong hẻm một mình.
Ra ngõ,
gặp bạn cũ,
Giờ đỗ
đạt, hiển vinh.
Bạn lờ
như không biết,
Quất
ngựa phóng đi nhanh.
Đời này
đều thế cả,
Đâu chỉ
riêng mình anh.
645. Áo cừu nhẹ
và ngựa béo
(Lược dịch)
Các quan
đi dự tiệc,
Mũ, yên
cương sáng ngời.
Áo cừu
nhẹ, ngựa béo.
Hả hê,
miệng tươi cười.
Tiệc rót
đầy rượu quí.
Món lạ
từ khắp nơi.
Năm ấy
Cù Châu hạn,
Người
phải ăn thịt người.
646. Mua hoa
(Lược dịch)
Kinh
thành xe nườm nượp,
Kéo nhau
đi mua hoa.
Hoa đẹp,
quí, lại hiếm.
Hồng đỏ,
huệ mượt mà.
Những
giò lan quí phái,
Mọi
người ngắm, xuyt xoa.
Một lão
nông đứng cạnh,
Lẩm bẩm,
vẻ thật thà:
“Tiền
một bông như thế
Bằng thuế của mười nhà!”
647.
Đêm yên tĩnh
(Lược dịch)
Ve kêu
rồi im bặt.
Đom đóm
bay vệ đường.
Ngọn đèn
sáng, không khói.
Chiếc
chiếu tre đẫm sương.
Đầu hè
trăng chênh chếch.
Gió thổi
trên cành dương.
Sao lạ
lùng thế nhỉ?
Lòng
không chút vấn vương.
648. Tặng vợ
(Lược dịch)
Chết,
cùng chung cát bụi.
Sống,
luôn ở bên nhau.
Cơm áo
chỉ cần đủ.
Ở không
cần gác lầu.
Gương
liêm khiết, thanh bạch
Cố giữ
cho đời sau.
Vợ chồng
đã gắn bó,
Vui sống
đến bạc đầu.
649. Mùa thu,
lên núi
(Lược dịch)
Ốm mãi,
quên đi dạo.
Hôm nay
lên núi chơi.
Núi thu
gầy, lạnh lẽo,
Xơ xác
như mặt người.
Cây xanh
làm chỗ tựa.
Đá trắng
nằm nghỉ ngơi.
Trong
lòng thấy thanh thản,
Muốn ở
lại suốt đời.
638. Rét gắt ở
nhà quê
(Lược dịch)
Tháng
Chạp năm Thiên Bảo,
Tuyết
rơi suốt năm ngày.
Tre
thông đều chết cóng,
Huống
chi đám dân cày.
Cơm đói,
không áo mặc,
Còn bao
nỗi đắng cay.
Ta thì
nhà kín gió,
Lại chăn
ấm, áo dày.
Không
đói ăn, nhàn nhã.
Việc
đồng không đến tay.
Ngẫm
điều ấy mà thẹn.
Ta hạng
người gì đây?
650. Nghe người
khóc
(Lược dịch)
Xóm Tây
hôm trước khóc.
Tiếng
khóc thật não lòng.
Chồng
chết, hăm lăm tuổi.
Đó là vợ
khóc chồng.
Sáng nay
lại nghe khóc.
Tiếng
khóc từ xóm Đông.
Mẹ khóc
con mười bảy,
Chết,
không có cháu bồng.
Ra thiên
hạ thế cả,
Thường
chết non, khổ không!
Mình đã
bốn mươi tuổi,
Đã được
gọi bằng ông,
Sao soi
gương, buồn bã,
Thấy tóc
trắng như bông?
651. Áo cừu mới
may
(Lược dịch)
Vải Quế
trắng như tuyết,
Bông Ngô
mềm hơn mây.
May áo
cừu thừa ấm.
Vải nhẹ,
bông lại dày.
Đêm làm
chăn, ngày mặc.
Không sợ
gió, tuyết bay.
Bỗng
giật mình, chợt nghĩ:
Là
trượng phu, xưa nay
Phải
giúp dân, giúp nước,
Đâu an
phận, cầu may.
Làm sao
ta no ấm,
Khi đói
rét dân cày?
Mong có
chiếc áo rộng,
Bao phủ
hết đời này,
Để không
ai còn rét,
Bất hạnh
chẳng hề hay.
652. Người tìm
củ địa hoàng
(Lược dịch)
Mạch
chết vì sương muối.
Lúa - vì
nắng chang chang.
Đói ăn
nên vác cuốc
Đi tìm
củ địa hoàng.
Đi từ
trời chưa sáng,
Tối mịt
mới về làng.
Đem giỏ
củ bé nhỏ
Tới cửa
nhà cao sang:
“Loại củ
này sẽ giúp
Ngựa
ngài béo, mỡ màng.
Xin đổi
ít thóc ngựa,
Qua cơn
đói nhỡ nhàng!”
653. Xem gặt
lúa
(Lược dịch)
Nhà nông
ít lúc rỗi.
Tháng
Năm, việc bù đầu.
Suốt
ngày lo gặt lúa.
Già và
trẻ như nhau.
Lưng
cháy khô dưới nắng.
Chân
ngập dưới bùn sâu.
Bên
cạnh, một bà lão,
Mót lúa,
miệng lầu bầu:
“Phải
bán nhà nộp thuế.
Vừa đói,
vừa ốm đau…”
Còn ta,
ta nhàn nhã,
Không
cấy lúa, trồng dâu,
Mà lộc
quan trăm thạch,
Ăn thừa
đến năm sau.
Nghĩ
càng thấy xấu hổ.
Vương
vấn mãi hồi lâu.
654. Gửi ông
Vương trong núi
(Lược dịch)
Nghe bác
bỏ ăn ngủ,
Vất vả
bấy lâu nay
Tìm
thuốc, mong trường thọ.
Tôi lại
nghĩ thế này:
Dài là
so với ngắn.
Ngọt là
so với cay.
Nghìn
tuổi thông mới chết.
Hoa dâm
bụt - một ngày.
Rốt cuộc
đều thế cả,
Đều gió
thoảng, mây bay.
Sống lâu
hay chết yểu,
Không
quan trọng xưa nay.
Không
sống thì không chết -
Biết đâu
thế lại hay?
Trên đường từ Giang Nam đi Từ Châu, gửi cho
em
Đi từ
Nam lên Bắc,
Buồn anh
em xa nhau.
Nghìn
dặm xa vời vợi
Giữa
tuyết trắng một màu.
Đêm mơ
về quê cũ.
Sáng xếp
gói ngậm sầu.
Vội - lo
đường phía trước.
Nghèo -
tính chuyện mai sau.
Nhạn
chao trên sóng lạnh.
Quạ quần
quanh gác lầu.
Ai
thương người vượt núi
Từ Sở
đến Kinh Châu?
Vầng trăng đất khách
Khi từ
Giang Nam tới,
Trăng
còn non, rất gầy.
Dặm
đường xa, thăm thẳm
Đã ba
lần trăng đầy.
Lên
đường lúc trăng lặn.
Nghỉ -
trăng trên ngọn cây.
Hữu
tình, trăng lặng lẽ
Theo
người đi đêm ngày.
Sáng rời
dòng sông Vị,
Chiều đã
tới Hà Tây.
Tối nay
ngủ đâu nhỉ
Với
trăng sáng thế này?
Trăng trung thu
Trăng
sáng khắp non sông.
Khổ đau
đang chất chồng.
Sân
trước người ly biệt.
Ngoài ải
lính canh phòng.
Thất
sủng, vợ vua khóc.
Thua
trận, tướng mất công.
Sáng chi
thêm não ruột.
Trăng
trên ấy biết không?
Nghỉ việc
(trích)
Bảy mươi
tuổi nghỉ việc,
Hợp lẽ
lại hợp thời.
Bất chấp
cái lẽ ấy,
Tham lam
không ít người
Tuổi tám
chục, chín chục,
Răng
rụng, thở thiếu hơi,
Vẫn bám
quyền, bám chức,
Mang
tiếng xấu với đời.
Đàn Bắc Song năm dây
(trích)
Tiếng
người hát vừa dứt.
Thôi múa
tà áo hồng.
Cô gái
Triệu lặng lẽ
Ôm chiếc
đàn ngang hông.
Dây to
trầm và đục.
Dây nhỏ
tựa suối trong.
Mười
ngón tay như múa,
Nghiêng
ngả các âm cung.
Chậm
buồn như vượn hót.
Nhanh dữ
tựa cuồng phong.
Người
ngồi nghe kinh ngạc,
Xúc động
tận đáy lòng.
Tiếc cho
kẻ phàm tục,
Tầm
thường và chơi ngông,
Chạy
theo thứ hiện đại
Mà quên
đàn Bắc Song.
Trời rét
Đất Tần
năm sắp hết.
Thành đô tuyết rơi dày.
Người giàu không sợ rét,
Còn thích đi đó đây.
Nơi lầu son gác tía
Luôn tiệc tùng no say.
Văng vẳng tiếng đàn hát,
Phấp phới tà áo bay.
Khách nóng, cởi bớt áo.
Vui vẻ đến rạng ngày.
Mà không biết gần đấy
Trong nhà tù hôm nay
Có tử tù chết rét
Vì không đủ áo, giày.
Cây ngô đồng ở chùa Văn Cư
(trích)
Một thân cây cao thẳng,
Tán lá rộng và dày.
Sừng sững năm mươi trượng,
Còn vươn nữa lên mây.
Sư cụ chín mươi tuổi
Kể về cây ngô này:
Lúc trồng chỉ hạt nhỏ,
Đúng mùa, mọc mầm ngay.
Mầm khỏe, cây thon thẳng,
Cứ lớn lên từng ngày.
Trong thân cây có lõi,
Dây leo không bám đầy.
Với ai muốn lập nghiệp,
Gương cho mình là đây.
Chiếc gương
Khi chia tay, người đẹp
Để lại chiếc gương đồng.
Người đi, buồn từ đấy,
Hồ trong không còn trong.
Suốt năm chưa động đến,
Mặt gương phủ bụi hồng.
Lau, soi mình - hốc hác,
Khuôn mặt buồn, trống không.
Càng buồn: sau gương, thấy
Quấn quít một đôi rồng.
Tìm đạo sĩ họ Quách không gặp
Khách xa đến tìm gặp.
Tìm mãi không thấy đâu.
Cây tùng xanh trước cửa.
Đôi hạc trắng sân sau.
Lửa lò thuốc còn đỏ.
Mây, nước chửa phai màu.
Có chuyện muốn tìm hỏi.
Liệu bao giờ gặp nhau?
Hỏi bạn
Trồng lan, không trồng ngãi.
Thế mà lan nảy mầm
Ngãi cũng mọc liền cạnh,
Xanh tốt không cần chăm.
Lan thơm cùng ngãi hắc
Dính vào nhau, thật phiền.
Nhổ ngãi sợ lan chết.
Tưới lan, ngãi kề bên.
Vậy là lan chưa tưới,
Ngãi cũng chưa nhổ đi.
Ngẫm nghĩ, phân vân mãi.
Bác bảo phải làm gì?
Con tuấn mã gầy
Ngựa Hoa Lưu mất chủ,
Không ai chăm, đói, gầy.
Hý lên giữa gió rét
Bên sông Hoàng hàng ngày.
Chân dẫm lên băng tuyết,
Đêm ngủ trong rừng cây.
Cuối năm, không có cỏ,
Biết lấy gì ăn đây?
Ai cũng muốn ngựa tốt,
Nhưng chọn ngựa xưa nay
Toàn người trần mắt thịt
Chỉ thấy béo hay gầy.
Không nhìn thấy bộ vó
Phi nghìn dặm như bay.
Kia, trong xóm, nha lại
Đang thúc dân nộp ngay
Cỏ để nuôi ngựa lính,
Lũ ngựa thồ, cả bầy.
Trọ ở Huỳnh Dương
Huỳnh Dương là quê quán.
Từ bé rời quê hương.
Bốn chục năm đằng đẵng,
Nay về trọ Huỳnh Dương.
Lúc đi hơn mười tuổi,
Năm mươi sáu bây giờ.
Thế mà vẫn còn nhớ
Những trò nghịch tuổi thơ.
Nhà cũ không còn nữa.
Nhà cũ không còn nữa.
Không còn nữa họ hàng.
Thay đổi không chỉ chợ,
Thay đổi cả gò, hang.
Duy sông Trân, sông Vị
Xanh như thuở hồng bàng.
Thơ làm khi ngắm cảnh sông trên
lầu
Bên sông, lầu chót vót.
Con đường lớn chạy qua.
Tự nhiên thấy nhẹ nhõm,
Nhìn đất trời bao la.
Trong đồn, lính luyện tập.
Đường trạm, xe sứ qua.
Buổi binh đao loạn lạc
Nên sống nhàn ở nhà.
Ta hơn bốn mươi tuổi,
Ở ẩn cũng chưa già!
Mời rượu
(trích)
Mời bác một chén, xin cứ uống.
Mời chén thứ hai, chớ ngại ngần.
Uống chén thứ ba, bác sẽ thấy
Rằng mình quả thật chẳng còn xuân.
Khi say lòng sáng hơn khi tỉnh.
Đời dài và đẹp lúc ta say.
Khi chết bạc vàng có chất đống,
Không bằng chén rượu uống hôm nay.
Vậy hãy về nhà, đầu đã bạc,
Cầm cố áo quần, mua rượu ngay!
Gửi Vi Chi
Tôi vừa tới Châu Giang,
Chặng đường dài mỏi mệt.
Đã xa càng xa hơn.
Tin tức nhau không biết.
Gửi theo ngọn gió này
Lời hỏi thăm thân thiết.
Còn sống thì gặp nhau.
Chết thì xin vĩnh biệt.
LÝ QUẦN NGỌC
Chưa rõ tiểu sử tác giả.
655. Nghe chim giá cô kêu ở dốc Cửu Tử
Nắng xế chiều thu, cỏ úa màu.
Đường đi khúc khuỷu giữa rừng sâu.
Chim giá cô kêu, nghe não ruột.
Làm khách thêm buồn, lòng quặn đau.
Gặp mưa, thuyền trú bên sông Quế,
Núi Mai đất lở, phải chờ lâu.
Lúc ấy xin chim đừng kêu nữa,
Kẻo khách ngày mai bạc trắng đầu.
656. Đưa sư Tầm Luyện về núi Sầm Công
Gió thổi
suốt đêm, trăng khuyết vành.
Đưa tiễn
sư về với núi xanh,
Nơi sách
từ lâu đòi được đọc,
Lối đi
cỏ mọc, trái sai cành.
Hạc lười
không nghĩ đi hay ở.
Mây nhàn
không buộc, lượn bay quanh.
Tiễn sư,
đàn gảy bài “Lưu Thủy”
Xuân
tàn, bờ liễu uốn quanh quanh.
ĐỖ MỤC
Sinh năm 803, mất 852, tự Mục
Chi, người Kinh Triệu, nay là Tây An, Thiểm Tây, cháu tể tướng Đỗ Hựu, đỗ tiến
sĩ năm Đại Hòa thứ 2 (828) đời Đường Văn Tông, từng giữ nhiều chức quan khác
nhau. Thơ ông tao nhã, trữ tình, gần sánh kịp Đỗ Phủ, nên người đời sau thường
gọi ông là "Tiểu Đỗ".
657. Tiết thanh
minh
Mưa bụi thanh minh suốt tháng Ba.
Cảnh buồn não ruột khách đường xa.
Nhờ trẻ chỉ giùm đâu quán rượu?
Đáp: Tận kia kìa, xóm Hạnh Hoa.
658. Đi đường
núi
Con đường lên núi, đá chênh vênh,
Lưng chừng mây trắng, mái nhà tranh.
Yêu cảnh thiên nhiên, dừng xe ngắm.
Hơn hoa, lá đỏ rực trên cành.
659. Trên đường
tới Thu Phổ
Cuối thu, mưa núi chảy từng dòng.
Heo hắt, gió khe cỏ phập phồng.
Này nhạn, mới từ Hà Sa đến.
Vừa rồi có ghé Đỗ Lăng không?
660. Tặng nhau
lúc chia tay
Đa tình mà lại tựa vô tình.
Trước chàng muốn nói, vẫn làm thinh.
Cám cảnh thay người, cây nến nhỏ
Ngắn dài lệ chảy đến bình minh.
661. Vườn Kim
Cốc
Danh vọng tan nhanh với bụi đời.
Nước cứ vô tình, cỏ cứ tươi.
Não ruột chim kêu, chiều gió lạnh,
Như người nhảy lầu, cánh hoa rơi. 1)
(1) ý nãi vÒ Lôc Ch©u, kü n÷ xinh ®Ñp ®îc Th¹ch
Sïng yªu quÝ. BÞ hoµn c¶nh Ðp buéc, Lôc Ch©u kh«ng chÞu lÊy ngêi kh¸c, nh¶y
lÇu tù tö.
662. Ba năm cách
biệt
Đằng đẵng ba năm, người một nơi.
Nhớ nhau mỗi bận ngước nhìn trời.
Đã ba mươi sáu lần trăng khuyết.
Trăng khuyết lại đầy, lòng vẫn vơi.
663. Tức cảnh ở
núi Nga Hồ
Bạt ngàn dưới núi lúa và kê.
Chuồng gà, chuồng lợn có cây che.
Chiều tối lễ xong, ai quá chén
Cũng có người thân dìu đỡ về.
664. Lời oán
cung nữ
Giám quan mở cửa, lệnh cho mời,
Theo lệ chầu vua như mọi người.
Đâu phải ân riêng nơi gác tía.
Ngoài vườn trăng sáng, cánh hoa rơi.
665. Cảnh xuân ở
Giang Nam
Hoa nở oanh kêu mấy dặm đường.
Xóm chài ven núi khói chiều vương.
Bốn trăm tám chục chùa Vũ Đế,
Mấy chùa còn lại chìm trong sương?
666. Đêm thất
tịch 1)
Ánh trăng lành lạnh bám bình phong.
Quạt lụa xua xua muỗi khỏi phòng.
Ngửa mặt nhìn lên sao Chức nữ.
Trời mát và mềm như nước trong.
(1) Tøc ngày 7 th¸ng B¶y ©m lÞch, lµ ®ªm Ngu Lang, Chøc N÷ gÆp nhau.
667. Tự an ủi
Chẳng nên phiền muộn lúc về già,
Tiếc thời trai trẻ đã trôi qua.
Hoa nở hết thì, hoa có rụng
Cũng vì muốn quả sẽ thay hoa.
668. Trung thu
Sương chiều, khói lạnh trốn vào mây.
Ngân Hà, mờ bụi, trăng trên cây.
Có trăng hãy ngắm, vì năm tới
Ai chắc rằng trăng đẹp thế này.
669. Đêm đỗ
thuyền ở bến Tần Hoài
Nước lạnh, sương giăng, nguyệt xế tà.
Quán rượu bến Tần chợt ghé qua.
Trong quán không hay hờn mất nước,
Suốt ngày hát mãi "Hậu Đình hoa" 1).
(1) Mét khóc ca phãng ®·ng cña TrÇn HËu Chóa.
670. Về nhà
Thằng bé
níu áo hỏi:
Sao giờ
mới về nhà?
Tranh với
ai năm tháng
Để được
cái tuổi già?
671. Gửi phán quan Hàn Xước ở Dương Châu
Núi
xanh, suối chảy, tiếng âm vang.
Thu hết,
Giang Nam cỏ úa vàng.
Hăm bốn
chiếc cầu soi bóng nguyệt.
Người
nào thổi sáo, buồn mênh mang.
672. Sắp đi Ngô
Hưng, lên chơi đồng Lạc Du
Đời lắm
thú vui, người quá bận.
Ngắm
mây, trò chuyện với cao tăng…
Thôi,
sắp đi xa, còn chưa muộn,
Ta lên
đồng Lạc, biệt Chiêu Lăng.
673. Tự nói nỗi
lòng
Lưu lạc
sông hồ với rượu ngon.
Biết mùi
gái Sở đẹp, lưng thon.
Dương
Châu chợt tỉnh mười năm mộng.
Phụ bạc
lầu xanh, bị tiếng đồn.
674. Than tiếc
cho hoa
Chợt
hứng, đi tìm hoa với hương.
Tiếc
thay, hoa đẹp héo bên đường.
Hoa
rụng, tuy buồn nhưng chẳng trách.
Trái sẽ
thay hoa, ấy lẽ thường.
675. Ở trọ quán khách
Nơi quán
trọ không bạn.
Tự nhiên
buồn bâng quơ.
Bên đèn,
nhớ chuyện cũ.
Nhạn
kêu, tỉnh giấc mơ.
Cũng là
khi trời sáng.
Mong thư
nhà, thẫn thờ.
Thuyền
câu cột ngoài ngõ.
Trăng
sáng, sông mịt mờ.
TRIỆU
HỖ
Năm sinh, năm mất không rõ,
tự Thừa Hỗ, người Sơn Dương nay thuộc tỉnh Giang Tô; đỗ tiến sĩ năm 843, làm
quan úy ở Vị Nam. Tác phẩm: "Vị Nam tập".
6676. Cảm xúc
trên lầu bên sông
Thẩn thơ, thơ thẩn dạo trên lầu.
Trăng, nước và trời trông giống nhau.
Cảnh buồn như cũ, người năm ấy
Cùng ta ngắm nguyệt giờ nơi đâu?
677. Nghe sáo
thổi
Có ai
thổi sáo phía lầu đông.
Tiếng
nhanh như nước chảy khe trong.
Tiếng
chậm - mây trôi trên núi biếc,
Như sau
rèm cửa, ánh trăng lồng.
Khách
nghe chợt nhớ “Mai” Hoàn Tử, 1)
Nhớ
“Địch” Mã Dung 2) mà nẫu lòng.
Sáo dứt,
dư âm còn vọng mãi.
Người thổi
có còn bên ấy không?
1. Còn có tên
là Hoàn Y, đời Tấn, nổi tiếng giỏi thổi sao, nhất là khúc Mai Hoa.
2. Người đời
Đông Hán, giỏi làm văn và thổi sáo. Khi ở đất khách, nhớ nhà, ông làm bài Địch
Phú được nhiều người nhắc đến.
678. Cảnh thu ở
Trường An
Thành đô
lạnh lẽo sắc thu sâu.
Cung
điện, nhà dân xám một màu.
Qua ải
nhạn bay, sao nhấp nháy.
Tiếng
sáo ngân nga, người tựa lầu.
Bến
nước, sen buồn rơi hết lá.
Âm thầm
cúc nở phía sân sau.
Đang mùa
cá vược, chưa về được,
Bởi mũ
phương nam phải đội đầu.
679. Nhớ Sơn
Dương
Bên
thành Chiết Liễu, giữa hoàng hôn,
Xuân úa,
không đâu bỗng thấy buồn.
Ngẫm đời
lắm nỗi mà than thở.
Thẹn với
chim hồng lượn cuối thôn.
Hàn thực
rượu suông, nghe cuốc gọi.
Nắng
chiều, sen nở cạnh lầu son.
Lên cao,
đưa mắt nhìn Thanh Vị
Chảy
quanh núi Cố, nước cùng non.
680. Lên lầu Tây An Lạc
Ngày đêm yến tiệc mở trên lầu,
Khi đời nhiều chuyện quá buồn đau.
Trong đám bụi mù xe mất hút.
Dòng nước lượn lờ quanh bãi lau.
Mây mưa thay đổi phường ca hát.
Núi sông không vợi chén ly sầu.
Tình cờ nhắc đến hờn xuân lạnh.
Đã xuống Vân Thành, còn ngoái đầu.
TÀO NGHIỆP
Tự Nghiệp Chi, người Quế Lâm, nay thuộc
tỉnh Quảng Tây. Không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết đậu tiến sĩ năm 851, giữ
chức Thái thường bác sĩ, rồi làm thứ sử Dương Châu. Thơ ông mang phong vị ca
dao, sử dụng nhiều từ ngữ dân gian.
681. Con chuột trong kho nhà nước
Trong kho nhà nước, chuột bằng
mèo.
Thấy người không sợ, còn đi theo.
Mày kiếm ăn đâu mà béo thế,
Trong khi lính đói, dân còn nghèo?
TIẾT PHÙNG
Không rõ năm sinh, năm mất, tự Đào Thần,
người Hà Đông, nay thuộc tỉnh Sơn Tây. Ông đỗ tiến sĩ trong khoảng niên hiệu
Hội Xương (841 - 846), giữ các chức quan thị ngự sử, thương thư thị lang, nổi
tiếng nghị luận chặt chẽ, mưu lược hơn người.
682. Bài hát trong cung
Lầu ngọc thẫn thờ, trang điểm
xong,
Chờ vua, lên gác, mỏi mòn mong.
Cổng đóng, then cài, thu giá lạnh.
Lặng đếm thời gian theo giọt đồng.
Tóc mây chải lại, soi gương sáng.
Lại thay áo lụa, ướp hương hồng.
Nhìn sang chính điện, nơi rèm mở,
Thấy hai cung nữ dọn giường rồng.
683. Vua Hán Vũ Đế
Vũ Đế lên đàn, đêm, giữ chay,
Nước trong làm lễ tự rót đầy.
Cầu mưa, quan lớn bưng mâm hứng.
Cung nữ dâng thư, tay vén mây.
Giáng Tiết bao phen vào giấc mộng.
Bích Đào 1) ngày ấy
giờ đâu đây?
Mậu Lăng mưa khói vùi cung kiếm.
Ngựa đá lặng im, cỏ mọc dày.
1. Giáng Tiết, Bích Đào – tên các nàng tiên.
LÝ THƯƠNG ẨN
Nhà thơ lớn đời Đường, sinh
năm 813, mất 858, tự Nghĩa Sơn, hiệu là Ngọc Khê Sinh, người Hoài Chân, nay là
Tầm Dương, tỉnh Hà Nam, một trong những nhà thơ lớn của đời đường, nổi danh từ
17 tuổi, đỗ tiến sĩ năm Khai Thành thứ 2 (837). Thơ ông trang nhã, chân thành,
mang tính chống lễ giáo phong kiến. Tác phẩm: "Lý Nghĩa Sơn thi tập".
685. Ve sầu
Thanh
cao nên luôn đói.
Giận
đời, giận cả mình.
Kêu
suốt đêm không nghỉ,
Hàng cây vẫn vô tình.
685. Đi chơi ở
đồng Lạc Du
Chiều, bâng quơ bỗng buồn,
Thắng xe ra đồng dạo.
Nắng vào lúc hoàng hôn
Thật đẹp và kỳ ảo.
686. Trăng trong sương
Nhạn về, ve bặt tiếng ngân nga.
Lầu cao, trời nước rộng bao la.
Thần Tuyết, Chị Hằng không quản lạnh,
Thi nhau sắc đẹp dưới trăng tà.
687. Dậy sớm
Sáng, vén rèm dậy sớm.
Trời mát, gió hây hây.
Hoa nở, chim oanh hót.
Ai được hưởng xuân này?
688. Chân trời
Ngày xuân, chân trời xa,
Lại giữa lúc chiều tà.
Oanh kêu như rớm lệ,
Làm ướt những cánh hoa.
689. Đêm mưa gửi
về bắc
Bạn hỏi ngày về, chưa hẹn được.
Ba Sơn đêm mưa, ao ngập nước.
Bao giờ đốt đuốc ngồi bên cầu,
Ta kể chuyện ma Ba Sơn sau.
690. Say dưới
hoa
Đi dạo, không ngờ say ráng sa.
Ngủ dưới gốc cây với nắng tà.
Tỉnh dậy, khách về, khuya, đốt đuốc.
Tơi tả trong vườn những xác hoa.
691. Khúc ngâm
đất Sở
Lầu ở ly cung trên núi xanh.
Sông chiều uốn khúc chảy xung quanh.
Hoàng hôn trời Sở, mưa sùi sụt,
Cảnh kia Tống Ngọc 1) vui
sao đành?
(1) Danh sÜ thêi ChiÕn Quèc, häc trß cña KhuÊt Nguyªn, t¸c gi¶ bµi
"Cao §êng phó" nãi vÒ viÖc Tèng Ngäc cïng Së T¬ng V¬ng ®i ch¬i ®Çm
V©n Méng. Tõ Tèng Ngäc ë ®©y chØ ngêi ¨n ch¬i phong Lu.
692. Gửi quan
lang trung Lệnh Hồ
Xa Sở, xa Tần đã mấy đông.
Gửi một bức thư, lệ mấy dòng.
Khách cũ vườn Lương chưa kịp hỏi.
Mưa nhiều bệnh cũ nặng hơn không?
693. Cung Dao Trì 1)
Dao Trì, A Mẫu 2) vén rèm the.
Bài hát Trúc Vàng nghe não nề.
Tám ngựa ngày đi ba vạn dặm.
Sao mãi Mục vương 3) không thấy về?
1. Nơi ở của Tây vương mẫu.
2. Tức Tây vương mẫu, bà chúa trong thần thoại Trung Quốc, nhất là
các chuyện kể về thời Tam Hoàng, Ngũ Đế.
3. Tức Chu Mục vương (976 – 920 trước
CN). Vua có tám con tuấn mã, lại được Tạo Phù giỏi đánh xe nên thường chu du
khắp thiên hạ.
694. Thơ làm khi dự tiệc ở nhà Sùng Nhượng
Sương
như mưa nhỏ ướt ao già.
Khóm
trúc quặn mình, gió thổi qua.
Đời
người gian khổ, tan rồi hợp,
Cớ gì
dập nát một đời hoa?
Giấc
mộng cố hương, đèn chứng kiến.
Rượu
say, sa sút cảnh trong nhà.
Không lẽ
suốt đời như thế mãi?
Núi Tùng,
thông tuyết hiểu lòng ta.
695. Mưa gió
Bài
"Bảo Kiếm" buồn thật.
Xa nhà
một năm nay.
Lá vàng
rơi trong gió.
Lầu xanh
hát suốt ngày.
Bạn mới
nhiều kẻ bạc.
Người
xưa ở xa đây.
Đã định
không uống rượu,
Nhưng
giải buồn, lại say.
696. Hoa rụng
Trên lầu
không còn khách.
Sân vườn
đầy xác hoa.
Thấp
thoáng con đường nhỏ.
Nghiêng
nghiêng sợi nắng tà.
Đau
lòng, chưa nỡ quét,
Nhìn hoa
lại nhớ nhà.
Thấy mùa
xuân đã hết,
Buồn
buồn giọt lệ sa.
697. Ở bắc Thanh La
Mặt trời
khuất sau núi,
Đến thăm
sư buổi chiều.
Lá rụng,
người không thấy.
Mây bay,
đường cheo leo.
Một mình
trước nhà vắng,
Lưng tựa
cành dây leo.
Đời này
lắm bụi bặm.
Quan
trọng gì ghét yêu.
698. Vô đề
Bài ba
Gặp nhau
đã khó, nói gì xa.
Gió đông
làm rụng những cành hoa.
Ngọn nến
thành tro, khô nước mắt.
Đến chết
con tằm mới hết tơ.
Mai sớm
soi gương, buồn tóc bạc.
Thức
khuya đọc sách, thấy trăng tà.
Muốn đến
Bồng Lai, không biết lối.
Nhờ chim
chịu khó chỉ giùm ta.
699. Vô đề
Bài bốn
Đêm
trước nhiều sao, gió thổi lồng.
Lầu đỏ
phía tây, làng phía đông.
Tiếc
mình không cánh bay tìm bạn,
Nhưng để
nhớ nhau vẫn có lòng.
Tuy xa,
ta hãy cùng nâng cốc.
Xuân
mới, cùng chia ngọn nến hồng.
Trống
dục, công đường đang đợi việc.
Ruổi
ngựa phi qua đám cỏ bồng.
700. Ý nghĩ nhẹ
nhàng
Khách đã
đi, sóng lặng.
Sương
rơi dày trên đồi.
Cứ bâng
khuâng suy nghĩ.
Tựa cửa,
thời gian trôi.
Nam
Lăng, vắng tin bạn.
Sao Bắc
Đẩu xa xôi.
Bói
mộng, đoán giờ bạn
Chắc có
bạn mới rồi.
701. Năm mới,
nhớ nhà
Vườn
Uyển từ lâu én, nhạn rời.
Trời
tạnh, ngâm thơ tìm thảnh thơi.
Đông
Giang, sông xoáy, chèo nguy hiểm.
Ngọc
Lũy, núi cao đến tận trời.
Mây phủ
trên thành, che bóng mát.
Vầng
dương đêm nắng tỏa khắp nơi.
Ba năm
xa nhà, kìm không khóc,
Năm mới
lần này lệ chắc rơi.
702. Tặng anh
họ Lãng Chi
Biết bao
oan trái ở đời này.
Hãy vui
đọc sách, ngắm trời mây.
Ra sông,
yên lặng ngồi câu cá.
Theo dấu
chân hươu trên cỏ dày.
Cùng sư
đàm đạo trong nhà lá.
Ao lạnh,
trăng vàng xuyên tán cây.
Về đi,
đừng để đời hoang phí.
Trong
thành, chó dữ cắn người ngay.
703. Ngày mồng
Hai tháng Hai
Mồng Hai
tháng Hai, đi trên sông.
Sáo
thổi, mặt trời dọi phía đông.
Liễu
buông lả lướt, không tin cậy.
Đáng
yêu, cần mẫn bướm và ong.
Làm việc
ba năm dinh Tế Liễu,
Giếng
xưa Nguyên Lượng cứ chờ mong.
Vô
duyên, thời tiết không chiều khách -
Đúng khi
cao hứng lại mưa giông.
704. Trọ ở đình
Tấn Xương, nghe
tiếng kêu của con chim cô đơn
Khách
buồn, khó ngủ, thức đêm nay,
Chợt qua
ô cửa thấy chim bay.
Một cánh
chim côi, trông yếu ớt,
Khi
quanh bãi vắng, lúc lùm cây.
Tiếng hí
ngựa Hồ hòa sáo ải.
Tiếng
vượn xen trong tiếng giã chày.
Lạc đàn,
chim biết nương đâu nhỉ?
Ta cũng
như chim ở đất này.
705. Đàm Châu
Công sở
Đàm Châu nhuộm nắng tà.
Tình cờ
chợt nhớ chuyện ngày qua.
Giọt lệ
sông Tương nhuần vẻ trúc.
Điệu hò
nước Sở thấm cành hoa.
Thuyền
chiến Đào Công bên thác vắng.
Đền thờ
Giả Phó dưới mưa sa.
Ngóng
mãi vườn xưa, người chẳng đến.
Lấy ai
nâng chén, uống cùng ta?
706. Mưa xuân
Xuân
mới, buồn thiu, nằm cả ngày.
Lưu lạc
Thành Môn, lắm đắng cay.
Gác đỏ
dưới mưa, trông nhạt lạnh.
Một mình
đơn độc, rèm lung lay.
Xa nhà,
lữ khách thương xuân muộn.
Đêm tàn,
mong được giấc mơ say.
Phong
thư có ngọc không nơi gửi.
Man mác
trên trời cánh nhạn bay.
ÔN ĐÌNH QUÂN
Sinh năm 818, mất 872, tên
chữ là Phi Khanh, người Thái Nguyên, nay là tỉnh Sơn Tây, là nhà thơ nổi tiếng
thời Vãn Đường; thi tiến sĩ không đỗ,
bất mãn với chính sự đương thời, sống phóng túng.
707. Tặng người
bạn trẻ
Giang hồ đất khách trú cùng nhau.
Động Đình hoa rụng, lá vàng au.
Từ biệt Hoài Ân, đêm cạn chén,
Hát khúc chia tay, nguyệt xế lầu.
708. Không ngủ được
Giường
lạnh, không ngủ được.
Mây cao,
trời trong xanh.
Tiếng
nhạn kêu ai oán.
Trăng
chiếu mười hai thành.
709. Ghé thăm
mộ Trần Lâm 1)
Văn ông
vinh dự đọc nhiều lần.
Mồ ông
nay gặp lúc đang xuân.
Linh
thiêng, ông biết tôi lưu lạc,
Có tài,
không chủ để nương thân.
Con lân
cao quí chìm trong cỏ.
Chim sẻ
đồng hoang thành chim thần.
Thảo nào
gió thổi thêm tê tái.
Gác bút
phen này học việc quân.
1. Một người
nổi tiếng viết chương biểu ở Kiến An, đời Tam Quốc. Từng giúp Viên Thiệu viết hịch
kể tội Tào Tháo.
710. Qua miền nam Lợi Châu
Xế tà,
mặt nước sóng lô xô.
Đảo liền
bên núi, lượn quanh co.
Nghe
tiếng mái chèo, bầy ngựa hý.
Gốc liễu
mấy anh đứng đợi đò.
Bãi cỏ
ven sông chim én lượn.
Muôn
khoảnh đồng xanh một cánh cò.
Những
muốn cưỡi thuyền tìm Phạm Lãi,
Cùng ông
du ngoạn giữa năm hồ
.
711. Ngẫu nhiên làm vào ngày xuân
Tươi
thắm vườn tây khúc hát xuân.
Vệ cỏ xe
đi phủ bụi trần.
Muốn
sống thảnh thơi mà chửa được.
Chẳng
biết làm đời đỡ khó khăn.
Đêm nghe
mưa gió, lo hoa rụng.
Trở trời,
thấy lạnh, đắp thêm chăn.
Câu cá
quay về, lòng phấn chấn,
Trong
đầu lại gợn sóng lăn tăn.
712. Tiễn người
đi chơi miền đông
Bên đồn
lính, lá rụng.
Bác rời
quê lên đường.
Sinh
Môn, mặt trời mọc.
Gió thổi
bến Hán Dương.
Trên
sông đang nhiều khách?
Cánh buồm
giữa mù sương.
Bao giờ
ta gặp lại?
Nâng
chén vợi sầu thương.
713. Qua gò Ngũ
Trượng 1)
Ngựa
sắt, xe mây lánh cõi trần.
Dinh Hán
liễu mờ giữa tiết xuân.
Trời
quang, sát khí trùm Quan Hữu.
Đêm tối,
sao ma chiếu Vị Tân.
Hạ Quốc,
rồng nằm phò chúa Thục.
Trung
Nguyên, có kẻ đuổi hươu Tần.
Trướng
gấm, giường ngà thành vắng vẻ.
Từ ấy
Tiêu Chu 2) thành lão thần.
1. Tên một vùng
đất cao, nơi Khổng Minh ngả bệnh chết khi xuất quân đánh Ngụy lần thứ sáu.
2. Tên người ở
nước Thục thời Hậu Hán, chỉ giỏi thiên văn, tướng số, ngoài ra không biết gì.
Khi Đặng Ngãi đánh vào Thục, ông khuyên con Lưu Bị đầu hàng.
714. Hồ Nam
Trên hồ
gió thổi, mát hiên hoa.
Quanh
ao, cỏ ấu mọc xùm xòa.
Xanh
biếc bến xuân thuyền ghé đậu.
Trên
sóng nhạn bay, chở nắng tà.
Đây
giống Tiêu Tương, mờ khói sóng.
Lá lau
xào xạc tưởng mưa sa.
Thuyền chơi sông nước, lòng phơi phới.
Khách lặng nhìn nhau vì nhớ nhà.
715. Xót thương Lý xử sĩ
Liễu chưa rũ khói, cỏ sương nhòa.
Bè xuôi về biển, hạc bay xa.
Xuân đẹp mà sao buồn đứt ruột.
Trăng tròn, đang ốm, hé nhìn ra.
Hữu tình, như thể hoa trầm mặc.
Hững hờ dòng nước cứ trôi qua.
Ôm mãi mối sầu không tan được,
Chương hai đành phụ sách Nam Hoa. 1)
1. Tức Nam Hoa Kinh của Trang Tử, coi mọi vật như nhau, sống chết đều thế
cả.
716. Tiễn bác chài trên sông Tây
Nhược Da hãy đến, giống Nghiêm Công. 1)
Dây câu, thuyền lá, thảnh thơi lòng.
Tháng Ba mưa nhỏ, phong vàng lá.
Đêm đến trú thuyền bên bãi nông.
Mây ít, chắc đêm nằm thấy mộng.
Tìm tổ, chim âu cứ lượn vòng.
Thuyền neo giữa đám rau tần
trắng.
Én lượn từng đôi trên mặt sông.
1. Có lẽ là Nghiêm Vũ, bạn Đỗ Phủ.
LỤC QUY MÔNG
Không rõ năm sinh, mất 881,
tự Lỗ Vọng, người Ngô Quận, nay thuộc tỉnh Giang Tô, không làm quan, nên người
ta còn gọi là Giang hồ Tản nhân.
717. Bài hát xây thành
Đừng trách
tướng nghiêm khắc.
Tướng
đánh giặc cứu đời.
Thành
cao, công càng lớn.
Tiếc gì
mấy mạng người.
718. Mưa xuân tức sự
Tiểu Tạ,
mưa xuân suốt cả ngày.
Trong
thành, ngoài biển phủ đầy mây.
Buồn bởi
luống hoa đang gặp lạnh,
Nhưng
mừng vườn thuốc đã xanh cây.
Đi
nhiều, đôi guốc nay mòn vẹt.
Mặc mãi,
áo lông đã bớt dày.
Hàng
xóm, bác chài sung sướng thật -
Khuya về
cất lưới ngủ giấc say.
TRƯƠNG KIỀU
Năm sinh, năm mất không rõ, người Trì Châu, nay thuộc tỉnh An Huy.
Ông đỗ tiến sĩ năm Hàm Thông đời Đường Úy Tông, được xếp vào danh sách mười
người hiền đời Hàm Thông, từng làm quan rồi về ở ẩn. Toàn Đường Thi có hai
quyển thơ của ông.
719. Những
người lính trận Hà Hoàng
Theo
tướng tham gia trận đánh này,
Phần
nhiều trai trẻ, chết nơi đây.
Mười vạn
Hán quân giờ đã hết,
Ta khóc,
thổi tiêu đến tối ngày.
THÔI ĐẠO DUNG
Năm sinh, năm
mất không rõ, người Kinh Châu, nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, từng giữ nhiều chức quan
khác nhau. Toàn Đường Thi lưu được 70 bài của ông.
720. Tả cảnh ở
khe núi
Thuyền
nhỏ nhà ai quên buộc dây.
Gió
thổi, thuyền trôi phía bãi lầy.
Tưởng có
khách quê lên, chú bé
Chạy ra
mở cổng, chổi cầm tay.
TỪ DẦN
Không rõ năm sinh, năm mất, tự Chiêu Mông, người Tuyền Châu, nay
thuộc tỉnh Phúc Kiến. Ông đỗ tiến sĩ đời Đường Chiêu Tông, làm quan đến chức bí
thư giám chính trị.
721. Hái tần
trắng ở Giang Châu
Để nguôi
đau khổ phải xa chồng,
Hái hết
rau tần ở bãi sông.
Chim bay
có đôi, người sum họp,
Bao mùa
hoa rụng, thiếp phòng không.
Biên
giới xa xôi, mong tin trạm.
Giường
lạnh, đêm dài, mỏi mắt trông.
Năm tới
còn rơi bao nước mắt?
Lom lem
vạt áo vết son hồng.
HẠNG TƯ
Chưa rõ tiểu sử
tác giả.
722. Tiễn cung
nhân đi tu
Một lòng
qui Phật, hướng chân tu,
Đi theo
Vương Mẫu chốn mây mù.
Trót sai
nghi lễ nơi lầu ngọc,
Đổi tên,
rời khỏi chốn giam tù.
Chùa
mới, hàng ngày lo niệm Phật,
Thay
chơi đàn nguyệt với chơi đu.
Cầu kinh
mà tiếng nghe như hát.
Buồn
buồn hương khói chốn thâm u.
LÝ TẦN
Năm sinh, năm mất không rõ,
tự Đức Tân, người Thọ Xương, Mục Châu, nay thuộc tỉnh Chiết Giang, bạn thời trẻ
của Lưu Phương Bình, đỗ tiến sĩ năm Đại Trung thứ 8 (845) đời Đường Tuyên Tông.
Tác phẩm: "Kiến Châu Thứ Sử tập" gồm hơn 200 bài.
723. Trên đường
về quê, qua sông Hán
Ngoài núi không tin tức.
Đông hết rồi xuân sang.
Càng gần, càng thấy sợ,
Không dám hỏi tin làng.
724. Thơ đề nhà riêng quan tư mã họ Trương
Trước
sân cây cối tự ông trồng.
Hoa nở
luân phiên, trắng lại hồng.
Trông
con, chim mẹ nằm trên tổ.
Dân quê
thèm rượu, đến nhà ông.
Từ buổi
từ quan về với núi,
Mái đầu
thêm bạc, dáng thêm còng.
Thiên hạ
đua nhau tìm lạc thú -
Dấu giày
chi chít giữa rêu phong.
724. Tiễn bạn ở sông Tương
Hoàng
hôn, mù mịt khói sông Tương.
Sau vệt
lau mờ - đất Sở vương.
Nhạn bay
trong tuyết đầm Vân Mộng.
Động
Đình thuyền nhỏ khách lên đường.
Sóng vỗ
suốt ngày vào vách núi.
Sao in
mặt nước phẳng như gương.
Đành đợi
sang năm người trở lại.
Tháng
chạp, hoa mai rụng khác thường.
HỨA HỒN
Năm sinh, năm mất không rõ,
tự Dụng Hối, người Đơn Dương, Nhuận Châu, nay thuộc Giang Tô, đỗ tiến sĩ năm
Đại Hòa thứ 6 (832), đời Đường Văn Tông, giữ nhiều chức quan, cuối đời thác
bệnh về nhà ở ẩn. Tác phẩm: "Đinh Mão tập".
725. Khúc biên
ải
Trận Tang Càn đêm qua
Nửa quân Tần bị giết.
Sáng, họ có thư nhà,
Lại còn thêm áo rét.
726. Viết khi
đến kinh đô không tìm được
chỗ trọ, phải đi chơi đất Tần Lũng
Xế chiều, chim én lượn về tây.
Ngũ Hầu gác tía ngập trong cây.
Cửa đóng, trong vườn hoa mới nở,
Chắc gặp gió đông đã rụng đầy.
727. Đầu thu
Đêm
khuya, buồn hiu hắt.
Cỏ tháng
ba trở mình.
Nhạn
bay, đom đóm đậu
Trên
giọt sương lung linh.
Sáng mù
tan, hiện rõ
Những
dãy núi xanh xanh.
Hoài Nam
chiếc lá rụng,
Gợn sóng
hồ Động Đình.
728. Ngắm cảnh chiều ở phía tây thành Hàm
Dương
Lặng lẽ
lên thành, ngước mắt trông.
Rặng
liễu chạy dài tận bãi sông.
Mây núi
đùn lên, lầu xế bóng.
Cơn mưa
sắp tới, gió trên đồng.
Bãi cỏ
vườn Tần chim xuống đậu.
Cung Hán
ve kêu thật não lòng.
Xin đừng
hỏi chuyện triều vua trước.
Ngày đêm
sông Vị vẫn xuôi dòng.
729. Thơ làm ở
lầu trạm Đông Quan,
một ngày thu đến kinh thành
Uống
rượu nơi lầu trạm.
Lá đỏ
hắt hiu chiều.
Mây bay
về Thái Họa.
Mưa ở
núi Trung Điều.
Cửa ải
cây xanh tốt.
Róc rách
nước thủy triều.
Đã đến
nơi đô thị,
Vẫn nhớ
bạn ngư tiều.
730. Nhà ở nông
thôn
Nhà ở
thôn Nam, có cổng tre.
Tự mình
cắt lá làm tơi che.
Vợ luôn
dậy sớm lo cơm nước.
Trẻ con
chờ bố cuốc nương về.
Chim bay
phía núi, chiều thu vắng.
Cá lặn
đầm xanh giữa nắng hè.
Nhưng
mùa hoa nở, đông người đến,
Muốn bỏ
đi câu ngoài bãi đê.
LÝ HÀM DUNG
Chưa rõ tiểu sử tác giả.
731. Thơ đề chỗ ở trên núi của xử sĩ họ
Vương
Cây cối
âm u, hè cũng lạnh.
Ở ẩn nơi
này đã mấy xuân.
Nhàn
nhã, thuế vua không phải đóng.
Sống
lười, xuống suối kiếm thức ăn.
Chim
cuốc gọi hồn nghe ảo nạo.
Cánh cò
chập tối dáng phân vân.
Khắp nơi
loạn lạc, mình thanh thản,
Chẳng
khác gì tiên xuống cõi trần.
NHIẾP DI TRUNG
Sinh năm 837, không rõ năm mất, tự Thảm Chi, người Hà Đông, nay là
huyện Vĩnh Tế, tỉnh Sơn Tây. Ông đỗ tiến sĩ năm 861, từng giữ chức huyện úy Hoa
Âm. Thơ ông theo truyền thống cổ thi ngũ ngôn Hán - Ngụy, lời lẽ giản dị, phản
ánh cuộc sống khổ cực của người lao động.
732. Vịnh nhà
nông
Tháng
Năm phải bán lúa.
Tháng
Hai đành bán dâu.
Lo được
ăn, thiếu mặc,
Lại
thường xuyên ốm đau.
Mong
lòng vua nhân ái
Sáng như
sao trên đầu
Soi nhà
tranh xiêu nát,
Không
phải soi gác lầu.
CHU PHÁC
Chưa rõ tiểu
sử.
733. Quán đạo ở
Đồng Bách
Nghìn
núi xanh tươi, cao chạm mây.
Cảnh đẹp
lạ lùng, nhìn ngất ngây.
Người dưới đi lên theo sườn núi.
Cao vút trên trời, chim hạc bay.
Nước lạnh hang sâu con cá quẫy.
Ngoài cửa, trong sân hoa nở đầy.
Còn muốn tìm tiên nơi nào nữa?
Bồng Lai tiên cảnh chính nơi này.
ĐƯỜNG NGẠN KHIÊM
Năm sinh, năm mất không rõ,
tự Mậu Nghiệp, người Kinh Châu, nay thuộc tỉnh Sơn Tây; đỗ tiến sĩ năm 861, làm
quan tới chức Thứ sử Lãng Châu. Tác phẩm: "Lộc Môn tập", còn gần 200
bài.
734. Nhà nhỏ
Đêm không mây tĩnh lặng.
Trăng chênh chếch sau nhà.
Buồn cả vì thanh vắng,
Đâu chỉ vì cách xa.
MÃ ĐÁI
Không rõ năm sinh, năm mất, tự Ngu Thần,
không rõ quê quán, đỗ tiến sĩ khoảng niên hiệu Hội Xương (841 - 846), cuối đời
giữ chức Thái học bác sĩ.
735. Nhớ ngày xưa bên sông Sở
Chiều,
hơi sương lành lạnh.
Núi Sở,
nắng tắt dần.
Phía
Động Đình vượn hót.
Người
ngồi thuyền mộc lan.
Trăng
sáng trên đầm rộng.
Sông kề
núi bạt ngàn.
Đêm
không mây, tĩnh lặng.
Một mình
tiếc thu tàn.
736. Mùa thu ở
Bá Thượng
Bá
Thượng, mưa ngừng rơi.
Nhạn bay
nhiều trên trời.
Cây bắt
đầu rụng lá.
Đêm vắng
lạnh lòng người.
Vườn
hoang, sương lấp lánh.
Chùa bên
sư nằm chơi.
Ở nhà,
chờ đợi mãi.
Bao giờ
được giúp đời?
737. Ghé nhà
ông lão nông thôn
Xưa rỗi,
trồng cây nhỏ.
Nay cây
to, xùm xòa.
Đánh cá
và đốn củi.
Mây còn
thấp hơn nhà.
Sai trẻ
đi hái thuốc.
Thả trâu
ăn đồng xa.
Tự dưỡng
sinh, dưỡng bệnh.
Không
bận tâm tuổi già.
NGÔ DỤNG
Sinh năm 903,
năm mất không rõ, người Việt Châu, nay thuộc tỉnh Chiết Giang, đỗ tiến sĩ đời
Chiêu Tông, làm quan tới chức Hộ bộ Thị lang rồi Hàn lâm viện thừa chỉ.
738. Nhớ con
suối miền núi
Xuyên
mây, gặp đá, chảy vòng quanh,
Vui đùa,
róc rách đủ âm thanh.
Rơi
xuống từ cao như ngọc vỡ,
Một vùng
sâu thẳm, chiếu trời xanh.
Đôi khi
mờ mịt, nhìn không thấy.
Trăng
đẹp nhiều đêm, gió mát lành.
Mưa xuân
dai dẳng, không về được,
Để buồn
cho suối cuốn trôi nhanh.
739. Ngôi nhà
hoang
Gió thổi
ngói bay, mưa lở tường.
Cổng ai
khép hộ, bám đầy sương.
Sau nhà
quạnh quẽ cây hoa dại.
Đầy sân
cỏ mọc, cảnh buồn thương.
Áo nước
cạn khô, không ếch nhái.
Buồn
thênh chim én đậu trên rường.
Đâu chỉ
riêng đây hoang vắng thế -
Từ lâu
cũng vậy cả Hàm Dương.
VIÊN BẤT ƯỚC
Chưa rõ tiểu sử
tác giả.
740. Cuộc chơi
đêm ở Trường An
Chín cửa
Phụng thành mở chín phương.
Quí phi,
cung nữ đổ ra đường.
Xe vàng,
ngựa béo, rèm châu cuốn.
Đèn bạc,
lọng ngù, cờ đuốc dương.
Trăng
sáng, lầu xanh vang tiếng hát.
Bốn bề
gió thổi, ngát mùi hương.
Xe ngựa
quay về, chuông sáng điểm.
Trâm
vãi, hoa rơi khắp phố phường.
CAO BIỀN
Không rõ năm sinh, năm mất,
tự Thiên Lý, người Bột Hải. Từng làm chinh nam tướng quân cai trị Giao Châu
(Việt Nam xưa) từ 864 đến 875, sau được gọi về nước làm tiết đô sứ Hồ Nam, rồi
bị giết vì có ý bất mãn.
741. Ngày hè,
nhà trên núi
Bên hồ lầu gác cúi soi gương.
Mùa hạ ngày dài, dài vấn vương.
Gió động rèm châu, bên giá sách
Hoa tường vi nở, ngát mùi hương.
742. Tìm người ở
ẩn không gặp
Hoa rơi nước chảy, cảnh thiên thần.
Vừa hát, vừa say tìm bạn thân.
Tiên ông, thật tiếc, đi đâu vắng.
Hoa đào, hoa hạnh rụng đầy sân.
743. Cảm hứng
Buông câu không cần cá.
Uống chẳng vì buồn rầu.
Ta giống Kê Thúc Dạ,
Đều cùng lười như nhau
744. Ngắm tuyết
rơi
Tuyết như hoa trắng rụng quanh nhà.
Trúc thành quỳnh trắng nở đầy hoa.
Thật thích, lên lầu cao để thấy
Đường ác khắp nơi tuyết phủ nhòa.
745. Ngày hè,
lầu trên núi
Bao bọc cây xanh kín bốn bề.
Bóng lầu in ngược dưới lòng khe.
Hoa tường vi nở, thơm dìu dịu.
Xôn xao gió thổi uốn mành tre.
746. Giải khuây
Bài một
Rỗi việc đi câu, buồn - uống chơi,
Cho say, dứt bỏ hết tình đời.
Chỉ tiếc Hàn Bành xong nghiệp Hán,
Chẳng đến Ngũ Hồ sống thảnh thơi.
747. Giải khuây
Bài hai
Đầy vườn hoa nở, trăng đầy ao.
Thuyền đầy tiếng hát, nước lao xao.
Từ nay nguyện sẽ say, thanh thản,
Chỉ giương cờ rượu, chẳng cờ đào.
748. Tiễn Tào
Biệt Sắc từ An Nam
hồi triều
Mặt trời xế bóng, nước liền mây.
Cuốc kêu, đồng vắng phủ sương dày.
Về tới thiên triều, xin nhắc hộ:
Tôi đã năm năm ở chốn này.
749. Xuân biên ải
Xanh
biếc cỏ xanh, liễu mỡ màng.
Bầu rượu
nghiêng nghiêng, rót chén vàng.
Tiếng
đàn tiếng hát bay theo gió,
Điệp
trùng biên ải vẫn âm vang.
750. Gửi anh trai
Anh em
ly biệt đã bao ngày.
Bao lần
nhỏ lệ chẳng hề hay.
Chưa dứt
tiếng kèn, hồn đã đứt.
Trời Hồ
không một bóng chim bay.
751. Cảnh xuân ở Cẩm Thành
Sông
Thục Giang xanh biếc.
Hoa muôn
màu khắp nơi.
Vùng này
chắc giàu lắm -
Bao
nhiêu gấm đem phơi.
752. Nỗi oán phòng khuê
Chinh
phụ vui buồn, khó lắm thay.
Dẹp xong
giặc bắc, mới về đây,
Bây giờ
hiến kế xin nam tiến.
Áo trận
cho chồng cứ giục may.
753. Nói nỗi lòng
Giận
mình ít mưu kế.
Thẹn làm
tướng cầm quân.
Tay giữ thanh
gươm quí.
Giáp
trận khoác lên thân.
Phò vua
coi chuyện dễ.
Đền ơn,
biết khó khăn.
Ba cõi
còn có giặc,
Chưa
nghĩ chuyện từ quan.
754. Gửi xử sĩ
Lý Toại Lương ở làng Ngạc
Quên
đời, sống ẩn giữa rừng cây,
Đô thành
mộng ảo cũng quên ngay.
Bên ao
đọc sách, tôn người trước,
Làm văn
răn dạy trẻ sau này.
Bến Tần
chiều tối thơ lai láng.
Tạnh
trời, sông Mỹ bác chài say.
Xuân về,
trong núi không tin tức.
Bờ sông
vắng vẻ, ngày lại ngày.
THÔI ĐỒ
Không rõ năm sinh, năm mất, tự Lê Sơn,
người Giang Nam, đỗ tiến sĩ năm 888, thơ ông phần nhiều tả cảnh oán hận ly
biệt.
755. Nỗi nhớ đêm cuối năm
Thân ở
nơi nguy hiểm.
Đường
Tam Ba xa xôi.
Đêm, núi
chìm trong tuyết.
Ngọn đèn
dầu lẻ loi.
Xa bạn
bè, thân thích
Nên quí
đám bề tôi.
Không lẽ
thế này mãi?
Mai đã
năm mới rồi.
756. Con nhạn
lẻ loi
Nhạn đã
bay về ải.
Chỉ còn
lại mình mày.
Kêu giữa
chiều lạc lõng,
Trăng
lạnh, trời đầy mây.
Lúc chao
trên bãi cạn,
Lúc muốn
đậu cành cây.
Có thể
người không bắn,
Nhưng
đơn độc, buồn thay.
757. Chiều xuân
ở đất người, nhớ nhà
Hững hờ
nước chảy, hoa rời cành.
Gió xuân
man mác thổi qua thành.
Trong mơ
hóa bướm, nhà muôn dặm.
Trăng
mờ, chim cuốc nhắc ba canh.
Suốt năm
vắng bặt thư vườn cũ.
Mỗi bận
xuân về, tóc bớt xanh.
Chưa
muốn về quê, về chắc được.
Ngũ hồ
cảnh đẹp có ai tranh?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét