Thơ Chữ Hán Trung Quốc
TẦN THAO NGỌC
Không rõ năm sinh, năm mất, tự Trọng Minh,
người Kinh Triệu, đỗ khoa chuẩn sắc năm 882, làm quan tới chức Công bộ thị
lang.
758. Cô gái nghèo
Lều
tranh, chưa biết cảnh sang giàu.
Ngại nhờ
mai mối để làm dâu.
Trang
điểm sơ sài, trông ái ngại,
Đâu sánh
thanh tao chốn gác lầu.
Không
khoe mình giỏi đường kim chỉ.
Chẳng
muốn tô mày, thêm khổ đau.
Để làm
áo cưới cho người khác,
Năm năm
mòn mỏi những đường khâu.
VU LƯƠNG SỬ
Chưa rõ tiểu sử tác giả.
759. Đêm trăng trên núi xuân
Núi xuân
lắm cảnh đẹp.
Quên về,
ngắm mê say.
Chơi
hoa, hương thấm áo.
Vốc
nước, trăng đầy tay.
Hứng
lên, đi khắp chốn.
Muốn về,
tiếc lắm thay.
Phía
nam, tiếng chuông đổ.
Gác lầu
mờ phía tây.
TRƯƠNG KÍNH TRUNG
Không rõ năm sinh, năm mất,
sống thời Thịnh Đường, từng làm Giám sát ngự sử và Tiết độ sứ ở Bình Lô rồi
Kiếm Nam.
"Toàn Đường thi" còn hai bài.
760. Cảnh biên
cương
Xuân ở
Ngũ Nguyên vốn muộn mằn.
Mãi đến
bây giờ băng mới tan.
Tháng
Hai mà liễu chưa buông tóc.
Giờ này
hoa rụng ở Trường An.
CHƯƠNG KIỆT
Chưa rõ tiểu sử
tác giả.
761. Ly biệt
giữa mùa xuân
Vất chén
biệt ly, dẫu vẫn vương.
Chưa
xong nhạc tiễn, đã lên đường.
Cương
vàng, ngựa bước bên hoa đỏ.
Lệ chảy
lầu son, người tựa tường.
Xuân
xanh đã đến trên cành liễu,
Nước
trắng sông Thông còn tuyết sương.
Chỉ nhắc
đừng quên đem áo ấm -
Mùa hè
vẫn lạnh ở biên cương.
LA NGHIỆP
Chưa rõ tiểu sử tác giả.
762. Ngắm cảnh chiều trên bờ đầm Bộc Dịch
Người
đến nơi này những xót xa.
Hoa lau,
đầm nước giống quê nhà.
Bao giờ
mới được lòng thanh thản?
Thu về
vó ngựa giục lòng ta.
Ruộng
vườn xơ xác, về đông muộn.
Đường xá
khó khăn, lên bắc xa.
Ngoài
bãi, nhìn kia, chim sướng thật,
Bay lượn
từng đôi giữa nắng tà.
TRỊNH CỐC
Chưa rõ năm sinh, năm mất, tự
Thư Ngu, hiệu Diệc Sơn, người Viên Châu, nay thuộc tỉnh Giang Tây; làm quan đến
chức Đô quan lang trung. Tác phẩm có
"Vân đài biên", "Nghi Dương tập" và "Quốc phong chính
quyết".
763. Thơ đề vách
nhà trọ
Đêm xuân giấc ngủ thấm hương hoa.
Én bay, cây phủ kín quanh nhà,
Nến hồng lạnh lẽo, cành hoa gãy.
Đường tới Thường Sơn còn bao xa?
764. Trên sông Hoài tiễn bạn
cũ
Liễu xanh Dương Tử rợp bên đường,
Làm kẻ sang sông lòng vấn vương.
Xế bóng, chia tay, nghe sáo thổi,
Rồi người đến Tần, người Tiêu Tương.
765. Đọc tập thơ của Lý Bạch
Sao văn,
sao rượu, cả sao băng
Đưa Lý
tiên sinh nhập vĩnh hắng.
Vừa say
vừa viết ba nghìn khúc,
Cho đời,
để lại một vành trăng.
766. Bên sông
Mờ mịt
khói sương, những chấm thuyền.
Dòng
sông xơ xác sậy hai bên.
Trời
thấp, cảnh buồn, cây trụi lá,
Làm ai
nhìn thấy cũng ưu phiền.
Một rừng
lá úa, ve kêu lạnh.
Muôn lớp
sóng dồi, cò ngủ yên.
Binh lửa
chưa qua, già đã đến.
Thong
thả ngâm thơ, nhớ Sản Xuyên.
CHU PHÓNG
Tên chữ là Trường Thông, không rõ năm sinh, năm mất, người
Thương Châu cuối đời Đường, từng làm chức Tham quân cho Tào vương, sau ở ẩn ở
Khe Sàn, tỉnh Chiết Giang..
767. Thơ đề ở
chùa Trúc Lâm
Khác cõi trần luôn vội,
Đây chỉ toàn núi mây.
Trúc Lâm, chùa mến khách.
Ta đã đến nơi này.
ĐINH TIÊN CHI
Không rõ năm sinh, năm mất, người Khúc Hà,
từng làm huyện úy Dư Hàng, là nhà thơ cuối đời Đường.
768. Qua sông Dương Tử
Thuyền
đã đến giữa dòng.
Hai bờ
sóng mênh mông.
Ven rừng
- trạm Dương Tử.
Thành
Nhuận Châu phía đông.
Biển xa,
biên giới vắng.
Gió bấc
thổi trên sông.
Nghe
tiếng thu xào xạc,
Tiếng lá
rụng ngoài đồng.
TRIỆU CỔ
Sinh năm 815, năm mất không
rõ, tự Thừa Hựu, người Sơn Dương, nay là huyện Hoài An, Giang Tô. Ông đỗ tiến
sĩ năm Hội Sương, sau làm quan úy ở Vị Nam.
769. Trên lầu bên sông, nhớ chuyện cũ
Bên
sông, tư lự đứng trên lầu.
Dưới trăng,
trời nước sáng như nhau.
Y nguyên
phong cảnh như năm ngoái.
Người
dạo cùng ta giờ ở đâu?
770. Đêm thu ở Tràng An
Trời thu
ảm đạm đã nhiều ngày.
Cung Hán
vươn cao, chạm tới mây.
Một
tiếng sáo ngân, người tựa cửa.
Đôi chấm
sao buồn, chim nhạn bay.
Dậu cúc
đầu thềm đang hé nụ.
Sen úa
ngoài ao những cuống gầy.
Ở quê cá
béo, không về được.
Đi sang
nước Sở, giống đi đày.
771. Nghe thổi sáo
Có ai
thổi sáo phía tây lầu,
Khi
khoan khi nhặt đổi thay nhau.
Mây
nghe, bất giác mây ngừng lại.
Trăng đứng
bên song, vẻ nhuốm sầu.
Hằng Tử
thổi liền ba điệu sáo. 1)
Mã Xung
có phú để đời sau. 2)
Sáo im,
không biết ai vừa thổi,
Tiếng
sáo còn vang lâu, rất lâu.
1. Hằng Tử tức Hằng Y thời Đông Tấn, tự
Thúc Hạ, hiệu Tử Dã. Một lần ông dừng xe ở khe Thanh Khê, và theo lời mời của Vương
Vi, ông bước lên chõng thưa, thổi ba khúc sáo tuyệt hay, sau đó không hề xuất
hiện thêm nữa.
2. Nhà văn thời Đông Hán, giỏi về phú với
bài Tràng Địch rất nổi tiếng.
HÀN ỐC
Chưa rõ tiểu sử tác giả.
772. Bắc chước
thơ Thôi Quốc Phụ
Hoa hải đường tự rụng.
Trăng nhạt như sương mù.
Một mình nhìn hiên vắng.
Gió lay ghế xích đu.
773. Trời mát
Rèm thêu
xanh biếc rủ ngoài hiên.
Bình
phong màu đỏ vẽ thần tiên.
Tiết
trời đã mát nhưng chưa rét.
Chiếu
rồng, đệm gấm, cảnh bình yên.
774. Xuân hết
Tiếc
xuân, liên tục mấy ngày say.
Tỉnh
dậy, áo quần nước mắt dây.
Nước
đục, hoa trôi về suối khác.
Quạnh
hiu xóm nhỏ bụi mưa dày.
Đời
người được mấy mùa xuân đẹp?
Đất
rộng, gọi hồn khó lắm thay.
Thẹn với
chim oanh kêu líu ríu,
Một mình
buổi sáng đến vườn tây.
HOA NHI
PHU NHÂN TỪ THỊ
Sinh năm 883, mất 926, người
Thanh Thành nay thuộc Tứ Xuyên, là phi của Mạnh Sưởng, hiệu là Hoa Nhị Phu
nhân, từng bị bắt vào cung Tống, được Tống Thái Tổ rất sủng ái. Tác phẩm:
"Hoa Nhị Phu nhân cung thi" còn hơn 100 bài.
775. Thơ tả cảnh
mất nước
Vua sợ, cờ hàng cắm đã lâu,
Thiếp ở trong nhà có biết đâu.
Mười bốn vạn người cùng bỏ giáp.
Không người đáng gọi đấng mày râu!
VI TRANG
Sinh năm 836, mất năm 910,
tên chữ là Đoan Dĩ, nhà thơ nổi tiếng thời Vãn Đường, người Đỗ Lăng, nay thuộc
tỉnh Thiểm Tây, từng đỗ tiến sĩ và có họ hàng với Vi ứng Vật.
776. Tiễn bạn ở
quán rượu Đông Dương
Buồn sống tha hương tận cuối trời.
Hôm nay lại phải tiễn đưa người.
Từ mai chỉ có ta và nguyệt.
Say tỉnh lúc nào lệ cũng rơi.
777. Cảnh thành
Kim Lăng
Mưa trên mặt nước, cỏ ven bờ.
Sáu triều vua ngắn tựa trong mơ.
Chỉ liễu Đài Thành là vẫn thế,
Đứng lặng trên đê giữa khói mờ.
778. Thương
người cày
Vẫn thế, đời nào chẳng chiến tranh.
Hết thời loạn lạc đến thời bình.
Đã bao xương thịt vùi trong cát,
Vẫn bắt dân binh thành chiến binh.
779. Ở Phù Châu, để lại bài thơ này
từ biệt Trương viên ngoại
Ải Bắc
gặp nhau trong gió cát.
Giang Nam
đưa tiễn dưới sao mờ.
Chuyện
cũ mười năm như gió thoảng.
Bạn bè
Ba Sở chỉ trong mơ.
Đừng
nói: Ngày mai, chờ kiếp khác.
Hãy vui
đàn sáo, uống bây giờ.
Chỉ tiếc
hai ta đành tạm biệt.
Trời
mưa, bên núi ngựa đang chờ.
780. Suy nghĩ trong đêm, ở Chương Đài
Đêm,
tiếng đàn thanh thót
Những
điệu buồn gió mây.
Bên đèn,
nghe sáo Sở.
Trăng
nhạt treo trên cây.
Cỏ thơm
đang héo lụi.
Bạn xưa
mong từng ngày.
Thư nhà
không gửi được.
Về nam,
chim nhạn bay.
781. Nhớ ngày xưa
Ngày xưa
từng đến Ngũ Lăng chơi.
Nửa đêm
còn hát, nguyệt sáng ngời.
Nến bạc,
đèn vàng như bạch nhật.
Sương
đọng hoa đào, khách lả lơi.
Chàng
trai ngày ấy tên Vô Kỵ.
Mạc Sầu
cô gái, thật hơn người.
Bây giờ
loạn lạc, nhìn chỉ thấy
Nước
chảy về đông, gió ngút trời.
782. Nghĩ tới
ngày về quê
Trời
giăng tơ mỏng, đẹp muôn màu.
Ngày ấm,
gió xuân luống gợi sầu.
Xa quê,
hoa nở thêm hiu quạnh,
Nhạc
hay, múa đẹp cũng buồn rầu.
Hoa anh
đào nở bên bờ ruộng.
Cỏ ngát
mùi thơm bên bãi rau.
Nếu quả
về quê là việc dễ,
Tử An
sao chết, Tử Kỳ đau?
THÔI
MẪN ĐỒNG
Chưa rõ tiểu sử.
783. Ăn tiệc ở
trại Đông Thành
Xuân đến và rồi xuân lại qua.
Bách niên thử hỏi mấy người già.
Chớ bảo vì nghèo, không đủ rượu.
Dễ được mấy lần say trước hoa?
THÔI
HỤÊ ĐỒNG
Chưa rõ tiểu sử.
784. Ăn tiệc ở
trại Đông Thành
(Hoạ
thơ Thôi Mẫn Đồng)
Chủ nhà mỗi tháng mấy lần say.
Gặp nhau nên uống những lúc này.
Vừa đến, kìa xem, xuân đã hết.
Hoa nở, hoa tàn trong gió bay.
ĐỖ THU
NƯƠNG
Không rõ năm sinh, năm mất,
người Kim Lăng, là tỳ thiếp của Lý Kỳ, sau được Đường Mục Tông (821 - 826) đem
về cung làm Trung giáo tập.
785. Áo kim
tuyến
Tiếc gì áo gấm với công danh.
Một thời hãy tiếc đẹp xuân xanh.
Hoa nở đang thì, thì cứ bẻ,
Đừng đợi hoa rơi, chỉ bẻ cành.
CAO THIỀM
Nhà thơ đời Vãn Đường, năm sinh, năm mất chưa rõ, người Bột Hải,
nay là tỉnh Hà Bắc. Ông đỗ tiến sĩ năm Càn Phù đời Đường Hy Tông, làm quan tới
chức Ngự sử Trung thừa.
786. Thơ dâng
quan Thị lang họ Cao 1)
Sáng sớm
sương giăng, đào nở hồng.
Trưa hoa
hạnh nở, thắm từng bông.
Sông thu
còn đợi phù dung nở.
Chưa nở
không vì thiếu gió đông.
1. Tức Cao Biền.
LAI HỘC
Không rõ năm sinh, mất 883,
người Dư Chương, nay thuộc tỉnh Dương Tây; thi tiến sĩ không đỗ, lên núi ở ẩn,
"Toàn Đường thi" lưu được 29 bài.
787. Người đàn
bà chăn tằm
Dệt áo, xe tơ, việc lút đầu,
Vất vả suốt ngày ngoài bãi dâu.
Giá kẻ giàu sang không áo mặc
Để biết nuôi tằm khổ đến đâu.
VƯƠNG GIÁ
Năm sinh, năm mất không rõ,
tên chữ Đại Dụng, người Hà Trung, nay là Vĩnh Tế, Sơn Tây; đỗ tiến sĩ năm Đại
Thuận nguyên niên (891) đời Đường Chiêu Tông, từng giữ các chức Thập Di, Hữu Bổ
Khuyết, Viên ngoại lang bộ lễ. Tác phẩm: Toàn Đường thi tập còn 6 bài của ông.
788. Ngày xuân,
sau mưa
Hoa nở trước mưa, nhụy trắng ngần.
Sau mưa hoa rụng, xác đầy sân.
Bướm ong bay sang vườn hàng xóm,
Tưởng rằng bên ấy vẫn còn xuân.
ĐỖ TUÂN HẠC
Sinh năm 846, mất 904, tự
Ngạn Chi, người Trì Châu, nay thuộc tỉnh An Huy, đỗ tiến sĩ đời vua Đường Chiêu
Tông, làm quan đến chức Hàn lâm Học sĩ. Ông xuất thân hàn vi, bất mãn với chính
sách tồi tệ đương thời nên thơ thường miêu tả cảnh điêu đứng của dân chúng.
789. Lại đi qua
huyện Hồ Thành
Năm
ngoái tình cờ ta đến đây,
Thấy dân
ca thán suốt đêm ngày.
Quan nay
được thưởng dây tua đỏ.
Chắc máu
dân lành thấm đỏ dây.
790. Người đàn bà góa trong núi
Lều tranh, chồng lính chết từ lâu.
Áo gai, quần rách, tóc vàng nâu.
Quan giục nộp tô, đòi thuế vải,
Dẫu không còn ruộng, bỏ tằm dâu.
Phải chặt cành tươi mà nhóm lửa.
Bữa ăn toàn rễ với rau bầu.
Vẫn không thoát cảnh quan đòi thuế,
Khi trốn trong rừng sâu, rất sâu.
TƯ KHÔNG ĐỒ
Sinh năm 837, mất 908, tự
Biểu Thánh, người Hà Trung, nay thuộc Sơn Tây, đỗ tiến sĩ năm Hàm Thông thứ 10
(869) đời Đường Úy Tông, làm quan một thời gian rồi về ở ẩn trong núi. Tác
phẩm: "Tư Không biểu Thánh thi tập".
791. Thơ vịnh
lúc lui về ở ẩn
Yến hót, mừng khách tới.
Tiễn người, cây nở hoa.
Hãy vui vì xuân mới.
Đừng buồn xuân đã qua.
792. Thơ làm một năm sau khi trở lại Vương Quan
Ngôi nhà thân thuộc giữa rừng cây.
Binh lửa rụi thiêu giá sách đầy.
Ở ẩn, quên đời vì vắng khách.
Thiếu gạo, thương thân phải yếu gầy.
Ao nhỏ bên khe, xuân còn đó.
Buổi trưa trời tạnh, hoa trên cây.
Ngoài cổng cần gì xe ngựa quí.
Trốn đời, thả sức hát và say.
TRÀN PHỐC
Sinh năm 906, mất 989, tự Đồ
Nam, hiệu Phù Dao tử, người Hào Châu, nay thuộc tỉnh Hà Bắc, thi tiến sĩ cuối đời
Đường không đỗ, bỏ đi ở ẩn, hết loạn lạc được Tống Thái Tông tặng cho danh hiệu
Hi Di tiên sinh. Có rất nhiều thơ chép trong Đường thi toàn tập.
793. Lui về ở ẩn
Chạy
trốn mười năm chốn bụi trần.
Mơ về
núi biếc, chỗ dừng chân.
Trả hết
vinh hoa, giành giấc ngủ.
Giàu
sang không bõ cái yên bần.
Buồn
nghe phò chúa mà mang vạ.
Chán
cảnh đàn ca, uống với ăn.
Lui về ở
ẩn, tay cầm sách,
Vui với
hoa rừng, chim, gió xuân.
KHUYẾT DANH
794. Thơ vặt
Trên đê gió thổi, tung màn liễu.
Trời mưa, hàn thực, cỏ xanh non.
Có quê mà chẳng về quê được.
Đừng kêu, chim cuốc, kẻo thêm buồn.
KHUYẾT
DANH
795. Thơ vặt
Chiều, sông Vô Định, tiếng tù và
Làm khách bâng khuâng nỗi nhớ nhà.
Một tối sương thu, đầu bạc trắng.
Hàm Quan vời vợi dặm đường xa.
VƯƠNG VŨ XƯỚNG
Sinh năm 954, mất 1001, xuất
thân từ gia đình nông dân, học giỏi, làm quan đến chức hàn lâm học sĩ. Tính ông
thích nói thẳng và nhiều lần bị giáng chức. Thơ ông mang tính hiện thực, phần
nào mô tả đời sống cùng nực của người nông dân. (Từ bài này trở đi là thơ các tác giả đời Tống).
796. Khúc hát vỡ hoang
Bài
một
Mọi người ra sức chặt, đốn cây.
Tay làm miệng hát thật vui thay.
Vì ai cũng muốn thêm nhiều đất
Để lúa và ngô sớm mọc dầy.
797. Khúc hát vỡ hoang
Bài
hai
Núi bắc vừa hết, đến núi đông.
Luôn tay cuốc xới lại vun trồng
Tất cả đời này ai cũng thế,
Thì chẳng có nhiều đất bỏ không.
798. Tiết thanh minh
Không hoa, không rượu tiết Thanh minh.
Như vị sư già, ngồi một mình.
Hàng xóm hôm qua nhóm lửa mới.
Phải nhờ ánh sáng đọc sách kinh.
799. Cưỡi ngựa đi quanh xóm
núi
Ngựa đi men núi, cúc khoe hoa.
Buông cương, ngắm cảnh trải bao la.
Hang sâu gió thổi nghe như sáo.
Núi biếc trầm ngâm dưới nắng tà.
Lá đường lê rụng, màu như gạch.
Hoa kiều mạch nở, hương bay xa.
Chợt hứng, ngâm thơ, rồi chợt chán.
Chắc bởi ở đây giống ở nhà.
800. Tết Hàn thực
Núi Thương, Hàn thực, tết năm nay.
Phong cảnh nên thơ ở xứ này.
Lũ trẻ đua nhau rình bắt bướm.
Treo đu, người đánh dưới cành cây.
Sau mưa, sáng sớm đồng xanh biếc.
Vào ngày cấm lửa, khói không bay.
Cái chức phó quan, nhàn, lại tiện.
Sẵn tiền bia đá, uống kỳ say.
YẾN THÙ
Ông nổi tiếng thần đồng từ nhỏ, đỗ tiến sĩ thời Tống Nhân Tông, làm
quan đến chức tể tướng, rất giỏi thơ và từ.
801. Buồn
Xe đi
ngày ấy, đã đi xa.
Mây xưa
núi Giáp cũng phai nhòa.
Đầy sân hoa rụng, trăng vời
vợi.
Liễu rũ
bên ao, gió mượt mà.
Buồn bã,
mấy ngày ngồi uống rượu,
Nhìn
trời sương lạnh, lại nhìn hoa.
Bức thư
muốn gửi, không ai chuyển.
Nơi ấy
chắc người nghĩ giống ta.
LÂM BÔ
Sinh năm 967, mất 1028, tự Quân Phục, người
Tiền Đường (Hàng Châu), học giỏi nhưng không ra làm quan, suốt đời ở ẩn trên
núi Cô Sơn, bạn cùng hoa mai, chim hạc. Người đời sau gọi ông là Hoa Tĩnh Tiên
sinh.
Hoa mai
Cả vườn
hoa héo, chỉ mai tươi,
Hoa mai
rạng rỡ một góc trời.
Cành
thưa ngả bóng, soi lòng nước.
Hương đượm
ánh trăng, cứ rối bời.
Sương
lạnh, chim chao, nhìn lấm lét.
Đàn bướm
bên hoa, bay lả lơi.
Ta
thưởng thức mai bằng thơ phú,
Lọ phải
hát ca với rượu mòi.
LIỄU VĨNH
Sinh năm 987, mất 1053, tự Kỳ Thành, là nhà
thơ nổi tiếng đời Tống. Ông thi hỏng nhiều lần, mãi về già mới đậu tiến sĩ. Thơ
của ông có nhiều bài nói về nổi khổ của người lao động và các cô gái làm nghề
hát kiếm tiền. Tương truyền khi ông mất, các kỹ nữ đã góp tiền chôn cất ông.
Nỗi khổ người làm muối
(Trích)
Đời
người làm muối khổ lắm thay.
Vợ không
dệt vải, chồng không cày.
Đói ăn,
vất vả làm ra muối
Là quan
thu thuế đến tìm ngay.
Còn lại,
quan mua giá rẻ mạt.
Thiếu
tiền, hết cách, phải đi vay,
Thì ôi
vay một mà mười lãi.
Vợ con
làm mướn hoặc ăn mày.
808. Theo điệu "Bát thanh cam
châu"
Bài một
Mưa sầm
sập xuống sông.
Sau mưa,
trời xanh trong.
Gió
lạnh, núi đứng lặng.
Lầu tây,
mặt trời hồng.
Cảnh
hoang tàn đổ nát.
Hoa
rụng, buồn mênh mông.
Chỉ Trường
Giang vẫn thế,
Lặng lẽ
chảy về đông.
809. Theo điệu "Bát thanh cam
châu"
Bài hai
Không dám bước lên lầu,
Ngóng quê, lòng quặn đau.
Cách xa
bao năm tháng.
Sao cứ
làm khổ nhau.
Người
đẹp chắc tựa cửa
Mong đợi
cánh buồm nâu.
Không
biết ta trên gác
Đang
đứng, nhỏ lệ sầu.
PHẠM
TRỌNG YÊM
Sinh năm 989, mất 1052, đỗ
tiễn sĩ đời Tống Chân Tông, làm quan đến chức Tham trinh chính trị. Thơ ông lưu
giữ được rất ít.
802.
Đánh cá trên sông
Trên sông, người vất vả
Đang mải mê đánh cá.
Giữa sóng chiều thuyền con
Mỏng manh như chiếc lá.
MAI NGHIÊU THẦN
Sinh năm 1002, mất 1060, tự
Thánh Du, người Tuyên Thành, tỉnh An Huy, nhà thơ hiện thực thời Bắc Tống, bạn
thân của Âu Dương Tu, chủ trương cách tân thơ và có ảnh hưởng lớn đối với thơ
Tống.
803. Người nung ngói
Nung hết đất ngoài cửa,
Vẫn không ngói lợp nhà.
Trong khi người tay sạch
Lại lầu gác nguy nga.
804. Cảnh nông thôn
Cửa sài cây che mát.
Rêu xanh nắng nhuốm hồng.
Đi cày về, trăng mọc.
Sương phủ trắng ngoài đồng.
Nghé theo trâu về xóm.
Già cùng trẻ đứng trông.
Tối, bữa ăn đạm bạc,
Toàn ngó hẹ, rau ngồng.
805. Chơi núi Lỗ Sơn
Cảnh núi
rừng tuyệt đẹp.
Núi cao,
thấp liền nhau.
Mỗi nơi đẹp
một vẻ.
Khéo
lạc, đi đã lâu.
Gấu vào
hang, sương xuống.
Hươu
uống nước khe sâu.
Chỉ nghe
tiếng gà gáy,
Không
thấy làng xóm đâu.
806. Xóm nhỏ
Ngoài
bãi sông Hoài có một thôn,
Rào
xiêu, nhà dột, chái không còn.
Người
già không áo, chơi cùng cháu.
Gà vịt
thấy mồi, gọi lũ con.
Thuyền đậu
ngoài sông, dây thõng xuống.
Bãi dâu
nước ngập, thối chồi non.
Dân
chúng ở đây cơ cực vậy,
Mà gọi
"dân vua", kể cũng buồn.
807. Tên cường hào trong thôn
Đánh
trống, dục ra ruộng,
Nói năm
nay được mùa.
Rượu hắn
nấu bừa bãi.
Thóc người
hắn tranh mua.
Con gái
nhiều trâm bạc.
Con trai
áo tua rua.
Quan
trên, hắn không sợ.
Bọn lý
dịch cũng thua.
Tiễn Vương Giới phủ (Vương An Thạch) đi
nhậm chức ở Tỉ Lăng
(Trích)
Nước Ngô
trời nắng nóng,
Trâu chết,
đất nẻ khô.
Vất vả
quan không biết,
Chỉ biết
đến thu tô.
Quan
tỉnh ép quan huyện,
Quan
huyện ép đầu bò.
Chỉ
thằng dân là khổ,
Suốt đời
đói và lo.
Nay mừng
ông đến đó,
Giúp
người dân ấm no.
Cảnh cơ cực của nhà nông
(Trích)
Người
nông dân thật khổ.
Thuế nộp
mãi không xong.
Lý dịch
đòi sưu thuế
Suốt
ngày như bầy ong.
Mùa xuân
sâu hại lúa.
Mùa hạ
lụt ngập đồng.
Tháng
trước vua xuống chiếu
Bắt dân
đi lao công.
Cứ ba
đinh lấy một,
Làng trở
nên trống không.
Lại còn
bắt bán ruộng
Mua ngựa
chiến, tên đồng…
Ta, ăn
lương nhà nước,
Thấy vậy
mà thẹn lòng.
Những
muốn lên núi ẩn,
Kiếm ăn
bằng nghề nông.
TÔ THỨC
Sinh năm
1037, mất 1101, hiệu Đông Pha, người Mỹ Sơn, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, nhà thơ lớn,
nhà tản văn lừng danh đời tống.
810. Hoa hải
đường
Gió xuân hây hẩy gọi trăng lên.
Trăng dọi xuyên mù, đến mép hiên.
Chỉ sợ rồi khuya, hoa ngủ thiếp,
Nên chẳng ngắm hoa cũng thắp đèn.
811. Uống rượu
trên hồ lúc mưa vừa tạnh
Phía mưa vừa tạnh, nước long lanh,
Phía vẫn còn mưa, mờ núi xanh.
Tây Hồ, Tây Thi đem so sánh,
Riêng chung một vẻ, đẹp nghiêng thành.
812. Cảnh Tây Hồ
Tháng Sáu, Tây Hồ khách dạo chơi.
Lá sen xanh biếc tận chân trời.
Nơi đây cảnh khác, mà sen đỏ,
Cũng đỏ cái màu khác mọi nơi.
813.
Ngày 27 tháng 6, viết ở lầu trong lúc say
Núi xanh chưa kịp phủ mây đen,
Đã nghe mưa gõ rộn trên thuyền.
Bỗng trận gió to xua đi hết,
Rồi nước và trời lại tĩnh yên.
814. Trăng rằm Trung Thu
Trời thu trong sáng chuyển vào mây.
Sông Ngân chuyển sáng đến trăng này.
Kiếp ấy đêm trăng không gặp được.
Bây giờ trăng sáng, gặp đâu đây?
815.
Đêm xuân
Không gì sánh được với đêm xuân.
Hoa thoảng hương thơm, nguyệt trắng ngần.
Trong lầu tiếng nhạc vang khe khẽ.
Bóng đêm kiên nhẫn đợi ngoài sân.
816. Rằm tháng Giêng, hầu
tiệc vua
Trăng lạnh, sao thưa, lầu Kiến Chương.
Gió xuân thổi khói lư trầm hương.
Thông Minh điện ngọc, quan đứng đợi.
Thánh
Hoàng tỏa sáng tựa vầng dương.
817. Trên đường đi Tân Thành
Biết ta chơi núi sáng hôm nay,
Gió thổi mưa tan, đẹp thế này.
Mây tạnh, trời cao như mũ úp.
Đỏ rực mặt trời trên tán cây.
Xanh xanh bờ trúc, đào tươi tốt.
Nước khe trắng lóa, liễu lung lay.
Vui vẻ người dân trong xóm nhỏ,
Nấu nước, làm cơm cho thợ cày.
Tháng Mười Một năm Tân Sửu,
sau chia tay
với em trai là Tử Do, liền
làm bài thơ này
(Trích)
Không uống mà sao như thấy say.
Hồn theo vó ngựa phóng như bay.
Tiễn chú về nhà, buồn, chợt nghĩ:
Một mình còn lại, sống sao đây?
Trèo lên ngọn núi, nhìn theo chú.
Chỉ thấy xa xa dáng ngựa gầy.
Ở đời ai chẳng buồn xa cách.
Biết thế vẫn buồn, buồn lắm thay.
Lời than của bà làm ruộng ở
đất Ngô
(Trích)
Giá rét, sương mù vừa mới xong,
Lại mưa, nước ngập trắng ngoài đồng.
Mỏi mắt trông chờ, mưa chẳng ngớt.
Đành nhìn lúa thối, khổ tôi không!
Lúa gặt xong rồi, ra chợ bán,
Giá rẻ như bèo, thật uổng công.
Thuế đóng bằng tiền, không phải thóc.
Đem trâu đi bán, chẳng cầm lòng.
Sắp tới làm sao mà sống nổi?
Khổ thế thà rằng nhảy xuống sông!
Lên chơi chùa Kim Sơn
(Trích)
Bên kia con suối, đá chất đầy.
Nổi chìm theo sóng tự xưa nay.
Leo lên tận đỉnh, nhìn quê cũ,
Mờ mờ một dãy, núi trong mây.
Ráng chiều đỏ rực như vây cá.
Lăn tăn sóng biển tiễn đưa ngày.
Sợ tối, định về, sư giữ lại
Ngắm mặt trời hồng lặn phía Tây.
LÝ THANH CHIẾU
Chưa rõ tiểu sử.
818. Theo điệu "Túy hoa
âm"
Sương mù mỏng, mây dày.
Buồn ủ ê suốt ngày.
Lò hương vàng đã tắt.
Trời lạnh, gió heo may.
Giữa hoàng hôn uống rượu.
Uống mãi mà không say.
Vườn Đông hoa cúc nở.
Gió thổi rèm lầu Tây.
819. Theo điệu "Nhất
tiễn mai"
Ngó sen tàn, thu lạnh.
Cởi áo, bước lên thuyền.
Gió đưa thư ai đến?
Chim nhạn về, trăng lên.
Hoa cứ tàn, nước chảy.
Nỗi buồn không chịu yên.
Tình xưa muốn dứt bỏ,
Mà cứ nghĩ triền miên.
HOÀNG ĐÌNH KIÊN
Sinh năm 1045, mất 1105, tự
Lỗ Trực, hiệu Sơn Cốc, người Hồng Châu, Phân Ninh, đỗ tiến sĩ đời Tống Anh
Tông. Tác phẩm: "Sơn Cốc tập".
820. Ngẫu hứng trên lầu Nam ở Ngạc Châu
Bốn bề nước biếc nối non xanh.
Hương sen thoang thoảng bốn xung quanh.
Gió mát, trăng trong hào phóng tặng
Cho khách phương Nam vị mát lành.
821. Trời mưa,
lên lầu Nhạc Dương ngắm núi Quân Sơn
Đứng tựa lan can, mưa gió to,
Ngắm dãy Quân Sơn lượn nhấp nhô.
Giá được một lần nhìn núi biếc
Từ đỉnh sóng kia trắng giữa hồ.
822. Tiết Thanh Minh
Thanh Minh trời đẹp, mận khoe màu.
Mộ hoang đồng trống gợi thêm sầu.
Sấm nổ âm vang, rồng rắn thức.
Mưa dầm đúng lúc, tốt vườn rau.
Chịu nhục ăn thừa nên vợ trách. 1)
Chết cháy không ra, chối tước hầu. 2)
Khôn dại, ngu hiền chưa dám nói.
Nhưng mộ người nào cũng giống nhau.
1. Xưa có người ăn của tế
thừa no say rồi về khoe với vợ được nhà quyền quí mời. Sau vợ biết chuyện liền
trách không giữ liêm sỉ.
2. Giới Tử Thôi giúp Tấn Văn
Công trong lúc khó khăn, đã xẻo thịt bắp chân mình cho vua ăn. Khi lấy lại ngôi
vua, Văn Công quên không trọng thưởng. Ông bỏ vào rừng ở ẩn cùng mẹ. Vua cho
mời mãi không ra. Khi vua đốt rừng bắt ra, ông thà chịu chết cháy trong rừng.
Từ đó vua ra lệnh không được nhóm lửa vào ngày Hàn Thực.
TĂNG KỶ
Sinh năm 1084, mất 1166, bị
Tần Cối chèn ép, bỏ quan về nhà, khi Tần Cối chết mới ra làm quan lại.
823. Giữa đường
núi Tam Cù
Đang mùa mơ chín, nắng vàng hoe,
Rời thuyền, đi bộ dọc bờ khe.
Đường rợp bóng cây như lúc đến.
Lại thêm chim hót rộn bốn bề.
TRẦN LIỆT
Sinh khoảng năm 1088, năm mất
không rõ. Làm quan tới chức Quốc tử trực giảng.
824. Thơ đề trên chiếc đèn 1)
Nhà giàu đóng một đèn,
Như kho bớt hạt thóc.
Nhà nghèo đóng một đèn,
Cha con ôm nhau khóc.
Quan lớn có biết không?
Quan bận với người ngọc.
1. Năm Nguyên Phong đời Thần
Tông nhà Tống, quan thái thú Phúc Châu là Lưu Cẩn bắt dân bất kể giàu nghèo mỗi
hộ phải nộp đủ mười chiếc đèn để đốt đêm rằm tháng Giêng. Tác giả đề bài thơ
này trên chiếc đèn lồng treo bên gác lầu.
VŨ VĂN
HƯ TRUNG
Sinh năm 1079, mất 1146, đỗ tiến sĩ cuối đời Bắc Tống. Khi
quân Kim đánh vào Trung Nguyên, vua Tống sai ông đi sứ sang Kim, bị người Kim giữ
lại. Năm 1146, ông âm mưu khởi nghĩa không thành và bị giết chết. Thơ ông chứa
chan tình yêu nước.
Thơ làm khi ở
nước Kim.
Bài một
Đọc nhiều, hiểu biết chuyện xưa nay,
Mà phải bao năm tù đất này.
Lúc nào chim nhạn về phương Bắc?1)
Chiếc mũ phương Nam đội suốt ngày 2).
Ghét bọn nịnh thần luôn xúc xiểm.
Tự thề khóa miệng giữ lòng ngay.
Gian tặc chừng nào chưa giết hết,
Căm hận lòng ta còn ngút đầy.
1. Đời Hán, Tô Vũ đi sứ Hung Nô, bị giữ lại 19 năm và bắt
chăn dê ở miến Bắc Hải. Sau Tô Vũ nói dối với với chúa Hung Nô là nhà Hán bắt
được con chim nhạn ở vườn Thượng Lâm, chân nó có buộc bức thư viết: “Tô Vũ còn
sống ở Bắc Hải”. Bấy giờ chúa Hung Nô mới thả ông, cho về nước.
2. Thời Xuân Thu, Chung Nghi người nước Sở, bị giam ở nước
Tần, vẫn hàng ngày đội mũ phương Nam (nước Sở).
Thơ làm khi ở
nước Kim.
Bài hai
Màn đêm buông xuống,
Đưa hồn trở lại chốn quê xa.
Thà phải chăn dê miền Bắc Hải,
Hơn xây nhà học chốn Tây Hà 1).
Nhác thấy hai triều hoang phế cả 2),
Thương người loạn lạc, bỏ nông gia.
Ở đời sống chết không quan trọng,
Chỉ cốt lòng trung với nước nhà.
1. Thời Chiến Quốc, vua Ngụy lập quán ở Tây Hà, mời Bốc Tử
Hạ đến dạy học. Câu này ý nói dù người Kim có mời ra làm quan, tác giả vẫn
không chịu, thà đi chăn dê như Tô Vũ ở Bắc Hả.
2. Chỉ hai vua Huy và Khâm nhà Tống bị quân Kim bắt đi.
PHẠM
THÀNH ĐẠI
Sinh năm 1126, mất 1193, tự
Trí Năng, cư sĩ, là một trong những nhà thơ lớn thời Nam Tống.
825. Đê ngang
Xuân về trên bến, nước xanh trong.
Cầu đá như xưa, cạnh tháp hồng.
Đê nhỏ, mưa phùn đưa tiễn khách.
Cột thuyền gốc liễu sát bờ sông .
826. Cảm hứng
nhỏ chốn thôn quê
Bài
một
Vườn rau, bươm bướm lượn bên hoa.
Thôn quê ít khách đến thăm nhà.
Chợt nghe chó sủa, gà nhao nhác.
Biết ngay có khách đến mua trà.
827. Cảm hứng nhỏ
chốn thôn quê
Bài
hai
Nhổ cỏ, xe gai, bận lút đầu.
Mỗi người một việc tận đêm thâu.
Chưa biết cày bừa và dệt vài,
Trẻ tập trồng dưa bên gốc dâu.
VƯƠNG
VÕ NỂ
Chưa rõ tác giả là ai.
828. Tiết thanh
minh
Thanh minh, hoa rượu, bánh đều không.
Như sư, không chút vấn vương lòng.
Hàng xóm đêm qua cho tí lửa,
Sáng ngồi thắp nến đọc bên song.
THIẾN ĐÀO
Bà sinh
khoảng năm 1010, không rõ mất năm nào, là người hầu của Khấu Chẩn, tể tướng đời
Tống Chân Tông.
829. Thưa với
Khấu Công
Bài thơ đem đổi lụa màu hồng,
Hình như ngưòi đẹp chửa hài lòng.
Không biết tay nàng thoi thoăn thoắt
Qua lại mấy lần mới dệt xong.
ÂU DƯƠNG
TU
Sinh năm 1007, mất 1072, nhà
thơ, nhà tản văn lớn đời Bắc Tống, tự Vĩnh Thúc, hiệu Túy Ông, về già đổi thành
Lục Nhất Cư Sĩ, ông đề xướng lối thơ cách tân.
830. Chơi xuân ở
đỉnh Phong Lạc
Núi xanh, lá đỏ, ánh dương tà.
Màu trời vàng rực phía xa xa.
Khách chơi không ngại xuân sắp hết,
Vẫn dạo quanh đình, dẫm nát hoa.
Ngày xuân ở Tây Hồ, gửi ông Pháp Tào họ Tạ
Nghìn
chén gặp người là uống ít.
Nửa câu
không hợp vẫn phí lời.
Bên hồ
cùng bác giờ nâng chén
Để nhớ
người xa tận cuối trời.
831. Đùa trả lời Nguyên Trân
Gió xuân như thể tránh nơi đây.
Tuyết cũ cuối mùa trĩu lá cây.
Tháng Hai đã đến, hoa không nở.
Ngọ nguậy chồi măng dưới đất dày.
Đêm nghe tiếng nhạn, thương quê cũ.
Ngày ốm, buồn nhìn tuyết với mây.
Lạc Dương hoa đẹp từng là khách,
Chẳng sao, hoa nở muộn nơi này.
832. Theo điệu " Đạp sa
hành"
Mai tàn quán khách, liễu bờ mương.
Cỏ thơm, gió ấm, ngựa buông cương.
Cái buồn ly biệt buồn thêm mãi,
Như nước mùa xuân chảy vệ đường.
Đừng tựa lan can nơi gác ngọc.
Hai mắt lệ tràn, lòng vấn vương.
Núi xuân trước mặt xa vời vợi,
Còn xa hơn nữa, người yêu thương.
Ngày xuân ở Tây Hồ, viết thơ
gửi ông Pháp Tào, họ Tạ
Tây Hồ đã vào xuân,
Nước xanh hơn mực vẽ.
Hoa nở rộ khắp nơi,
Gió thổi, rơi lặng lẽ.
Xuân về, lòng bác rối vần thơ.
Xuân lại sắp đi, tóc bạc phơ.
Dẫu ở nơi xa, tôi vẫn biết,
Uống rượu, nhớ tôi, bác thẫn thờ.
Mỗi lần xuân đến, lòng thắc thỏm,
Nhớ bác tôi buồn, buồn vẩn vơ.
Tuyết tan ngoài ngõ, rừng xanh biếc.
Hoa nở bên sông, gió vật vờ.
Ngày trẻ đón xuân, mang rượu uống.
Xuân này tóc đã trắng như tơ.
Cảnh quen mà thấy hơi là lạ.
Chỉ gió như xưa, thổi hững hờ.
TÔ THUẤN KHÂM
Sinh năm 1008, mất 1048, tự Tư
Mỹ, có tư tưởng tiến bộ, bị bọn quyền quí chèn ép, cách chức và lui về ở ẩn tại
Tô Châu, nay là tỉnh Giang Tô. Ông là người chủ trương cách tân thơ ca thời bấy
giờ.
833. Có khách đến nhà
Khách đến bàn thời cuộc.
Nhìn nhau buồn mênh mông..
Giặc Man giết tướng ải.
Sâu bọ phá ngoài đồng.
Ở vùng quê heo hút,
Có chí mà hóa không.
Ai người lo nợ nước?
Uống rượu, lòng giận lòng.
834. Bày tỏ nỗi lòng
Ta tuy là nhà nho,
Nhưng muốn giết giặc Hồ.
Không được dùng, đành chịu.
Cảm thương, lòng cháy khô.
Ngày nằm giữa đống sách.
Đêm mơ dựng cơ đồ.
Cảm nghĩ khi ở Thành Nam,
viết trình ông Vĩnh Thúc
(Trích)
Xuân ấm, đồng nhộn nhịp.
Ngày mát, trời xanh trong.
Cảnh vật nhìn thật đẹp,
Nhưng ngẫm buồn trong lòng.
Năm ngoái, sau lũ lụt,
Trời hạn, đất khô cong.
Tiếp đến tuyết rơi muộn,
Lúa chỉ trổ vài bông.
Vậy là đói và rét,
Dân đào củ khắp đồng.
Không may gặp củ dại,
Khiến loét lở, da bong.
Mười người chết bảy tám,
Bên đường, thây chất chồng.
Quan thì vẫn rượu thịt,
Ngồi tán chuyện viễn vông.
Bản thân tôi cũng đói,
Lo cho mình chưa xong.
Hỏi còn làm gì được?
Thật chua xót, bất công.
LÝ CẤU
Sinh năm 1009, mất 1059, có
tư tưởng tiến bộ, nổi tiếng thơ hay, phản ánh nỗi khổ của nhân dân.
835. Đọc bài
"Trường Hận từ"
Đường vào đất Thục lắm gian truân.
Đêm mưa, não ruột tiếng xe lăn.
Chắc vua không biết, không thương xót,
Nếu mình bỏ mạng lúc hành quân.
VƯƠNG
AN THẠCH
Sinh năm 1021, mất 1086, nhà
chính trị, nhà thơ, nhà tản văn lớn thời Bắc Tống, tự Giới Phủ, người Lâm
Xuyên, tỉnh Giang Tây ngày nay.
836. Hoa mai
Bên tường, mấy cành mai
Nở trong sương giá rét.
Nhờ hoa có mùi thơm,
Nên không lẫn với tuyết
837. Đêm xuân
Đồng hồ cạn nước, bát hương tàn.
Từng hồi gió lạnh, buốt tâm can.
Trăng hắt bóng hoa lên bậu cửa.
Cảnh buồn như thế, ngủ sao an.
838. Bóng hoa
Bóng hoa dày đặc rụng bên chân.
Đã bảo con sen quét mấy lần.
Nắng tắt, hoa tàn, trăng lại mọc.
Bóng hoa lần nữa rụng đầy sân.
839. Thơ viết
trên vách nhà Hồ Âm tiên sinh
Không rêu, không bụi, mái nhà tranh.
Hoa mộc tự tay xén, cắt cành.
Con mương dẫn nước vào đồng lúa.
Núi như cổng mở, đón màu xanh.
840. Mồng một Tết
Một năm nữa hết, pháo âm vang.
Rượu Đồ Tô uống, đón xuân sang.
Trước cửa nhà nhà treo thẻ đỏ,
Nghinh tân, tống cựu, được an khang.
841. Hoa hải đường
Gió đông đùa nghịch ánh trăng tà.
Rồi trăng lặng lẽ khuất sau nhà.
Trời tối, lo hoa buồn, ngủ thiếp,
Giơ đèn soi sáng, sưởi cho hoa.
Đậu thuyền ở bến Qua Châu
Qua Châu, Kinh Khẩu một dòng sông.
Sừng sững núi Chung, cách
cánh đồng.
Bao giờ trăng sáng về quê cũ?
Gió xuân thổi nhẹ, biếc bờ đông.
842. Nhớ Vương Phùng Nguyên
Mộ anh chắc cỏ mọc xanh, dày.
Buồn buồn vẫn thổi gió heo may.
Tài đức của anh đời rẻ rúng.
Mấy người, ngoài bạn, hiểu lời hay?
Lô sơn bóng ngả lên bàn viết.
Bồn thủy trào tuôn chén rượu đầy.
Dấu vết ngày xưa giờ chẳng thấy.
Muốn vui như trước, vui sao đây?
843. Sông Bắc Sơn
Bắc Sơn mùa lũ, nước tràn trề.
Nước chảy đầy đầm, ngập suối khe.
Gặp chỗ hoa rơi nhiều, nán lại.
Mải hái cỏ thơm, quên cả về.
VƯƠNG
LỆNH
Sinh năm 1032, mất 1059, tự
Phùng Nguyên, người Giang Đô, nay thuộc tỉnh Giang Tô, có tư tưởng đổi mới
chính trị, tài hoa về văn chương, chỉ tiếc chết sớm. Tác phẩm có "Quảng Lăng tiên sinh văn
tập"
844. Tiễn xuân
Hết nở rồi tàn, hoa tháng Ba.
Hàng ngày chim én lượn, bay qua.
Chim cuốc đêm đêm kêu lạc giọng,
Cứ tưởng rằng kêu, giữ được hoa.
LÃ NAM CÔNG
Không rõ năm sinh, năm mất,
chỉ biết ông luôn lận đận trong việc thi cử.
Đừng mong sống lâu
Đừng mong sống lâu.
Sống thọ làm gì khi đói khổ.
Mong thọ chỉ người giàu.
Ta biết, xóm Nam
có lão già.
Tính tình độc ác, sống xa hoa.
Mặc toàn nhung lụa, ăn toàn thịt.
Chết chôn như thể chúa băng hà.
Trong khi xóm Bắc, một ông khác,
Bạc đầu kiếm sống, kiếm không ra.
Con gầy, vợ ốm, giường không chiếu.
Thức ăn, nếu có, chỉ dưa cà.
TRÌNH
HIỆU
Sinh năm 1032, mất 1985, tên chữ là Bá Đôn, người cùng thời
gọi là Minh Đạo tiên sinh. Ông người Lạc Dương, nay là thành phố Lạc Dương,
tỉnh Hà Nam.
Trình Hiệu cùng em là Trình Di học thầy Chu Đôn Di, trở thành hai nhà lý học
nổi tiếng, thường được gọi là "Hai ông Trình" đời Bắc Tống.
845. Ngẫu hứng
ngày xuân
Gần trưa, mây mỏng, gió hây hây.
Thơ thẩn tìm hoa, ngắm cỏ cây.
Cái thú của ta, đời chẳng hiểu,
Cho rằng nhàn rỗi quá thành ngây.
846.
Vào thu
Thanh Khê, đầu núi, suối quanh quanh.
Cả trời, cả nước sáng long lanh.
Xa cách bụi trần ba chục dặm,
Lòng như mây trắng, nhẹ thênh thênh.
847. Thơ đề ở
chùa Hoài Nam
Thập
phương khách đến nghỉ nơi này.
Rau tần
sông Sở gió lung lay.
Sư vốn
không buồn, nhìn lá rụng,
Nhưng
vẫn thấy buồn khi ở đây.
848. Thơ viết lúc đi chơi ngoài thành
Ruộng đồng
xanh tốt, rộng bao la.
Trời
cao, xuân thắm, núi xa xa.
Tay vịn cành
cây, men rặng liễu.
Lách
xuống bờ khe, dạo nhởn nha.
Rượu
ngon đang có, sao không uống.
Nếu
không, gió thổi, rụng đài hoa.
Huống
chi giữa buổi thanh minh đẹp.
Cuộc chơi
đang hứng, quên về nhà.
TRƯƠNG LỖI
Nhà thơ thời Bắc Tống, sinh năm
1054, mất 1114, tự Văn Thế, hiệu Kha Sơn, người Sở Châu, Hoài Âm, nay thuộc
thành phố Thanh Giang, Giang Tô. Ông đỗ tiến sĩ niên hiệu Hy Ninh, làm quan tới
chức Thái thường Thiếu khanh, nổi tiếng liêm khiết, được Tô Đông Pha khen về
tài học.
849. Ngày hè
Mùa hè,
xóm nhỏ, nắng như say.
Đàn sẻ đầu
thềm đã biết bay.
Trong
nhà con nhện đang giăng lưới.
Ngoài vườn
bầy bướm múa trên cây.
Rèm mỏng
đung dưa, mời nắng dọi.
Chiếc
gối kê nghiêng, lười suốt ngày.
Mái tóc
từ lâu sương bạc trắng,
Muốn được vô lo sống kiếp này.
LƯU HÀN
Chưa rõ tiểu sử, chỉ biết ông
sống vào đời Tống, tự Vũ Tử, người Trường Sa, nay thuộc tỉnh Hồ Nam.
850. Lập thu
Quạ bay chấp chới, trời xanh trong.
Gió thu xua hết cái oi nồng.
Ngủ dậy, tiếng thu nghe thật lạ.
Ngoài hiên dày đặc lá ngô đồng.
TƯ MÃ QUANG
Sinh năm 1019, mất 1086, tự
Quân Thực, người Hạ huyện, nay thuộc tỉnh Sơn Tây, là hàn lâm học sĩ thời Tống
Nhân Tông. Tác phẩm: "Chiêu cổ học", "Tư Mã Quang văn chính công
tập".
851. Đầu hạ, nơi
đất khách
Tháng Tư, mưa tạnh, trời xanh trong.
Sừng sững núi Nam trước cửa phòng.
Cây liễu đứng im, trời lặng gió.
Chỉ hoa mai hướng mặt trời hồng.
QUÁCH UNG
Sinh năm 1011, mất 1077, tự
Nhiêu Phu, hiệu An Lạc Tiên sinh, người Cộng Thành, nay thuộc huyện Huy, Hà
Nam, sau ẩn cư ở vùng Bách Nguyên, nên còn được gọi là Bách Nguyên Tiên sinh.
852. Rượu và hoa
Hoa soi bình rượu, bóng lung linh.
Rượu có hình hoa, thật hữu tình.
Thịnh trị bốn triều từng được thấy.
Hai đời dân chúng được thanh bình.
Nếu chẳng già nua, thêm bệnh tật,
Chắc ta còn mở tiệc linh đình.
Sóng rượu, thuyền hoa, xuân thật đẹp.
Về ư, chưa uống hết rượu trong bình.
TRIỀU THUYẾT
Sinh năm 1059, mất 1129, tự
Di Đạo, hiệu Cảnh Vu Sinh, người Tế Châu, Tự Dã, nay thuộc tỉnh Sơn Đông, đỗ
tiến sĩ khoảng năm đầu thời Tống Thần Tôn.
853. Thơ đề bức tranh vẽ cảnh
đá cầu
Lớp lớp nguy nga gác với lầu.
Tam Lang 1) thích thú buổi chơi cầu.
Cửu Linh già rồi, Hàn Hưu 2) chết.
Can vua sẽ chẳng có ai đâu.
1) Tức Đường Minh Hoàng.
2). Hai vị tể tướng đời Đường,
nổi tiếng tính tình cương trực, thường dâng sớ khuyên can vua.
TRẦN DỮ
NGHĨA
Sinh năm 1090, mất 1138, hiệu
Giản Trai, nhà thơ lớn đời Nam
Tống.
854. Đi thuyền
tới Tương ấp
Đôi bờ hoa rụng, đỏ lòng sông.
Màn liễu trên đê gió thổi phồng.
Nằm ngửa nhìn trời, mây tĩnh lặng,
Thấy mây và mình xuôi về đông.
NHẠC
PHI
Sinh năm 1103, mất 1141, tự
Bằng Cử, người huyện Thang Âm, là vị anh hùng dân tộc thời Nam Tống và là
vị tướng có tài.
855. Đình Thúy
Vị ở Trì Châu
Chiến trận quanh năm được buổi này,
Lên đình Thúy Vị ngắm trời mây.
Sơn thủy hữu tình nhìn chửa chán,
Ngựa đã giục về, trăng sau cây.
LỤC DU
Sinh năm 1125, mất 1210,
người Sơn Âm, nhà thơ lớn yêu nước thời Nam Tống, hiện còn giữ được 9.300 bài.
856. Cảm hứng ngày xuân
Đêm đêm
đốt củi sưởi mền bông.
Cơm trưa
một bát đáng nghìn đồng.
Vẫn biết
mình già, vô tích sự,
Nhưng
thấy dân đau vẫn chạnh lòng.
857. Cảm hứng mà viết
Già rồi
mà vẫn nghèo đói.
Chỉ tạm
hết lo khi say.
Năm
tháng làm đầu bạc trắng.
Duy lòng
vẫn đỏ xưa nay.
858. Đám mây cô đơn
Hơn bốn
chục năm ở núi này.
Vào
triều vô bổ, lại về đây.
Không
phải ngẫu nhiên buồn, tựa cửa
Ngắm
núi, nhìn sông, nhàn suốt ngày.
859. Thơ viết khi đi thuyền trên hồ,
khoảng cuối hạ, đầu thu năm
Ất Sửu 1)
Đêm buộc
thuyền con cầu Mộng Bút 2).
Khó ngủ,
hắt hiu một chấm đèn.
Cơn giận
Tử Tư chưa dịu hẳn -
Sóng lớn
ầm ầm ngay sát bên.
1. Tức năm 1205 theo Tây lịch.
2. Cầu này nằm phía đông bắc núi Tiêu Sơn,
tỉnh Triết Giang.
3. Theo truyền thuyết, sóng sông Tiền Đường
lớn là do khí tức giận của Ngũ Tử Tư gây
nên.
860. Tưới nước trong vườn
Lúc trẻ
mang gươm bình thiên hạ,
Về già
xách nước tưới cho cây.
Bạn cũ
không còn, luôn ốm yếu,
Cái buồn tâm sự với ai đây?
861. Mưa nhỏ, trời mát, ngủ say trong
thuyền đến chiều
Sau mưa,
ruồi nhặng chẳng còn bay.
Trải
khăn, nằm ngủ một giấc say.
Khi
tỉnh, mặt trời đang xế bóng.
Lặng lẽ
thuyền đi suốt cả ngày.
862. Tết Trùng Dương
Lá đỏ
ven sông, rừng ngập sương.
Hái bông
cúc nhỏ, nghĩ càng thương.
Giá say
một trận quên trời đất,
Vui cùng
vua Sở tết Trùng Dương.
1. Vua nước Sở thích những ng ười phụ nữ có
eo lưng thon nhỏ. Trong cung Tế Yêu
của vua nhiều cô muốn được vua yêu nhịn
ăn đến chết đói. Đây tác giả muốn được hưởng cảnh sung sương vô lo trong ngày tết
Trùng Cửu mồng chín tháng Chín.
863. Ghi việc
Nghe nói
giang sơn lấy lại rồi.
Núi
sông, đất nước chẳng ngăn đôi.
Biết thế
nán thêm dăm bữa nữa,
Thăm
chùa Nhiêu Ích, núi Hòn Vôi.
864. Viết đêm
mưa to gió lớn, mồng bốn tháng Mười Một
Đã cam xóm nhỏ cảnh nằm dài,
Còn muốn xả thân chốn Lâm Đài.
Chập chờn giấc ngủ đêm mưa gió,
Tiếng gươm, tiếng ngựa vẳng bên tai.
865. Đêm thu sắp sáng, ra
cổng
hóng
mát, chợt viết bài thơ này
Hoàng Hà vạn dặm chảy về đông.
Họa Sơn nghìn thước vút lên không.
Trong vùng giặc chiếm, dân kêu khóc,
Chờ vua đến cứu, mỏi mòn trông.
866. Dặn con
Đành rằng thế cả sau khi chết.
Chỉ tiếc chín châu chưa lấy hết.
Khi nào vua lấy được Trung Nguyên,
Cúng ta, hãy báo cho ta biết.
867. Vườn Thẩm 1)
Bài
một
Chênh chếch mặt trời ngả phía tây.
Vườn Thẩm bây giờ khác trước đây.
Buồn bã dưới cầu dòng nước chảy.
Người đẹp từng soi bóng nước này.
868. Vườn Thẩm
Bài
hai
Bốn mươi năm chẵn đã trôi qua.
Không thấy tơ bay bụi liễu già.
Sau chết thân vùi chân núi Cối,
Vẫn xin nhỏ lệ mối tình ta.
1. Bài này tác giả viết để tỏ
lòng thương nhớ nàng Đường Uyển, người vợ trước của ông. Hai người lấy nhau rất
tâm đắc, nhưng do mẹ chồng ghét bỏ nên nàng phải ra đi. Một hôm đến vườn Thẩm,
ngẫu nhiên ông lại gặp nàng, lúc này đã lấy chồng khác. Hai người nhìn nhau đau
khổ. Nàng trở về, nghĩ ngợi nhiều sinh ốm rồi mất. Năm 1199, Lục Du đã 75 tuổi, trở lại vườn
Thẩm và viết hai bài tứ tuyệt này.
869. Đi thuyền trên sông nhỏ
Khói vương
buồm dệt cói.
Mưa lên
mui cỏ dày.
Xin lửa,
thuyền bên cạnh.
Mua cá,
chợ gần đây.
Hết
ghềnh ròi lại thác.
Khách
buồn, tỉnh lại say.
Thương
nhà thuyền vất vả,
Chèo ngược
gió suốt ngày.
870. Lầu bên sông
Mưa tẩy sạch chướng khí.
Nhàn rỗi, đứng trên lầu.
Nước chảy cuốn củi mục.
Mặt trời lặn đồng sâu.
Làng rộn tiếng giã giấy
Trong ngõ, trẻ dắt trâu.
Hủ nho lo việc nước,
Nhưng chỉ biết gãi đầu.
871. Đội mưa lên đài Nghĩ
Nghiễn
xem nước sông dâng
Mưa dội lên nghìn núi,
Nước ngập hết muôn nhà.
Mây dày, đen như mực,
Sóng dồn dập gần xa.
Một cánh thuyền nhỏ bé
Giữa trời nước bao la.
Nhớ cuộc chơi ngày trước,
Say, vượt sóng Tam Ba.
872. Đầu xuân
Mấy tháng liền ốm yếu.
Vừa năm mới đã đau.
Dậu thưa, cây cỏ bám.
Vách đổ, rêu xanh màu.
Tráng sĩ chờ giết gặc.
Cứu nước, sá gì đâu.
Ta đâu phải nhi nữ
Mà ngâm khúc “Bạc đầu”?
1. Khúc nhạc phủ xưa, nội dung mỉa mai người không chung thủy với
tình yêu. Ở đây tác giả muốn khẳng định lòng yêu nước của mình.
873. Cảm hứng vụn vặt
Buồn, uống buồn thêm mãi.
Mưa tạnh, cây ít hoa.
Bàn cờ quân rời rạc.
Tiếng sáo vọng sau nhà.
“Dời núi” 1), sức chưa hết.
“Ra biển” 2) , lời thiết tha.
Ai hiểu lòng tráng sĩ,
Gõ trúc, buồn xót xa.
1. Ngu Công ở Bắc Sơn quyết tâm dời núi Thái Hàng và Vương Ốc chắn
trước nhà mình.
2. Lỗ Trọng Yên ở nước Tề không chịu tôn nước Tần lền đế hiệu,
nói:“Ta thà ra biển mà chết chứ không tôn vua Tần làm hoàng đế!”
874. Mong xuân
Xuân về theo luật định.
Ngày đẹp, trời xanh cao.
Nước long lanh dưới nắng.
Liễu xanh, gió thì thào.
Lo việc đời, ứa lệ.
Chí giết giặc còn cao.
Lên gác còn phải đỡ,
Nhưng vẫn hát nghêu ngao.
875. Gió sương
Tháng Mười, gió lạnh rít ngoài hiên.
Áo mỏng, lót bông, chửa có tiền.
Trời rét, khách ngồi không có đệm.
Thiếu ăn, vay gạo của chùa bên.
Thân già, chua xót, đêm ca cẩm.
Nhà nghèo, mùa mất, đó triền miên.
Làm trai mà thế không là phúc?
Nước mắt trào dâng, cười trước đèn.
876. Hồ Nam
Tháng Hai, hoa nở đẹp, chim bay.
Đứng ngắm một ông yếu, lại gầy.
Tóc bạc lơ thơ, buồn ứa lệ.
Muôn khoảnh hồ xanh, chuyện tháng ngày.
Đắp đê đâu chỉ dân no ấm,
Mà nước mạnh hơn nhờ việc này.
Những kẻ tầm thường không hiểu được,
Chỉ lo hương lễ để cầu may.
877. Bài hát mừng mưa
Không mưa ra châu, ra ngọc.
Tháng Sáu trời mưa ra thóc.
Mười năm hạn lụt buồn lo,
Dân phải chặt dâu, bán bò.
Năm ngoái no nhiều, đói ít.
Năm nay chắc có rượu thịt.
Được no, người ta chạnh lòng
Nhớ người chết đói ngoài đồng.
878. Khi hết gạo, thiếu củi, đùa viết bài này
Làm ruộng, làm quan đều nhỡ nhàng.
Sách nhiều, nhà hẹp, trống toang hoang.
Chẳng sao canh nhạt, không dầu mỡ.
Bếp củi chưa mua, nhóm lá bàng.
Thân trai mà đói, do mình cả.
Tuy nghèo nhưng dáng vẫn hiên ngang.
Chưa phải rình chờ ăn chực cỗ,
Về nhà khoe vợ gặp người sang 1).
1. Sách Mạnh Tử viết: Có một người nước Tề
hàng ngày đi ăn cỗ thừa ở các đám tang, về nhà khoe với vợ được người giàu sang
chiêu đãi. Sau vợ rình bắt quả tang và chê trách không biết giữ liêm sĩ.
879. Lên đài Nghĩ Nghiễn
Mờ mịt đài cao chắn góc thành.
Lên đài, chống gậy đứng nhìn quanh.
Bao la bốn phía màu xuân mới.
Mười năm rũ sạch bụi công danh.
Trầm tư núi đứng như hiền triết.
Quanh co sông chảy thật yên lành.
Không lo toan tính, lòng thanh thản.
Muốn bạn cùng chim giữa lá cành.
880. Vinh hoa mai
Hoa mai nở, không chủ
Bên cầu gãy, sát đường.
Hoàng hôn, đã buồn sẵn,
Lại còn thêm gió sương.
Mặc hoa khác ghen ghét,
Mai vô tư, dễ thương.
Khi rụng, vùi trong đất,
Còn giữ được mùi hương.
881. Theo điệu "Giá cô
thiên"
Ruộng dâu xanh tốt bãi phù sa.
Tằm nở đầy nong, đợi ở nhà.
Gò cao cỏ mượt, con bê rống.
Rừng lạnh, quạ bay giữa ráng tà.
Nhà ai bán rượu, cờ xanh thẫm.
Con đường chênh chếch, núi gần xa.
Trong thành đào mận buồn mưa gió.
Xuân đến đầu khe, cỏ nở hoa.
882. Đêm đậu thuyền ở xóm ven
sông
Cung tên mang mãi, sệ bên hông.
Tiếc bia chưa dựng để ghi công.
Ngày xưa lão tướng băng sa mạc,
Nay sao lớp trẻ khóc, nao lòng?
Liều chết, chỉ mong đền nợ nước,
Dẫu giờ tóc bạc, tấm lưng còng.
Giang hồ thuở trước, đêm thuyền đỗ,
Nhớ nằm nghe tiếng nhạn ngoài sông.
883. Đi chơi xóm núi ở phía
tây
Đừng tưởng nhà nông rượu chát cay.
Được mùa có thịt đãi khách say.
Liễu rậm, hoa thưa, khu xóm nhỏ.
Đường đi lắt léo núi và cây.
Quần áo đơn sơ, theo lễ cũ.
Kèn trống mừng xuân rộn suốt ngày.
Từ nay rảnh rỗi, khi trăng sáng,
Chống gậy một mình lại đến đây.
884. Thơ viết ở Lâm An, lúc mưa
xuân mới tạnh
Tình đời thật mỏng những năm qua.
Cưỡi ngựa đến đây, ai xúi ta?
Đêm lắng mưa rơi trên gác nhỏ.
Sáng dậy nghe ai rao bán hoa.
Rỗi việc, vu vơ dăm chữ viết.
Bên song, trời tạnh, tự pha trà.
Áo trắng đừng lo dây cát bụi.
Thanh minh còn kịp trở về nhà.
885. Đi đường, gặp lão nông,
trò
chuyện, về nhà làm bài thơ này
Mấy năm ốm yếu, nghỉ, nằm không.
Chỉ gặp tiều phu với mục đồng.
Lẽ phải tìm trong trang sách cổ.
Lời ngay từ miệng những già nông:
"Riêng lo thế giặc mà sa lệ,
Nghĩ chuyện đền ơn, những ước mong!"
Chưa hưởng lộc vua, mà họ vậy,
Xấu hổ, ta nghe, thẹn với lòng.
886. Tre mới
Gai nhọn, chăng rào, giúp chở che.
Bên ao soi bóng những trưa hè,
Không biết lúc nào giờ chính ngọ.
Bóng râm mát rượi, tưởng thu về.
Măng mọc ban đêm, nghe tách vỏ.
Ban ngày trổ ngọn, lá xum xuê.
Sau này rỗi việc, về đây sống,
Kê gối ta nằm dưới bóng tre.
Làm trên lưng ngựa lúc về muộn
Thanh
Duẩn chiều hôm nắng chiếu tà.
Đông Hồ
rầu rĩ tiếng tù và.
Không
buồn lận đận đời cay đắng.
Chỉ tiếc
ít người biết đến ta.
Phóng
ngựa chơi ngông, xuân bát ngát.
Bên sông
uống rượu đến say ngà.
Say rồi
chỉ muốn ngâm “Lương Phủ” 1)
Muốn
cùng Gia Cát luận thi ca.
1). Bài phú Khổng Minh Gia Cát Lượng thường
ngâm.
Đi trong đêm
Không sợ
người chê bạc trắng đầu.
Lối đi
trong xóm thuộc từ lâu.
Chùa ở
ngoài mây, chuông vọng lại.
Mặt nước
lung linh nến thủy lầu.
Chim hạc
về Liêu, nghìn vạn tuổi.
Phong
rụng đất Ngô, úa một màu.
Khép tấm
cửa thuyền, không ngủ được.
Bên
ngoài trăng sáng suốt đêm thâu.
Qua một làng quê, cảm tác
Xế
chiều, dừng ngựa ở bên sông.
Thấp
thoáng nhà ai ánh lửa hồng.
Thấy
khách, sau rào con chó sủa.
Chờ ăn,
tằm đói bò trên nong.
Phiêu
dạt mười năm, đời lận đận.
Quê xa
vạn dặm nhớ trong lòng.
Ở ẩn Nam
Dương 1) ai bảo xấu?
Anh hùng
đích thực biết làm nông.
1). Khi chưa ra giúp Lưu Bị, Khổng Minh ở
ẩn ở Nam
Dương, tự mình cày cấy.
Ở Lâm An, mưa nhỏ mới tạnh
Mùi đời
nhạt nhẽo mấy năm qua.
Ai xui
cưỡi ngựa chốn Kinh Hoa?
Đêm lắng
mưa rơi trên gác nhỏ.
Sáng
thấy có người rao, bán hoa.
Phóng
tay chấp bút dăm hàng nhỏ.
Lặng lẽ
nhâm nhi mấy chén trà.
Đừng lo
áo trắng đời dây bụi.
Trước
tết Thanh Minh kịp ở nhà.
Cuối xuân
Mấy gian
nhà cỏ dựng bên hồ.
Sách
nhiều mà bụng vẫn không no.
Hoa nở,
hoa tàn, xuân lại hết.
Én đi,
én lại, cứ vòng vo.
Mở sách,
vui tìm nhiều bạn cũ.
Soi
gương - già yếu, thấy buồn lo.
Nhưng
vẫn một lòng vì cứu nước.
Nuôi chí
ngày đêm diệt giặc Hồ.
Đêm, đọc binh thư
(trích)
Đọc binh
thư trong núi.
Ngọn đèn
mù khói sương.
Để phò
vua, cứu nước,
Muốn
xông pha chiến trường.
Kẻ sĩ
không ngại chết.
Chỉ thấy
mình đáng thương
Vì bịn
rịn con, vợ,
Vì mặt
gầy trong gương.
Bài ca say rượu
(trích)
Ngồi
uống rượu bên sông.
Bốn bề
lầu trống không.
Tay cầm chiếc
chén ngoc,
Thấy
mình trôi bập bồng.
Chỉ uống
một hớp nhỏ
Mà hết
cả núi sông.
Cuối năm, làm thơ vui về cảnh
nghèo
Tiền cần
có nhất, luôn không có.
Cam nghèo đóng
cửa, chịu nằm co.
Nhờ
tiền, lưng cong thành lưng thẳng.
Men say
làm mặt đỡ gầy gò.
Bàn ăn
ngồn ngộn toàn rau củ.
Quần áo
vá chằng tấm nhỏ, to.
Hết
tiền, khí phách nhiều, chưa hết.
Vung bút
viết bài phu Lương Đô. 1)
1). Bài phú nổi tiếng của Bàn Cổ đời Hán.
Mưa thu
(trích)
Đèn mờ
như đom đóm
Luôn lập
lòe bên sông.
Mưa thu
rơi thánh thót
Như giọt
nước lậu đồng.
Không bị
Sở phóng trục 1)
Buồn mà
nhảy xuống sông,
Chỉ vì
lo việc nước,
Ta đau
xót trong lòng.
1). Ý nói Khuất Nguyên bị vua Sở lưu đày,
phẫn chí mà nhảy xuống sông tự tử.
Đêm đọc sách, cảm hoài
(trích)
Con cú
bay trong núi.
Đàn vịt
kêu ngoài đồng.
Ta thì
ngồi đọc sách
Bên cửa
bện cỏ bồng.
Khổ thân
ta, đầu bạc,
Chán
đời, chán việc công.
Quên
mình, lo việc nước,
Mà lệ
chảy ròng ròng.
Hồ Gương
(trích)
Dân cày
mong lúa tốt,
Có cái
ăn trong nhà.
Nhưng
hết hạn lại lụt,
Thóc gạo
đắt gấp ba.
Hồ Gương
luôn ngập úng.
Đâu phải
trời gây ra -
Chỉ dân
ngu không biết
Quan
lười, không lo xa.
Lời than của nông dân
(trích)
Ruộng
thấp cấy chiêm muộn.
Nương
cao trồng mạch, ngô.
Ốm cũng
phải cày ruộng,
Tội
nghiệp lũ trâu bò.
Nông dân
làm cật lực
Mong
được ngày ấm no.
Thế mà
vừa thu hoạch,
Quan đã
đến thu tô!
Nghe tiếng nhạn
(trích)
Thương
cho lũ chim nhạn
Từ
phương Bắc về đây,
Nơi lúa
ngô vốn ít.
Ăn gì
sống qua ngày.
Có thoát
được cung bẫy
Khi bay
ngoài trời mây?
Nếu có
cánh như nhạn,
Ta cũng
bỏ nơi này.
TẢ VĨ
Chưa rõ tiểu sử
887. Ngắm cảnh chiều xuân
Góc nhà gió thổi, khói như mây.
Hoa nở đung đưa khóm liễu gầy.
Trong ánh hoàng hôn mờ ảo ấy,
Chim én lại về, chấp chới bay.
NGÔ ĐÀO
Chưa rõ tiểu sử
888. Tuyệt cú
Khách chưa thấy rét, áo chưa thay.
Mơ đã chua dần, hoa lá bay.
Rồi chợt một đêm không tiếng ếch,
Gió thổi se se, rét mấy ngày.
LƯU TỬ
VỰNG
Chưa rõ tiểu sử
889. Cảnh trên sông
Triều dâng sóng lớn, gió bâng quơ.
Hàng cây đứng lặng giữa khói mờ.
Ba ngày gió lạnh, đò không khách.
Một dãy thuyền con xếp cạnh bờ.
DƯƠNG
VẠN LÝ
Sinh năm 1124, mất 1206, Hiệu
Thành Trai, cùng Lục du, Phạm Thành Đại và Lưu Mậu được người đời gọi là
"Bốn nhà thơ lớn thời Nam
Tống".
890. Ao nhỏ
Không nỡ gây ồn, nước đứng yên.
Hồ lặng cây soi, giống cõi thiền.
Sen non vừa nhú sừng xanh biếc,
Chuồn chuồn bay đến đậu lên trên.
891. Tiếc mùa
xuân
Xuân này những tưởng hết lo âu,
Thì ra vẫn thế, vẫn buồn rầu.
Xuân đến mà hoa không thiết ngắm -
Chắc có việc buồn hoặc ốm đau.
892. Ngủ nhà Từ
Công ở Chợ Mới
Hoa rụng lối mòn bên dậu tre.
Lá mới xanh mầm, chưa đủ che.
Đám trẻ thi nhau đùa bắt bướm.
Bướm sang nhà cạnh, phải quay về.
893. Buổi sớm ra
chùa Tĩnh Tư tiễn Lâm Tử Phương
Hồ Tây tháng Sáu rộng mênh mông.
Cảnh sắc mùa này khác thu đông.
Lá sen xanh biếc như trời biếc.
Hoa sen dưới nắng lại thêm hồng.
894. Ngày đầu
mùa hè, ngủ dậy
Mai chua đến nhăn mặt.
Chuối xanh chạm vách nhà.
Trưa ngủ dậy, buồn chán,
Ngồi xem trẻ chơi hoa.
895. Bài ca cấy
lúa
Chồng tung nắm mạ, vợ bắt ngay.
Thằng bé làm cỏ, thằng lớn cày.
Mưa ướt đến lưng, mưa rả rích.
Áo tơi, nón lá gió tung bay.
Gọi chồng tạm nghỉ ăn cơm sáng,
Mà chồng mải miết cấy luôn tay.
Mạ nơi chưa bén, nơi chưa cấy.
Thêm lũ ngỗng con kêu suốt ngày.
HÀN CÂU
Chưa rõ tiểu sử
896. Đã lâu
không được tin, viết gửi Á Khanh
Chàng ở lầu hoa trên bến sông.
Thiếp ở dưới này, phía biển đông.
Triều dâng đến lầu, không dâng nữa.
Lệ thiếp nước hòa, chàng biết không?
TRIỆU SƯ TÚ
Chưa rõ tiểu sử
897. Có hẹn
Xuân sớm mưa phùn rơi, cứ rơi.
Quá hẹn mà sao chẳng thấy người.
Quân cờ gõ nhảm, hoa đèn rụng.
Ếch nhái ngoài ao thật lắm lời.
UÔNG
NGUYÊN LƯỢNG
Chưa rõ tiểu sử.
898. Hoài Điền
Trời xanh nhàn nhạt, trăng mờ sương.
Hai phía Hoài Điền là chiến trường.
Cung nữ trong cung, không ngủ được,
Ngồi buồn nghe điệu "Khốc Tương Dương".
MỤC ĐỒNG
Chưa rõ tiểu sử
899. Trả lời
Chung Ngược Ông
Cỏ xanh trải rộng đến chân trời.
Gió thổi sáo diều, lòng thảnh thơi.
Ăn no, áo rách không thèm cởi.
Đêm nằm ễnh bụng ngắm trăng chơi.
CHU HY
Sinh năm 1130, mất 1200, tự
Nguyên Hối, là nhà luân lý họ nổi tiếng đời Tống, người chỉnh lý cuốn Tứ Thư
của Khổng Tử.
900. Cảm nghĩ
khi đọc sách
Đầm vuông nửa mẫu tựa gương soi,
Soi nửa vuông mây, nửa sắc trời.
Thử hỏi sao đầm trong đến vậy?
Vì thác đầu nguồn nước vẫn rơi.
901. Hoa lựu
Tháng Năm hoa lựu đỏ trên cành.
Một vài chấm nụ, bướm bay quanh.
Chỉ tiếc nơi này không khách ngắm,
Để buồn, hoa rụng đỏ rêu xanh.
902. Chơi thuyền
Đêm qua bất chợt nước sông lên.
Thuyền lớn tự trôi như mũi tên.
Chẳng bù hôm trước phu vất vả,
Tốn sức bao nhiêu để kéo thuyền.
903. Ngày xuân
Bến Tứ, chơi xuân buổi đẹp trời.
Trời rộng, đất xanh, cây tốt tươi.
Gió xuân lặng lẽ mang xuân đến.
Muốn biết, trong lòng phải thảnh thơi.
NGU TỰ
LƯƠNG
Sinh năm 1180, không rõ năm
mất, có làm quan một thời gian.
904. Sớm xuân ở
Hành Khê Đường
Mạ gieo hôm trước đã xanh màu.
Mưa phùn khói trắng quyện vào nhau.
Xung quanh toàn ruộng, ba nghìn khoảnh.
Đàn cò không biết đậu vào đâu.
DIỆP
THÁI
Chưa rõ tiểu sử
905. Cảnh chiều
xuân
Chim bay líu ríu tận thư phòng.
Gió thổi, hoa đào bám bút lông.
Rỗi, ngồi bên cửa xem Chu Dịch.
Không biết xuân rồi, hay vẫn đông.
THÁI
SÁC
Không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết người Tấn Giang, nay
là Phúc Kiến, tự Tử Chính, làm quan dưới thời Tống Thần Tông, do dâng sớ can
vua sửa đổi triều chính nên bị phái làm quan nơi xa và chết ở đó.
906. Đình trên
mặt nước sông Thương Lang
Bình phong bằng giấy, giường bằng tre.
Mỏi tay, sách tuột giữa trưa hè,
Làm một giấc dài, khoan khoái dậy.
Tiếng sáo thuyền chài thợt thoáng nghe.
ÔNG
QUYỂN
Chưa rõ tiểu sử.
907. Tháng Tư, ở làng quê
Màu xanh đầy núi, nước đầy sông.
Cuốc kêu giục dã việc nhà nông.
Đang giữa tháng Tư, ai cũng bận.
Chưa hết tằm dâu, đã xuống đồng.
ĐÁI
PHỤC CỔ
Hiệu Thạch Bình, sinh năm 1167, mất 1248, nhà thơ lớn đời Nam Tống với
nhiều tác phẩm mang đậm tinh thần yêu nước và về cuộc sống khổ cực của người
nông dân.
908. Thôn Hoài sau
loạn lạc
Vắng chủ cây đào vẫn nở hoa.
Cánh quạ làm đen vệt ráng tà.
Mấy bức tường xiêu quanh giếng cũ.
Nhà người thì có, thiếu nhà ta.
909. Ngủ qua đêm ở nhà một
nông dân
Dép cỏ, mũ rơm đi đó đây.
Một năm mà áo vẫn chưa thay.
Bất chợt trời mưa bên núi vắng,
Đành xin trú tạm mái tranh này.
Ếch nhái kêu ran trong giấc ngủ.
Mơ thành con bướm nhởn nhơ bay 1).
Thư nhà mười bức, may tới một.
Trời bắc, trời nam cánh nhạn gầy.
1. Trang Chu thời Xuân Thu năm
mơ mình hóa thành bướm.
910. Đêm trăng trên thuyền
Đầy thuyền trăng sáng, nước xanh
trong.
Sóng im, khí lạnh bốc lên không.
Thi hứng dập dềnh theo bóng nước.
Theo mái chèo bay, hồn bập bồng.
Sao sớm lặng soi dòng nước lạnh.
Nhạn thương hoa héo, khóc rừng đông.
Thấp thoáng lửa chài bên bến cũ.
Cầu khuya, sương ướt lá ngô đông.
LƯ MAI
PHA
Chưa rõ tiểu sử.
911. Hoa mai và
tuyết
Mai tuyết tranh nhau trổ sắc tài.
Thi nhân đành chịu, biết bênh ai?
Về hương, có lẽ mai hơn tuyết,
Nhưng về màu trắng, tuyết hơn mai.
ĐỖ LAI
Không
rõ năm sinh, năm mất, tự Tử Dã, người Đình Giang, nay thuộc tỉnh
Chiết Giang. Ông là bạn học cùng thầy với Vương An Thạch đời Tống.
912. Đêm lạnh
Có khách ban đêm, lạnh, uống trà.
Lò vừa mới nhóm, đóm như hoa.
Trước cửa trăng treo, không khác lạ.
Chỉ khác hoa mai nở trước nhà.
BẠCH
NGỌC THIỀM
Không rõ năm sinh, năm
mất,còn có tên khác là Tát Trường Canh, tự Như Hối, một đạo sĩ thời Nam Tống,
người Mãn Thanh nay thuộc tỉnh Phúc Kiến. Ngoài thơ văn, ông còn giỏi về vẽ
tranh mai trúc. Tác phẩm: "Hải Quỳnh tập".
913. Xuân sớm
Hoa mai bất chợt nở sau nhà.
Chỗ nhiều, chỗ ít tuyết sương pha.
Chỗ đậm như trăng, thưa tựa khói.
Sắc nước, sắc trời quyện sắc hoa.
TẦN QUÁN
Sinh năm 1049, mất 1100, nổi tiếng về sở trường
viết từ. Được Tô Thức tiến cử, ông ra làm quan, sau bị cách chức đầy đi xa và
chết ở Đằng Châu, nay thuộc tỉnh Quảng Tây.
914. Theo điệu "Đạp sa hành"
Lầu gác sương che, trăng bến sông.
Tìm mãi nguồn đào, mỏi mắt trông.
Xuân lạnh, quán côi, buồn vô hạn,
Lại thêm tiếng cuốc tái tê lòng.
Cá mang thư lụa 1), hoa mai trạm, 2)
Oán giận, buồn đau lại chất chồng.
Thâm sông quấn quít bên Thâm núi,
Tiêu Tương sao mãi cứ chảy về đông.
1. Thơ cổ có câu: "Khách
tòng viễn phương lai. Dĩ ngã song lý ngư. Hô nhi phanh lý ngư. Trung hữu xích
tố thư". Nghĩa là: Khách từ nơi xa đến. Cho ta một đôi cá chép. Gọi trẻ đem
mổ cá ra. Thấy trong bụng cá có bức thư bằng lụa.
2. Thời Ngũ Đại, Lục Khải và
Phạm Diệp thân nhau. Lục Khải gặp người đưa thư từ Giang Nam lên miền bắc, bèn
gửi cho Phạm Diệp một cành hoa mai.
LÝ CƯƠNG
Sinh năm 1083, mất 1140, từng
giữ chức tể tướng triều vua Cao Tông đời Nam Tống. Ông chủ trương thay đổi
chính sự, quyết chống giặc Kim, bị nịnh thần chèn ép, sau bất đắc chí mà chết.
915. Con trâu ốm.
Từng cày vạn mẫu, giúp nhà nông.
Nay già, ốm yếu chẳng ai trông.
Chỉ muốn mọi người no đủ cả.
Có oan tí chút cũng cam lòng.
LÝ THANH CHIẾU
Sinh năm 1084, mất 1151, nhà
thơ nữ có tài, xuất thân quyền quí, thời
kỳ đầu xa thực tế, thơ tao nhã, bay bướm nhưng tư tưởng nghèo nàm. Về sau, khi
nhà Tống chạy xuống phía Nam, sống trong cảnh lưu lạc, bà có một số bài mang
tính hiện thức cao.
916. Tuyệt cú
Sống làm người hào kiệt.
Chết thành ma anh hùng.
Vẫn chưa quên Hạng Vũ.
Không chịu về Giang Đông.
TRƯƠNG THỨC
Nhà thơ đời Tống, sinh năm
1133, mất 1180, tự Kính Phu, hiệu Nam Hiên, người Cẩm Trúc, nay thuộc tỉnh Tứ
Xuyên.
917. Ngày xuân, chợt hứng thành thơ
Năm cũ đã qua, trời ấm dần.
Cây cỏ hồi sinh, hửng sắc xuân.
Tự nhiên thi hứng dâng dào dạt.
Gió vờn mặt nước, sóng lăn tăn.
VƯƠNG
KỲ
Không rõ tiểu sử, chỉ biết
tên chữ là Lục Kỳ, người đời Tống.
918. Chiều xuân
thăm vườn nhỏ
Hoa mai phấn rụng, héo trên cành.
Hải đường vẫn đỏ, sắc long lanh.
Khi nở trà mi, hoa khác rụng.
Dưới cây thưa thớt đám rêu xanh.
LƯU
KHẮC TRANG
Sinh năm 1187 mất 1269, tự Thế Phụ, hiệu Hậu Thôn, người Bồ Điền, nay thuộc
tỉnh Phúc Kiến, con nhà dòng dõi, có làm quan, nhà thơ nổi tiếng thời Tống. Tác phẩm: "Hậu Thôn tiên sinh
đại toàn tập".
919. Thoi oanh
Trong bờ liễu biếc có đôi oanh
Bay đi bay lại tựa thoi nhanh.
Lạc Dương vào xuân, như tranh gấm.
Không biết bao lâu mới dệt thành.
920. Cảnh mùa đông
Ban mai, tỉnh dậy, nắng bên song.
Tiếng thu nghe rõ phía hàng rừng thông.
Sai trẻ quấy siêu pha nước uống,
Dặn người dọn gác, đón mùa đông.
Rượu mới vừa hâm, bàn đã dọn.
Thịt rán ba ba tỏa khắp phòng.
Cúc dại ngoài vườn trông thật đẹp.
Cảnh thế, người sao chẳng ấm lòng?
CHU TẤT ĐẠI
Sinh năm 1126 mất 1204), tự
Tử Sung, người Lư Lăng, nay thuộc tỉnh Giang Tây, đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức
Tả Thừa tướng. Tác phẩm: "Ngọc
Đường loại cảo", "Ngọc Đường tạp ký" và "Tĩnh trai
tập".
921. Được vua
gọi vào chầu
Quạ chiều, ngọn liễu phía xa xa.
Vua gọi vào cung, cho uống trà.
Trở lại Hàn Lâm, không ngủ được.
Trăng non đầu tháng vướng cành hoa.
LÔI
CHẤN
Không rõ thân thế, sự nghiệp,
chỉ biết là nhà thơ đời Tống.
922. Chiều quê
Ao đầy cỏ mọc, nước đầy khe.
Mặt trời gác núi, gió se se.
Vắt vẻo lưng trâu về xóm nhỏ,
Lũ trẻ vui đùa thổi sáo tre.
HỒNG TƯ QUỸ
: Sinh năm 1176, mất 1235, tự
Thuấn Du, hiệu Bình Trai, người Vu Thế, nay thuộc huyện Lâm An, Chiết Giang,
làm quan đến Hàn lâm Học sĩ, thuộc trường phái thơ Giang Tây.
923. Thơ viết trong phiên trực ở viện Hàn
Lâm
Cửa Cấm cài then, không bóng người.
Vua ban giấy sắc, mực còn tươi.
Trống điểm canh năm, đêm sắp hết.
Tử vi, hoa trắng một góc trời.
TĂNG CHÍ NAM
: Nhà sư thời Nam Tống. Năm
sinh, năm mất chưa rõ, thơ ông tao nhã, tinh tế, nhất là thể
tuyệt cú.
924. Tuyệt cú
Thuyền con buộc tạm gốc cây già.
Chống gậy một mình ra bến xa.
Không lạnh chút nào cơn gió liễu.
Áo ngoài thấm ướt bởi mưa hoa.
CHU THỤC CHÂN
Sinh năm 1170, năm mất không
rõ. Bà là nhà thơ, nhà từ nổi tiếng thời Nam Tống, ngang danh với L ý Thanh
Chiếu.
925. Đêm rằm tháng Giêng
Đèn hoa nhấp nháy tựa sao đêm.
Kèn trống thi nhau rộn trước thềm.
Cảnh vui đúng lúc đang sầu muộn.
Chuyện cũ nằm mơ, lòng yếu mềm.
Những muốn cùng người vui chốc lát,
Dẫu trăng mờ tối, vẫn nâng rèm.
Mải ngắm đèn hoa, quên uống rượu -
Sang năm sợ chẳng có mà xem.
LƯU QUÝ TÔN
Năm sinh, năm mất không rõ,
chỉ biết tự Cảnh Văn, người Tường Phủ, nay là thành phố Khai Phong tỉnh Hà Nam,
từng
giữ chức quan nhỏ thời Thần Tông nhà Tống. Ông có kiến thức uyên bác, giỏi thơ
văn. Sau khi chết nhà chỉ toàn sách.
926. Thơ đề trên vách quán rượu Nhiêu Châu
Líu lo chim yến khóm đào tươi.
Làm tỉnh giấc mơ đẹp, lạ đời.
Đem kể khách nghe, ai cũng diễu.
Cầm gậy, bực mình, lên núi chơi.
ĐÁI MẪN
Năm sinh, năm mất không rõ, người Đài Châu,
Hoàng Nham, nay thuộc tỉnh Chiết Giang; tự Mẫn Tài, hiệu Đông Cao tử, thi đỗ
nhưng không ra làm quan, là cha của nhà thơ nổi tiếng đời Nam Tống là Đái Phục
Cổ.
927. Đầu hạ,
chơi vườn họ Trương
Ao nhỏ vịt bơi, chỗ nước nông.
Đang mùa mai chín, trời xanh trong.
Sấu xanh mà hái trơ còn lá.
Vườn tây có rượu, say vườn đông.
LÂM THĂNG
Sinh khoảng năm 1180, không
rõ năm mất và tiểu sử.
928. Thơ đề nhà trạm Lâm An
Núi xanh tiếp núi, lầu tiếp lầu.
Tây Hồ múa hát chắc còn lâu.
Gió xuân ấm áp làm say khách,
Cứ nghĩ Hàng Châu là Biện Châu. 1)
1. Bài này tác giả chỉ trích vua tôi nhà
Nam Tống sau khi chạy về Hàng Châu, chỉ lo xây lâu đài, ca hát, không nghĩ tới
việc lấy lại đất đã mất. Biện Châu là kinh đô Bắc Tống bị quân Kim chiếm.
VĂN THIÊN TƯỜNG
Sinh năm 1236, mất 1282, hiệu
Văn Sơn, đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức hữu thừa tướng. Bị quân Nguyên bắt, giam
ba năm không chịu đầu hàng, cuối cùng bị giết. Thơ ông mang chất bi hùng kế
thừa truyền thống của Đỗ Phủ.
929. Viết trên sông Dương Tử
Mấy ngày chơi biển bắc,
Giờ lại về phía nam.
Xuôi theo dòng Dương Tử,
Bị hút như nam châm.
930. Trạm Kim Lăng 1)
Nhà cỏ đơn sơ giữa nắng tà.
Đám mây cô quạnh phía đằng xa.
Non sông, phong cảnh nguyên như cũ.
Khác xưa một nửa - người và nhà.
Lầu gác hoang tàn, không én lượn.
Hoa lau già cỗi, giống đầu ta.
Xa quê, ta nguyện làm chim cuốc,
Suốt đời khóc nhớ những ngày qua.
1. Tháng Ba năm 1297 Văn Thiên Tường bị
giải đi Yên Kinh. Tháng Bảy, khi qua Kim Lăng ở nhà trạm, ông viết bài thơ này.
HOA
NHẠC
Sinh khoảng 1225, nổi tiếng
là người khí khái, bị bọn gian thần nhiều lần cầm tù và giết hại.
931. Nhà nông
Tiếng gà buổi sáng gọi nhà nông
Sửa soạn thức ăn để xuống đồng.
Định đánh thức chồng, còn sợ sớm,
Hé liếp nhìn trời ở phía đông.
DIỆP THIỆU ÔNG
Không rõ sinh thời ông làm
gì, chỉ biết có thể ông sinh vào năm 1224.
932. Tới vườn
chơi, không vào được
Đến thăm mấy bận cổng then cài.
Còn hằn rêu lạnh dấu chân ai.
Không thể giam xuân sau cánh cổng
Một bông hạnh đỏ ló ra ngoài.
TỪ NGUYÊN KIỆT
Sinh năm 1196, mất 1245, tự
Bá Nhân, người Thượng Nghiêu, nay là Giang Tây. Ông làm quan đến Công bộ Thị
lang. Thơ đằm thắm, trong sáng và nhiều chất trữ tình.
933. Trên hồ
Oanh hót trên cây, hoa nở hồng.
Cánh cò chới với, nước mênh mông.
Mây quang, gió lặng, người cao hứng.
Chiều buông, tiếng sáo rộn thinh không.
TÀO BÌNH
Không rõ năm sinh, năm mất,
tự Tây Sĩ, hiệu Đông Xuyên, người tổng Thụy An, nay là Ôn Châu, tỉnh Chiết
Giang.
934. Chiều xuân
Ngoài vườn hoa rụng, chẳng ai hay.
Xanh đến chân trời, xanh cỏ cây.
Núi rừng yên tĩnh chim oanh hót.
Ếch nhái râm ran ngoài bãi lầy.
CAO CHỬ
: Năm sinh, năm mất không rõ,
chỉ biết ông sống đời Nam
Tống, tự Cửu Vạn, hiệu Cúc Kha. Ông ở ẩn không ra làm quan và là thi sĩ
thuộc phái giang hồ.
935. Tiết Thanh Minh
Nhỏ to, nhiều mộ hai đầu núi.
Tảo mộ người đi cũng rất đông.
Tàn tro, vàng mã bay như bướm.
Tiếng khóc tổ tiên khá mủi lòng.
Trời tối, cáo chui vào mộ ngủ.
Đêm cô gái ngắm trước gương lồng.
Ở đời có rượu thì nên uống.
Sau chết dưới mồ uống được không?
VƯƠNG TRUNG
Nhà thơ đời Tống, thân thế, sự nghiệp chưa
rõ.
936. Cơn binh lửa
Loạn lạc chưa yên, dẫu bất bình.
Đầu hai thứ tóc, chịu làm thinh.
Long đong phiêu dạt như Vương Xán. 1)
Giống Đỗ Lăng xưa một tấm tình. 2)
Gửi nửa vành trăng lên cho Ô Thước. 3)
Đứt ruột một người nghe Quyến Linh. 4)
Giá ở Trung Sơn, nằm uống rượu,
Say đến tận khi nước thái bình!
1. Vương Xán tự Trọng Tuyên,
thời Đông Hán, giỏi mưu lược, thơ văn, long đong trong việc tìm minh chủ để
phụng sự.
2. Tức Đỗ Phủ, trong thơ thường
đề cập đến nỗi bất hạnh của dân chúng vì chiến tranh.
3. Tên một loài chim rừng, thường
kêu vào ban đêm, nghe rất thương tâm.
4. Ô Thước - mượn ý câu thơ
của Tào Tháo: Nguyệt minh tinh hy. Ô Thước nam phi, nghĩa là: Trăng sáng sao thưa.
Quạ bay về nam. Ý nói loan to, dân chúng phải khổ sở.
TẠ PHƯƠNG ĐẮC
Sinh năm 1226, mất 1289, tự
Quản Trực, hiệu Diệp Sơn, người Qua Dương, nay là Giang Tây, từng làm quan. Khi
nhà Tống bị diệt, ông đổi tên họ, ẩn cư ở Phúc Kiến. Nhà Nguyên nhiều lần dùng
uy lực buộc ra làm quan, ông không chịu, nhịn ăn mà chết.
937. Khúc ngâm người đàn bà nuôi tằm
Cuốc kêu da diết bốn canh thâu.
Nhỏm dậy, sợ tằm đang đói dâu.
Đã khuya, trăng khuất sau bờ liễu,
Mải vui, người ngọc hát trên lầu.
938. Mừng hoa đào ở Toàn Am
May có Đào Nguyên để lánh
Tần.
Lần nữa
hoa đào, lần nữa xuân.
Không sợ
hoa rơi, trôi theo nước.
Chỉ sợ
có người đến rửa chân.
LÂM CHẨN
Chưa rõ tiểu
sử, chỉ biết tự là Đan Sơn.
939. Đình Lãnh Tuyền 1)
Mạch nước trong xanh như mạch thơ.
Quanh năm mát lạnh, vỗ hai bờ.
Ra đến Tây Hồ, nước đã khác,
Không còn nhí nhảnh cái ngây thơ.
1. Đình được
xây ở Tây Hồ, Hàng Châu, trên núi Phi
Lai. Phía dưới có suối Lãnh Tuyền, suối lạnh.
KHUYẾT
DANH
940. Thơ vặt
Tháng Ba, hàn thực, 1) cỏ xanh tươi.
Gió lộng trên đê, liễu rối bời.
Có quê mà chẳng về quê được.
Xin cuốc đừng kêu, não ruột người.
(1) Hµn thùc lµ tiÕt sau ®«ng chÝ 105 ngµy, tøc mång 3 th¸ng 3 ¢m
lÞch, ngµy TÕt ¨n ®å l¹nh. ViÖt Nam
ta gäi tÕt b¸nh tr«i b¸nh chay.
941. Thơ vặt
Chiều, sông Vô Địch đượm buồn đau.
Bâng khuâng chợt nhớ Hách Liên lầu.
Đường tới Hàm Quan xa vạn dặm.
Gió thổi, qua đêm bạc trắng đầu.
942. Bài hát mùa
xuân
Hoa xuân thật dễ thương.
Chim kêu buồn bên đường.
Gió thổi tung xiêm áo.
Khiến lòng người vấn vương.
943. Nhổ cỏ bồ
Líu ríu dưới bóng cây,
Chàng cùng thiếp suốt ngày
Nhổ cỏ bồ làm gối,
Nhổ mãi không đầy tay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét