Thứ Năm, 2 tháng 4, 2020

Thơ Đường



LÝ BẠCH

Sinh năm 701, mất 762, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, người Lũng Tây (nay là Tần An, Cam Túc). Ông sinh ở Toái Diệp nay là vùng Trung Á thuộc Liên Xô cũ. Thơ ông phóng khoáng, bay bướm, được người đời tôn là Tiên Thi (cùng với Thánh Thi Đỗ Phủ và Phật Thi Vương Duy). Đương thời ông có làm một số chức quan nhỏ, nhưng do tư tưởng phóng khoáng, ông bỏ đi ở ẩn; nổi tiếng hay uống rượu. Tác phẩm: "Lý Thái Bạch tập", khoảng hơn 1000 bài thơ còn lưu được.


120. Suy nghĩ trong đêm yên tĩnh

Trăng bàng bạc bên giường
Mà cứ ngỡ là sương.
Ngẩng đầu thấy trăng sáng.
Cúi đầu nhớ quê hương.


121. Tặng người đẹp gặp giữa đường

Vó ngựa phũ phàng dẫm xác hoa.
Năm sắc mây trời, xe phóng qua.
Nâng rèm, người đẹp cười e lệ:
Nhà thiếp màu hồng ở phía xa.


122. Khúc hát người xa nhà

Lan Lăng có rượu uất kim hương.
Chén ngọc long lanh thật khác thường.
Giá chủ có nhiều cho khách uống
Để say, quên cảnh sống tha hương.


123. Ở lầu Hoàng Hạc, tiễn
Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng

Tiễn bạn xuống thuyền đi Dương Châu.
Hoa khói tháng Ba Hoàng Hạc lâu.
Cánh buồm côi cút nhòe trong gió.
Lơ lửng Trường Giang dải lụa mầu.


124. Khúc hát hành quân

Ngựa Lưu vừa mới choàng yên ngọc.
Trăng suông, chiến trận xác thành gò.
Tiếng trống đầu thành vang vọng mãi.
Gươm vàng trong vỏ, máu chưa khô.


125. Đi thuyền tới Giang Lăng

Sáng thuyền rời bến, trời đầy mây.
Bạch Đế, Giang Lăng chỉ một ngày.
Trùng điệp núi rừng, chim, vượn hót.
Thuyền như chiếc lá nhẹ nhàng bay.


126. Tự khuây khỏa

Mải uống, quên trời tối.
Trên áo đầy hoa rơi.
Dậy, theo trăng dọc suối.
Chim cũng vắng như người.


127. Cùng quan lang trung họ Sử
uống rượu, nghe thổi sáo ở lầu Hoàng Hạc

Bị đày biệt xứ xuống Trường Sa.
Ngoái lại Tràng An, chẳng thấy nhà.
Hoàng Hạc lầu cao nghe sáo ngọc.
Giang thành sáo thổi "Lạc Mai Hoa"


128. Nhớ Đông Sơn

Xa Đông Sơn lâu ngày,
Tường vi hoa mấy độ?
Mây trắng tụ rồi bay,
Nhà ai trăng chiếu tỏ?


129. Hỏi đáp trong núi

Sao chọn rừng xanh, trốn sự đời?
Không đáp, cười thầm, lòng thảnh thơi.
Nước chảy, hoa đào trôi đẹp thế.
Đây sống như tiên, đâu phải người.


130. Tặng Uông Luân

Lên thuyền, Lý Bạch sắp đi xa.
Bất chợt trên bờ rộn tiếng ca.
Sông sâu có thể sâu nghìn thước,
Không bằng tình bác tiễn đưa ta.


131. Đình Lao Lao 1)

Lao Lao - đình tiễn khách.
Chốn thương tâm ở đời.
Gió hiểu sầu ly biệt,
Không bắt liễu xanh tươi. 2)

(1) §×nh Lao Lao x©y tõ thêi Ng« trong Tam Quèc, nay ë phÝa nam thµnh phè Nam Kinh, x­a vèn lµ chç ®­a tiÔn ng­êi.
(2) Tôc cò khi tiÔn nhau th­êng bÎ mét cµnh liÔu tÆng ng­êi ®i. Khi Lý B¹ch lµm bµi nµy liÔu ch­a xanh.


132. Bài hát cô gái nước Việt

Dưới suối Gia Khê em hái sen.
Thấy khách bỏ đi, vừa lái thuyền,
Lẫn vào hoa đỏ, vừa vui hát.
Không chịu lại gần, không nói tên.


133. Ở Thanh Khê, nửa đêm nghe tiếng sáo

Sáo thổi khúc Mai Hoa.
Núi lạnh, bến trăng tà.
Nước Ngô Khê trong vắt.
Não ruột kẻ xa nhà.


134. Ở Kim Hương, tiễn Vi Bát đi Tây Kinh

Biệt ly, tình khó nói.
Biết bao giờ gặp nhau.
Nhìn theo chỉ thấy khói.
Không thấy hình bác đâu.


135. Khúc hát Kiêt Miệt Tử

Ngô Yên nghĩa khí, lắm anh hào:
Sáo đổ đầy chì 1), cá giấu dao 2).
Mang nặng ân vua, liều sống chết,
Thái Sơn coi nhẹ tựa hồng mao.

(1) Cao TiÖm Ly ng­êi n­íc Yªn muèn giÕt TÇn Thuû Hoµng ®· ®æ ch× vµo s¸o lµm gËy ®¸nh cho nÆng nh©n khi TÇn Thuû Hoµng nghe nh¹c. ViÖc kh«ng thµnh, ®· bÞ nhµ TÇn giÕt.
(2) Chuyªn Ch­, ng­êi n­íc Ng«, giÊu dao trong ruét c¸ ®©m chÕt vua Ng« lµ V­¬ng Liªu.


136. Bài ca ở bến Hoành Giang

Đò đến quán Hoành đưa khách đi.
Mây đen phía biển nặng như chì.
Trời sắp gió to, ông lái hỏi,
Khách muốn sang sông, có việc gì?


137. Theo điệu Thanh Binh 1)

Là mây hay áo, mặt hay hoa?
Vì nàng gió thổi giữa sương sa.
Ví được gặp tiên nơi núi ngọc,
Sẽ đến đài Dao ngắm nguyệt tà.

1). Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi thường ra ngắm hoa mẫu đơn ở đình Trầm Hương. Một lần mời Lý Bạch sáng tác từ theo điệu Thanh Bình. Ông làm ba bài. Đây là một trong ba bài đó.


138. Khúc hát về các chàng trai trẻ

Đám trẻ Ngũ Lăng vào chợ Kim.
Ngựa trắng, yên vàng lướt thật êm.
"Đi đâu, nỡ dẫm lên hoa rụng?"
Thưa: "Vào quán rượu của cô em".


139. Uống rượu cùng người ở ẩn trên núi

Vừa uống, hai người vừa ngắm hoa.
Chén một, chén hai, rồi chén ba.
Ta say, muốn ngủ, ông về trước.
Mai sáng, mang đàn đến gặp ta.


140. Nhìn từ núi Thiên Môn

Thiên Môn gãy khúc, Sở Giang điên 1)
Núi cao sừng sững đứng hai bên.
Nước chảy đến đây quay ngược lại.
Chân trời đơn độc chấm thuyền đen.

(1) S«ng Së Giang ë gÇn nói Thiªn M«n,  sãng rÊt d÷ v× ®Þa thÕ hiÓm trë, người đời vì thế thường gọi là sông điên..


141. Nghe Vương Xương Linh bị giáng chức
phải ra Long Tiêu, gửi tặng bài thơ này

Dương Châu cuốc gọi, cánh hoa bay.
Đường tới Long Tiêu mất mấy ngày?
Lòng buồn ta gửi vào trăng sáng,
Theo người ra tận Dạ Lang tây.


142. Mối tình ai oán

Cuốn rèm châu, người đẹp
Ngồi im chau mày ngài,
Mắt rưng rưng ngấn lệ.
Không biết lòng giận ai


143. Ngồi một mình ở núi Kính Đình

Đàn chim bay đi hết.
Chỉ còn lại đám mây.
Cùng ta ngắm không chán
Là núi Kính Đình này.


144. Khúc Trường Môn oán 1)

Xuân đi, xuân đến đã bao lần.
Quế Điện vàng son úa bụi trần.
Trường Môn chênh chếch, soi người đẹp
Là chiếc gương tròn trăng cuối xuân.

(1) Cung Tr­êng M«n, x©y ®êi H¸n Vò ®Õ (140-86 tr­íc c«ng nguyªn), lµ n¬i nµng A KiÒu bÞ vua ®Çy ra ë mét m×nh khi nµng bÞ thÊt sñng.


145. Nỗi giận hờn nơi thềm ngọc

Thềm ngọc ướt sương đêm.
Chăn thấm đầy hơi lạnh.
Buồn, những muốn nâng rèm
Ngắm trăng thu lấp lánh.


146. Bài hát sông Lục Thủy

Sông Lục Thủy, trăng lên,
Hái rau tần; hoa sen
Như có gì muốn nói
Làm buồn khách trên thuyền.


147. Tặng vợ

Ba trăm sáu chục ngày,
Ngày nào cũng uống say.
Tiếng là vợ Lý Bạch
Mà phải khổ thế này?


148. Ngắm cảnh cũ đài Cô Tô

Khúc hát Lăng Ca, liễu mấy hàng,
Chớm xuân, hé nụ giữa vườn hoang.
Vầng trăng từng được Tây Thi ngắm
Giờ trôi đơn độc giữa Tây Giang.


149. Ngắm cảnh cũ ở đất Việt

Câu Tiễn diệt Ngô xong, trở lại,
Ba quân áo gấm, cảnh huy hoàng.
Cung nữ như hoa đầy điện ngọc,
Mà giờ chỉ thấy cuốc bay ngang.


150. Đêm xuân ở Lạc Dương, nghe tiếng sáo

Nhà ai sáo ngọc thổi du dương,
Theo gió ngân vang khắp Lạc Dương.
Sáo lại thổi bài buồn "Bẻ liễu",
Ai nghe không chạnh nhớ quê hương?


151. Bài hát vầng trăng núi Nga My

Nửa vầng trăng sáng núi Nga My.
Trăng soi xuống nước, nước trôi đi.
Rời bến Thanh Khê về Thục Giáp,
Chờ mãi tin anh, chẳng thấy gì.


152. Chơi hồ Động Đình, tiếp quan thị lang bộ Hình
        là chú Hoa và trung thư xá nhân Giả Chí

Động Đình, trăng sáng phía bờ tây.
Phía bắc Tiêu Tương chim nhạn bay.
Mải hát trên thuyền bài "Bạch trữ,"
Sương ướt bao giờ áo khách say.


153. Khúc hát hái sen ở khe Nhược Da
          Bài một

Mấy cô gái trẻ hái hoa sen.
Chốc chốc tiếng cười lại rộ lên.
Trâm cài, như nước, lung linh nắng.
Gió tung tà áo bay hai bên.


154. Khúc hát hái sen ở khe Nhược Da
          Bài hai

Không biết con ai, mấy cậu chàng
Bên liễu buông tơ dưới nắng vàng,
Ghì cương, ngựa dẫm lên hoa rụng,
Dùng dằng nán lại, mắt nhìn ngang.


155. Khúc hát của người lữ khách

Rượu thuốc Lan Lăng thật khác thường.
Rót ra sánh đặc, sáng như gương.
Giá chủ rót nhiều cho khách uống,
Để say không biết mình tha hương.


156. Nhìn thác Bộc Bố đổ xuống từ núi Lư

Dưới nắng, núi Lư như bốc cháy.
Xa xa Bộc Bố tựa sông mây,
Chảy thẳng từ trời, ba vạn thước,
Chẳng khác sông Ngân rơi xuống đây.


Nàng Tây Thi, vũ nữ của vua Ngô, ngà ngà say

Hương sen trên Thủy Điện.
Tiệc lớn đài Cô Tô.
Say say, Tây Thi Múa,
Mỉm cười với vua Ngô.


Gã đan tất

Yên Nam tráng sĩ bậc anh hào.
Sáo trúc đổ chì, cá giấu dao.
Ơn vua sâu nặng, xin liều mạng.
Thái Sơn coi nhẹ tựa hồng mao.


157. Tiễn khách về Ngô

Xóm ven sông mưa ướt.
Tiệc vãn, cánh buồm nâu.
Lướt trên nghìn ngọn sóng
Là về đến Ngô Châu.
Trên cồn hoa nở rộ.
Liễu rủ bóng bên cầu.
Tiễn khách xong, rỗi việc,
Phủi tảng đá, ngồi câu.


158. Tiễn bác Trương đi Giang Đông

Đúng lúc gió thu thổi,
Bác Trương đi Giang Đông.
Biển lớn, cánh buồm nhỏ.
Chim nhạn, trời xanh trong.
Ngày đang tàn, sắp tối.
Lòng khó hẹn với lòng.
Ở Ngô, nhìn trăng sáng,
Liệu có nhớ nhau không?


159. Nghe sư nước Thục, tên Tuấn, gẩy đàn cầm

Từ núi Nga Mi xuống,
Sư Thục tay ôm đàn,
Vì ta gẩy một cái,
Như thông reo trên ngàn,
Như nước rửa lòng khách,
Hòa vào tiếng chuông ngân.
Mải đàn, quên trời tối.
Mây thu đang xạm dần.


160. Đêm đậu thuyền ở bến Ngưu, nhớ chuyện ngày xưa

Đậu thuyền bến sông Tây.
Trời xanh, không gợn mây.
Lên thuyền ngắm trăng sáng,
Nhớ họ Tạ lắm thay.
Muốn ngâm thơ, chỉ tiếc
Người ấy không ở đây.
Sáng dong thuyền đi sớm.
Lá phong úa rơi đầy.


161. Tặng Mạnh Hạo Nhiên

Ta vốn yêu thầy Mạnh,
Tiếng phong lưu hơn người.
Trẻ - bỏ quan, từ chức.
Già - về núi nằm chơi.
Say trăng trong chén rượu,
Mê hoa quên sự đời.
Như núi cao tinh khiết -
Một tấm gương sáng ngời.


162. Tiễn bạn

Núi xanh chắn phía bắc.
Trăng sáng ở bên đông.
Nơi đây từng tiễn biệt.
Nổi trôi thân cỏ bồng.
Tình bạn như chiều xế.
Ý người tựa mây hồng.
Vẫy tay, chào ly biệt,
Tiếng ngựa nghe não lòng.


163. Từ thành Sa Khâu, gửi Đỗ Phủ

Nào có việc gì đâu.
Nằm khểnh ở Sa Khâu.
Bên thành cây cổ thụ
Buông những tiếng thu thâu.
Bài hát Tề lạc điệu.
Rượu nước Lỗ say lâu.
Nhớ anh như sông Vấn
Trôi về nam đục ngầu.


164. Thăm đạo sĩ họ Đái ở núi Thiên Sơn, không gặp

Tiếng suối reo, tiếng chó.
Sau mưa đào thêm hồng.
Cây rậm, nai lấp ló.
Tiếng chuông tắt trên không.
Suối treo lưng chừng núi.
Trúc xanh, mây bập bồng.
Đạo sĩ đi đâu nhỉ?
Buồn, tựa đứng gốc thông.


165. Mùa thu, lên lầu Bắc của Tạ Diễn ở Tuyên Thành

Thật đẹp thành bên sông.
Sáng sớm trời xanh trong.
Chiếc cầu treo lơ lửng.
Nước như gương, xuôi dòng.
Khói bếp làm cây lạnh.
Thu nhuộm lá ngô đồng.
Lên lầu Bắc hóng gió,
Bùi ngùi nhớ Tạ Công.


166. Lên đài Phượng Hoàng ở Kim Lăng

Chim phượng ngày nào đã tới đây,
Để tên lưu mãi với đài này.
Rốt cục cung Ngô vùi dưới mộ,
Áo Tấn làm mùn nuôi cỏ cây.
Tam Sơn chót vót, nhìn không thấy,
Nhị Thủy quanh co giữa bãi lầy.
Trường An xa tít, mây che khuất,
Chợt buồn, vô cớ giận trời mây.


167. Tìm nhà ở ẩn của thầy Ung

Núi xanh cao ngang trời.
Quanh năm chỉ dạo chơi.
Vén mây tìm đường cũ.
Tựa cây nghe thác rơi.
Trên ngọn hạc đang ngủ.
Dưới gốc trâu nghỉ ngơi.
Chuyện vãn, chiều ngả bóng,
Một mình xuống với đời.


168. Thơ đề nhà ở ẩn của bạn ở Đông Khê

Đỗ Lăng có bác rất thanh liêm,
Chọn đất Đông Khê gửi nỗi niềm.
Nhà cạnh núi xanh như Tạ Diễn.
Liễu buông trước cửa giống Đào Tiềm.
Chim đón mùa xuân sau viện thuốc.
Cỏ hoa mời rượu múa trước thềm.
Đãi khách trong mâm toàn muối trắng,
Nhưng vui, khách chủ uống say mềm.


169. Thơ để lại núi lúc chia tay ở quán Kim Lăng

Lễ phép, gái Ngô mời uống rượu.
Gió xuân, trong quán thoảng hương nhài.
Bè bạn Kim Lăng về tiễn biệt,
Mọi người cùng uống, chẳng chừa ai.
Đem so dằng dặc tình ly biệt,
Sông kia đang chảy ngắn hay dài?


170. Nhớ biên cương

Chàng đi năm ngoái đúng ngày này.
Lúc ấy trong vườn bươm bướm bay.
Giờ thiếp nhớ chàng, mây nước Tấn
Bị tuyết che mờ ở núi Tây.
Thư đi ải Ngọc ba nghìn dặm,
Muốn gửi cho chàng, chàng có hay?


171. Ý nghĩ mùa thu

Gió thu thật mát mẻ.
Trăng thu thật sáng trong.
Lá rơi, tụ rồi tán.
Con quạ lạnh, xù lông.
Biết bao giờ gặp lại?
Nhớ nhau, chợt chạnh lòng.


172. Bài hát mùa thu của nàng Tử Da
Bài một

Gái La Phu đất Tần
Hái dâu bên hồ vắng.
Tay trắng vít cành xanh.
Má hồng thêm dưới nắng.
Tằm đói, em phải về,
Xin chàng đừng hỏi gặng.


173. Bài hát mùa thu của nàng Tử Da
Bài hai

Trăng xế ở Tràng An.
Tiếng đập vải râm ran.
Gió thu không ngớt thổi.
Thương người ở Ngọc Quan.
Bao giờ chồng trở lại?
Bao giờ giặc mới tan?


174. Quạ kêu đêm

Khói bụi bên thành tựa ráng mây.
Quạ về, ồn ĩ đậu trên cây.
Cô gái Tần Xuyên đang dệt gấm.
Chợt nghe tiếng nói gần đâu đây.
Dừng thoi, nàng nhớ người xa cách,
Phòng không, lệ ứa suốt canh chầy.


175. Cảm nghĩ mùa xuân

Dâu Tần thấp, xanh biếc.
Cỏ Yên như tơ mềm.
Thiếp chờ chàng trở lại.
Lòng quặn đau trong đêm.
Gió xuân không quen biết,
Sao cứ thổi vào rèm?


176. Một mình uống rượu dưới trăng
(Lược dịch)

Một mình một bầu rượu
Ngồi uống bên khóm hoa.
Nâng chén mời trăng sáng,
Thêm bóng nữa là ba.
Trăng không biết uống rượu.
Bóng lẽo đẽo theo ta.
Thì đành cùng trăng, bóng,
Ta uống chờ đông qua.


177. Một mình uống rượu dưới trăng
(Lược dịch)

Tháng Ba, thành Hàm Dương
Hoa nở đẹp lạ thường.
Vậy thì hãy uống rượu.
Ngày xuân chớ buồn thương.
Một chén quên trời đất,
Đời biết đâu mà lường.
Uống say, khinh thiên hạ,
Ta ôm gối lên giường.


178. Một mình uống rượu dưới trăng
(Lược dịch)

Rượu chỉ ba trăm chén,
Mà ngàn vạn cái buồn.
Để cái buồn không đến,
Ta phải uống rượu luôn.


179. Thơ cổ phong
(Lược dịch)

Lên núi nhìn bốn phía.
Trời đất thật mênh mông.
Gió lạnh từ xa thổi.
Vạn vật thu nhuốm hồng.
Giàu sang thì cũng thế.
Mọi cái có mà không.
Vậy ta về quê cũ,
Vỗ kiếm, đi chơi rông.


180. Ngày xuân say rượu tỉnh dậy, tự nói với mình
(Lược dịch)

Sao phải làm đời khổ?
Đời - giấc mộng thôi mà.
Nên cứ say, cứ uống,
Nằm bừa trước hiên nhà.
Hôm nay ngày mấy nhỉ
Mà oanh hót bên hoa?
Kệ, hát chờ trăng sáng.
Hát xong, hết phiền hà.


181. Xuống núi Chung Nam, ngủ nhờ
nhà sơn nhân Hộc Tư, chủ còn bày tiệc rượu

Chiều, từ núi đi xuống,
Trăng lặng lẽ theo ta.
Ngoái lại nhìn, chỉ thấy
Một màu xanh bao la.
Cổng tre cháu bé mở.
Chủ dắt khách vào nhà.
Lối nhỏ trúc râm mát,
Lá chạm người đi qua.
Được nghỉ, được nói chuyện,
Còn uống rượu, uống trà.
Xong, thì trời gần sáng.
Nhàn nhạt giải Ngân Hà.


182. Ngày xuân uống rượu một mình

Xuân đến, mang hơi ấm.
Sông núi ngời ánh xuân.
Mặt trời trắng, cỏ biếc.
Hoa chết, xác đầy sân.
Mây trắng bay về núi.
Chim bên nhau quây quần.
Loài vật có chỗ ở.
Ta không chốn nương thân.
Không sao, dưới trăng sáng
Ta hát bài “Bất cần”.


183. Nâng chén rượu, hỏi trăng
(Lược dịch)

Trăng ơi, trăng hãy nói ta hay:
Trăng có trên đời bao lâu nay?
Người xưa trăng chiếu giờ không thấy,
Nhưng vẫn trăng xưa chiếu lúc này.
Người nối tiếp nhau như nước chảy.
Cúng ngắm trăng vàng, cùng uống say.
Chỉ muốn có trăng khi uống rượu,
Để được trăng soi chén rượu đầy.


184. Nỗi niềm phòng the
(Lược dịch)

Đám mây rời cửa ải.
Nước lặng lẽ xuôi dòng.
Nhưng mây về với núi.
Nước trở lại với sông.
Chỉ chàng xa, xa mãi,
Để thiếp phải phòng không.
Đêm, nhớ chàng, thiếp khóc,
Nước mắt chảy thành dòng.


185. Trước cuộc rượu
(Lược dịch)

Gió cười ta không say.
Đừng từ chối chén này.
Vì ta, hoa mận nở,
Đẹp, mời chào trên cây.
Con oanh chuyền liễu biếc.
Trăng bơi chén rượu đầy.
Giờ mà không uống rượu,
Thì bao giờ uống đây?


186. Ý thu

Yên Chi lá vàng rụng.
Thiếp lên đài nhìn ra.
Thiền Vu thu đã đến.
Mây vần trên biển xa.
Lính Hồ ngoài bãi cát.
Sứ Hán mới về nhà.
Người đi không trở lại,
Cỏ úa, lòng xót xa.


187. Vượt núi Kinh Môn, tiễn người ra đi

Lên đường chơi nước Sở.
Vượt Kinh môn đi xa.
Bình nguyên, núi thành vệt.
Sông trải dài bao la.
Như gương sáng, trăng chiếu.
Mây tụ nơi biển xa.
Chợt nhớ sông quê cũ
Nhiều lần tiễn thuyền ta.


188. Tiễn bạn vào đất đất Thục

Đường Tàm Tùng nghe nói
Gập ghềnh, dốc chơi vơi.
Núi quanh co, dựng đứng,
Mây sà trước mặt người.
Đường Tấn và sông Thục,
Bác có thể nghỉ ngơi.
Khỏi cần hỏi Nghiêm Tuấn. 1)
Mọi chuyện đã có trời.

1. Tức Quân Bình, một cao sĩ thời Tây Hán, làm nghề bói toán mà sống khi ở ẩn tại Thành Đô, Tứ Xuyên.


189. Tặng trưng quân Tiền Thiếu Dương

Tháng Ba, liễu xanh biếc.
Hãy uống chén rượu này.
Hai mái tóc đã bạc.
Xuân còn lại mấy ngày.
Cứ thắp đèn uống đã.
Đi câu muộn càng hay.
Gặp vua săn bến Vị,
Ta có thể làm thầy.


190. Gửi người nơi xa

Khi không còn người đẹp,
Giường lạnh, phòng vắng tanh.
Ba năm rồi, chăn chiếu
Còn thoảng hương mát lành.
Người đẹp không trở lại,
Hoa không nở trên cành.
Nhớ nhau, vàng cả lá.
Sương trắng ướt rêu xanh.


191. Từ biệt Tống Chi Để ở Giang Hạ

Nước sông đổ vào biển.
Trời như nước, xanh trong.
Chia tay nhau nghìn dặm,
Uống chén này đi ông.
Chim núi hót, ngày lạnh.
Vượn hú bên kia sông.
Người không quen đa cảm,
Mà cũng thấy não lòng.


192. Ghé thăm nhà thủy đình của cụ Tám Thôi

Nhà cao, quang cảnh đẹp.
Nhờ ông mà đẹp thêm.
Núi Đình Kính sát vách.
Khe Uyển chảy bên thềm.
Dưới trăng ông chài hát.
Bầy vượn hót trong đêm.
Đi dạo cùng chim trắng.
Thật tĩnh, thật êm đềm.


193. Đình Ông Tạ

Ông Tạ từng ở đây.
Mỗi lần thấy, buồn thay.
Núi quạnh, nước lười chảy.
Vắng người, mây không bay.
Xuân thắm, hoa sen nở.
Trúc reo tiếng thu gầy.
Hát, nhớ lần gặp trước.
Hòa lẫn xưa với nay.


194. Bắt chước ý xưa
Chết là người đã đến.
Sống là người đang đi.
Trời đất là quán trọ
Ta dừng lại nhất thì.
Trước xuân, thông vô cảm.
Xương trắng không biết đi.
Đời buồn, sau lẫn trước.
Giàu sang mà làm gì.


195. Kim Lăng

Để tôi nói anh biết:
Lục Triều thịnh rồi vong.
Đất Tần ít hoa trái.
Lạc Dương nhiều núi sông.
Cung Tấn lụa chất đống.
Đền Ngô lắm đồ đồng.
Tất cả đều mất hết.
Thôi, đi chơi miền đông!


Bãi Anh Vũ

Chim xưa bay đến đậu nơi này,
Thành tên Anh Vũ đến hôm nay.
Anh Vũ bay đi, qua núi Lũng,
Để lại bãi bồi xanh tốt cây.
Sóng gấm nhấp nhô, hoa sát nước.
Thoang thoảng mùi lan giữa khói mây.
Cô đơn, trăng chiếu cho ai nhỉ?
Ngoái trông bãi đẹp, khách lưu đày.


Thú vui trong cung
Bài một

Cây mai không còn lạnh.
Màn liễu gió lung lay.
Trong cung oanh nhảy múa.
Ngoài thềm chim én bay.
Nắng tà soi tiệc hát.
Hoa mới nở cầm tay.
Tối, dẹp đồ nghi lễ,
Lại vui, ngày tiếp ngày.


Thú vui trong cung
Bài hai

Ngõ gấm gió xuân thổi.
Bên song nắng chói ngời.
Trong cung hoa nở đẹp.
Ngoài ao cỏ xanh tươi.
Chim hót trên cây biếc.
Lầu xanh đầy tiếng cười.
Cung Chiêu Dương trăng sáng,
Soi bữa tiệc đông người.


Thú vui trong cung
Bài ba

Hoa lê thơm mùi tuyết.
Liễu như tơ, vấn vương.
Lầu vàng chim phí đậu.
Đền ngọc nhốt uyên ương.
Ca nhi lên xe ngọc.
Vũ nữ ra vũ trường.
Trong cung ai đẹp nhất?
Phi Yến ở Chiêu Dương!


Bài hát dưới ải
Bài một

Không hoa, chỉ giá rét.
Tuyết trên núi Thiên San.
Nghe bài “Bẻ cành liễu”
Chưa thấy nét nào xuân.
Sáng ra trận theo trống,
Tối ôm yên nằm trần.
Ngang lưng đeo gươm báu,
Thề giết gặc Lưu Lan.


Bài hát dưới ải
Bài hai

Miền Bắc binh trời xuống.
Miền Nam ngựa Hồ lên.
Cầm giáo xông trăm trận,
Ân vua quyết báo đền.
Bốc tuyết ăn khi đói.
Ngủ không cần chăn mền.
Thành Nguyệt Chi phá được
Mới cao gối nằm yên


Bài hát dưới ải
Bài năm

Mùa thu, giặc ràn xuống.
Quân nhà Hán tiến ra.
Tướng ẩn trong rừng trúc.
Lính nằm bãi Long Sa.
Trăng biên giới rất mảnh.
Sương xứ Hồ nhạt nhòa.
Chưa chiếm được Ngọc Ải,
Thiếu phụ đừng chờ ta.


Bài hát dưới ải
Bài sáu

Trên sa mạc, lửa hiệu
Soi sáng mây Cam Tuyền.
Tay chống gươm, vua Hán
Gọi các tướng


Tiễn Lương Sơn Nhân về núi Tung

Bác có ngôi nhà cổ
Cao trên ngọn núi Tung.
Trăng xưa vẫn còn sáng,
Lửng lơ treo cành thông.
Hàng ngày bác hái thuốc,
Tìm cây tiên, cỏ bồng.
Rỗi, bác thăm tôi nhé,
Nhớ vượt mây, cưỡi rồng.


Trăng sáng nơi biên cương

Trăng nhô lên khỏi núi
Giữa trời mây lung linh.
Gió kéo dài muôn dặm,
Thổi đến tận cung đình.
Người lính ngắm trăng sáng,
Nhớ nhà, chán việc binh.
Đêm nay ngồi trên gác,
Vợ nhớ chồng một mình.


Theo hầu vua đi chơi, nghỉ lại cạnh suối nước nóng

Mười hai tướng lẫm liệt
Dàn hàng như sao sa.
Sương thu treo trên trượng.
Cầu vồng cuộn cờ hoa.
Nhã nhạc vang chín cõi.
Lính gác đứng nghìn nhà.
Mặt trời mọc, khí tốt
Bao trùm đức vua ta.



VƯƠNG DUY

Sinh năm 701 mất 761, người Hà Đông (nay là Vĩnh Tế, Sơn Tây), tên chữ là Ma Cật, xuất thân trong một gia đình quan lại lớn, đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 9 (721), từng làm Hữu tập di, Thượng thư hữu thừa... Cuối đời theo Phật, được người đời tôn là Phật Thi; ông còn là một họa sĩ thủy mặc nổi tiếng. Tác phẩm: "Vương Ma Cật tập".


196. Quán Trúc Lý

Hết đàn rồi lại hát,
Một mình giữa rừng cây.
Chỉ trăng và gió mát.
Chẳng bị ai quấy rầy.


197. Núi Hoa Tử

Chim bay hoài không dứt.
Núi Hoa Tử nối nhau,
Hết lên rồi lại xuống.
Đã sầu càng thêm sầu.


198. Khúc hát Vị Thành

Vị Thành mưa bụi trắng như mây.
Chớm xuân, quán rượu nụ đầy cây.
Ra khỏi Dương Quan là đất lạ.
Nào thêm chén nữa lúc chia tay.


199. Tiễn bạn ở Y Hồ

Hoàng hôn, ra bến nước,
Thổi sáo lúc chia tay.
Từ hồ ngoái nhìn lại,
Thấy núi xanh đầy mây.


200. Trại Mộc Lan

Núi thu vét nhặt chút hương ngày.
Líu ríu chim rừng, chim nhạn bay.
Mờ mờ ảo ảo màu cây cối.
Hoàng hôn, sương núi đã rơi đầy.


201. Vùng đất thấp Liên Hoa
Hái sen thường về muộn,
Vì bãi cát ven sông.
Nhẹ khua chèo, để nước
Không ướt cánh sen hồng.


202. Lục ngôn tứ tuyệt

Hoa đào ướt đẫm mưa đêm.
Sương treo trên lá liễu mềm.
Lá rụng, người nhà chưa quét.
Khách ngủ, chim kêu ngoài thềm.


Ngày Trùng Cửu, nhớ anh em ở Sơn Đông

Làm khách một mình nơi đất xa.
Hôm nay nhớ bạn ở quê nhà.
Anh em có lẽ cùng lên núi,
Thù du 1) cài tóc, thiếu mình ta.

1. Một loại cây có hoa đẹp. Ở Sơn Đông, vào ngày tết Trùng Cửu mồng chín tháng Chín, người ta leo núi, bẻ cành thù du cài lên đầu lấy phước.


203. Nghe tú tài Bùi Địch ngâm thơ, đùa tặng

Ngâm gì như vượn hót.
Nghe mà thật não lòng!
Thôi im cái giọng ấy,
Kẻo buồn khách trên sông.


294. Lộc Trại

Rừng vắng không thấy người,
Nhưng nghe rõ tiếng cười.
Nắng chiều va vào núi,
Lên rêu xanh đang rơi.


205. Núi Hoa Tử

Chim cứ chao lượn mãi.
Núi nhấp nhô ngả màu.
Đường viền dãy Hoa Tử
Nhìn bỗng buồn hồi lâu.


206. Lũng Tân Di

Hoa phù dung nở chóp cây xanh.
Một vùng đỏ rực bốn xung quanh.
Bên khe, nhà nhỏ người đi vắng.
Hoa bông mới nở, bông lìa cành,


207. Vũng Loan Gia

Mưa thu, từ kẽ đá
Chảy thành những dòng nông.
Con cò sợ, sà xuống,
Lại vội vút lên không.


208. Tiệp Dư 1) họ Ban

Điện vắng người, cửa sổ
Lập lòe đom đóm bay.
Đêm thu ngồi tựa trướng,
Đèn mờ ảo, lắt lay.

1. Một chức quan nữ phục vụ trong cung thời Trung Quốc phong kiến.


209. Thơ tặng Thôi Hưng Tông lúc chia tay

Giờ chia tay, dừng ngựa.
Trời lạnh, giữa hoàng hôn.
Phía trước phong cảnh đẹp,
Nhưng một mình vẫn buồn.


210. Từ núi, gửi các em gái

Ở đây nhiều đạo hữu.
Đọc kinh, thiền suốt ngày.
Từ thành xa đứng ngắm
Chắc chỉ toàn thấy mây.


211. Chân dung Thôi Hưng Tông

Vẽ chú lúc còn trẻ,
Nay chú già, râu dài.
Nhưng giờ người quen chú
Biết chú xưa đẹp trai.


212. Chú Chín họ Thôi 1) sắp đi
Nam Sơn, bên ngựa đọc tiễn

Mấy hôm nữa lại gặp.
Giờ bên thành, chia tay.
Đi thôi, hoa đang nở,
Kẻo hoa lại rụng đầy.

1. Có thể là Thôi Hưng Tông, con em nhà đằng caụa của Vương Duy.


213. Lại làm thơ khuyên Bùi Địch

Biết khó mà thoát tục,
Xa cuộc sống ồn ào,
Nhưng cứ chống gậy gỗ
Đi về hướng Nguồn Đào. 1)

(1) Tøc lµ khe Sa La, phía nam s«ng Ngoan Thñy, huyÖn §µo Nguyªn, ®­îc xem lµ n¬i lý t­ëng ®Ó ë Èn.


214. Thơ vặt

Xuân, lại nghe chim hót.
Cành mai lại nở hoa.
Buồn buồn nhìn nhánh cỏ,
E nó leo vào nhà.


215. Lời than thở trong cung

Trăng lạnh, mùi hoa như thấm sương.
Tiếng đàn réo rắt cung Chiêu Dương,
Như giọt đồng hồ ai thêm nước.
Để kéo dài thêm giọt chán chường.


216. Tặng Vi Mục

Cùng nặng lòng mây núi,
Không chịu về Đông Sơn.
Chắc đường đi tới đấy
Giờ cỏ mọc nhiều hơn.


217. Ghi lại

Mưa phùn, gác mờ tối.
Không mở cửa vì lười.
Nhìn đám rêu chợt thấy
Nó muốn bám áo người.


218. Tiễn biệt

Chiều, tiễn nhau trong núi.
Về đóng liếp tranh dày.
Sang năm cỏ lại mọc.
Liệu khách còn tới đây?


219. Gửi chồng ở xa
Bài một

Chồng hão danh lính thú,
Vợ nhan sắc phai dần.
Trang điểm xong lặng lẽ
Khóc, ngắm cành hoa xuân.


220. Gửi chồng ở xa
Bài bốn

Đầy sương mù, hôm ấy
Chàng và thiếp chia tay.
Giờ đứng nhìn chỉ thấy
Phía chàng trời đầy mây.


221. Gửi chồng ở xa
Bài năm

Trắng và mềm như lụa,
Trăng rất sáng đêm nay.
Để soi lòng của thiếp,
Trăng sáng đến rạng ngày.


222. Thú điền viên
Bài một

Hái hoa súng về, gió nổi.
Chống gậy ven thôn chiều tà.
Cây Hạnh 1) có người đánh cá.
Bên suối Đào Hoa có nhà.

1) S¸ch Trang Tö cã viÕt: "§øc Khæng Tö ®i ch¬i rõng Tri Duy, ngåi trªn ®µn cã c©y H¹nh (H¹nh §µn), c¸c häc trß cña ngµi ®äc s¸ch. Ngµi gÈy ®µn, ®­îc nöa khóc th× cã mét ng­ phñ r©u tãc b¹c ph¬ bá thuyÒn c©u lªn nghe".


223. Thú điền viên
Bài hai

Hè mà thông như vẫn lạnh.
Xuân về cỏ mọc xanh non.
Trẻ hồn nhiên, không danh lợi.
Trâu thuộc đường, tự về thôn.


224. Thú điền viên
Bài bốn

Hoa đào đỏ ngậm mưa đêm.
Liễu xanh mầm non mới nhú.
Hoa rụng chưa quét ngoài thềm.
Chim hót, khách lười vẫn ngủ.


225. Thú điền viên
Bài năm

Uống rượu cùng nhau bên suối.
Ôm đàn ngồi tựa gốc thông.
Sáng bẻ bông quỳ phía bắc.
Đêm nằm trong hang phía đông.


226. Đưa ma Ân Tử

Đưa tiễn ông về núi Thạch Lâu.
Táng xong, thấy bách vẫn xanh màu.
Từ nay xương trắng vùi mây trắng.
Chỉ nước xuôi về mang nỗi đau.


227. Khúc hát về những người trẻ tuổi

Tân Phong rượu quý sẵn, hàng ngày
Khách trẻ Hàm Dương vẫn tới đây.
Gặp nhau, cảm nhau mà nâng chén.
Ngựa buộc bên lầu, dưới gốc cây.


228. Than tóc bạc

Ngày nào trai trẻ, giờ răng móm.
Tóc đen nay đã trắng trên đầu.
Kiếp người bao chuyện buồn như vậy,
Không mong vào chùa thì vào đâu?


229. Tiết hàn thực trên sông Tị

Bên thành Quảng Vũ buổi cuối xuân,
Khách Mấn lên đường, lệ ướt khăn.
Chim hót, hoa rơi, cây liễu nhỏ
Nhìn khách sang sông, bóng khuất dần.


230. Ao Mạnh Thành

Dọn về ở Mạnh Thành.
Liễu già soi bóng nước.
Ai sẽ đến sau ta?
Thương cho người ở trước.


231. Khúc đêm thu

Giọt nước đồng hồ tí tách rơi.
Trăng khuya mờ ảo phía chân trời.
Thu đến, áo chàng chưa kịp gửi,
Xin đừng rơi sớm, lạnh, sương ơi.


232. Tặng quan trung thư họ Tử
bài "Trông núi Chung Nam"

Chiều, từ Tử Vi 1) xuống.
Đời oan trái nhiều bề.
Dừng ngựa bên song thụ,
Mải ngắm cảnh, quên về.

(1) Tøc Tö Vi tØnh, n¬i c¸c quan Quang Trung lµm viÖc.


233. Lời tiễn xuân

Người già thêm từng ngày.
Xuân đi rồi lại đến.
Tiếc gì cánh hoa bay.
Sẵn rượu, cứ nâng chén.
.

234. Thơ đề chơi trên phiến đá

Chiếc bàn đá nhỏ dưới lùm cây.
Bên suối, long lanh chén rượu đầy.
Nếu quả gió xuân vô tri giác,
Sao xua hoa rụng đến nơi này?


235. Thơ vặt

Bác vừa từ quê ra,
Chắc biết rõ chuyện nhà.
Bụi mai vàng bên giếng
Dạo này vẫn nhiều hoa?


236. Khe chim kêu

Người nhàn, hoa quế nở.
Lặng im rừng đêm hè.
Trăng mọc làm chim sợ.
Giật mình, kêu dưới khe.


237. Khúc đêm thu

Vừa mới chớm thu, lạnh đã se.
Chưa thay áo mỏng mặc mùa hè.
Nghe mãi sáo đàn rồi cũng chán,
Nhưng ngại phòng không, chưa muốn về.


238. Nhớ nhau

Giống đậu núi Ngũ Lĩnh
Thu đến mọc rất nhanh.
Ăn nó nhớ nhau lắm.
Hái nhiều nữa đi anh!


239. Tiễn biệt

Tiễn người Nam Phố, lệ như mưa.
Khi đến Đông Châu xin hãy thưa,
Nhắn giúp: Bạn bè ngày một ít,
Khác thời còn ở Lạc Dương xưa.


240. Đình bên hồ

Thượng khách bước lên thuyền.
Thuyền rẽ sóng tiến lên.
Ngồi trên hiên, uống rượu.
Bốn phía đều hoa sen.


241. Cùng với viên ngoại Lư Tượng thăm
nhà trong rừng của xử sĩ Thôi Hưng Tông

Cây xanh, bóng rợp, mát nơi nơi.
Rêu bụi không dây, có một người
Ngồi dưới gốc thông, đầu tóc xõa
Mắt trắng nhìn quanh nhận xét đời. 1)

(1) NguyÔn TÞch (cuèi ®êi Ngôy) lµ mét trong b¶y ng­êi hiÒn ë Tróc L©m, tôc truyÒn khi tiÕp ng­êi thanh cao, «ng nh×n b»ng ®«i m¾t xanh, khi gÆp kÎ xÊu m¾t «ng cã mµu tr¾ng.


242. Tức phu nhân 1)

Đâu vì được yêu mến
Mà quên mất tình xưa.
Khóc, ngắm hoa, lời nghẹn
Không nói gì với vua.

1) Vèn lµ vî vua n­íc Tøc thêi Xu©n thu. Së diÖt Tøc, vua Së Ðp nµng lµm vî m×nh, dï sinh ®­îc hai con nh­ng nµng kh«ng bao giê nãi mét lêi nµo víi Së V­¬ng.


243. Đưa chân ông Nguyên Nhị đi sứ An Tây

Mưa nhỏ Vị Thành, mưa lây rây.
Quán khách xanh xanh khói liễu bay.
Ra khỏi Dương Quan toàn khách lạ,
Ông hãy cùng tôi uống chén này.


Tiễn biệt

Vừa tiễn bạn trong núi.
Cửa đóng, ánh chiều tà.
Đầu xuân, cỏ lại mọc.
Liệu bạn đã về nhà?


Nhớ nhau

Nguồn gốc từ nước Nam,
Đậu đỏ, kia, đã nở.
Xin bác hái thật nhiều -
Nó gợi ta thương nhớ.


Tiễn Chu Đại vào Tần

Tiễn bác đi Vũ Lăng.
Đây, thanh kiếm nghìn vàng.
Chia tay, xin cởi tặng
Cùng tấm lòng tao khang.


Ao Ngưng Bích

Muôn nhà chiến sự, lắm gian nan.
Mong sớm chầu vua - lòng các quan.
Trong cung quạnh quẽ hoa hòe rụng.
Ngoài ao Ngưng Bích rộn tiếng đàn.


244. Trả lời chú Năm Trương Nhân

Núi Chung Nam trước mặt.
Nhà tranh, xa lánh đời.
Vắng khách, cửa luôn khép.
Suốt ngày lòng thảnh thơi.
Uống rượu, lại câu cá.
Chú rỗi, mời đến chơi.


245. Đưa tiễn

Xuống ngựa, nâng chén rượu,
“Bác đi đâu bây giờ?”
Bác đáp: “Đời chán quá,
Về núi Nam ngâm thơ.
Để tôi đi, đừng hỏi,
Kẻo mây trắng không chờ”.


246. Đáp quan huyện họ Trương

Tuổi già thích yên tĩnh.
Không bận lòng đến ai.
Tự thấy mình vô dụng,
Thì về núi nằm dài.
Gió thổi bay dải áo.
Trăng soi sáng cành mai.
Bác hỏi về lẽ sống?
Hãy lắng nghe sáo chài.


247. Nhà riêng ở núi Chung Nam

Trẻ đã yêu đạo Phật.
Già, về sống núi này.
Hứng - một mình đi dạo.
Vui - chỉ một mình hay.
Đi đến tận nguồn nước,
Ngồi ngắm áng mây bay.
Bất chợt gặp ông lão,
Vui chuyện đến hết ngày.


248. Ngẫu nhiên làm bài thơ này

Về già đâm lười biếng.
Tuổi tác đến bất ngờ.
Kiếp trước chắc nghề vẽ,
Danh văn chỉ ỡm ờ.
Do vì quen mà viết.
Người đời gọi nhà thơ.
Chữ và tên đã có,
Cái tâm thì còn chờ.


249. Đêm thu trên núi

Đang thu, chiều trĩu nặng.
Núi hiện dần, mưa tan.
Rừng thông trăng chiếu chếch.
Suối chảy qua đá tràn.
Xôn xao tiếng con gái.
Dập dềnh chiếc thuyền nan.
Du khách còn ở lại,
Mặc cho xuân úa tàn.


250. Ghé chùa Hương Tích

Hương Tích đâu không biết.
Đi mấy dặm đến đây.
Núi sâu tiếng chuông vọng.
Lối đi lá phủ dày.
Suối chảy ven vách đá,
Nắng lạnh vướng trên mây.
Hoàng hôn buông, quạnh quẽ.
Sâm sẫm một bãi lầy.


251. Tháng Hai, trong vườn

Tu hú đậu nóc nhà.
Khắp làng hạnh đâm hoa.
Cuốc đất tìm mạch suối.
Dao phát lá xùm xòa.
Én tìm về tổ cũ.
Người xem lịch năm qua.
Nâng chén, quên không uống,
Chợt nhớ người đi xa.


252. Thơ làm khi về núi Tung Sơn

Qua rừng thưa, sông chảy.
Xe ngựa đi thong dong.
Chim chiều bay nháo nhác.
Nước chảy như chiều lòng.
Thành hoang bên bến cũ.
Nắng vàng như mật ong.
Về núi Tung yên tĩnh
Đóng cửa, lánh bụi hồng.


253. Đêm thu, ngồi một mình

Một mình thương tóc bạc.
Chắc đã đến canh ba.
Trong mưa trái cây rụng.
Dưới đèn giun dế ca.
Khó làm tóc xanh lại.
Trường sinh tìm đâu ra?
Chỉ chăm lo đạo Phật
Mới thắng nổi cái già.


254. Tiễn Triệu Tiên Chu trên sông Kỳ

Mới gặp nhau vui vẻ,
Giờ đã buồn xa nhau.
Người đi, thương vất vả.
Kẻ ở, luống ngậm sầu.
Trời lạnh, núi quang đãng.
Chiều buông, sông đục ngầu.
Thuyền bác đi đã khuất,
Còn nhìn theo rất lâu.


255. Uống rượu cùng Bùi Địch

Nâng cốc cùng anh, rượu rót đầy.
Tráo trở, lòng người luôn đổi thay.
Bạc phơ mái tóc, gươm còn chống.
Lầu son kẻ ác ghét người ngay.
Lất phất mưa phùn, cây cỏ ướt.
Gió xuân lành lạnh, cánh hoa bay.
Việc đời bèo bọt xin đừng hỏi,
Thà rằng nằm khểnh ngắm mây bay.


256. Thơ làm trong núi lúc đầu thu

Bất tài, chẳng dám mộng Trường An.
Chọn chốn Đông Khê để sống nhàn.
Ngang sánh Thương Bình, con gả sớm.
Chỉ thua Đào Lệnh, chậm từ quan.
Ve kêu trong núi nghe buồn bã.
Ngoài vườn giun dế khóc râm ran.
Nhà tre vắng vẻ không ai tới.
Rừng xanh ta hẹn với mây ngàn.


257. Thơ làm tại nhà Võng Xuyên, trong cơn mưa dầm

Trong mưa, rừng vắng, khói trên không.
Nấu canh, nấu cá kiểu nhà nông.
Cò trắng chao bay trên ruộng nước.
Chim oanh vui hót bụi ngô đồng.
Nhìn cây, ngồi lặng, thiền trên núi.
Bẻ quỳ, chay tịnh giữa rừng thông.
Mấy bác nhà quê tranh chiếu rượu,
Ngơ ngác, chim âu cứ lượn vòng.


258. Núi Chung Nam


Mạch rồng chạy tới biển.
Thái Ất gần kinh đô.
Mây quyến luyến muốn tụ.
Đẹp như tranh họa đồ.
Núi xanh, khe nhiều vẻ.
Thung lũng chia thành ô.
Muốn đến đây nghỉ tạm,
Hỏi chuyện anh lái đò.


259. Nhà trên núi của xử sĩ họ Lý

Biết phận hèn, tự rút.
Quan lớn đầy trong triều.
Đi theo các đạo sĩ.
Lên núi cao dựng lều.
Tựa núi, ngắm hoa nở.
Ngước lên, nhìn mây chiều.
Sáng bạch rồi còn ngủ,
Nằm lười nghe chim kêu.


260. Chia tay hai em gái

Hai em nay đã lớn.
Tóc gần bằng người ta.
Đã biết cầm đàn quí.
Đã biết che khăn là.
Nhớ anh đi lần trước,
Còn vô tư nghịch hoa.
Nay hiểu buồn ly biệt,
Ân cần, giọt lệ sa.


261. Tiễn Chấp Nhị ở chùa Tư Thánh

Sống ở đời, sống gửi.
Chức quan còm, sá gì.
Cả với tôi cũng vậy.
Quan trọng gì ở, đi!
Đầu hạ, hòe râm mát.
Cuối xuân, liễu xanh rì.
Bờ ngự câu, bất giác
Nâng chén rượu biệt ly.


262. Tiễn chú Năm Trương Nhân về núi

Tiễn chú, buồn vô hạn.
Còn tiễn ai nữa đây?
Ở với nhau mấy bữa,
Chú đã vội chia tay.
Đông Sơn có nhà lá,
Nhờ quét ngõ hàng ngày.
Ta cũng nên về nốt,
Hơn cam chịu nơi này.


263. Quan lục sự họ Thôi

Hiếm thay, con người ấy.
Đổi quan lấy ruộng đồng.
Trẻ, giang hồ hiệp sĩ.
Già, thiền, đạo Nho thông.
Lánh đời, về núi ở,
Dựng nhà góc biển Đông.
Nghe đồn tu đắc đạo.
Tôi cũng muốn theo ông.


264. Thơ làm lúc thuyền xuôi
Đại Hà đến Thanh Hà

Thuyền giữa sông Đại Hà.
Trời và nước bao la.
Sóng lớn dâng cuồn cuộn.
Hai bên - vạn ấp, nhà.
Tiếp đến là đô thị.
Cả ruộng dâu, ruộng cà.
Ngoảnh lại nhìn quê cũ,
Thấy toàn mây xa xa.


265. Nỗi lòng đêm đông

Đêm đông dài và lạnh.
Đồng hồ điểm canh thâu.
Sương treo trên cỏ trắng.
Gặp rét, lá nhạt màu.
Áo đẹp, người ốm yếu.
Đèn đỏ, bạc tóc râu.
Triều đình chuộng người trẻ.
Mai xấu hổ vào chầu.


266. Đến thiền đường thăm thiền sư họ Phúc

Lối nhỏ men quanh núi.
Cây che kín thiền đường.
Chư tiên bay, tấu nhạc.
Chức nữ quì dâng hương.
Núi sáng sau rặng trúc.
Khe mát, cây khói vương.
Ngài tĩnh tâm thiền tọa.
Hoa nở thơm bên đường.


267. Bị đổi đi Tế Châu

Quan nhỏ dễ mắc tội.
Bị đổi đi Tế Châu.
Người chấp chính quyết định.
Vua có lòng nào đâu.
Nơi ấy làng ẩm thấp,
Dân ít, cảnh buồn rầu.
Mai đây nếu về được,
Chắc cũng bạc phơ đầu.


268. Sống nhàn ở Võng Xuyên 1)

Từ ngày về Bạch Xã, 2)
Không còn ở Thanh Môn, 3)
Thường tựa cây ngồi ngắm
Cảnh ruộng đồng, nông thôn.
Lau xanh soi bóng nước.
Chim trằng bay về non.
Ô Lăng Tử thong thả 4)
Tưới vườn bằng gáo con.

1. Võng Xuyên - một danh thắng, cách huyện Lam Điền 20 dặm về phía Tây Nam. Vương Duy có ngôi nhà riêng ở đó, phía trước là nhà của nhà thơ Tống Chi Vấn. Hai ông và bạn bè thường tụ họp ở đây ngâm vịnh.
2. Vùng đất phía tây cửa Kiến Xuân, thành Lạc Dương. Vương Duy nói về Bạch Xã  chỉ việc lui về ở ẩn, tu hành theo đạo Phật.
3. Cổng thành ở Trường An cũ.
4. Ô Lăng Tử, hay còn gọi là Ô Lăng Trọng Tử, là hiệu của Trần Trọng Tử, người nước Tề, nổi tiếng khí khái, vua nước Sở mời ra làm quan không chịu, hàng ngày kiếm sống bằng cách tưới nước thuê.


269. Nhà trên núi của quan cấp sự họ Vi

Không nhiều người tìm được
Một nơi đẹp như đây.
Núi cao liền sát cổng,
Khe nước giữa rừng cây.
Sau nhà bếp - khóm trúc.
Trước thềm đá - bụi mây.
Ai không muốn treo ấn
Khi được chỗ thế này?


270. Viết trên đò đêm đi Ba Nam

Bến đò lúc chiều tối.
Tiếng gọi đò xôn xao.
Chuông chùa quê đang điểm.
Đèn lốm đốm như sao.
Nhìn nhạn, nhớ quê cũ.
Nghe vượn hót, lệ trào.
Đêm, đò côi, trăng sáng,
Lòng cứ thấy thế nào.


271. Đến hang Cao Cốc với Trình Hộ

Rỗi, đến hang Cao Cốc
Tìm bác, bác vắng nhà.
Mây xuân, cây thêm ấm.
Mưa chiều, thêm đỏ hoa.
Lối vào hang vắng vẻ.
Đàn hươu đi trước nhà.
Áo quần và gối chiếu
Thấm hơi núi xa xa.


272. Thơ đề phòng nhà sư trên núi

Cây chìa cành vào cửa.
Núi đổ bóng xuống thềm.
Nước chảy, cối tự giã.
Lá như bàn tay mềm.
Mới biết học là ngốc.
Làm quan chỉ mệt thêm.
Sư ngủ đâu không thấy,
Chỉ nghe tiếng chuông đêm.


273. Đến tiểu viện của thương nhân Đàm Hưng

Đợi nhau bên Khe Hổ.
Tay cầm chiếc gậy tre.
Tiếng núi vang như giục.
Đi men theo bờ khe.
Hoa đồng nở từng cụm.
Chim gì hót não nề.
Đêm ngồi nơi rừng vắng,
Nghe gió, tưởng thu về.


274. Trên núi

Cổng đóng, trời tĩnh mịch.
Bóng chiều đổ mênh mông.
Ít người đến làm khách.
Nhiều chim trên ngọn thông.
Tre non phủ phấn trắng.
Sen để rơi cánh hồng.
Bến đò đèn đã sáng.
Người đi lại rất đông.


275. Đi ngang qua nhà sơn nhân
họ Lý, đề thơ lên vách nhà

Đời người như giấc mộng.
Hứng thì hát nghêu ngao.
Đất rộng, tre cứ mọc.
Sống lâu, tuổi càng cao.
Thuốc mượn Hàn Khang bán. 1)
Cửa chờ Hướng Tử vào. 2)
Chỉ hiềm mây trắng thế,
Ông biết ngủ thế nào?

1. Hàn Khang người đời Đông Hán, làm nghề bán thuốc ở chợ Trường An với giá nhất định. Một cô gái đòi mặc cả, ông nhất định không cho. Cô kia tức giận nói: “Ông là Hàn Khang hay sao mà không cho mặc cả?” Ông nghĩ bụng, mình muốn tránh cái danh mà đến một cô gái nhỏ còn biết tên, vậy ẩn danh làm gì nữa. Ông bèn bỏ sạp lên núi Ba Lăng ở ẩn.
2. Tên đầy đủ là Hướng Tử Bình, người đất Triệu Ca, đời Đông Hán, sau khi dựng vợ gả chồng cho con xong, ông cùng Cầm Khánh ngao du vùng Ngũ Nhạc đến hết đời.


276. Tiễn Mạnh Lục về Tương Dương

Đừng bước ra khỏi cửa.
Không tha thiết với đời.
Sống thế là hay nhất.
Bác cứ về nghỉ ngơi.
Say khướt với vò rượu.
Đọc sách, thích, cứ cười.
Còn đòi gì hơn nữa?
Đừng thơ phú, mệt người!


277. Xuân muộn nơi khuê phòng

Buồn buồn, ngồi trang điểm.
Mặt trời lặn, rực hồng,
Hắt bóng lên thềm ngọc.
Lò sưởi tỏa hương nồng.
Bướm bay, vương vào lưới.
Chim sẻ lượn vườn đông.
Hoàng hôn, buồn man mác.
Đào mận nở bên song.


278. Cuối xuân ở Vũ Uy, nghe tin phán quan
Vũ Văn đi sứ miền tây đã về tới Tấn Xương

Oanh lượn quanh đồn thú.
Mưa lất phất trên lầu.
Đào thấm lệ quan ải.
Liễu biên khu gợi sầu.
Soi gương, thương tóc bạc.
Xuân, thay áo cũ nhàu.
Nghe nói bác đi sứ
Đã về tới Qua Châu.


279. Về Võng Xuyên

Cửa hang, nghe chuông điểm.
Tiều ngư đã vắng dần.
Đi về hướng mây trắng.
Buồn buồn cái chiều xuân
Hoa dương nhẹ, chấp chới.
Đung đưa cọng rau tần.
Cỏ bờ đông xanh biếc.
Đóng cổng, đứng tần ngần.


280. Cảnh chiều sau cơn mưa

Mưa tạnh, đồng rất rộng.
Bầu trời cao, xanh trong.
Làng vươn tận khe núi.
Cổng thành giáp bến sông.
Nước ruộng xa sáng loáng.
Núi gần vút lên không.
Đang ngày mùa, bận việc,
Cả nhà ở ngoài đồng.


281. Than tóc bạc

Tuổi ta không còn ít.
Tóc bạc thêm từng ngày.
Dọc ngang khắp trời đất,
Còn sống được mấy ngày?
Hết lo chiều lại sáng.
Nhớ nhà khi ngắm mây.
Còn vướng víu gì nữa
Mà tất bật đó đây?


Sống nhàn ở Võng Xuyên
Bài hai

Núi lạnh màu xanh biếc.
Suối róc rách suốt ngày.
Chống gậy đứng trước cửa
Nghe ve kêu trên cây.
Bên sông, mặt trời lặn.
Trên gò, khói lam bay.
Hát ngông trước Ngũ Liễu
Lại Tiếp Dư đang say.


Ngắm cảnh sông Hán

Tam Tương liền Ải Sở
Kinh Môn chín nhánh thông.
Sông chảy xa tít tắp.
Núi khi thấy, khi không.
Sóng lô xô, vời vợi.
Làng xa trên bãi sông.
Tương Dương nhiều cảnh đẹp.
Lại say với sơn ông.


Đáp ông Quách Cấp Sự

Cửa động, lầu cao rợp nắng tà.
Xanh tươi đào mận, liễu ra hoa.
Chim kêu trong sảnh, gia nhân ít.
Nhà quan vắng vẻ, chuông ngân nga.
Sáng rung bội ngọc, đi lên điện.
Chiều vua ban chiếu, lạy, lui ra.
Những muốn theo vua, không ngại tuổi.
Lắm bệnh, từ quan, phải ở nhà.


Ghé chơi nhà Lý Tiếp

Suốt ngày vắng xe ngựa.
Trước cửa đầy cỏ hoa.
Khách đi theo ngõ tối.
Chó sủa dưới rừng già.
Đi, tay cầm sách đạo.
Tóc không trâm, lòa xòa.
Yên nghèo, vui đạo hạnh.
Ông là bạn của ta.
Uống xong chén rượu quí,
Lại chia tay, về nhà.


Lên thành Nhuận Châu

Lên cao, nhìn bát ngát.
Thành bên sông, xế ngày.
Chân cầu vồng mưa tạnh.
Cồn cát nước ngập đầy.
Quanh cánh buồm chim lượn.
Khói vương vấn ngọn cây.
Quê nhà nơi nào nhỉ?
Mắt nhìn về hướng Tây.


Cảnh nông nhàn ở Vị Xuyên

Mặt trời xế đầu xóm.
Từ núi trâu dê về.
Ông lão chờ lũ trẻ,
Chống gậy trước cổng tre.
Chim trĩ kêu, lúa tốt.
Tằm ngủ, ăn no nê.
Nông phu vai vác cuốc,
Gặp, nói chuyện đồng quê.
Sống nhàn là như vậy.
Cứ hát, cười hả hê.


Tây Thi
(Trích)

Người đời thích gái đẹp
Nên mới có Tây Thi.
Sáng bên khe giặt áo,
Chiều đệ nhất cung phi.
Lúc nghèo, giống người khác.
Giàu mới thành khinh khi,
Có người hầu trang điểm,
Nâng đỡ từng bước đi.
Vua yêu, càng ngang ngược,
Chẳng coi ai ra gì.


Suối Thanh Khê

Giữa rừng thông thanh vắng
Ầm ầm tiếng thác rơi.
Hai bên bờ lau lách.
Nước lạnh in mây trời.
Ta vốn ưa nhàn nhã,
Gặp chỗ này tuyệt vời.
Vậy ngồi xuống phiến đá,
Câu, quên hết sự đời.



LÝ THÍCH CHI


Làm khi thôi chức tể tướng

Thôi chức, về ở ẩn.
Cầm chén rượu trên tay,
Chợt nghĩ: Mấy người đến
Thăm nhà ta hôm nay?



TRƯƠNG VỊ


Thơ làm khi uống rượu giữa sông

Ngày - nhìn núi trước mặt.
Đêm - ngắm trăng trên đầu.
Chén rượu cạn lại rót.
Mọi việc vứt khỏi đầu.
Chủ nhân vạn hộc thóc,
Tiếc chén rượu đục ngầu?
Gặp bạn mà không uống,
Sau ích gì nhớ nhau?



BÙI ĐỊCH


Tiễn Thôi Cửu

Về núi nên đi nhiều,
Thăm mọi nơi, mọi góc.
Đừng như người Vũ Lăng
Đến Đào Nguyên một chốc.



TRƯƠNG BÍ


Gửi người

Mơ gặp bạn hiền, đến Tạ gia.
Mái hiên, lối nhỏ uốn quanh nhà.
Như thể nhớ người, sân vắng vẻ,
Trăng chiếu lạnh lùng lên xác hoa.





TỪ AN TRINH                                                              


Nghe người nhà bên chơi đàn tranh

Bắc Đẩu nằm ngang, đêm sắp tàn.
Nhìn trăng, buồn bã nghĩ lan man.
Bất chợt nhà bên cô gái Triệu
Thánh thót hoa tay gẩy điệu đàn.
Dồn dập tiếng tơ trên ngón ngọc.
Nhíu mày, thong thả tựa mây tan.
Không được thấy nàng thì ngủ vậy.
Trong mơ mong được ngắm hồng nhan.



LÝ KỲ

Người huyện Đông Xuyên, nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, đỗ tiến sĩ năm 725, từng giữ chức huyện úy huyện Tân Hoàng, sau từ quan về ở ẩn, giao du nhiều với các nhà thơ nổi tiếng đương thời như Vương Xương Linh, Vương Duy, Cao Thích. Không rõ năm sinh, năm mất.


282. Ngắm cảnh Tần Xuyên

Cảnh Tần Xuyên buổi sáng.
Đỉnh núi nhú mặt trời.
Tường thành cao lớp lớp.
Mặt sông lạnh, sáng ngời.
Tre muôn nhà xào xạc.
Thông khắp chốn xanh tươi.
Ai đi kia, than thở?
Sương mù giăng khắp nơi.


283. Trọ phòng thiền của Oánh Công, nghe tụng kinh

Có ai niệm Phật phía chùa Tây.
Tiếng chuông rời rạc, mảnh trăng gầy.
Đêm, sương rơi nặng, rừng xao xác.
Sáng, sáo trời kêu, rộn suốt ngày.
Lúc lặng như rơi vào chỗ trống,
Lúc ào như thác đổ từ mây.
Mới biết phù du là cõi tục.
Một lòng theo Phật nguyện từ nay.


284. Tiễn Ngụy Vạn lên kinh đô

Nghe người sáng dậy hát Ly Ca.
Đêm trước vượt sông, lệ thấm nhòa.
Ở đây lòng chạnh, nhìn chim nhạn,
Huống nữa một mình nơi đất xa.
Xác xơ cây lá ngoài biên ải.
Tiếng chày đập vải tận canh ba.
Đừng nghĩ Trường An nơi hưởng lạc,
Mà vui, để uổng tháng ngày qua.



TRƯƠNG VI

Tự Chính Ngôn, không rõ năm sinh, năm mất, đỗ tiến sĩ trong khoảng niên hiệu Thái Bảo (742 - 755), làm quan đến Lễ bộ thị lang.


285. Thơ đề vách nhà một người ở Trường An

Người ta kết bạn bởi tiền tài.
Tiền hết thì tình cũng nhạt phai.
Dẫu có nặng lời thề với thốt -
Lời thề như gió thoảng qua tai.


286. Cùng Vương Trưng Quân đi chơi
hồ Động Đình, có nỗi niềm phải suy nghĩ

Tiên Giang chảy về bắc.
Động Đình đã vào thu.
Nghìn xa, nhớ quê cũ.
Năm canh giọt lệ sầu.
Đọc sách, không quên được.
Uống rượu thêm buồn đau.
Lạc Dương, bạn không ít,
Nhưng bao giờ gặp nhau?



CƠ VÔ TIỀM

Không rõ năm sinh, năm mất, tự Quý Thông, đỗ tiến sĩ khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742).


287. Trọ ở chùa Long Hưng

Viếng chùa, đêm, ở lại.
Ngoài điện, rừng thông reo.
Trong chùa đèn le lói.
Tràng hạt áo tỳ kheo.
Sen xanh như phép Phật.
Ráng đỏ vắt qua đèo.
Hoa trời rơi chẳng dứt.
Chim bay giữa nắng chiều.


288. Ngày xuân dong thuyền chơi khu Nhược Da

Nhàn cả trong ý nghĩ.
Không cần biết đi đâu.
Gió thổi, thuyền cứ lướt.
Vào tận cửa khe sâu.
Đêm đến, rẽ núi bắc,
Đứng ngắm sao trên đầu.
Khói đầm bay mù mịt.
Trăng xuống thấp phía sau.
Chuyện đời nhiều rối rắm,
Thì làm anh đi câu.



ĐỖ PHỦ

Sinh năm 712, mất 770, tự Tử Mỹ, quê Tương Dương, nay thuộc tỉnh Hà Bắc, một trong những nhà thơ vĩ đại nhất đời Đường. Ông thi tiến sĩ không đỗ, một lần nhân đến Trường An, dâng lên vua Huyền Tông ba bài phú. Vua thấy hay, cho làm Đãi chế tập hiền viên. Đến đời Đường Túc Tông, ông giữ chức Hữu tập di, rồi Hoa châu tư công. Gặp lúc loạn lớn, ông bỏ quan về đất lạ Tần Châu hái rau kiếm củi lần hồi rồi lưu lạc tới Kiếm Nam. Nghiêm Vũ xin cho ông làm Tham mưu kiểm hiệu Công bộ viên ngoại lang. Đến đời Đại Lịch, ông tới Lỗi Dương, một đêm quá say rồi mất, thọ 59 tuổi. Tác phẩm: Còn lưu lại được 16 quyển thơ với hơn 1400 bài.


289. Cảm tác

Dở, hay tự mình biết.
Nghiệp văn, nghiệp cả đời.
Mỗi người một cách viết,
Kẻo đời sau chê cười.


290. Tuyệt cú

Trên nền nước biếc chim càng trắng.
Hoa đỏ hơn nhiều nhờ lá cây.
Xuân này có lẽ không về được,
Vậy biết xuân nào về được đây?


291. Chợt hứng

Đường trắng hoa dương, những lá sen
Tròn xanh trên suối như đồng tiền.
Mầm măng khẽ nhú không ai thấy.
Trên cát vịt trời đang ngủ yên..


292. Chợt hứng

Những muốn tới nơi suối khởi đầu.
Một mình chống gậy giữa Phương Châu.
Cuồng điên gió thổi, oằn tơ liễu.
Nước cuốn, hoa đào trôi tới đâu?


293. Tặng Lý Bạch

Thu về nhớ cảnh ngắm trăng lên.
Thẹn với Cát Hồng vì thuốc tiên. 1)
Ngang tàng, bướng bỉnh, kiêu, trọng nghĩa,
Ngày nào cũng uống, hát như điên 2).

(1) C¸t Hång tù lµ Bao Ph¸c Tö, chuyªn häc phÐp tiªn, kÓ c¶ viÖc ®Ó chÕ ra thÇn d­îc.
(2) Lý B¹ch næi tiÕng hay uèng r­îu, tÝnh khÝ hµo hiÖp, cã lóc v× ng­êi kh¸c mµ ®©m chÕt ng­êi.


294. Tặng Hoa Khanh

Cẩm Thành đàn sáo suốt đêm ngày,
Nửa tan vào gió, nửa vào mây.
Vốn của thiên cung, nơi hạ giới,
Ai đã từng nghe nhạc khúc này?


295. Bát đồ trận 1)

Giúp thiên hạ chia ba.
Nổi tiếng bát đồ trận.
Sông chảy, đá vẫn trơ.
Chưa lấy Ngô, còn hận.

1. Thời Tam Quốc Gia Cát Lương cho xếp đá lập trận bát đồ cao năm thước, rộng mười vi ở tay nam cung Vĩnh An, nay thuộc Tứ Xuyên. Sau này tướng Ngô là Lục Tốn đến xem bị lạc, may được Hoàng Thừa Nghiện, bố vợ Khổng Minh, chỉ đường mới thoát. Năm 768 Đỗ Phủ đi qua đây nên viết bài thơ này.


Bát đồ trận
Bản dịch hai

Giúp chia ba thiên hạ,
Lưu mãi bát trận đồ.
Nước chảy, đá còn đó.
Chỉ hận không đánh Ngô.


Miếu Vũ Hầu 1)

Núi cao, miếu mọc đầy cây cỏ.
Xung quanh, nét vẽ nhạt trên tường.
Văng vẳng lời ông từ biệt chủ 2),
Nhưng không về ẩn núi Nam Dương.

1). Tức Khổng Minh.
2). Tức Hậu Chủ, con Lưu Bị.


296. Tiễn Hạ Tiêm ở bến sông

Bùi ngùi lệ nhỏ lúc xa nhau:
Đã bảy mươi rồi, còn đi đâu?
Thuyền nghiêng, gió mạnh, buồn khi thấy
Trên sóng bạc đầu người bạc đầu.


297. Trung thu

Đêm nay là trung thu.
Trời cao, trăng huyền ảo.
Ai có tiệc lầu nam
Mà rộn vang đàn sáo.


298. Lại buồn

Các nước lo chinh phạt.
Quê cũ giờ thế nào?
Trước đã ít bạn hữu,
Nay thêm họa binh đao.


299. Tuyệt cú

Chim trắng bay, sông biếc.
Núi xanh tươi, đầy hoa.
Lại thêm một xuân nữa.
Biết bao giờ về nhà?


300. Gặp ông Lý Niên ở Giang Nam

Trước nhà Thái Cửu từng nghe tiếng.
Trong phủ Kỳ Vương gặp mấy lần.
Giang Nam xinh đẹp mùa hoa rụng.
Bây giờ lại gặp trạm dừng chân.


301. Tuyệt cú

Đôi chim oanh hót trên cành liễu.
Chấp chới trời xanh mấy cánh cò.
Khung cửa in tranh mờ núi tuyết,
Dập dìu thuyền đậu bến Đông Ngô.


302. Mạn hứng

Đứng ngắm sông xuân những chạnh lòng.
Một mình chống gậy bước thong dong.
Tơ liễu quay cuồng khi gặp gió.
Theo nước, hoa đào trôi dưới sông.


303. Quan Lý Cố mời xem tranh Tư Mã, em trai ông ta 1)
(Trích)

Cảnh thần tiên, trời, nước.
Thiên Thai, mây nhiều màu.
Đời trần này đẹp thế,
Còn thoát trần đi đâu?

1. Lý Cố mời Đỗ Phủ xem tranh của em mình là Tư Mã, và xin đề thơ bình. Đỗ Phủ viết ba bài. Đây là bài thứ hai. Bài có tám câu, xin trích dịch bốn câu ý chính.


304. Trông cảnh xuân

Nước mất, còn núi sông.
Cỏ vẫn mọc ngoài đồng.
Thương đời, hoa nhỏ lệ.
Tiễn bạn, chim đau lòng.
Lửa hiệu đốt ba tháng.
Thư nhà luôn chờ mong.
Tóc đã bạc, lại ngắn.
Cài trâm, cài không xong.


305. Được tin em Quan từ Trung Đô đã về tới Giang    Lăng, cuối tháng xuân này sẽ đến Quỳ Châu, vừa mừng vừa tủi, cuộc sum họp có thể đợi chờ, làm thơ tỏ chuyện ấy, tình lộ ra cả ở lời

Em đã đến Giang Phủ.
Bao giờ về Giáp Châu?
Vì loạn, thành ly biệt,
Nay sắp sửa gặp nhau.
Bệnh hết, mắt thôi chớp.
Sáng sáng bước lên lầu,
Hết sợ chết xương trắng.
Cũng bớt phần lo âu.


306. Lên lầu thành Duyện Châu

Đến Đông quan thăm cha.
Lên lầu Nam nhìn ra.
Mây đầy biển Đông Hải.
Thanh Từ đất bao la.
Thành hoang còn điện Lỗ.
Bia Tấn núi xa xa.
Nơi này nhiều cảnh cũ,
Xem không muốn về nhà.


307. Ngắm cảnh đồng quê

Bầu trời thu trong vắt.
Một vệt mờ rừng cây.
Trời, nước hòa làm một.
Thành chìm trong sương dày.
Gió thổi, cây rụng lá.
Mặt trời lặn phía tây.
Quạ trong rừng nhao nhác.
       Bay đâu hạc lẻ bầy?


308. Núi Vu ngày tạnh ráo

Núi Vu đẹp như gấm.
Sau mưa trời cao trong.
Cỏ ngoài ao xanh biếc.
Mây phía biển đỏ hồng.
Suốt ngày chim oanh hót.
Hạc giăng hàng trên không.
Hoa lặng lẽ héo rụng,
Gió thổi, bay ngoài đồng.


309. Đêm mười bảy, ngắm trăng

Trăng thu tròn và sáng.
Già, bên sông sống lười.
Cuốn rèm, trăng hắt bóng.
Chống gậy, trăng theo người.
Ánh trăng làm rồng quẫy.
Chim tỉnh, bay lên trời.
Nhà tranh bên gốc bưởi.
Long lanh giọt sương rơi.


310. Suy nghĩ khi ra ải

Dùng cung, cung phải cứng.
Bắn tên, tên phải dài.
Bắn người, bắn ngựa trước.
Bắt tướng để thị oai.
Giết người nên có hạn.
Người - ai cũng như ai.
Ví như tướng đánh giặc,
Đâu giết nhiều là tài!


311. Đêm trăng, nhớ em

Nghe trống, chân dừng bước.
Ngỗng kêu, thu gợi sầu.
Đêm nay sương dày đặc.
Quê cũ, ánh trăng thâu.
Anh em người một ngả.
Chết hay còn, ở đâu?
Thư gửi nhiều, không tới.
Binh lửa hẳn còn lâu.


312. Lại nhớ em

Thời loạn, nghe tin chú
Đang náu ở Tế Châu.
Đường xa, thư không tới.
Biết bao giờ gặp nhau?
Trước cũng từng chạy giặc,
Bao vất vả, buồn đau.
Thôi, mọi điều phó mặc
Dòng nước kia đục ngầu.


313. Đập vải

Chàng vẫn ngoài biên ải.
Mỗi bận mùa thu về,
Lau sạch chày đập vải,
Lòng thiếp buồn ủ ê.
Thiếp đập vải, nhuộm áo
Gửi cho chàng - phòng the,
Đập thật mạnh, đập mãi,
Mong ngoài ấy chàng nghe.


314. Gửi Đỗ Vi

Ngày lạnh, trời chóng tối.
Mất tổ, vượn kêu sầu.
Trên sông chợt nhớ bác.
Bác bây giờ ở đâu?
Gửi thân nơi cát bụi,
Có tránh khỏi buồn đau?
Gói phong thư gửi bác
Mà lệ ứa hồi lâu.


315. Buổi chiều

Trâu dê đã xuống núi.
Nhà nhà cổng cài then.
Trăng gió, đêm vắng lặng.
Sông núi, cảnh không quen.
Giọt sương treo ngọn cỏ.
Vách đá, suối kề bên.
Đầu bạc bên đèn sáng.
Cần chi nở hoa đèn.


316. Lên lầu Nhạc Dương

Động Đình xưa nghe tiếng,
Nay lên lầu Nhạc Dương.
Sở Ngô ở hai phía,
Trời đất mịt mù sương.
Thân già, chiếc thuyền nhỏ,
Vắng tin bạn, người thương.
Binh đao ngoài ải bắc.
Tựa hiên, lòng vấn vương.


317. Đêm ở đất khách, viết thơ để nói nỗi lòng mình

Hai bờ, cỏ gợn sóng.
Chiếc thuyền, buồm dương cao.
Trên sông trăng vỡ vụn,
Ngoài đồng nhấp nháy sao.
Nghề quan lo nghĩ lắm.
Nghiệp văn, nghiệp tầm phào.
Chơi vơi giữa trời đất,
Chim âu về nơi nào?


318. Đền thờ vua Vũ

Đền vua Vũ trên núi.
Gió thu thổi, xế tà.
Sân đầy bưởi và quýt.
Rồng vẽ kín vách nhà.
Đền vắng, hơi mây lạnh.
Nước trong hang chảy ra.
Vua dùng xe bốn loại,
Xây đập chắn Tam Ba.


319. Mặt trời lặn

Mặt trời xuống sát vách.
Xuân về bên suối trong.
Bác tiều phu nhóm lửa
Trên thuyền, giữa eo sông.
Côn trùng bay đầy ngõ.
Chim giành nhau quả thông.
Giá có vò rượu đục
Uống cho vợi nỗi lòng.


320. Đêm xuân, mừng trời mưa

Đang tiết xuân, bất chợt
Trời đổ trận mưa lành.
Muôn vật được tưới mát.
Hơi ẩm bốc xung quanh.
Thuyền chài le lói sáng.
Đường quê mây bập bềnh.
Chắc sáng mai, rực rỡ,
Hoa nở khắp Cẩm Thành.


321. Chiều hôm

Nơi này nước chảy xiết.
Hoàng hôn, núi nhuộm màu.
Hoa lạnh trong cỏ rối.
Chim ngủ tận rừng sâu.
Bao giờ thấy quê cũ?
Trời thu gợi nỗi sầu.
Ở đời gặp may hiếm.
Thoắt cái đã bạc đầu.


322. Không gặp

Lâu không gặp Lý Bạch.
Cứ giả khùng, giả sai.
Người đời muốn ông chết,
Nhưng ta thì mến tài.
Giang hồ, rượu cứ uống.
Thơ viết cả nghìn bài.
Nay già, đừng đi nữa,
Về đọc sách, nằm dài.


323. Dong thuyền trên sông Bồi, đưa Vi Ban về kinh

Ngồi thuyền đưa tiễn bác.
Sông buồn khách đi xa.
Lênh đênh lâu đất khách,
Mong bác sớm về nhà.
Mây lửng lờ trên núi.
Lớp lớp cây chen hoa.
Quê người bạn bè ít,
Đã già càng thêm già.


324. Trên cánh đồng phía tây Thế Thành, tiễn ông Lý phán quan và ông em Vũ phán quan đi phủ Thành Đô

Thời gian trôi lặng lẽ.
Bùi ngùi tiễn người thân.
Xa xa nước gợn sóng.
Buông tơ hàng liễu gần.
Hoa đồng nội đang nở.
Núi dạt dào sắc xuân.
Sao đời lắm ly biệt
Để buồn thương nhiều lần.


325. Ông Hai viên ngoại Phạm Mạc và ông
Mười thị ngự Ngô Úc chiếu cố đến thăm,
vì tiếp đãi sơ sót nên viết bài này

Sang chơi bên hàng xóm,
Không biết khách đến nhà.
Quả là vinh dự lớn
Dành cho kẻ yếu già.
Xóm vắng không có khách.
Lại ở tít đồng xa.
Mong các vị lại đến
Cùng đàm đạo, uống trà.


326. Sông Khúc
Bài một

Mỗi cánh hoa rơi, xuân bớt xuân.
Nhìn hoa trong gió, những bần thần.
Thôi, mặc hoa rơi, rượu cứ uống,
Để cho con tạo cứ xoay vần.
Nhà nhỏ bên sông cò vẫn đậu.
Vẫn trên sườn núi chú kỳ lân.
Nghĩ kỹ, đời này nên hưởng lạc,
Đừng vì danh hão, bận vào thân.


327. Sông Khúc   
Bài hai

Tan chầu, cứ phải uống thật say.
Hề chi cầm áo uống hàng ngày.
Đời người thất thập xưa nay hiếm.
Nợ tiền uống rượu, chuyện xưa nay.
Rỡn nước, chuồn chuồn luôn thấp thoáng.
Bươm bướm lại về, chấp chới bay.
Hãy nhớ: Thời gian trôi mãi mãi.
Vậy thì vui đến, cứ vui ngay.
                                                  

328. Chơi thuyền ở bến Tây Thành

Mày xanh, răng trắng, chiếc thuyền con.
Tiêu ngắn, sáo dài cứ véo von.
Gió xuân nhẹ thổi, say lòng khách.
Cánh buồm no gió giữa hoàng hôn.
Én chao, sa cả vào mâm tiệc.
Cá lượn tung tăng giữa sóng dồn.
Nếu không có buổi chơi thuyền đẹp
Thì đâu có rượu để trào tuôn.


329. Đêm ngủ lại trong phủ

Đêm thu lạnh lẽo giếng ngô đồng.
Một mình ngủ lại phủ ven sông.
Trời cao, trăng sáng cho ai ngắm?
Đêm khuya tiếng trống vọng vào phòng.
Lần nữa binh đao, tin vắng bặt.
Quan ải tiêu điều, xe khó thông.
Thấm thoắt mười năm, thân lặn lội,
Nay nương một chỗ, tạm yên lòng.


330. Thơ đề nơi ở ẩn của họ Trương

Vui được làm khách bác.
Hứng, ở luôn hết ngày.
Hươu chạy trong vườn cỏ.
Cá mè nhảy như bay.
Mời nhau chén rượu Đỗ.
Lê trương 1) nhà có đầy.
Đường về, núi hiểm trở.
Say mà không sợ say,.

1. Rượu đỗ, lê trương, hai đặc sản vùng quê của Đỗ Phủ.


331. Dự tiệc đêm ở nhà chàng họ Tả

Gió rừng thổi, trăng lặn.
Sương đêm vướng tiếng đàn.
Qua luống hoa nước chảy.
Sao vãi trên lan can.
Đốt nến ngồi đọc sách.
Nhìn gươm, rượu rót tràn.
Làm thơ xong, nghe hát,
Lại nhớ chiếc thuyền nan.


332. Ngắm cảnh buổi sớm

Trống cầm canh Bạch Đế
Báo Dương Đài rạng ngày.
Mặt trời lạnh nhô núi.
Mờ mờ những đám mây.
Cánh buồm xa, gió thổi.
Nghe rõ tiếng lá cây.
Hươu nai đùa trước ngõ
Muốn gọi mây vào bầy.


333. Thơ vặt ở Tần Châu

Thành Tần Châu phía bắc.
Ngôi chùa cổ sát đồng.
Tường điện loang nét vẽ.
Cửa núi phủ rêu phong.
Trăng soi sương trên lá.
Gió thổi, mây bập bồng.
Sông Vi vẫn hờ hững
Buồn bã chảy về đông.


334. Tuyết rơi trong đêm, trên thuyền
nhớ em là thị ngự Lư Vu Tứ

Gió thổi trên sông Quế.
Tuyết rơi nặng từng bông.
Lầu nam trăng mờ ảo.
Bãi bắc gió buốt lòng.
Ánh đèn nghiêng, thuyền nặng.
Yên tĩnh trùm mênh mông.
Ở xa, nghe gà gáy,
Chú có nhớ anh không?


335. Ngắm tuyết

Tuyết đã đến Trường Sa.
Mây Hồ lạnh muôn nhà.
Lá rơi bay theo gió.
Mưa nhiều, không nở hoa.
Cứ có tiền trong túi,
Bình rượu đầy thôi mà.
Khi không ai cùng uống,
Chờ quạ chiều bay ra.


336. Chiều tạnh

Chiều trong thôn, gió mạnh.
Sân lênh láng sau mưa.
Nắng sưởi làn cỏ mịn.
Màu sông hắt rèm thưa.
Rượu uống nhiều, tự rót.
Sách đọc xong vứt bừa.
Thỉnh thoảng nghe người nói:
Ông lão này lạ chưa!


337. Đom đóm

Bay ra từ cỏ mục,
Không dám gần mặt trời.
Không đủ sáng đọc sách.
Đôi lúc bám vào người.
Đôi lúc ra bãi vắng,
Chập chờn như ma trơi.
Chúng trốn đâu không biết
Giữa mây gió tháng mười?


338. Chim khướu

Chim khướu từ đâu tới,
Mang xuân đến mọi nhà.
Giỏi nhại tiếng chim khác,
Khéo múa bên cành hoa.
Trốn gần không ai thấy.
Hót hay khi ở xa.
Chẳng trách mỗi lần hót
Không ít người gièm pha.


339. Thuyền đến thành Quí Châu nghỉ lại, vì mưa dầm
         không thể lên bờ từ biệt phán quan Vương Mười Hai

Thuyền đậu trên bãi vắng.
Bờ đá ánh trăng lồng.
Con gì kêu là lạ.
Mưa rào rạt trên sông.
Chuông sớm, bến sông ẩm.
Nhà cổ, mây bập bồng.
Mái chèo như cánh nhạn.
Buồn này bác biết không?


340. Nhìn đom đóm

Đêm thu đom đóm lập lòe bay.
Chui cả vào màn, bám cả tay.
Chắc sợ trong phòng đàn, sách lạnh,
Lại bay ra ngõ, tụm thành bầy,
Trông giống sao thưa trên trời vắng,
Vật vờ giếng nước đến bờ cây.
Buồn xem đom đóm ông đầu bạc.
Năm tới giờ này có đến đây?


341. Khách đến nhà

Hai phía bắc nam đều ngập nước.
Chim âu không ngớt lượn quanh nhà.
Nay bác đến chơi, ra mở cổng.
Vắng khách nhiều ngày, chửa quét hoa.
Chỉ tiếc nhà nghèo nên rượu nhạt.
Thanh đạm mâm bàn vì chợ xa.
Nâng cốc uống đi, rồi bảo trẻ
Còn bao nhiêu rượu cứ mang ra.


342. Cùng uống rượu ở Lam Điền

Thu đến, tuổi già gượng giải khuây.
Hai người tôi bác uống hôm nay.
Thẹn mình tóc ngắn làm rơi mũ.
Nhờ bạn ngồi bên giúp buộc dây.
Sông Lam góp suối từ xa đến.
Núi Ngọc hai hòn cao tận mây.
Dịp này năm tới ai còn khỏe?
Đã vậy cứ ngồi uống thật say.


343. Tặng người ở núi Chu Sơn

Ông đồ thôn Cẩm đội khăn ô.
Ngoài vườn thu hoạch lắm khoai ngô.
Chim sẻ quen ăn, vào tận bếp.
Dạn khách, trẻ con thật lắm trò.
Sông thu sâu độ dăm ba thước.
Chở hai ba khách một chuyến đò.
Tre xanh, cát trắng, làng bên bến.
Tiễn người trước cổng lúc trăng nhô.


344. Sông Thanh

Làng nằm lọt giữa khúc sông Thanh.
Xóm bến mùa hè luôn vắng tanh.
Chim âu quen thuộc chao trên nước.
Con sáo thờ ơ nhảy giữa cành.
Vẽ bàn cờ giấy chơi cùng vợ.
Uốn lưỡi câu cùn cho trẻ ranh.
Ốm mãi, uống nhiều, quen vị thuốc.
Thân hèn không thiết chuyện công danh.


345. Uống rượu ở sông Khúc

Vườn ngự bên sông, ngồi suốt ngày.
Gác lầu soi bóng, nước lung lay.
Theo cánh hoa lê, hoa đào rụng.
Chấp chới chim vàng, chim trắng bay.
Lười chầu, là việc xưa nay hiếm.
Lâu không có bạn, một mình say.
Tự trách già rồi không ở ẩn,
Không về nhàn nhã với rừng cây.


346. Thu mới

Mây khói chưa đùn thành núi lạ,
Giật mình đã thấy lá vàng rơi.
Tiếng chày đập vải vang đâu đó.
Rét lạnh vườn cây giữa đất trời.
Râm ran ve khóc, thương trăng héo.
Đom đóm lập lòe lượn khắp nơi.
Tặng đền Kim Mã bài thơ mới.
Tóc trắng, buồn thay, đã rối bời.


347. Cảm hứng mùa thu

Rừng phong sương xuống, khói âm u.
Khí lạnh ùn ùn phía núi Vu.
Dưới sông mây nước đua nhau chảy.
Ngoài ải gió mây cuốn bụi mù.
Cô đơn, thuyền gợi tình quê cũ.
Cúc vàng nhỏ lệ kiếp phù du.
Háo hức nhà nhà may áo mới.
Tiếng chày đập vải rộn chiều thu.


348. Đêm thu, ngủ ở nhà Tả Tỉnh 1)

Bờ tường ngắn, hoa ít.
Tiếng chim hót trên cao.
Trăng rải vàng xuống đất.
Trời lấp lánh muôn sao.
Không ngủ, nghe tiếng khóa.
Cả tiếng gió ào ào.
Biết là sẽ được tiếp,
Mà vẫn lo thế nào.

1. Nơi khách chờ trước khi gặp vua trong Cố Cung. Năm Chí Đức thứ hai, đời Đường Túc Tông, Đỗ Phủ được mời làm Tả thập di, chờ yết kiến nhà vua.


349. Theo công tử Chư Quí đến khe Trương Bát,
có đem theo kỹ nữ, buổi chiều mát gặp mưa
Bài một

Xế chiều, thuyền lướt nhẹ.
Gió thổi, nước lững lờ.
Trời đẹp, sen thơm ngát.
Tre mọc kín hai bờ.
Công tử giục thuyền chạy.
Người đẹp cười, mộng mơ.
Bỗng mây đen kéo đến,
Đúng lúc nẩy ý thơ.


350. Theo công tử Chư Quí đến khe Trương Bát,
có đem theo kỹ nữ, buổi chiều mát gặp mưa
Bài hai

Mưa xuống, ướt chiếu tiệc.
Gió mạnh quất bốn bề.
Cô gái Việt quần ướt.
Nàng nước Yên ủ ê.
Dây chằng làm dập liễu.
Buồm rách lúc quay về.
Thoảng hơi thu lành lạnh,
Dẫu còn đang mùa hè.                 


351. Ngày xuân, nhớ Ly Bạch

Chẳng ai bằng Ly Bạch.
Thơ ngang tàng khác thường.
Tươi mới như Dữu Tiến.
Tài cao như Bảo Lương.
Xanh như cây Vị Bắc.
Đẹp như mây Hàm Dương.
Mong sớm cùng Ly Bạch
Uống rượu, chuyện văn chương.


352. Thơ vặt ở Tần Châu

Thành trơ trong lũng vắng.
Núi tiếp núi xa xa.
Mây bay ra biên giới.
Trên ải mảnh trăng tà.
Quan Thuộc Quốc về muộn
Vì bận việc can qua.
Tơi bời vì khói trận,
Bùi ngùi đứng mình ta.


353. Tiễn bác Nghiêm ở trạm Phùng Tế

Ngậm ngùi đưa tiễn bác.
Sông núi chứa chan tình.
Hôm qua cùng đi dạo,
Nay đã đi sao đành.
Dân các quận nhớ bác.
Suốt ba triều hiển vinh.
Bác về ẩn xóm núi,
Sống nhàn nốt đời mình.


354. Tiễn người đi xa

Khắp nơi đều có giặc,
Bác còn định đi đâu?
Bạn bè ai cũng khóc.
Con ngựa đứng buồn rầu.
Đến mùa, cây trụi lá.
Sông tuyết phủ một màu.
Phải chia tay bạn cũ,
Chợt thấy lòng quặn đau.


355. Con hoẵng

Bị bắt từ khe núi
Để đưa lên bàn ăn.
Tài không bằng ẩn sĩ,
Đâu dám trách gia nhân.
Đời loạn, thú cũng khổ.
Bao hiểm họa xa gần.
Loáng một cái, vào bụng
Bọn giàu, bọn bất nhân.


356. Cây mai bên sông

Tháng Chạp, mai hé nụ.
Tết, hoa nở trên cành.
Vẫn biết xuân tốt đẹp,
Khách buồn, vui sao đành.
Tuyết và mai cùng trắng.
Nắng làm nước long lanh.
Cố nhìn quê, không thấy.
Núi Vu Sơn thật xanh.


357. Đôi én

Kiếm cái ăn, sợ hãi,
Đôi én bay vào nhà.
Tìm đến nơi mát mẻ,
Tránh cái nóng quê nhà.
Vất vả nuôi con nhỏ,
Bay đến từ phương xa.
Đời này ta cũng vậy,
Phải lưu lạc, bôn ba.


358. Bài hành nuôi tằm, trồng lúa

Nước có nhiều quận huyện.
Mỗi quận huyện nhiều thành.
Thành có nhiều vũ khí.
Nếu không có chiến tranh,
Biến gươm thành cày cuốc,
Thì lúa tốt, dâu xanh.
Binh sĩ không phải chết,
Dân được hưởng hòa bình.


359. Ở lâu nơi đất khách

Sống gửi, thương bè bạn.
Ở lâu, biết thói đời.
Tự diễu mình ốm yếu,
Bé nhỏ và dở hơi.
Vương Xán buồn, bỏ nước.
Giả Nghị khóc kiếp người.
Lũ chồn cáo ti tiện.
Cọp sói đang gặp thời.


360. Sông Giang, sông Hán

Vùng sông Giang, sông Hán
Có ông gàn nhớ nhà.
Nhìn trời mây vời vợi,
Buồn với mảnh trăng tà.
Mặt trời lặn, còn hứng.
Thu về, bệnh sắp qua.
Cả gia tài duy nhất
Chỉ có con ngựa già.


361. Sông trời

Rất sáng khi thu đến.
Mùa khác có lúc mờ.
Lung linh hai cửa khuyết.
Bên thành, trăng thờ ơ.
Ngưu Lang và Chức Nữ
Phải năm năm đợi chờ.
Sông trời lớn và rộng
Chưa nổi sóng bao giờ.


362. Ngắm trăng đêm mười sáu

Trăng thu sương phủ bạc,
Suốt mùa hè dát vàng.
Quan sơn trăng man mác.
Dải Ngân Hà mênh mang.
Trên núi bác tiều hát.
Tiếng sáo chài âm vang.
Trằn trọc không ngủ được.
Có con thuyền đi ngang.


363. Phòng khuê

Phòng khuê, ngọc giá lạnh.
Gió thu thổi qua lầu.
Ao rồng đầy cung cũ.
Trăng Tần khuyết, gợi sầu.
Giọt đồng hồ vẫn chảy.
Lặng lẽ buộc thuyền câu.
Núi Hoàng xanh phía bắc.
Vườn Lăng sương bạc màu.


364. Chim nhạn về

Mùa thu đến, chim nhạn
Lại bay về phương xa.
Tới La Phù tránh tuyết,
Rời Trường Hải xem hoa.
Đó là điềm ly loạn.
Bao giờ hết can qua?
Đã năm năm xa cách.
Chưa một lần về nhà.


365. Đêm trên gác

Ngày tháng cuối năm như ngắn lại.
Đêm đỡ lạnh hơn nhờ tuyết rơi.
Trống đánh năm canh nghe não ruột.
Sao xa nhấp nháy phía chân trời.
Chinh chiến, nhà bên rầu rĩ khóc.
Đâu đó anh chài hát, nghỉ ngơi.
Rốt cục mọi điều vùi dưới đất.
Đã lâu, sốt ruột vắng tin người.


366. Thơ làm trên thuyền, ngày tiểu hàn

Rượu suông, đồ nguội, nắng lung linh.
Áo mũ chỉnh tề, buồn một mình.
Sóng xuân, thuyền nhẹ như lơ lửng.
Mắt kém, nhìn hoa chẳng rõ hình.
Chao lượn trên sông con nhạn trắng.
Bên thuyền, đàn bướm cánh xinh xinh.
Mây trắng, núi xanh, dài tít tắp.
Buồn trông phía bắc, chốn kinh thành.


Ở nơi xa xôi, nhớ Lý Bạch

Nơi chân trời gió mát
Người quân tử rong chơi.
Có thấy chim hồng nhạn?
Hồ thu nước sáng ngời.
Văn chương kỵ người giỏi.
Ma quỉ thích tối trời.
Ném thơ xuống sông Mịch 1),
Trò chuyện với hồn người.

1). Khuất Nguyên bị vua Sở lưu đầy, phẫn chí mà gieo mình xuống sông Mịch La.


Đêm trăng sáng, nhớ con gái

Ở Phu Châu, đơn độc
Ngắm trăng vàng lung linh.
Con gái còn thơ dại
Chưa biết nhớ cha mình.
Sương thơm trên mái tóc.
Trăng nhuộm cặp môi xinh.
Bao giờ được cùng bố
Ngắm vầng trăng hữu tình?


Viếng mộ quan thái úy họ Phòng

Công cán nơi đất khách,
Dừng ngựa trước mộ phần.
Trời cao xa, mây rách.
Đất ẩm lệ mùa xuân.
Chơi cờ hầu Tạ Truyện.
Mang kiếm viếng Từ Quân
Chim oanh hót tiễn khách.
Hoa rừng vướng dưới chân.


Xem tranh và thơ Lý Cố Nhân

Phương trượng mênh mông nước.
Thiên thai trùm trời mây.
Người đời xem tranh vẽ.
Ta già - nghe, chạm tay.
Tiếc Phạm Lãi thuyền nhỏ.
Vương Kiều hạc lẻ bầy.
Mọi việc do tạo hóa.
Ai thoát khỏi đời này?


Trông cảnh đồng quê

Tam Thành đồn lính, tuyết mênh mông.
Van Lý cầu ngang, nước cuộn dòng.
Loạn lạc, anh em xa cách mãi.
Mình ta ứa lệ, kiếp long đong.
Tuổi già đang đến, luôn đau ốm.
Ân vua đền đáp vẫn chờ mong.
Cưỡi ngựa ra thành nhìn bốn phía,
Ngẫm bao dâu bể, tái tê lòng.



VƯƠNG CHI HOÁN

Sinh năm 695, mất năm nào không rõ, người Biện Châu (nay là tỉnh Sơn Tây), cùng với Cao Thích, Vương Xương Linh và Sầm Tham là những nhà thơ biên tái xuất sắc; chỉ một ít bài thơ của ông được lưu truyền lại.


367. Lên lầu Quán Tước

Sông Hoàng hòa với biển.
Nắng núi tắt từ lâu.
Muốn nhìn xa hơn nữa,
Phải lên tiếp một lầu.


368. Ra biên ải

Sông Hoàng như chảy vào mây trắng.
Một mảnh thành trơ giữa núi ngàn.
Sáo Khương thôi chớ hờn dương liễu,
Theo gió xuân về với Ngọc Quan!



THÔI QUỐC PHỤ

Chưa rõ tiểu sử tác giả


369. Cổ ý

Thềm Hoàng Kim quét sạch.
Tuyết bay như sương mù.
Buông rèm, đàn tư lự,
Không nỡ ngắm trăng thu.


370. Lời oán

Bên lầu, đào lơ thơ,
Mặt hồ hoa sen úa.
Dải gấm dệt chưa xong,
Tiếng trùng xuyên vách lụa.



THIÊN BẢO CUNG NHÂN

Năm sinh, năm mất không rõ, cả tên họ, quê quán và cuộc đời cũng vậy, chỉ biết đây là một cung nữ thời Thiên Bảo, đời Đường Huyền Tông.


371. Lại đề thơ trên lá ngô đồng
trong vườn Thượng uyển

Ra khỏi cấm thành, chiếc lá thơ,
Có ai họa lại, biết bao giờ?
Giá được ra đi như chiếc lá,
Trôi giữa dòng đời, thỏa ước mơ.



TRƯƠNG BẬT

Năm sinh, năm mất không rõ, tên chữ là Tự Trừng, người Hoài Nam, nay là Dương Châu, Giang Tô, làm quan Huyện úy Nam Đường rồi đến Trung Thư xá nhân. Tác phẩm: Toàn Đường Thi có 19 bài.


372. Thăm nhà họ Tạ

Ngà ngà tìm đến Tạ gia chơi.
Lắt léo đường hiên chẳng thấy người.
Chỉ trăng đa cảm trong vườn vắng,
Buồn buồn soi bóng cánh hoa rơi.



LƯƠNG HOÀNH

Năm sinh, năm mất không rõ, tính tình phóng khoáng, năm 40 tuổi mới được giữ một chức quan nhỏ gọi là chấp kích; quen thân với Sầm Than, Lý Cố, Tiền Khởi. Toàn Đường Thi có 15 bài của ông.


373. Vịnh tượng gỗ

Đẽo gỗ, đeo tơ làm tóc râu.
Như thật thoáng nhìn, nhưng chốc sau
Khi diễn xong trò, nằm một xó.
Đời người cũng vậy, khác gì đâu.



BÔNG KIẾM LỘC

Không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết là người nô bộc mang kiếm cho chủ, nên mới có tên Bổng Kiếm Bộc, ở Hàm Dương, "Toàn Đường Thi" có ba bài của ông.


374. Thơ

Con chim đậu bờ giếng,
Mỏ ngậm một bông hoa.
Người đẹp e chim sợ,
Không vén rèm nhìn xa.



LÝ ÍCH

Sinh năm 748, mất 829, tự Quân Ngu, người Cô Tạng, nay thuộc tỉnh Cam Túc, đỗ tiến sĩ năm 769, từng giữ nhiều chức quan, tới Thượng thư bộ lễ. Tác phẩm: có "Lý Quân Ngu thi tập".


375. Đêm trên thành Thụ Hàng, nghe tiếng sáo

Hồi Lạc cát giăng ngời ánh tuyết.
Thụ Hàng bóng nguyệt tắm trong sương.
Sáo đâu ai thổi nghe day dứt
Cho người chiến trận nhớ quê hương.


376. Bài hát Giang Nam

Làm vợ người buôn bán.
Hẹn mà nhỡ hẹn hoài.
Biết thủy triều đúng hẹn,
Thà làm vợ anh chài.


377. Vừa mừng được gặp người em
họ ngoại, lại phải chia tay

Sau mười năm loạn lạc,
Giờ gặp nhau ở đây.
Hỏi họ tên mới biết.
Cả hai đều đổi thay.
Đời biết bao dâu bể,
Ôn lại đến tối ngày.
Hôm sau lại đi tiếp.
Trập trùng núi phủ mây.


378. Lên lầu Quán Tước

Cột buồm trăm thước phía đằng xa.
Nước biếc cây xanh, một vệt nhòa.
Trống, tiêu nhà Hán vang trên sóng.
Núi Ngụy đang phơi dưới nắng ta.
Chuyện cũ nghìn năm còn quá ngắn.
Buồn mới một ngày cũng xót xa.
Nhìn xuân vời vợi, cay trong mắt,
Khói sóng bâng khuâng nỗi nhớ nhà.



HÀN THÚY VÂN

Năm sinh, năm mất và sự nghiệp không rõ, tương truyền là cung nhân đời Đường Duyên Tông, nay chỉ còn lại bài thơ này.


379. Thơ đề trên lá đỏ

Nước thì luôn vội vã.
Ta trong cung ngồi chơi.
Nhờ nước mang ra hộ
Bài thơ này cho đời.



CÁT NHA NHI

Năm sinh, năm mất và sự nghiệp không rõ, còn ba bài thơ trong "Toàn Đường thi".


380. Nhớ chồng

Chẳng sao trâm gỗ, dáng nhà quê,
Áo cưới xuềnh xoàng chẳng dám chê.
Chỉ trách không người gieo lúa mới,
Và đến hẹn về, không thấy về.



THÁI THƯỢNG ẨN GIẢ

Tên tuổi, cuộc đời, sự nghiệp không rõ, chỉ biết ông là một ẩn sĩ theo Đạo giáo đời Đường, chỉ lưu lại duy nhất bài thơ này.


381. Trả lời

Kê đầu lên gối đá,
Nằm ngủ dưới gốc thông.
Trong núi chẳng có lịch,
Không biết đã hết đông.



HỒ TĂNG

Không rõ năm sinh, năm mất; tự Thu Điền; người Thiều Dương nay thuộc tỉnh Hồ Nam, đỗ tiến sĩ, từng giữ nhiều chức quan khác nhau, còn lưu được 160 bài.


382. Cầu Dự Nhượng

Dự Nhượng 1) đền ơn... câu chuyện này
Tiếng thơm lưu mãi đến ngày nay.
Nhưng hỏi mấy người như Dự Nhượng
Trong số bao người đã tới đây?

(1) Dù Nh­îng lµ ng­êi n­íc TÊn thêi Xu©n Thu ChiÕn Quèc, b¹n cña TrÝ B¸ lµ quan n­íc TÊn. TrÝ B¸ cã hiÒm khÝch víi vua TÊn, Dù Nh­îng gi¶ ®iªn t×m c¸ch giÕt vua TÊn ®Ó gióp b¹n, nh­ng kh«ng thµnh, bÞ b¾t. Tr­íc khi chÕt, Nh­îng xin ®­îc m­în vua chiÕc ¸o, tr¶i ra ®Êt, vôt mÊy roi cho h¶ giËn. Tõ ®ã Nh­îng næi tiÕng lµ bËc quèc sÜ, trung thÇn.



TƯỞNG DI CUNG

Không rõ năm sinh, năm mất, người Giang Hoài, từng làm Huyện lệnh Đại Phiến. "Toàn Đường thi" có hai bài.


Vịnh tượng Kim Cương

Trừng mắt, nhíu mày, vểnh cả râu,
Giống thật từ chân đến tận đầu.
Tưởng dọa được đời, ra vẻ lắm,
Nhưng trong toàn đất, có gì đâu.



TRỪ QUANG HY

Sinh năm 707, mất 760, người Sơn Đông thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay; đỗ tiến sĩ năm 726, làm quan đến chức Giám sát ngự sử. Tác phẩm: "Trừ Quang Hy tập" gồm 210 bài.


384. Đi qua Trường An

Đi ngựa qua quán rượu,
Liền vén áo vào chơi.
Một lúc tiêu trăm vạn,
Không thèm nói nửa lời.


385. Đường Lạc Dương

Ngày xuân, trời ấm áp,
Đường thẳng, rộng thênh thang.
Ngũ Lăng 1) quý công tử
Sóng ngựa đi thành hàng.

(1) ChØ n¬i ë cña c¸c nhµ quyÒn quý.



LÝ ĐỊCH CHI

Không rõ năm sinh, mất năm 747, người Lũng Tây nay thuộc tỉnh Cam Túc, từng giữ nhiều chức lớn trong triều. "Toàn Đường thi" còn lưu lại được hai bài thơ.


386. Viết khi thôi không còn làm tướng

Nhường người hiền chức tướng,
Về quê say suốt ngày.
Được mấy người khách cũ
Tới thăm ta hôm nay?



THÔI LỖ

Năm sinh, năm mất không rõ, người Kinh Nam nay thuộc tỉnh Hồ Bắc; đỗ tiến sĩ năm Quảng Minh đời Hy Tông, làm Tư Mã Lệ Châu "Toàn Đường thi" có 16 bài.


387. Cung Hoa Thanh

Lấp đường cỏ mọc, vắng xe loan.
Bích Điện âm u, bặt tiếng đàn.
Tự đi, tự đến, trăng đơn độc,
Không còn người đẹp tựa lan can 1).

(1) §ªm mïng b¶y th¸ng b¶y §­êng Minh Hoµng cïng D­¬ng Quý Phi ngåi ë lan can ®iÖn Thanh Hoa, chØ tay lªn trêi thÒ sèng chÕt cã nhau. Nay trªn trêi tr¨ng ®Õn råi tr¨ng ®i mµ ng­êi x­a tõng tùa lan can cïng vua ng¾m tr¨ng kh«ng cßn n÷a.



TÔ DĨNH

Không rõ năm sinh, năm mất, tự Diêm Thạc, làm tể tướng đời Đường Huyền Tông (713-755).


388. Trên Sông Phần, sợ mùa thu

Sông Phần xa vạn dặm.
Gió bấc thổi, sương mù.
Đang buồn, lòng bối rối,
Không nghe rõ tiếng thu.



KIM XƯƠNG TỰ

Năm sinh, năm mất không rõ, người Lâm An, nay thuộc tỉnh Chiết Giang. "Toàn Đường thi" chỉ còn bài này, các bản chép là "Xuân oán".


389. Bài ca Y Châu

Hãy xua con chim nhỏ,
Đừng cho hót trên cây,
Làm thiếp luôn tỉnh giấc
Không đến được Liêu Tây.



TỊCH HUỲNH

Nhà thơ thời Vãn Đường, không rõ năm sinh và năm mất. Tác phẩm: "Động đình tập".


390. Ngày thu trên hồ

Ngũ hồ, ngày đang tắt.
Khói sóng, cảnh gợi sầu.
Nổi trôi cần gì biết
Nước đang xuôi về đâu.



CẢNH VI

Không rõ tiểu sử, chỉ biết ông người Hà Đông, làm chức tả thập di năm Đại Lịch (766 - 779).


391. Ngày thu

Nắng chiều len tận ngõ.
Trò chuyện cùng ai đây?
Đường xưa giờ vắng khách.
Đồng lúa gió lung lay.



LÝ NGANG

Sinh năm 809, mất năm 840, tức Đường Văn Tông, làm vua 14 năm, bị gian thần và hoạn quan giết chết.

392. Thơ đề trong cung

Đường xe vua cỏ mọc.
Thượng Lâm hoa muôn màu.
Trên cao ý nghĩ rộng.
Chật hẹp chốn thâm sâu.



LÝ GIA HỰU

Năm sinh, năm mất không rõ, tự Tòng Nhất, người Triệu Châu nay thuộc tỉnh Hà Bắc, đỗ tiến sĩ năm 748, làm quan tới chức Thứ sử Viên Châu. "Toàn Đường thi" còn hai bài


393. Lầu trúc

Ngũ Hầu quan lớn chẳng bằng ta:
Tây Giang thanh thản, lầu thay nhà.
Gió nam thổi mát không cần quạt.
Hết ngủ, cùng chim lại ngắm hoa.



DƯƠNG SĨ NGẠC

Chưa rõ tiểu sử tác giả.


394. Lên lầu

Thành cổ xác xơ bóng liễu hòe.
Đêm qua mưa lớn, nước đầy khe.
Con đường phía nam không xe ngựa.
Lên gác một mình, chợt nhớ quê!



VƯƠNG BIỂU

Năm sinh, năm mất không rõ, đỗ tiến sĩ năm 779, làm quan đến chức Bí thư thiếu giám. "Toàn Đường thi" còn được ba bài


395. Ở thành Đức Lạc

Lên lầu Triệu Nữ ngắm hoa xuân.
Đang vui lại hát "Khúc Quan San".
Thành xuân bỗng chốc thành thu úa.
Dẫu không là lính, lệ dâng tràn.



QUYỀN ĐỨC HƯNG

Sinh năm 759, mất năm 818, tự Tải Chi, người Tần Châu, nay thuộc huyện Cam Túc, Sớm nổi tiếng giỏi văn thơ, làm quan đến chức thừa tướng. " Toàn Đường thi" còn khoảng 10 quyển thơ ông.


396. Trên núi, gặp người xa nhau đã lâu, rồi lại xa

Xa nhau một loáng đã mười xuân.
Bây giờ lại gặp lúc hành quân.
Rồi ngựa quay đầu, người một hướng.
Trên núi xa xa, nắng tắt dần.



NGUYÊN CHẨN

Sinh năm 779, mất 831, tự Vi Chi, người Lạc Dương, Hà Nam, từng làm quan, bạn thân với Bạch Cư Dị, là nhà thơ nổi tiếng đời Đường. Ông còn là tác giả cuốn truyện "Hội Chân ký" mà sau này Vương Thực Phủ dựa vào để soạn lên cuốn Tây Sương ký. Tác phẩm: "Nguyên thị Trường Khách tập", gồm 60 quyển, trong đó có 26 quyển thơ, ước khoảng 800 bài.


397. Nghe tin Lý Bạch bị giáng làm Tư Mã Giang Châu

Trong đêm leo lắt ngọn đèn dầu,
Nghe bác bị đầy đi Giang Châu,
Đang ốm mà lo, ngồi bật dậy.
Gió lạnh, mưa thu tạt ướt lầu.



TRƯƠNG HỖ

Năm sinh, năm mất không rõ, tự Thừa Cát, người Nam Dương, nay thuộc tỉnh Hà Nam, suốt đời là một xử sĩ. Tác Phẩm: "Trương xử sĩ thi tập".


398. Tặng cung nữ

Cung cấm trăng soi tán lá mềm.
Đôi cò trong tổ ngước lên xem.
Bên đèn, khẽ rút cành trâm ngọc,
Gạt đốm lửa tàn cứu bướm đêm.



LỆNH HỒ SỞ

Sinh năm 766, mất 837, tự Xác sĩ, người Đôn Hoàng, nay thuộc tỉnh Cam Túc. Ông đỗ tiến sĩ năm 791, làm quan đến chức Thượng thư Bộc xạ. Trong “Toàn Đường Thi” ông có một quyển.


399. Chờ ân vua

Vườn nhỏ chim oanh hót.
Bướm bay nhiều cửa đông.
Lại thấy mùa xuân đến,
Nhưng không thấy xe rồng.


400. Bài hát của người đi lính

Gió bắc thổi nghìn dặm.
Đêm khuya, trăng xế tà.
Tai nghe trống trận dục.
Đầu mơ được về nhà.



TIẾT OÁNH

Không rõ tiểu sử. "Toàn Đường thi" còn lưu ba bài thơ của ông.


401. Ngày thu trên hồ

Ngũ Hồ nắng tắt, cánh buồm nâu.
Đâu cũng mênh mang khói sóng sầu.
Chìm nổi sự đời luôn vẫn vậy.
Cần gì phải hỏi nước về đâu?



TRỊNH NGAO

Sinh năm 865, mất 939, tự Vân Du, người Hà Nam, thi nhiều lần không đỗ, sau đó ở ẩn suốt đời. "Toàn Đường thi" còn 19 bài.


402. Khúc hát về sự giàu sang

Người đẹp khi trang điểm,
Cài trâm, đeo nữ trang,
Có biết tay và tóc
Đeo thuế của mấy làng?



NHUNG DỤC

Năm sinh, năm mất không rõ. Người Kinh Nam, nay là Giang Lăng, tỉnh Hồ Bắc, đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Thứ sử Thần Châu. Thơ thiên về tả cảnh, trữ tình nội tâm. Tác phẩm: "Nhung Dục thi tập" khoảng 120 bài.


403. Tiễn nhau ở đình bên hồ

Hồ xuân gợn sóng, liễu xanh rì.
Bên đình lưu luyến phút chia ly.
Quen sống bên ngoài, chim chích nhỏ
Hót vài ba tiếng tiễn người đi.


404. Ở đất khách, gửi cho quan
Trương lang trung tận Hồ Nam

Sông lạnh, nước tràn, dạ vấn vương.
Bóng trăng gặp trúc, rối bên đường.
Trong mơ không biết hồ rất rộng.
Đêm lại quay về đất Lạc Dương.


405. Họa bài thơ “Đêm thu ở lại trực, xem mưa”,
gửi cho bạn tri kỷ của đô quan viên ngoại họ Miêu

Nam cung, trời mưa mãi.
Ở lại trực nơi đây.
Đêm dài ngoài cửa phượng.
Thu lạnh, trời đầy mây.
Đom đóm bay vào cửa.
Chim kêu ngoài vườn cây.
Quan và dân đều vắng.
Tiểu Tạ 1) có thơ này.

1. Tức Tạ Diễu (464 – 499), nhà thơ thời Lục Triều, nổi tiếng về thể thơ ngũ ngôn, còn được gọi là Tiểu Tạ để phân biệt với Tạ Linh Vận (385 – 433, Đại Tạ), một nhà thơ khác thời Nam Bắc Triều.



DƯƠNG CỰ NGUYÊN

Sinh Năm 755, mất không rõ năm nào, người Hà Trung nay thuộc tỉnh Sơn Tây, đỗ tiến sĩ năm 789, từng giữ nhiều chức quan khác nhau, hay xướng thơ với Bạch Cư Dị. "Toàn Đường thi" còn hai quyển của ông.


406. Họa bài thơ "Dương Liễu" của tú tài họ Luyện

Liễu rủ bờ sông mái tóc xanh.
Dừng ngựa chờ anh hái một cành.
Tình ý, gió xuân nhè nhẹ thổi
Vào nhánh liễu gầy trong tay anh.


407. Ở phía đông thành, tiết xuân sớm

Nơi nhà thơ ở chớm xuân sang.
Liễu nửa còn xanh, nửa đã vàng.
Vườn cổ Thượng Lâm hoa nở rộ.
Ngắm hoa, vãn cảnh khách từng hàng.


408. Tiễn pháp sư Phụng Đình trở về An Nam

Quê ở xứ Nam Việt.
Muôn dặm mây năm màu.
Bái biệt vua, trở lại
Nơi núi cao, biển sâu.
Sáng tụng kinh trước sóng.
Chiều ngồi thiền trên lầu.
Trường An hãy nghĩ trước,
Rồi mới đến Giao Châu.


409. Tiễn Đạm Công về chùa Long Đàm
ở núi Tung để chôn cất sư thầy

Khói đồng, nước biếc buổi ban mai.
Đi ở thảnh thơi, bước dặm dài.
Bốn cây làm cột nâng nhà lá.
Nghìn hoa thành bệ dựng thiền đài.
Đi đến gặp rồng nơi động ngọc.
Theo chim trở lại chốn phòng trai.
Bên cốt sư thầy, đừng bịn rịn.
Cửa không 1) không đóng, chẳng then cài.

1. Cửa nhà Phật.



QUYỀN ĐỨC DƯ

Tự Tái Chi, người Lạc Dương. Chưa rõ năm sinh, năm mất. Làm quan đến chức Lại  bộ thượng thư. Tác phẩm: "Quyền Văn Công tập".


410. Khúc Ngọc Đài Thể

Suốt đêm chờ trằn trọc.
Người đi xa về rồi.
Vội tô mày, chải tóc,
Không kịp lấy gương soi.



HOÀNG PHỦ NHIỄM

Không rõ năm sinh, năm mất, đỗ tiến sĩ năm 756, tự Mậu Chính, người An Định (Cam Túc).


411. Nỗi oán của nàng Tiệp Dư 1)

Từ điện Kiến Chương cung nữ ra.
Chiêu Dương lầu gác rộn lời ca.
Thử hỏi người vua ân sủng vậy,
Đôi mày có dài hơn mày ta?

(1) Mét cÊp bËc cña cung n÷. TiÖp D­ ë bµi nµy lµ nµng Ban TiÖp D­, cã tµi s¾c ®­îc vua yªu, sau TriÖu Phi YÕn vµo cung, vua nh¹t t×nh, ph¶i sang hÇu Th¸i hËu.


412. Quán trên núi

Quán trên núi vắng người.
Sớm chiều mây đơn độc.
Ngoài sân, ánh mặt trời
Như dính vào rêu mốc.


Cùng Ôn Đan Đồ lên lầu Vạn Tuế

Lầu cao, ngắm cảnh, vấn vương lòng.
Một màu xanh thẳm núi cùng sông.
Người không nhìn mãi về phương Bắc.
Chim nhạn về Nam, bay giữa đồng.
Bến cũ Đan Dương vương khói lạnh.
Qua Bộ mờ mờ một bãi nông.
Nghe nói quan quân đang dẹp giặc.
Liệu có tướng tài giúp nước không?



LẠNG SĨ NGUYÊN

Chưa rõ tiểu sử tác giả.


413. Tiễn bạn

Tuyết rơi từ sáng, trời không mây.
Thổi dồn gió bắc, én không bay.
Tiếc nghèo, tiễn bạn không quà tặng.
Chỉ có màu xanh ngọn núi này.



UNG DỤ CHI

Chưa rõ tiểu sử tác giả.


414. Liễu bên sông

Bên sông tha thướt liễu buông cành.
Mờ mờ như khói một bờ xanh.
Ứớc gì có thể đem tơ liễu
Làm dây níu giữ được thuyền anh.



TRƯƠNG TRỌNG TỐ

Không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết đậu tiến sĩ năm 779, làm quan đến chức Trung thư xá nhân.


415. Khúc hát đêm thu

Nước đồng hồ nhỏ suốt năm canh.
Mây tản, trăng khuya lộ một vành.
Áo chiến ba quân chưa nhận được,
Thu sang sương giá, lạnh sao đành?


416. Qua vườn Hán Uyển

Thái Dịch én về, chấp chới bay.
Muôn màu Hán Uyển hoa trên cây.
Xuân đẹp dành chung cho tất cả.
Mấy ai được hưởng trọn xuân này.



DÃ TĂNG

Chưa rõ tiểu sử tác giả.


417. Vịnh trăng

Mồng bốn trăng non, một mảng mờ,
Như rắn khoanh tròn, như cuộn tơ.
Hồ con nước lặng, trăng hai nửa.
Nửa bơi dưới nước, nửa trên bờ.

                                        

TĂNG CHÍ AN

Chưa rõ tiểu sử tác giả.


418. Tuyệt cú

Bến sông, thuyền nhỏ cột bên lầu.
Mình ta chống gậy bước qua cầu.
Gió thổi đầu trần không thấy lạnh.
Sương hoa quệt áo, ướt từ lâu.



TÀO BÂN

Không rõ năm sinh, năm mất, tự Liêm Giang, người Hồ Châu.


419. Xuân muộn

Không người thương xót cánh hoa rơi.
Màu xanh trải rộng đến chân trời.
Trong núi oanh kêu gần lạc giọng,
Bãi cỏ bên ao, ếch đáp lời.



MẠNH TRÌ

Chưa rõ tiểu sử tác giả.


420. Lời than của vũ nữ cung Trường Tín

Vua không cần nữa, biết đi đâu?
Nhan sắc tàn phai, luống ngậm sầu.
Giận mình không thể như chim én,
Xuân về bay lượn trước rèm châu.



ĐOÀN THÀNH THỨC

Không rõ năm sinh, mất 863; tự Kha Cổ, người Tề châu, nay thuộc tỉnh Giang Tô.


421. Khúc hát Chiết Lương Liễu Chi

Thấm mưa, nụ hé, lá xanh màu.
Trường Môn bóng liễu quyện vào nhau.
Vắng bóng xe loan, xuân sắp hết.
Hoàng hôn, oanh yến hót bên lầu.


422. Bài hát bẻ cành dương liễu

Nhờ ơn mưa móc mọc chồi non,
Liễu buông chằng chịt trước Trường Môn.
Xe loan thôi đến, xuân đang hết.
Buồn buồn oanh hót gọi hoàng hôn.



VƯƠNG HÀN

Không rõ năm sinh, năm mất, người Tấn Dương, tự Tử Vũ, đỗ tiến sĩ, làm quan đến Công bộ viên ngoại lang .


423. Hát ở Lương Châu

Trống giục lên đường, tiếng ngựa xe.
Rượu nhiều, còn muốn uống thỏa thuê.
Binh sĩ có say, xin chớ trách -
Xưa nay chinh chiến mấy ai về?



LÝ NGAO

Không rõ năm sinh năm mất, tự Tập Chi, người Triệu Quân, từng theo Hàn Dũ tập làm văn. Đỗ tiến sĩ, làm đến chức Tiết độ sứ Sơn Nam. Tác phẩm: Luận ngữ bút giải Ngũ mộc kinh, Lý văn công tập...
.

424. Sống ở nơi yên tĩnh

Chọn được nơi này sống thảnh thơi.
Không đón đưa ai, thoát nợ đời.
Thỉnh thoảng hứng lên, lên đỉnh núi,
Vén mây kêu một tiếng vang trời.



BÙI ĐỘ

Không rõ năm sinh, năm mất; đỗ tiến sĩ năm 805, từng làm tới chức tể tướng  cuối đời từ quan về ở ẩn, vui thú thơ rượu với bạn bè, như Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích...


425. Nhà bên suối

Suối chảy ngay trước nhà.
Lều tranh, tán lá xoà.
Bụi trần không đến được.
Chim nước kêu xa xa.



CHÍ AN

Không rõ năm sinh, năm mất và quê quán, chỉ biết ông là một nhà sư sống vào đời vua Hy Tông (874 - 888).


426. Tuyệt cú

Cột chiếc thuyền con bên gốc cây,
Chống gậy tới cầu ở phía tây.
Khóm liễu gió lùa không thấy lạnh.
Như mưa hoa rụng, ướt bàn tay.



TƯ MÃ LỄ

Chưa rõ tiểu sử tác giả.


427. Nỗi oán trong cung

Lơ thơ bóng liễu rủ trước lầu.
Oanh kêu man mác gợi thêm sầu.
Năm năm hoa rụng không ai ngó,
Theo suối ra ngoài trôi đến đâu?



TRƯƠNG LAI

Chưa rõ tiểu sử tác giả.


428. Mưa buổi sáng sớm

Núi biếc, sông xanh, mây vấn vương.
Mưa lên vách liếp, hoa bên đường.
Con chim an ủi người đơn độc -
Hót lên nghe giống giọng quê hương.



CỐ HUỐNG

Sinh 725, mất 785, người Hải Diêm, Tố Châu, nay thuộc tỉnh Giang Tô, có tài thơ, vẽ và viết chữ đẹp, thích khôi hài, trào phúng, đỗ tiến sĩ niên hiệu Chí Đức (756 - 757).


429. Nghe tiếng tù và, nhớ quê

Vườn phủ rêu xanh, vàng lá rụng.
Ngoài thành ếch nhái gọi râm ran.
Khó ngủ còn vì không gặp được
Người đang đi dưới ánh trăng tàn.


430. Bài từ trong cung

Tiếng đàn, tiếng hát bên lầu ngọc.
Rất vui cười nói các cung tần.
Tí tách giọt đồng, trăng đã mọc.
Vén rèm, tưởng với được sông Ngân.



LÂU DĨNH

Chưa rõ tiểu sử tác giả.


431. Phiến đá Tây Thi

Tây Thi giặt lụa ở nơi này,
Bây giờ hòn đá phủ rêu dày.
Một chuyến Cô Tô không trở lại.
Trên bờ mận nở nào ai hay?



TRẦN ĐÀO

Sống khoảng giữa thế kỷ thứ 9, người Quách Dương, nay là Quảng Tây, đỗ tiến sĩ đời Đường, làm quan đến chức Thứ sử Dương Châu. Tác phẩm: "Tào Từ bộ tập".


432. Bài hát Lũng Tây

Liều thân tiêu giặc diệt Hung Nô,
Năm nghìn tướng sĩ chết đất Hồ.
Vô Định đống xương nằm dưới mộ,
Thương ở quê xa vợ vẫn chờ.



LA ẨN

Sinh năm 833, mất năm 909, tự Chiêu Đông, người Dư Hàng, nay thuộc tỉnh Chiết Giang, thi tiến sĩ mười lần không đỗ. Tác phẩm: "La Chiêu Đông tập".



433. Tặng kỹ nữ Vân Anh

Chung Lăng cách biệt chục năm nay,
Giờ gặp Vân Anh ở chốn này.
Ta chưa thành nghiệp, nàng đơn độc.
Có lẽ chúng mình không gặp may.


434. Tự khuây khỏa

Thường vui khi được, mất thì buồn.
Buồn lắm hận nhiều, chỉ héo hon.
Hôm nay có rượu, thì vui đã.
Mai có việc buồn, mai hẵng buồn.


435. Nàng Tây Thi

Vận nước luân hồi thịnh lại suy.
Người Ngô sao mãi oán Tây Thi?
Đã đành vì nàng mà Ngô mất,
Nhưng Việt thì sao, bởi cái gì?


436. Hoa đào

Man mác mùi hương, thấm áo quần.
Hoa đào bất chợt nở ngoài sân.
Nửa dặm ánh hồng tường Tống Ngọc.
Long lanh vài cánh chén Văn Quân.
Suốt ngày vắng vẻ, nhà u ám.
Gặp lúc trời mưa, buồn bội phần.
Dưới núi sự đời e vẫn thế.
Ngoái đầu nhìn lại, buồn cho xuân.


437. Nghĩ về mùa xuân khi ở sông Khúc

Nắng xuân lại ấm, sắc hoa phô,
Lòng người vẫn thế, vẫn buồn lo.
Bạn rượu Cao Dương nay hết nửa.
Dáng núi Chung Nam vẫn hững hờ.
Dẫu nhỏ, ở đời gì cũng quí.
Việc nước không dung kẻ dại khờ.
Đầy thuyền trăng sáng, tay cần trúc.
Ta phải về vui với Ngũ Hồ.



LÝ ƯỚC

Chưa rõ tiểu sử tác giả.


442. Xem lễ cầu mưa
       
Lúa chết, dâu khô, đồng nứt nẻ.
Dân lễ cầu mưa, khóc sụt sùi.
Trong khi lầu ngọc, người ca hát
Cứ sợ trời mưa làm mất vui.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét