VƯƠNG
TÍCH
Sinh năm 585 mất 644, tự Võ
Công, người Long Môn nay thuộc tỉnh Sơn Tây. Từng làm quan một thời gian rồi về
nhà ở ẩn, vui thú điền viên. Tác
phẩm: "Vương Võ Công tập".
1. Sau khi say
Nguyễn Tịch ít khi tỉnh.
Đào Tiềm lắm lúc say.
Trăm năm như nháy mắt,
Vui, cứ hát suốt ngày.
2. Qua quán rượu
Chẳng cần suy lợi hại,
Cứ uống tràn cung mây.
Tại sao ta phải tỉnh
Khi mọi người đều say?
3. Ngắm cảnh đồng quê
Chiều
ngắm cảnh bờ đông,
Buồn vẩn
vơ trong lòng.
Sắc thu
nhuộm cây lá.
Trên núi
vệt nắng hồng.
Ngựa săn
chở muông thú,
Nghé
bước theo mục đồng.
Nhìn
nhau toàn thấy lạ,
Nhớ Di
Tề, hát ngông.
LẠC TÂN
VƯƠNG
Sinh năm
626 mất 684, người Nghĩa Ô, nay thuộc tỉnh Chiết Giang, giỏi thơ văn từ nhỏ, giữ
nhiều chức quan, thiên về võ. Cuối đời có sách chép ông thua trận bị giết, có
nguồn nói ông từ quan đi tu. Được xếp là "Sơ Đường tứ kiệt", cùng với
Vương Bột, Dương Quýnh và Lư Chiếu Lân.
4. Tiễn đưa bên
sông Dịch
Thái tử Đan tức giận,
Tóc dựng ngược nơi này.
Người xưa không còn nữa,
Nước lạnh đến ngày nay.
5. Trong tù, vịnh ve sầu
Chiều
thu, ve ngân nga.
Người
trong lao nhớ nhà.
Hai cánh
ve đen nặng.
Mái tóc
bạc ông già.
Sương
dày, khó bay bổng.
Gió mạnh
không vang xa.
Ai biết
mình vô tội?
Ai hiểu
rõ lòng ta?
THƯƠNG QUAN NGHỊ
Năm sinh không rõ, mất năm
664, tự Du Thiều người Thiểm Châu nay thuộc tỉnh Hà Nam; đỗ tiến sĩ, từng giữ
nhiều chức quan, sau thất sủng, bị bắt giam và chết trong ngục.
6. Buổi sáng sớm
đi trên bờ sông Lạc
Ngựa băng qua bãi cát.
Nước cuộn chảy dưới sông.
Chim bay, trăng gác núi.
Có tiếng ve ngoài đồng.
VƯƠNG BỘT
Sinh năm 650, mất 676, tự Tử
An, người Hàng Châu nay thuộc tỉnh Sơn Tây, cháu họ của Vương Tích. Ông được
tôn vinh là một trong "Sơ Đường tứ kiệt", tài cao mà danh phận thấp.
7. Tháng chín ở đất Thục
Nhớ quê,
trùng cửu phút chia ly.
Chiếu lạ
đất người tiễn khách đi.
Nam
Trung đất dữ, người đã chán,
Chim
nhạn phương nam đến làm gì?
8. Muốn về nhà
Sóng
Trường Giang buồn bã.
Nao nức,
muốn về nhà.
Huống chi
chiều nay gió,
Lá rừng
rụng xa xa.
9. Gác Đằng Vương
Trên đầm
lờ lững vẫn mây bay.
Vật đổi
sao dời, ngày lại ngày.
Con vua
trong gác giờ đâu nhỉ?
Trường
Giang vẫn thế chảy xưa nay.
10. Tiễn quan thiếu phủ họ Đỗ
đi nhậm chức ở Thục Xuyên
Nhậm
chức ở Tam Tần,
Ngong
ngóng miền Ngũ Tân.
Tôi ông
cùng cảnh ngộ,
Nên bịn
rịn đưa chân.
Bốn bề
nhiều tri kỷ,
Xa mà
cũng như gần.
Chốc nữa
đừng như trẻ,
Khóc ướt
đầm vạt khăn.
11. Dự tiệc ở
đình Thánh Tuyền
Vén áo ngồi ghế đá.
Cúi đầu nhìn xuống khe.
Hương lan quyện mùi rượu.
Thông reo hòa nhạc quê.
Gió thổi, rung tán lá.
Hoa thơm rụng bốn bề.
Càng về chiều càng đẹp
Cảnh hoàng hôn sơn khê.
LƯ CHIẾU LÂN
Sinh năm
641, mất 690 tự Thăng Chi, người U Châu, nay gần Bắc Kinh, suốt đời gặp điều
rủi, mắc bệnh phong, thọt chân, một tay bị liệt, trẫm mình chết ở sông Dĩnh.
Được xem là một trong bốn tứ kiệt thời Sơ Đường. Tác phẩm: "Văn tập" (20 quyển).
12. Sen trong ao Khúc
Ao Khúc,
sen thơm ngát,
Kín đặc
lá hình tròn.
Sợ gió
thu đến sớm,
Sen héo,
không ai buồn.
DƯƠNG QUÝNH
Sinh năm 650, mất 692, người
Hoa Dương, nay thuộc Thiềm Tây, nổi tiếng giỏi thơ văn từ nhỏ, thích làm thơ
ngũ ngôn. Tác phẩm: "Doanh Xuyên tập".
13. Đêm, tiễn Triệu Tùng
Ngọc
Liêu Thành họ Triệu
Được
truyền tụng bao đời.
Tiễn anh
về quê cũ,
Mặt sông
trăng sáng ngời.
TỐNG CHI VẤN
Năm sinh không rõ, mất 710,
tự Diện Thanh, nơi sinh còn tranh cãi. Ông là người có tướng mạo oai nghiêm,
giỏi hùng biện và thơ ngũ ngôn; làm nhiều chức quan. Tác phẩm có 10 quyển.
14. Tiễn đưa Đỗ Thẩm Ngôn
Ốm, nằm
quên mọi chuyện.
Thương
bác đi một mình.
Dẫu
không ra bến tiễn,
Vẫn biết
bến có tình.
15. Tiễn đạo sĩ Tư Mã đi chơi Thiên Thai
Tiễn
người, đàn sáo rộn trên lầu.
Tiễn
xong, mây tản, mây nhiều màu.
Đông
Bách, người đi không trở lại.
Người ở
Bồng Lai luôn nhớ nhau.
16. Thơ đề ở
nhà trạm phía bắc núi Đại Dữu
Chim
xuống nam trú rét,
Nắng ấm
lại quay về.
Còn ta
thì đi mãi.
Bao giờ
trở lại quê?
Nước
phẳng lặng, triều rút.
Trời
tối, sương đầy khe.
Nhìn về
phía quê cũ,
Tưởng
nhìn thấy vườn lê.
17. Nhà trên núi Lục Hồn
Bỏ việc
đời, về đây.
Chống
gậy, xem dân cày,
Ngắm hoa
bên suối nước.
Tìm hái
thuốc suốt ngày.
Gặp
người làng chào hỏi.
Chim
khoe mình trên cây.
Đi, đi
mãi, thật thích.
Tự thẹn
với đời này.
18. Gặp người
đẹp ở cầu Quế Dương
Lất phất
mưa rơi, ướt bụi đường.
Hàng
liễu buông mành, xuân Quế Dương.
Bất chợt
gặp xe người đẹp đến.
Yên
vàng, ngựa trắng, mặt như gương.
Ăn mặc
kiểu Tần, xe giống Triệu.
Mấy đứa
con hầu thật dễ thương.
Vốn
chẳng giong thuyền tìm lạc thú,
Mà chợt
thấy lòng buồn vấn vương.
Làm trên đường theo vua đi chơi
Lộng lẫy
cảnh sông núi,
Thật
tuyệt chuyến đi chơi.
Mây sớm
như rèm cuốn.
Ánh lửa
lẫn sao trời.
Cờ xí
ngập hang động.
Tiếng xe
lăn muôn nơi.
Đáng làm
thơ ghi lại,
Chỉ tiếc
không dủ lời.
ĐỖ THẨM NGÔN
Sinh năm 646, mất 708, tự Tất Giản, người
Tô Tịch, nay là tỉnh Hồ Bắc, là tổ phụ của Đỗ Phủ.
19. Qua sông Tương
Ngày trôi chầm chậm, nước trôi nhanh.
Xuân đến, thêm buồn họa chiến tranh.
Không giống sông Tương lên phía bắc.
Xuống nam chạy nạn, xót dân lành.
20. Họa bài thơ “Đi chơi xem cảnh xuân sớm”
của thừa tướng họ Lục ở Tấn
Lăng
Làm quan
xa, đất người,
Ngại đổi
thay tiết trời.
Ráng mây
bừng mặt biển.
Liễu bên
sông tốt tươi.
Đám tần
xanh phớt nắng.
Chim
oanh hót khắp nơi.
Chợt
nghe bài hát cũ,
Nhớ nhà,
nước mắt rơi.
21. Hầu tiệc vua ở điện Bồng Lai, vâng lệnh
mà viết
Núi Nam
Sơn trước điện,
Sao Bắc
Đẩu bên thành.
Mây ngũ
sắc ngoài cửa.
Điện
ngọc cây bao quanh.
Đỉnh
Trung Sơn ráng đỏ.
Núi xa
biếc màu xanh.
Nhờ Đức
Vua gieo đức
Đất nước
được yên lành.
22. Đêm thu, dự tiệc nhà ông
Trịnh Minh Phủ, huyện Lâm Tân
Được ông
mời uống rượu
Lúc
không biết đi đâu.
Uống say
cho cả tháng,
Thấy đời
thật bể dâu.
Chuông
đêm xuyên tĩnh lặng.
Sương
rơi những hạt châu.
Nhâm nhi
chút thừa hứng,
Tưởng
còn ở bên nhau.
23. Họa bài “Ngắm trăng
nghĩ ngợi” của bác Năm Khang
Đêm thu,
trăng rất sáng,
Mà người
ngắm buồn thênh.
Hôm nào
còn mỏng dính,
Nay đã
tròn một vành.
Gió đưa,
bóng trăng lạnh
Soi giọt
sương long lanh.
Đứng
nhìn, buông vạt áo,
Muốn đi,
đi không đành.
24. Ngày hè, ghé nhà sách trên núi của bác
Bảy Trịnh
Hỏi
đường đến thăm bác,
Vì thích
uống với nhau.
Dưới
thủy đình sen nở.
Đường
núi cỏ xanh màu.
Nắng sau
mưa còn ướt.
Sấm bỗng
nổ trên đầu.
Chuông
Lạc Dương vọng tới.
Xe ngựa
còn chờ lâu.
Tiễn Thôi Dung ra trận
Vua sai
ông, đại tướng,
Cùng
đoàn quân lên đường.
Trại
lính kề cung điện,
Khí thế
rung Lạc Dương.
Cờ bay
trong gió sớm.
Trống
vọng tới biên cương.
Thu tới,
miền Cổ Bắc
Hết
giặc, lại bình thường.
THẢM THUYÊN KỲ
Sinh năm 656, mất 714, tự Vân
Khanh, người Tương Châu, nay thuộc tỉnh Hà Nam; đỗ tiến sĩ năm 675, từng giữ
nhiều chức quan khác nhau. Thơ ông nổi tiếng mượt mà, trau chuốt.
25. Núi Mang Sơn
Dưới núi Bắc Mang mộ rất nhiều,
Đối diện Lạc Dương, mỗi buổi chiều
Trong thành rộn tiếng chuông và hát.
Núi này chỉ có tiếng thông reo.
26. Ý xưa
Nàng Lư
đeo cỏ uất kim cương.
Én biển
từng đôi đậu trên rường.
Tháng
chín, tiếng chày khua lá rụng.
Mười năm
đi lính, nhớ Liêu Dương.
Bạch
Lang phía bắc, tin chồng vắng.
Đan
Phượng miền nam, trống nửa giường.
Chênh
chếch màn the trăng chiếu dọi.
Một mình
sầu muộn, nhớ người thương.
27. Đêm ngủ trọ ở núi Thất Bàn
Rong
chơi khắp thiên hạ,
Dừng tạm
núi Thất Bàn.
Ngân Hà
thấp trước ngõ.
Trăng
núi kề lan can.
Chim
kêu, đêm tĩnh lặng.
Cây xanh
tốt bạt ngàn.
Khách
buồn nghe gà gáy
Từ thành
Bao râm ran.
28. Nhớ chồng
Chồng trấn thú ngoài ải,
Nghe nói tận Hoàng Long.
Chốt mãi trong trại Hán.
Vợ một mình một phòng.
Chồng và vợ đều muốn
Được gặp nhau thỏa lòng.
Giá có ai tự nguyện
Trấn ải giúp hộ chồng.
LƯU ĐÌNH KỲ
Chưa rõ tiểu sử tác giả.
29. Đài Đồng Tước bên bến sông Chương
Vua Ngụy
xây lăng ở bến này.
Đồng
Tước điêu tàn xác cỏ cây.
Người
nay nhìn thấy, buồn vô hạn,
Huống
nữa người xưa hát ở đây.
TRẦN TỬ NGANG
Sinh năm 656, mất 689, tên
chữ Bá Ngọc, người Tần Châu, Xạ Hồng, nay thuộc Tứ Xuyên, xuất thân hào phú,
từng làm Hữu thập di, sau bỏ quan về làng, bị tên quan địa phương vu khống bỏ
ngục, phẫn uất mà chết. Tác phẩm: "Trần Tử Ngang thi tập".
30. Trên đường đi U châu
Chẳng
thấy người đi trước.
Không
thấy người đi sau.
Ngắm đất
trời vô tận,
Sao cầm
lòng không đau?
31. Tặng quan thị lang Kiều Trí Chi
Trong
triều, quan khéo nịnh.
Công
mỏng tướng ải ngoài.
Vất vả,
bác có biết
Mình bạc
đầu vì ai?
32. Đêm xuân, từ biệt bạn
Chén
vàng nơi yến tiệc,
Nến bạc
cháy trên lầu.
Biệt ly,
đường uốn lượn.
Trong
tiệc, nhạc lệ sầu.
Trăng
vướng trên chùm lá,
Gần sáng
sao đổi màu.
Tới Lạc
Dương xa thế,
Bao giờ
mới gặp nhau?
33. Chiều ghé
thuyền ở huyện Nhạc Dương
Quê cũ
mịt mờ không thấy đâu.
Chiều
tối một mình, đi đã lâu.
Con
đường dẫn tới thành biên giới.
Bốn phía
âm u, xạm một màu.
Đồng quê
hoang vắng, sương che phủ.
Cây cối
mờ mờ trong núi sâu.
Đã buồn,
lòng lại buồn thêm nữa,
Khi nghe
vượn hót thật u sầu.
Tiễn quan trí tác Thôi Dung đi đánh miền
Đông
Trời thu
buồn heo hắt.
Sương
trắng, ngựa chồn chân.
Quân ra
đi dẹp loan.
Bác lên
đường vì dân.
Gió biên
giới thổi mạnh.
Biển
miền Nam
lạnh dần.
Lư Long
đừng để mất,
Ghi danh
lầu Kỳ Lân.
Ngày xuân lên quán Đạo Cửu Hoa
Bạch
Ngọc - đài xưa cũ.
Đàn Khâu
- cõi tiên bồng.
Khói
sương che lầu gác.
Mây nắng
nhòa trên sông.
Trên cây
cao hạc múa.
Dưới bãi
vắt cầu vồng.
Những
muốn lên thiên giới
Chơi
cùng Xích Tùng ông 1).
1. Tên một vị tiên, đồng thời là thần mưa
của người Trung Quốc xưa.
Nhớ thành Bạch Đế xưa
(trích)
Sông
Thương, trời xẫm tối,
Cảnh
buồn, trời đầy mây.
Thành
nước Ba hoang phế.
Cung Hán
cỏ phủ dày.
Núi ghi
công vua Vũ,
Đất nhà Chu còn đây.
Đường
sông dài vô tận,
Khách
nghĩ ngợi suốt ngày.
VI THỪA KHÁNH
Sinh
không rõ vào năm nào, mất 707, người Vũ Lăng, tỉnh Hà Nam ngày nay.
Tác phẩm có "Văn tập" gồm 16 quyển.
34. Từ biệt em
để đi về phía nam 1)
Khách buồn li biệt đứng bên sông.
Trường Giang hờ hững cứ xuôi dòng.
Như thể cùng người chia mối hận,
Hoa rơi xuống đất, lặng như không...
(1) Tøc lµ tíi LÜnh Nam, lóc t¸c gi¶ bÞ biÕm chøc vµ ®µy tíi ®ã.
TIẾT TẮC
Sinh năm 649, mất 713, tự Tư
Thông, người Bồ Châu, nay thuộc tỉnh Sơn Tây; đỗ tiến sĩ, làm quan đến Lễ bộ
lang trung, rồi Lễ bộ thượng thư, cuối cùng bị bắt giam và xử tử.
35. Sáng mùa
thu, soi gương
Khách xa sợ cảnh lá vàng rơi.
Đêm nghe mưa gió thổi tơi bời.
Sáng dậy soi gương, nhìn mái tóc,
Thấy rõ gian nan của kiếp người.
HẠ TRI CHƯƠNG
Sinh năm 668, mất 744, tên chữ là Quý Chân, người Cối Kê,
nay thuộc huyện Thiếu Hưng, tỉnh Chiết Giang, từng giữ chức thị lang bộ Công.
Cuối đời tự xưng là Tứ Linh Cuồng Khách, từ quan về làng ở ẩn. Tác phẩm có Hạ Bì Giám Tập.
44. Viết lúc về thăm quê
Bài một
Xa quê từ nhỏ, già quay lại,
Giọng vẫn như xưa, tóc đổi màu.
Trẻ nhìn không biết người quê cũ,
Còn hỏi: Cần gì, bác đi đâu?
45. Viết lúc về thăm quê
Bài hai
Xa quê như thế đã lâu ngày.
Sự đời điên loạn bấy lâu nay.
Chỉ nước Kính Hồ là vẫn vậy.
Cơn gió không làm sóng đổi thay.
46. Thơ đề ở quán riêng họ Viên
Chủ nhà và khách dẫu không quen,
Cùng ngồi trò chuyện, ngắm trăng lên.
Đừng thấy ta buồn mà gọi rượu.
Trong túi ta đây cũng có tiền!
LÝ LONG CƠ
Tức Đường Huyền Tông, hiệu Minh Hoàng, cháu vua Cao Tông, con thứ ba của
vua Duệ Tông, văn võ kiêm toàn. Ngày sinh không rõ, chỉ biết mất năm 763.
47. Đi qua đất Lỗ, tế Khổng Tử mà
thương xót cho ông
Vì cớ gì Phu Tử
Phải sương nắng dãi dầu?
Cung vẫn cung nước Lỗ,
Làng vẫn làng họ Trâu.
Hận đạo không hành được.
Thương mình lắm buồn đau.
Nay dâng lễ trước miếu,
Tưởng trong mơ gặp nhau.
Tránh loạn vào đất Thục, lúc
trở về đến cửa Kiếm Các
Núi Kiếm Các cao ngất.
Xe chở vua du hành.
Ngũ Đinh - đường đất đỏ.
Sừng sững vách núi xanh.
Mây trời vướng chân ngựa.
Cờ xí bay xung quanh.
Giờ là lúc ban đức,
Khắc bia đá ghi danh.
VƯƠNG LOAN
Nhà thơ nổi tiếng hào hoa,
chưa rõ năm sinh, năm mất, người Lạc Dương, nay thuộc tỉnh Hà Nam. Ông đỗ
tiến sĩ đời Đường Tiên Thiên, từng làm Lạc Dương úy.
36. Dừng thuyền dưới chân núi Bắc Cố
Đã ra
khỏi vùng núi.
Thuyền
tới chỗ nước xanh.
Sông
rộng, thủy triều lớn,
Lại gặp
gió đồng hành.
Rạng
sáng, mặt trời mọc.
Sông vào
xuân, long lanh.
Thư làng
không tới được.
Nhạn về
Lạc Dương thành.
TRƯƠNG
HÚC
Năm sinh
năm mất không rõ, sống vào khoảng những năm trước sau 711, người Giang Tô, Tô
Châu, làm Thường hiệu úy, hay rượu, tự xưng là Trương Điên, cùng Lý Bạch và Bùi
Uẩn múa kiếm, làm thơ, gọi là "Tam tuyệt".
37. Suối hoa đào
Cầu treo thấp thoáng giữa sương hồng.
Hỏi thuyền đánh cá đậu ven sông:
Suốt ngày hoa rụng trôi theo suối,
Động đá bên nào, có biết không?
LƯU TÍCH HƯ
Chưa rõ năm sinh, năm mất, tự
Toàn Ất, người Tân Ngô, rất có đức hạnh. Ông đỗ khoa hoành khoảng niên hiệu
Khai Nguyên (713 - 742), làm quan đến Sùng Văn quán hiệu thư lang, thường giao
du với Vương Xương Linh, Mạnh Hạo Nhiên. Thơ ông ý cao xa, lời lẽ cầu kỳ, tình cảm sâu sắc.
38. Vô đề
Đường
lẫn trong mây trắng.
Quanh co
dòng suối xuân.
Chốc
chốc cánh hoa rụng,
Trôi
theo nước trong ngần.
Cửa đều
hướng ra núi.
Liễu che
kín phòng văn.
Ngày nào
cũng có nắng.
Nắng
dính cả áo quần.
TRƯƠNG CỬU LINH
Không rõ năm sinh, năm mất,
tên chữ là Tử Thọ, đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức tể tướng đời Khai Nguyên, bị
bọn Lý Lâm Phủ gièm pha, bỏ về nhà ở ẩn.
39. Từ ngày chàng xa em
Từ ngày
chàng xa em,
Chưa
chạm vào khung dệt.
Nhớ
chàng như trăng khuyết
Đang hao
gầy đêm đêm.
40. Trông trăng, nhớ người ở xa
Trăng
nhô trên biển rộng vô bờ,
Soi sáng
mọi miền, thật nên thơ.
Cảnh
trăng đẹp thế mà xa xứ.
Nhớ bạn
suốt đêm ngồi thẫn thờ.
Anh đèn
lụi tắt, thương trăng sáng.
Vạt khăn
sương ướt tự bao giờ.
Không
vốc được trăng đem tặng bạn,
Thôi
đành vào ngủ, gặp trong mơ.
Xúc cảm mà thành
Bài một
Đôi chim
nhỏ làm tổ
Trên cây
cao trước sân,
Những
chắc gì thoát khỏi
Đôi mắt
phường đi săn.
Mặc đẹp
lo người ghét.
Ngồi cao
sợ thánh thần.
Ta du
hành sông nước,
Lo ai
hại đến thân?
41. Xúc cảm mà thành
Bài hai
Mùa thu
hoa quế đỏ.
Mùa xuân
lan lá xanh.
Sự sống
muôn màu ấy
Đã là sự
tốt lành.
Người ở
ẩn trong núi
Khoan
khoái nhìn xung quanh.
Tự cỏ
cây đã đẹp,
Cần chi
người vin cành.
42. Xúc cảm mà
thành
Bài ba
Thanh
cao, không lo nghĩ,
Ẩn sĩ
nằm ở nhà.
Ấy là
nhờ chim chóc,
Sông núi
và cỏ hoa.
Ý nghĩ
này giản dị,
Muốn,
không thể nói ra.
Suy cho
cùng, chim, cá
Đâu hiểu
được lòng ta.
43. Từ Hồ Khẩu
nhìn thác nước ở núi Lư
Từ trên
cao đổ xuống,
Đến
giữa, ngả màu hồng.
Rơi lên
cây chằng chịt,
Tung bụi
trắng lên không.
Ào ào
như mưa lớn.
Nắng
dọi, thành cầu vồng.
Núi
thiêng lắm vẻ đẹp.
Trời và
nước mênh mông.
Xúc cảm mà thành
Bài ba
Thu, hoa
quế nở đẹp.
Xuân, lá
lan tươi xanh.
Cái lẽ
tự nhiên ấy
Đã là
điều tốt lành.
Trong
rừng già ẩn sĩ
Thư thái
ngủ ngon lành.
Tự cỏ
cây đã đẹp,
Chẳng
cần người vinh danh.
VƯƠNG HÀN
Bài hát Lương Châu
Bát rượu
bồ đào ngon, định uống,
Nhưng
phải lên đường, thắng ngựa xe.
Giá được
uống say, nằm trên cát -
Xưa nay
chinh chiến mấy ai về!
TỔ VỊNH
Năm sinh không rõ, mất năm
761, người Lạc Dương, nay thuộc tỉnh Hà Nam, lúc trẻ kết bạn với Vương Duy, đỗ
tiến sĩ năm 724, làm quan tới chức Giá bộ viên ngoại lang. Ông gọt lời, dùng ý
rất công phu.
48. Nhìn tuyết
chưa tan trên núi Chung Nam
Tuyết đọng trên sườn núi
Những mảng trắng long lanh.
Sau mưa rừng hửng sáng,
Khí chiều lạnh khắp thành.
49. Nhà ở ẩn của họ Tô
Nhà ở ẩn
trong núi,
Vào rồi
chẳng muốn ra.
Núi
Chung Nam phía trước.
Sông
Phong Thủy xa xa.
Chưa tối
mà đã tối,
Tre trúc
mọc lòa xòa.
Quạnh
hiu nơi cõi tục,
Ngồi im
nghe chim ca.
50. Ở Giang
Nam, nhớ nhà mà viết
Núi Sở
dài tít tắp.
Nhớ nhà,
lâu không về.
Biển
lặng, mưa đã dứt.
Sông
reo, đêm lê thê.
Gươm gửi
sao Nam
Đẩu.
Thư gửi
cơn gió hè.
Khuông
Đàm có quít ngọt.
Không gửi được về quê.
THƯỜNG KIẾN
Không rõ năm sinh, năm mất và
quê quán, chỉ biết đỗ tiến sĩ trong niên hiệu Khai Nguyên (712 - 741), làm quan
đến chức úy huyện Vu Dĩ.
51. Đưa tiễn Vũ Văn Lục
Liễu xanh, hoa đó, suối rì rào.
Gió thổi, rừng cây lá xạc xào.
Giang Bắc hôm nay buồn não ruột,
Mai xuống Giang Nam buồn thế
nào?
52. Nhà thiền sau chùa Phá Sơn
Sáng
sớm, vãn chùa cổ.
Mặt trời
nhô lên cao.
Đường
quanh co xuyên núi,
Nhà
thiền tường cây bao.
Chim vui
vì nắng ấm,
Người
thẫn thờ nhìn ao.
Ngoài
tiếng chuông, tiếng khánh,
Tịnh
không có tiếng nào.
53. Ở lại nhà Vương Xương Linh
Suối
trong , sâu thăm thẳm.
Những
đám mây cô đơn.
Rừng
thông trăng lấp ló
Soi sáng
núi chập chờn.
Nhà
tranh đầy hoa lá.
Viện
thuốc phủ rêu trơn.
Tôi cũng
lánh đời tục
Đến ở
núi Tây Sơn.
TRƯƠNG DUYỆT
Sinh năm 661, mất 730, người Lạc Dương, nay
thuộc tỉnh Hà Nam.
Đỗ đầu khoa Hiền lương phương chính năm 689 rồi ra làm quan, giữ nhiều chức
khác nhau. Tác phẩm có Văn Tập,
30 quyển.
54. Đi trên
đường đất Thục, hẹn về sau
Khách xa nhà khấp khởi
Đã định ngày lên đường.
Tiếc gió thu không đợi,
Đến trước thành Lạc Dương.
55. Tiễn Lương
Lục
Thu đến Ba Lăng, ngắm Động Đình.
Hồ rộng, núi cao đứng một mình.
Buồn tiếc cõi tiên không đến được,
Thả lòng theo sóng gợn lung linh.
56. Ơn vua cho
làm ở thư viện Lệ Chính,
lại ban tiệc, vâng mệnh mà làm bài thơ này
Tây Viên
- rừng bút mực.
Đông
Bích - kho sách đầy.
Ngâm Thi, rõ việc nước.
Đọc Dịch, hiểu điều hay.
Được vua giao trọng trách,
Lại còn cho uống say.
Ngày xuân, nhân cảm hứng,
Bày tỏ tấm lòng này.
57. Năm mới ở U Châu
Năm
ngoái Kinh Nam mai như tuyết.
Năm nay
Kế Bắc tuyết như mai.
Vui bởi
xuân qua rồi lại đến.
Buồn cho
thế cuộc đổi thay hoài.
Biên ải
lính canh luôn miệng hát.
Thành đô
đèn sáng suốt đêm dài.
Ngoảnh
phía Tràng An nâng chén rượu,
Chúc vua
vạn tuế, đội ơn ngài.
58. Đêm uống
rượu ở U Châu
Gió mang
mưa đêm tới.
Rừng
lạnh, trời đầy mây.
Đúng lúc
ấy có tiệc,
Giúp
quên buồn chiều nay.
Trên ải
nghe kèn thổi.
Trong
quân múa kiếm say.
Không
làm tướng biên giới,
Sao biết
ơn vua dày?
Chùa ở núi Ung Hồ
Chợt muốn
được thiền giữa núi xanh.
Chim
rừng líu ríu bốn xung quanh.
Đài Phật
khác xa nơi thế tục.
Nhà sư
tĩnh mịch giữa mây lành.
Núi Đông
sừng sững giăng nghìn lớp.
Hồ Nam
dưới nắng, sáng long lanh.
Sào Do
chắc chắn không đem đổi
Áo tơi,
nón lá lấy trâm anh.
LÝ
KIỀU
Sinh năm 644, mất 713, tự Cự Sơn, người Tân Hoàng, Triệu Châu, nay thuộc
tỉnh Hà Bắc. Ông đỗ tiến sĩ đời Đường Cao Tông, làm quan đến chức Giám sát Ngự
sử.
59. Gió
Thổi rụng ba mùa lá.
Làm nở hai tháng hoa.
Xô rạp rừng trúc rậm.
Cuộn sóng thành phong ba.
Dự tiệc ở Đông Trang của công chúa Trường
Ninh
Lầu
riêng nơi cung cấm.
Mây tía
bên xe vàng.
Dự tiệc
toàn quan lớn.
Sáo thổi
điệu Phụng Hoàng.
Núi Nam
cây rậm rạp.
Bến Bắc
khói mơ màng.
Ơn vua,
được dự tiệc,
Dừng xe
ngắm cảnh quang.
HÀN HÙNG
Nhà thơ nổi tiếng thời Trung Đường,
năm sinh, năm mất chưa rõ, người Nam Dương, nay thuộc tỉnh Hà Nam, đỗ tiến sĩ
khoảng năm Thiên Bảo, làm quan đến chức Trung thư xá nhân. Ông là một trong mười
người tài thời Đại Lịch.
60. Tết Hàn thực
Hàn thực, trong thành đâu cũng hoa.
Vườn vua gió thổi, liễu lòa xòa.
Ban đêm sáng rực đèn cung Hán.
Ngũ Lăng, 1) khói nhẹ vướng quanh nhà.
1. Khu nhà giàu và quan lại.
Tết Hàn Thực
Bản dịch hai
Xuân
đến, khắp thành ngập sắc hoa.
Vườn vua
gió thổi, liễu la đà.
Đêm đến,
trong cung truyền thắp nến.
Khói
thơm lan tỏa tới muôn nhà.
MẠNH
HẠO NHIÊN
Sinh năm 689, mất 740, tự Hạo
Nhiên, người Tương Duy, nay thuộc tỉnh Hồ Bắc; một trong những nhà thơ lớn đời
Đường; thơ thiên về trữ tình, hiện còn 260 bài, đa số là thơ ngũ ngôn.
61. Đêm ngủ bên
sông Kiến Đức
Thuyền cập bến buồn, khói bay.
Đồng rộng, trời sà sát cây.
Khách buồn, buồn thêm, trời tối.
Trăng gần người, ngang tầm tay
62. Tìm chủ nhân
đầm Cúc Hoa, không gặp
Đến được đầm hoa Cúc
Ngày đã ngả xế tà.
Chủ nhân còn trong núi.
Chỉ thấy mấy chú gà.
63. Buổi sáng
mùa xuân
Ngủ say, quên cả dậy,
Sáng, chim hót khắp đồng.
Đêm qua mưa gió vậy,
Hoa rụng có nhiều không?
64. Đến thăm
Viên Thập Nhị, không gặp
Đến Lạc Dương tìm bác,
Bác đã xuôi Giang Tây.
Ở đó mai nở sớm,
Có đẹp bằng ở đây?
65. Tiễn Chu Đại
vào Tần
Tiễn người đi Ngũ Lăng,
Không ngại ngần, trao tặng
Bảo kiếm giá nghìn vàng
Cùng tấm lòng ngay thẳng.
66. Tiễn Đỗ Thập Tứ đi Giang
Nam
Kinh, Ngô làng mạc nước mênh mông,
Lênh đênh chi nữa giữa dòng sông?
Liệu tìm được bến cho thuyền đậu?
Vời vợi trời xa, thật não lòng.
67. Đến hồ Động Đình
Tháng
tám, hồ phẳng lặng.
Nước và
trời trong veo.
Thành
Nhạc Dương sóng vỗ.
Vân Mộng
phủ mây chiều.
Thẹn với
đời thịnh trị.
Qua bến
không thuyền chèo.
Đành xem
người câu cá,
Mong họ
câu được nhiều.
68. Cuối năm, về núi Chung Nam
Thôi
không hầu cổng Bắc, 1)
Về núi
Nam trông nhà,
Bất tài,
vua ghét bỏ,
Lắm
bệnh, bạn bè xa.
Nắng
xuân xua năm cũ.
Tóc bạc
giục cái già.
Nghĩ
nhiều, không ngủ được.
Bên
song, ngắm trăng tà.
1. Ý nói không
theo đường quan nghiệp.
69. Uống rượu ở
nhà trên núi của đạo sĩ họ Mai
Tiếc
xuân, nằm trên núi,
Vén màn
ngắm cỏ cây.
Chợt
chim xanh bay tới
Mời đến
dự tiệc này.
Lò vàng
mới nhóm lửa.
Đào tiên
hoa nở đầy.
Ví như
ta còn trẻ,
Tiếc gì
không uống say!
70. Thơ để lại
khi từ biệt Vương Duy
Sống
nhàn yên thật sướng.
Cứ đi về
nhởn nha.
Thích
ngao du, ngắm cảnh,
Ngại
thiếu bạn, cách xa.
Bọn nhà
giàu ích kỷ.
Tri âm
khó tìm ra.
Tính tôi
thích yên tĩnh.
Xin đóng
cửa nằm nhà.
71. Nỗi nhớ đầu mùa rét
Chim
nhạn bay trú rét.
Gió lạnh
thổi suốt ngày.
Bến sông
Tương quê cũ
Cách Sở
mấy trời mây.
Nhớ nhà,
khô nước mắt.
Bơ vơ
cánh buồm gầy.
Đường về
quê muốn hỏi,
Chỉ thấy
biển mù bay.
72. Ghé thăm nhà bạn cũ
Nông
thôn lắm gà, gạo.
Bạn mời
đến thăm nhà.
Cây xanh
bao quanh xóm,
Núi biếc
đứng xa xa.
Mở cửa
là thấy ruộng.
Toàn nói
chuyện nông gia.
Hẹn đến
ngày trùng cửu
Cùng
ngắm cúc ra hoa.
73. Từ đất Tần, gửi cho Viễn Thượng Nhân
Muốn ở
ẩn trên núi
Với
luống cúc tự trồng.
Không mơ
danh cõi Bắc,
Chỉ nhớ
thầy rừng Đông.
Hết tiền
vì củi đắt.
Chí mòn
bởi nằm không.
Đêm,
những hôm gió mát,
Ve kêu
nghe não lòng.
74. Thơ đề phòng tu thiền của Nghĩa Công
Bác
Nghĩa tu thiền Phật.
Nhà giữa
rừng thông cao.
Trước
cửa - trái núi đẹp.
Sau nhà
- suối và ao.
Sân ướt
in nắng nhạt
Sau một
trận mưa rào.
Nhìn
bông sen chợt hiểu
Lòng bác
sạch thế nào.
75. Ở lại nhà thầy học trên núi,
chờ Đinh Đại, không thấy đến
Mặt trời
chiều gác núi.
Hang sâu
tối mịt mờ.
Trăng
đục hơi đêm mát.
Suối
cười như trẻ thơ.
Tiều phu
về gần hết.
Chim
trong tổ đang mơ.
Đêm nay
bạn hẹn đến,
Tôi ôm
đàn ngồi chờ.
76. Trong thuyền, ngắm cảnh buổi sáng sớm
Ngồi
uống nước, ngắm cảnh.
Núi và
sông trải dài.
Ghe
thuyền đua nhau vượt.
Gió vù
vù bên tai.
Ta muốn
đi đâu nhỉ?
Thăm cầu
đá Thiên Thai.
Nhìn mây
vàng, ráng đỏ,
Ngỡ là
chốn Bồng Lai.
77. Đêm, qua sông Tương
Đã đi,
mong đến sớm.
Giữa đêm
vượt sông Tương.
Ai hái
sen đang hát.
Hương đỗ
đẫm hơi sương.
Thuyền
ghé chỗ có lửa.
Ngư ông
ngủ vệ đường.
Gặp
nhau, ai cũng hỏi:
Ở nơi
nào Sầm Dương?
78. Cùng các
con lên núi Nghiễm
Đời như
sông, bồi lở,
Dần dần
thành thế này.
Núi còn
có cái đẹp,
Nên ta
mới đến đây.
Nước
rút, trơ Bãi Cá.
Trời
mưa, ngập Đầm Mây.
Bia bác
Dương 1) còn đó.
Xem
xong, lệ ứa đầy.
1). Tức Dương
Hỗ, người đời Tấn, trấn thủ Tương Dương. Ông có công lớn, được nhân dân yêu mến
và dựng bia trên núi Nghiễm. Về sau nhiều người đã khóc khi xem bia này, nên Đỗ
Dự, người kế nhiệm ông, gọi là Trụy Lệ Bi (Bia rơi lệ).
79. Ngủ lại
trên sông Đồng Lư,
gửi cho bạn bè cũ ở Quảng Lăng
Núi
thẳm, vượn kêu sầu.
Suối
lạnh dưới bãi lau.
Hai bờ
gió thổi mạnh.
Trăng
soi bóng thuyền câu.
Kiến
Đức, không quê quán.
Duy
Dương, nhớ bạn bầu. 1)
Xin được
đem chút lệ
Gửi về
Hải Tây Đầu. 2)
1. Kiến Đức, tên huyện, nay cũng là huyện Kiến Đức, không phải quê
của Mạnh Hạo Nhiên. Duy Dương, tên một vùng đất
xưa là Dương Châu, sau đổi thành Quảng Lăng, nay thuộc tỉnh Giang Tô.
2. Ý nói Quảng Lăng, vì ở phía tây sông Đông Lư.
80. Khúc hát
đêm về Lộc Môn
Thong
thả chuông rung, báo hết ngày.
Khách đò
nôn nóng muốn sang ngay.
Ta lên
thuyền nhỏ về Tô Lĩnh, 1)
Người men bãi cát tới làng tây.
Kia, xưa hang đá Bàng Công ở, 2)
Mờ ảo trăng vàng chiếu tán cây.
Hang rộng, đường quang, nay vắng vẻ,
Chỉ ít khách nhàn đi tới đây.
1. Tên ngọn núi cách Tương Dương 30 km về phía đông nam. Trước đây
Tập Úc lập đền thờ thần tiên trên núi, tạc hình hai con hươu đá, vì vậy từ đó
núi này được gọi Lục Môn.
2. Tức Bàng Thống, còn gọi Bàng Đức Công, hiệu Phụng Sồ, thời Tam Quốc ở ẩn tại dây, sau theo Khổng Minh ra
phò Lưu Bị.
81. Nỗi nhớ đêm
giao thừa
Chuông
điểm canh năm, sắp rạng ngày.
Liên
tiếp bốn mùa cứ đổi thay.
Lò cổ
hương trầm đang lụi tắt.
Trong
trướng đèn tàn, khói nhạt bay.
Đã thấy
hơi xuân xuyên gối lụa.
Cái lạnh
tan trong chén rượu đầy.
Nhớ
nhau, ngủ muộn mà trong mộng
Thật
buồn, không gặp được đêm nay.
82. Ngày hè ở Nam Đình, nhớ Tân Đại
Từ phía
đông trăng chiếu.
Núi sang
sáng phía tây.
Buổi
chiều hôm xõa tóc,
Ra hiên
nằm xoãi tay.
Gió mang
hương sen tới.
Sương
rơi lên lá cây.
Muốn lấy
đàn Minh gẩy.
Ai nghe
mà biết hay?
Tự nhiên
nhớ bạn cũ.
Rồi mơ
mộng đêm nay.
83. Mùa thu,
lên chơi núi Lan, gửi Trương Ngũ
(Lược dịch)
Có một
người ở ẩn
Trên núi
Bắc đầy mây.
Lên núi
nhìn bốn phía.
Thả hồn
theo chim bay.
Chiều
đến, lòng man mác.
Thu gây
hứng như say.
Thỉnh
thoảng về xóm nhỏ,
Men doi
cát bãi lầy.
Sao đón
ngày Trùng Cửu,
Không
mang rượu lên đây?
84. Đi Tây Sơn
tìm Tân Ngạc
(Lược dịch)
Thuyền
tiện đường, dừng lại
Tìm bạn
cũ nơi này.
Đầm đá
trong, thấy đáy.
Bờ cát
dài trồng cây.
Trong
nhà lá, đọc sách.
Ngoài
bãi, câu suốt ngày.
Chuyện
trò, quên trời tối.
Nhàn
nhã, gió hây hây.
Nhan Hồi
1) uống nước lã
Mà thấy vui, giỏi thay!
1. Học trò yêu của Khổng Tử, thông minh, ham học, sống nghèo mà luôn vui
vẻ.
Tình xuân
Lầu
xanh, nắng sớm xuyên rèm ngọc.
Phấn
hồng trang điểm trước gương soi.
Ái ân đã
thỏa, còn tiêng tiếc.
Thơ thẩn
trong vườn, đi sóng đôi.
Lúc đi,
quần quét hoa mai rụng.
Vạt áo
đầm sương cỏ lúc ngồi.
Còn bảo:
hôm sau đừng thế nữa,
Chỉ mời
đàn sáo đến chơi thôi.
THÔI HIỆU
Không rõ năm sinh, mất năm
754, người Biện Châu, nay thuộc huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam, đậu tiến sĩ năm
725, làm đến chức quan Tư huân viên ngoại lang, tính tình phóng túng, thích
rượu chè. Bài Hoàng Hạc Lâu đã đưa ông lên đỉnh cao thơ Đường. Cả Lý Bạch cũng
phải chịu là hay.
85. Khúc Trường Can
Bài một
Nhà
thiếp ở Hoành Dương.
Nhà
chàng nơi nào vậy?
Dừng
thuyền, ướm hỏi nhau.
Thiếp e
cùng quê đấy.
Khúc Trường Can
Bài hai
Nhà tôi
cạnh Cửu Giang.
Sinh,
lớn lên ở đó.
Chúng ta
cùng một làng,
Không
biết nhau từ nhỏ.
86. Vào khe Nhược Da
Thuyền
nhẹ đi thật nhanh.
Đã đến
vùng cây xanh.
Mây sát
chân, rất thấp.
Núi soi
nước lung linh.
Suối làm
tiếng người nhỏ.
Hang
nhại lại tiếng mình.
Cái gì
cũng tuyệt đẹp -
Gác
chèo, nhìn xung quanh.
87. Lầu Hoàng Hạc
Người
xưa cưỡi hạc bay đâu mất,
Giờ lầu
Hoàng Hạc vẫn còn đây.
Hạc quí
bay đi không trở lại.
Mây
trắng nghìn năm vẫn thế này.
Hán
Dương sông tạnh, cây xanh tốt.
Anh Vũ
cồn hoang, cỏ mọc dày.
Chiều
buông, quê cũ nơi nào nhỉ?
Khói
buồn trên sóng, khiến buồn lây.
Đi qua Hoa Âm
Núi xanh
soi bóng xuống Hàm Kinh.
Ba ngọn
vươn cao thật hữu tình.
Trên
đỉnh Tiêu Chương mưa mới tạnh.
Mây nhẹ
tan dần trước Cửu Linh 1).
Mạn Bắc
Ải Tần sông núi hiểm.
Phía Tây
Hán Trĩ đất thanh bình.
Nhắc ai
đeo đuổi đường danh lợi:
Nên về
chốn ấy luyện trường sinh.
1). Đến thờ Hán Vũ Đế.
CHU
THỤC TRINH
Năm mất, năm sinh không rõ,
người Tiền Đường, nay ở tỉnh Chiết Giang, nữ thi sĩ đời Tống, vợ một thương nhân. Tác phẩm: "Đoạn Trường
tập", "Đoạn Trường từ".
88. Hoa rụng
Đang lúc mùa sen nở trước nhà
Bỗng trời mưa gió, chẳng buông tha.
Chúa xuân vốn được coi là chủ,
Sao để mưa làm rụng cánh hoa.
89. Tức cảnh
Xế chiều, cửa sổ rợp tre xanh.
Có đôi chim nhỏ lượn xung quanh,
Bay đến bụi hoa rồi khóm liễu.
Người nhàn, ngày chẳng chịu qua nhanh.
VƯƠNG XƯƠNG
LINH
Sinh năm 698, mất 757, người Giang Ninh, nay
là Giang Tô; nhà thơ lớn đời Đường, hiện lưu được 180 bài.
90. Khúc hát mùa
thu ở cung Trường Tín
Ngô đồng soi giếng, lá rung rung.
Muốn cuốn rèm châu, những ngại ngùng.
Sắc tàn, gối ngọc, lư hương lạnh.
Đêm nằm nghe tiếng lậu Nam Cung.
91. Ở bến sông
Hoài, tiễn Quách Tư Thương
Màu xanh sóng gợn hắt lên rèm.
Trên ngựa người ngồi nấn ná thêm.
Ngày mai chỉ có trăng theo bạn.
Nước Triều dâng mãi suốt ngày đêm.
92.
Bài hát hái sen
Bài một
Hai má đỏ hồng tựa búp sen.
Màu lá, màu quần như dính liền.
Mải hái, chỉ khi nghe tiếng hát,
Giật mình mới biết có người bên.
93. Bài hát hái
sen
Bài hai
Cung nữ nước Tần, gái Việt, Ngô
Đang hái hoa sen, nghịch dưới hồ.
Lúc đến đầu sông hoa đón họ.
Trăng tiễn họ về, núi nhấp nhô.
94. Tiễn bạn ở
Lư Khê
Nho nhỏ con thuyền bến Vũ Lăng
Đưa người lên bắc, nước băng băng.
Khi đến Kinh Môn hay Tam Giáp,
Đừng buồn vì vượn hót, vì trăng.
95. Trả lời thái thú Vũ Lăng
Mang gươm đi nghìn dặm,
Xin được đáp lại rằng,
Từng làm khách Đại Lượng, 1)
Không quên nghĩa Tín Lăng! 2)
1. Tên đất, kinh đô nước Ngụy thời Lương Huệ vương, nay thuộc tỉnh
Hà Nam.
2. Công tử nước Ngụy thời Chiến Quốc, nổi tiếng giàu có, khiêm
nhường và đạo đức.
96. Tiễn Quách
Tư Thương
Sông Hoài xanh trước cửa.
Mời bác tạm dừng ngựa.
Bác đi, trăng đi theo.
Triều xuân còn dâng nữa.
97. Tiễn Tâm
Tiệm ở lầu Phù Dung
Thuyền đến đất Ngô, đêm gió lạnh.
Tiễn người đi Sở, sáng trời mưa.
Bạn ở Lạc Dương mà có hỏi,
Xin nhắc: Lòng này chẳng khác xưa .
98. Nỗi oán
phòng khuê
Phòng khuê vốn chẳng biết ưu sầu.
Ngày xuân trang điểm, bước lên lầu.
Chợt thấy bên đường hàng liễu biếc,
Tự giận, xui chồng kiếm tước hầu.
99. Tiễn bạn
Mùi hương hoa quất lẫn hơi men.
Gió xui mưa nhẹ tạt khoang thuyền.
Đến núi Tương Sơn, thương cảnh bạn,
Đêm buồn nghe vượn hót không yên.
100. Nỗi oán mùa
xuân ở Tây Cung
Tây Cung đêm vắng, thoảng hương hoa.
Giận lòng, không hé liếp nhìn ra.
Điện Chiêu Dương ngập trong vườn tối.
Ôm nghiêng đàn nguyệt, ngắm trăng tà.
101. Nỗi oán mùa thu ở Tây Cung
Gió từ Thủy Điện thoảng mùi hương.
Hoa sen dẫu đẹp, vẫn khiêm nhường.
Ngang tay lấy quạt che tình hận.
Ngoài lầu trăng sáng đợi quân vương.
102. Tiễn Hồ Đại
Kinh Môn không thể chia tay được.
Tiền Phương càng khó lúc vào thu.
Chắc phải lên lầu bên bến nước
Nhìn theo bóng bạn giữa sương mù
103. Ở Trường Dụng
Chiều
ngắm cảnh Trường Dụng,
Thấy
người câu cá chơi.
Hỏi: Ông
lão đầu bạc
Câu thế
đã mấy đời?
104. Nỗi buồn
biên ải
Bài một
Bên
thành, chòi lửa cao trăm thước.
Một
mình, gió biển lộng, hoàng hôn.
Sáo
Khương thổi khúc “Trăng quan ải”.
Nỗi nhớ
phòng khuê, buồn, thật buồn.
105. Nỗi buồn
biên ải
Bài hai
Bâng
khuâng lại hát, gẩy tỳ bà.
Lại vẫn
cái buồn biên ải xa.
Vì buồn,
đàn hát không thôi được.
Trời đêm
nhàn nhạt ánh trăng tà.
106. Khúc xuân cung
Đêm qua
gió thổi, nở hoa đào.
Vị Ương 1) điện
ngọc, bóng trăng cao.
Con hát,
vua yêu, vừa chớm lạnh
Đã được
ban ngay áo cẩm bào.
1. Cung vua Hán Vũ
Đế.
Khúc hát cung xuân
Gió xuân
giục nở khóm hoa đào.
Trước
viện Vĩ Ương trăng đã cao.
Ca nữ
Bình Dương vua ái mộ,
Trời
rét, ban cho tấm áo bào.
107. Bài hát dưới cửa ải
Qua
sông, ngựa uống nước.
Gió thổi
buốt như dao.
Mặt trời
chưa tắt hẳn,
Còn nhìn
thấy Lâm Thao.
Trận
Trường Thành ngày trước
Nổi
tiếng khí quân cao.
Nhưng
nay trong đất cỏ
Xương
trắng còn nhiều sao.
108. Bài hát
trên cửa ải
Ve kêu
trong rừng vắng.
Tiêu
Quan ngập ánh trăng.
Ra ải
rồi vào ải.
Rừng lau
đã úa vàng.
Làm lính
thú U Tĩnh,
Có nỗi
khổ nào bằng.
Không
như con quan lớn
Cưỡi
ngựa tốt, kiêu căng.
109. Lầu Vạn Tuế
Lầu cao
Vạn Tuế sát bên sông.
Đã qua
nào biết mấy thu đông.
Vui thấy
núi non còn đứng vững.
Buồn xem
hờ hững nước xuôi dòng.
Vượn sóc
chưa từng ra khỏi núi.
Cò vạc
vẫn mò bãi nước nông.
Ai leo
lên núi nhìn mây khói?
Chiều
tối bâng khuâng, nặng nỗi lòng.
Đi chơi một mình
(Trích)
Thảnh thơi sống trên núi.
Hứng, đi
chơi một mình.
Đến Bá
Lăng, Nam Giản
Câu mấy
con cá ranh.
Ngoái đầu
nhìn mây trắng,
Nhớ
khách chốn rừng xanh.
Theo tự
nhiên mà sống,
Không
ràng buộc công danh.
Cùng em họ ngắm trăng ở Nam Trại,
nhớ Thôi Thiếu Phủ ở huyện Sơn Âm
Nằm khểnh ở Nam Trại,
Trăng
mọc sau bức màn.
Trăng,
như cây, đẫm nước.
Sao treo
ngoài lan can.
Bao lần
tròn rồi khuyết,
Soi
chiếu cả nhân gian.
Người
đẹp xưa đâu nhỉ,
Đêm thơ
ấy luận bàn?
Nghìn
dặm xa, muốn gửi
Theo gió
chút hương lan.
GIẢ CHÍ
Sinh năm 718, mất năm 772, người Lạc Dương (Hà Nam), thi đỗ Minh Kinh năm
đầu Thiên Bảo Đường Huyền Tông, giữ chức Hiệu thư lang, năm 756 làm Thứ sử Nhữ
Châu. Tác phẩm: trong "Toàn Đường thi" có một quyển của ông.
438. Đêm ở Ba Lăng, chia tay viên ngoại họ Vương
Lúc liễu ra bông, rời Lạc Dương.
Khi hoa mai nở - đến Tam Tương.
Tình đời trôi nổi như mây gió.
Ly biệt cái buồn vẫn vấn vương.
439. Ý xuân
Cỏ xanh, liễu biếc, sắc hoa hồng.
Hương thơm, chim hót, trời xanh trong.
Cái buồn không chịu bay theo gió,
Nên giữa xuân vui cứ não lòng.
440. Tiễn thị
lang họ Lý đi Thường Châu
Gió mùa, tuyết lạnh, trời đầy mây.
Đường xa Ngô, Sở lúc chia tay.
Để mai có cái cho ta nhớ,
Tôi bác bây giờ uống thật say.
441.
Mới đến Ba Lăng, cùng Lý Thập Nhị Bạch
rong
thuyền chơi trên hồ Động Đình
Lá phong trên bến rụng như hoa.
Hồ thu nước gợn ánh dương tà.
Thuyền nhẹ, người vui đi, đi mãi.
Mượn ánh trăng vàng thăm Tương Nga.
Chầu sớm ở cung Đại Minh
Đường
đến cung vua đẹp, lại dài.
Đầu
xuân, thành ngập nắng ban mai.
Liễu
cung Thanh Tỏa buông như tóc.
Oanh
điện Kiến Chương cứ hót hoài.
Tiếng
gươm lanh lảnh khua thềm ngọc.
Hương
thơm lò ngự thấm cân đai.
Phụng
Trì tắm gội ơn mưa móc.
Vui mừng
sáng sáng đứng bên ngai.
CAO THÍCH
Sinh năm 702, mất 765 người
Thương Châu nay là tỉnh Hà Bắc, làm quan tới chức Tiết độ sứ, phục vụ trong
quân đội khá lâu, nổi tiếng về thơ biên ải.
110. Viết trong
đêm giao thừa
Một mình, quán trọ, lạnh, canh ba.
Đêm nay nghìn dặm cách quê nhà.
Trằn trọc, bâng quơ buồn, có thể
Vì mai năm mới, tuổi thêm già.
Muốn tặng áo lụa
Muốn tặng chàng áo lụa.
Chỉ e sống ở đời
Chàng muốn làm kẻ sĩ,
Thích áo vải như người.
111. Tiễn biệt
Đổng Đại
Mây vàng mười dặm với mây xanh,
Én về, gió thổi, tuyết long lanh.
Đừng buồn sắp tới không bè bạn.
Thiên hạ người nào chẳng biết anh?
112. Ở nông
thôn, ngắm cảnh mùa xuân
Xuân chờ ngay trước cửa.
Đầy hoa tươi, cỏ non.
Tiếc là không tri kỷ.
Lịch Sinh 1) cũng chẳng còn.
(1) LÞch Sinh lµ nh©n vËt næi tiÕng ®êi TÇn, thÝch uèng rîu vµ lóc
nµo còng say, cã c«ng ®i sø thuyÕt phôc vua TÒ lµ §iÒn Quang vÒ hµng vua H¸n.
¤ng sinh ë Cao D¬ng, lµ ®Þa danh Cao ThÝch nãi ®Õn trong bµi th¬ nµy.
113. Thơ làm khi đi trên đường Đông Bình
Trăng sáng, đêm man mác..
Thuyền khách trôi lững lờ.
Cảnh thu xưa trên núi,
Một mình nằm, mộng mơ.
Nay lại thu, tàn úa,
Nhìn mà buồn vẩn vơ.
114. Sau cơn say, tặng Trương Húc
Hiểu
được nhau rất hiếm.
Riêng
ông thì khác người.
Hứng,
viết chữ như thánh.
Say, nói
không giữ lời.
Nay sống
nhàn, tóc bạc.
Ngắm mây
xanh trên trời.
Đầu
giường để sẵn rượu,
Tỉnh
lại, uống say chơi.
115. Tiễn quan thị ngự họ Trịnh bị đầy ra
đất Bân
Bị đầy,
bác đừng oán.
Tôi từng
đến đất Bân.
Ngày ở
đấy chim ít.
Đêm vượn
hót râm ran.
Đông -
toàn mây với núi.
Nam -
khí độc, gió ngàn.
Bác sẽ
được ân sủng.
Thôi,
chúc bác bình an!
116. Đang đêm, từ biệt tử sĩ họ Vi
Rượu
trong, quán sạch, ngọn đèn mờ.
Nhạn về,
chuông điểm, ánh trăng mơ.
Nhìn
tưởng chim kêu vì gọi bạn,
Nào biết
đang xuân, gió tiễn đưa.
Hai phía
Hoàng Hà toàn cát trắng.
Bến đò
Bạch Mã liễu giăng tơ.
Tạm ra
đất khách, xin đừng oán,
Đến đâu
bác cũng có người chờ.
117. Tiễn Lý Thẩm, trước làm
quan ở huyện Vệ
Thoăn thoắt oanh vàng, liễu thướt tha.
Buồn buồn gió tiễn khách đi xa.
Thương bác long đong đường vạn dặm.
Nhớ tình bè bạn những năm qua.
Mây tan sông Vấn, buồm đơn chiếc.
Đường núi Lương Sơn, ngựa nhẩn nha.
Đất này lành lắm, mời bác mãi,
Bác không chịu ở, buồn cho ta.
Tiễn Lý Thiếu Phủ bị đày ra Giáp Trung
và Vương Thiếu Phủ bị đày ra
Trường Sa
Tiễn đưa
hai bác buổi hôm nay,
Dừng
chân gạn hỏi chốn lưu đày.
Hành
Dương, chim nhạn mang thư tới.
Vu Giáp,
vượn kêu, lệ ứa đầy.
Thanh
Phong, sông rộng, buồm no gió.
Bạch Đế,
thành hoang xơ xác cây.
Đời đang
còn thịnh, ân chưa hết,
Dùng
dằng chi nữa, tạm chia tay
Quán Ngọc Đài
Đến Bình Đài vãn cảnh.
Đằng Vương xây miếu này.
Chữ Lỗ Cung trên đá.
Tiêu Sử sống trong mây.
Đất rộng nhìn tít tắp.
Cung điện đứng khít dày.
Nghe nói tiên cưỡi hạc
Nhiêu lần bay đến đây.
Ngày Bảy tháng Giêng,
nhớ Thập Di Đỗ Nhị
(trích)
Thư này gửi bác, hỏi thăm nhau.
Thương bác xa quê, luống ngậm sầu.
Cành liễu xanh tươi không nỡ ngắm.
Mai vàng cũng chỉ gợi buồn đau.
Bác ở miền Nam, xa chính sự,
Chắc lòng ngang ngổn mối lo âu.
Năm này còn nhớ mà thăm hỏi,
Năm tới ngày này biết ở đâu?
Ngày Trùng Dương
Tóc bạc, nhìn đời những xót xa.
Buồn dạo quanh vườn chưa nở hoa.
Làm quan ba bận, đời vơi nửa.
Năm mẫu đồng hoang, nay ở nhà.
Từ buổi mũ đen không đội nữa,
Nhiều thằng áo trắng quấy rầy ta.
Vò đầu ngồi lặng trong đơn độc,
Quạ chiều nhao nhác cạnh cây đa.
VÔ DANH THỊ
Thơ vặt
Gió
xuân, Hàn Thực 1), cỏ xanh xanh.
Lúa đang
bén rễ, liễu buông cành.
Có nhà
mà chẳng về nhà được.
Chim
cuốc kêu hoài suốt năm canh.
1. Ngày Tết ăn đồ
nguội.
KHÂU VI
Không rõ
năm sinh, năm mất, người Gia Hưng, nay thuộc tỉnh Chiết Giang, làm quan đến
chức Thái tử hữu thứ tử; bạn thân của Vương Duy và Lưu Trường Khanh, thọ 96 tuổi,
thích viết thơ ngũ ngôn.
118. Hoa lê ở Tả
Dịch
Hoa lê trắng hơn tuyết.
Hương thấm vạt áo mềm.
Gió xuân không đừng được,
Thổi hoa đến tận thềm.
119. Lên thành Nhuận Châu
Thành
bên sông, chiều tối.
Khách
lên lầu, nhìn ra.
Nửa cầu
vồng, mưa tạnh.
Bãi cát
nước tràn qua.
Cây thấp
vương khói mỏng.
Chim
theo buồm bay xa.
Quê mình
phương nào nhỉ?
Tìm
Quảng Lăng, lệ nhòa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét