Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2020

Công Chúa Ô-tô-mi



Công Chúa Ô-tô-mi - 2

X
CÁI CHẾT CỦA IXABEN ĐƠ XIGUENXA 

Chúng tôi lặng lẽ đi dọc theo dãy hành lang dài hun hút, tôi nhìn thấy qua các ô cửa sổ có chắn song, từ các căn phòng nhỏ đang nhìn theo chúng tôi là những cặp mắt của các nữ tu sĩ như bị chôn sống trong đó. Vì vậy chẳng có gì đáng ngạc nhiên, khi bất chấp cái chết, một người phụ nữ trẻ muốn thoát khỏi các hầm tối của nhà tù này để ra với cuộc sống và tình yêu! Và vì cái “tội lỗi” ấy cô ta bây giờ sẽ phải chết. Không, nhất định Chúa không quên tội ác của những tên linh mục này, không quên cả cái dân tộc đã sản sinh ra chúng!
Mà đúng Ngài đã không quên thật, bởi vì bây giờ còn đâu cái vinh quang của đất nước Tây Ban Nha, và thử hỏi cái gì đã xảy ra với những nghi lễ độc ác mà đất nước ấy từng lấy làm hãnh diện? ƠŒ đây, ở nước Anh, bàn tay chúng đã bị chặn đứng hoàn toàn và mãi mãi. Chúng muốn cùm chúng ta, những người Anh tự do vào các gông sắt của chúng, nhưng chúng ta đã phá bỏ những gông sắt ấy, và chúng sẽ chẳng bao giờ còn tác dụng nữa.
ƠŒ cuối hành lang có một chiếc cầu thang, chúng tôi theo nó đi xuống rồi dừng lại trước một cánh cửa nặng nề có thanh sắt chắn ngang. Ông thầy tu mở cửa bằng chiếc chìa khóa của mình, cho chúng tôi vào rồi lại khóa chặt như cũ. Từ đây bắt đầu hành lang thứ hai được xây ngầm trong một bức tường dày, sau đó có một cửa nữa, và tiếp đến là chỗ thi hành bản án.
Đó là một tầng hầm thấp và ẩm ướt, phía bên kia tường được nước sông bào mòn. Trong sự im lặng chết chóc, tôi nghe tiếng nước róc rách từ bên ngoài vọng vào. Căn phòng độ tám mét chiều rộng và mười mét chiều dài. Nó được chống đỡ bởi những chiếc cột nặng nề, ở bức tường phía sau có cánh cửa thứ hai, dẫn tới hầm giam.
Trong một góc của căn phòng ảm đạm ấy, được chiếu sáng mờ mờ bởi những ngọn đèn và những bó đuốc nhỏ, có hai người mặc áo choàng đen vải thô, đầu đội mũ hình chóp che mặt, đang lặng lẽ tôi vôi. Vôi sôi sùng sục, bốc khói sặc sụa. Bên cạnh họ là những phiến đá được đẽo gọt cẩn thận, còn phía đối diện là một chiếc hầm được khoét lõm vào tường, trông như một chiếc quan tài dựng đứng, đầu nhỏ phía dưới. Đối diện với chiếc hầm ấy là một chiếc thánh giá to nặng bằng gỗ dẻ. Cũng trong bức tường ấy tôi còn nhìn thấy hai chiếc hầm tương tự, chắn bằng những phiến đá cũng có màu trắng nhợt như thế. Trên mỗi phiến đá có khắc các con số ngày tháng. Một chiếc hầm đã được lấp cửa cách đây một trăm năm, còn chiếc khác, - ba mươi năm.
Khi chúng tôi bước xuống hầm ngầm, ở đấy chẳng có ai ngoài hai người linh mục kiêm thợ đẽo đá, nhưng một lát sau, từ hành lang thứ hai chúng tôi nghe có tiếng hát dịu dàng và trang nghiêm vọng lại. Tiếng hát mỗi lúc một to hơn, và chẳng bao lâu sau tôi đã nghe rõ từng lời: đó là một bài hát cầu kinh bằng tiếng La tinh hát khi chôn cất người chết. Sau đó dàn đồng ca xuất hiện: tám nữ tu sĩ khăn voan che kín mặt lần lượt cứ hai người một đi qua cửa, đứng thành hàng, dọc bức tường đối diện rồi im lặng. Theo sau họ là cô gái phạm tội có hai nữ tu sĩ đi kèm, và người cuối cùng là một linh mục tay cầm thánh giá. Ông ta mặc áo đen, khuôn mặt nửa như điên dại của ông ta để trần.
Tất cả những cảnh ấy và các chi tiết khác tôi đã nhìn thấy và ghi nhớ suốt đời, nhưng lúc đó tôi có cảm giác tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài khuôn mặt của cô gái nạn nhân đáng thương nọ. Tôi nhận ra cô ta, dù trước đây chỉ nhìn thấy một lần mà lại dưới ánh trăng. Cô ta thay đổi rất nhiều: khuôn mặt xinh đẹp ngày nào đã bắt đầu mang màu sáp ong, bây giờ trên đó chỉ nhìn thấy đôi môi màu đỏ thẫm và hai con mắt thật to, đau buồn và lấp lánh như hai ngôi sao. Nhưng đó chính là khuôn mặt của cô ta, chính người phụ nữ này tôi đã nhìn thấy cách đây bảy tháng khi cô ta nói chuyện với người tình không chung thủy của mình. Có điều bây giờ thân hình cao dong dỏng của cô ta đã bị quấn trong chiếc khăn liệm của thần chết và xuôi theo nó là những món tóc đen để xõa. Cô ta bế trên tay đứa con đang ngủ, chốc chốc lại lo lắng ghì chặt nó vào lòng.
Trước ngưỡng cửa ngôi mộ của mình, Ixaben đơ Xiguenxa dừng lại, hoảng hốt nhìn quanh như cầu xin giúp đỡ. Nhưng cái nhìn tuyệt vọng của cô đã dừng lại một cách vô ích trên các khuôn mặt được che kín bằng mũ nhọn của những tên linh mục im lặng. Sau đó cô nhìn thấy chiếc hầm và hố vôi đang bốc khói. Cô rùng mình, và có lẽ đã ngã xuống ngất đi nếu không có các nữ tu sĩ đi cạnh đỡ và cầm tay dắt đến cho ngồi vào chiếc ghế, như một xác chết còn sống.
Các nghi lễ rùng rợn bắt đầu. Người linh mục theo giáo phái Đôminican đến đứng trước cô gái bất hạnh, tuyên bố các tội lỗi của cô và đọc to bản án:
- Cô, và cùng với cô là đứa con tội lỗi của cô, sẽ bị bỏ rơi một mình với Chúa để Ngài định đoạt theo ý mình.
Nhưng hình như cô gái tội nghiệp ấy đã không nghe thấy lời buộc tội cũng như những lời an ủi sau đó. Cuối cùng ông linh mục kết thúc, làm dấu thánh và quay sang tôi, nói:
- Bây giờ thì con hãy lại gần và nói chuyện với cô ta, chừng nào chưa muộn.
Sau đó ông ta ra lệnh cho những người có mặt lui vào góc hầm để họ không nghe chúng tôi nói chuyện. Mọi người lặng lẽ nghe theo. Có lẽ họ cho tôi là vị linh mục có trách nhiệm làm lễ rửa tội cho cô ta.
Với trái tim đập mạnh, tôi đi lại gần, cúi xuống nói sát vào tai cô ta:
- Cô hãy nghe tôi nói, Ixaben đơ Xiguenxa! - Nghe tôi nhắc tên, cô ta rùng mình, - Hoan đơ Gacxia, người đã quyến rũ và bỏ rơi cô bây giờ ở đâu?
- Làm sao ông biết được cái tên ấy? - Ixaben hỏi. - Thậm chí các đòn tra tấn cũng không bắt nổi tôi nhắc tới nó.
- Tôi không là linh mục, và không biết gì về các cuộc tra tấn ấy. Tôi chính là người đã đánh nhau với Gacxia vào cái đêm người ta bắt được cô, có lẽ nếu không vì cô, tôi đã giết chết hắn.
- Tôi cứu sống ông ấy, và đó là niềm an ủi của tôi.
- Ixaben đơ Xiguenxa, - tôi nói tiếp. - Tôi là bạn cô, người bạn chân thành và là cuối cùng. Rồi bây giờ cô sẽ thấy rõ điều ấy. Hãy cho tôi biết: Gacxia ở đâu? Giữa tôi và cô có cái cần thanh toán với nhau.
- Nếu là bạn của tôi, xin ông đừng hành hạ tôi nữa. Tôi không biết gì về ông ấy. Cách đây nhiều tháng ông ấy đã đi tới nơi mà chắc không bao giờ ông có thể đặt chân tới, - ông ấy đi sang Ấn Độ(Tác giả muốn nói tới Tây Ấn, tức là vùng Nam Mỹ ngày nay. Thời ấy khi mới khám phá ra châu Mỹ, người ta lầm tưởng đó là Ấn Độ. Trong cuốn sách này, chữ “Ấn Độ” xin hiểu theo nghĩa ấy.), dù sao ông không tìm thấy ông ta đâu.
- Ai mà biết được! Nhưng nếu chúng tôi gặp nhau, cô có muốn nhắn ông ta điều gì không?
- Không. Mà rồi... khoan đã! Hãy nói cho ông ấy biết rằng chúng tôi, vợ và con ông ấy, đã chết như thế nào, và rằng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được để tòa án dị giáo không biết tên thật của ông ấy, nếu không, ông ấy cũng phải chết như chúng tôi.
- Chỉ có thế thôi à?
- Vâng... mà không, hãy nói thêm với ông ấy rằng khi chết, tôi vẫn yêu và tha thứ cho ông ấy.
- Tôi không có nhiều thời gian, - tôi nói. - Hãy tỉnh lại và nghe tôi nói đây!
Tôi bảo cô ta như thế vì vừa nói xong những lời kia, cô ta lặng im như chìm trong một giấc ngủ nào đó.
- Tôi là người giúp việc của Anđrex đơ Fônxêca, người đã khuyên cô nhưng cô không nghe nên mới gặp tai họa này. Tôi đã đưa cho bà tu sĩ của cô một thứ thuốc, khi bà ấy đưa cốc nước cho cô, cô hãy uống hết và cho con cô cùng uống. Nếu làm thế, cái chết sẽ đến với cô một cách nhanh chóng và không đau đớn. Cô hiểu tôi chứ?
- Vâng, vâng! - Ixaben vừa thở hổn hển, vừa đáp. - Cầu Chúa phù hộ cho ông vì điều ấy. Bây giờ, tôi không còn sợ nữa. Từ lâu chính tôi đã muốn chết nhưng tôi lo sợ phải chết như thế này.
- Bây giờ thì vĩnh biệt, hỡi cô gái tội nghiệp! Chúa sẽ ở bên cô!
- Vĩnh biệt! - Cô ta dịu dàng đáp, - nhưng vì sao lại gọi tôi là tội nghiệp, khi tôi được chết một cái chết nhẹ nhàng, và cùng với đứa con mà tôi yêu quý?
Rồi Ixaben cúi xuống nhìn đứa con đang ngủ.
Sau đó tôi bước xa khỏi cô ta, và lặng lẽ đứng cạnh tường, đầu cúi nhìn xuống đất. Ông linh mục ra lệnh cho mọi người ai đứng vào chỗ người ấy.
- Hỡi cô gái tội lỗi, - ông ta quay sang nói với Ixaben. - Cô có muốn nói với chúng tôi điều gì không, trước khi đôi môi cô phải lặng im mãi mãi?
- Có, tôi muốn nói! - Ixaben đáp bằng giọng rõ ràng và dịu dàng, thậm chí không hề run rẩy, vì bây giờ cô biết cô sẽ được chết nhanh chóng và không đau đớn. - Vâng, tôi muốn nói với mọi người rằng tôi chết với lương tâm trong sạch, vì nếu tôi có phạm tội thì chỉ là cái tội không làm đúng như mọi người thường làm, chứ không phải phản bội Đức Chúa. Vâng, tôi không giữ đúng lời thề, nhưng lời thề ấy người ta đã ép tôi phải chấp nhận, và dù sao nó cũng không trói buộc nổi tôi. Tôi được sinh ra do tình yêu và ánh sáng, thế mà người ta nhốt tôi vào bóng tối của cái tu viện này, để tôi bị chết dần trong đó. Vì thế, tôi phá vỡ lời thề, và tôi lấy làm vui mừng đã hành động như vậy, mặc dù tôi phải đem mạng sống của mình ra để trả giá. Cứ cho là người yêu ruồng bỏ tôi, cứ cho là đám cưới của tôi không hợp pháp như bây giờ mọi người đang nói, - tôi không biết điều ấy, - nhưng đối với tôi, dù sao lễ cưới ấy vẫn hợp pháp, thiêng liêng, và trước Chúa, tâm hồn tôi trong sạch. Tôi đã sống một cuộc sống thật sự, trong vòng mấy giờ tôi được làm người vợ, người mẹ hạnh phúc, và bây giờ, theo ý muốn của các ông, tôi thà bị chôn sống trong căn phòng này còn hơn bị chết dần chết mòn trong các căn phòng chật hẹp trên kia. Còn bây giờ, hãy lắng nghe tôi nói đây! Các ông dám nói với các con chiên của Chúa: “Cấm không được yêu đương!" Và rồi các ông giết chết họ vì tội họ dám yêu nhau. Nhưng sự độc ác của các ông sẽ có ngày quay lại đổ lên đầu chính các ông! Hãy nhớ lấy lời tôi: chúng sẽ quay lại chống các ông và chống cái nhà thờ mà các ông đang phụng sự, lúc ấy nhà thờ và những người như các ông sẽ chết, tên tuổi các ông sẽ là câu nguyền rủa trên miệng người đời!
Tiếng thì thầm ngạc nhiên và kinh sợ chuyền nhau khắp tầng hầm.
- Cô ta điên rồi! - Ông linh mục Đôminican kêu lên. - Cô ta mất trí, và trong cơn điên loạn của mình đã nói những lời phản Chúa! Đừng nghe cô ta! Làm lễ rửa tội cho cô ta đi! - Ông ta quay sang ông linh mục mặc áo đen. - Nhanh lên, trước khi cô ta kịp nói thêm những điều nhảm nhí khác!
Ông linh mục áo đen có cái nhìn sắc và nảy lửa đi lại gần Ixaben, dí chiếc thánh giá vào mũi cô và lẩm bẩm nói điều gì đó. Nhưng Ixaben liền đứng dậy khỏi ghế, đẩy chiếc thánh giá ra.
- Cút đi! - Cô kêu lên. - Ông không có quyền rửa tội cho tôi! Tôi sẽ tự hối lỗi trước Chúa, chứ không phải trước những kẻ nhân danh Chúa để giết người như ông!
Nghe thế, hắn điên lên vì tức giận.
- Nếu thế thì cho mày xuống địa ngục mà không được rửa tội, đồ đáng nguyền rủa! - Hắn gầm lên và lấy chiếc thánh giá bằng ngà voi nặng đập thẳng vào mặt cô, vừa đánh vừa không ngớt lời chửi rủa tục tĩu.
Ông linh mục Đôminican giận dữ ra lệnh cho hắn im lặng, nhưng Ixaben chỉ đưa tay lau máu trên trán rồi phá lên cười điên dại:
- Ôi, bây giờ tôi thấy, ông còn là một thằng hèn! - Cô nói. - Này, ông cố đạo, hãy nghe tôi nói đây! Vào phút cuối cùng này của đời tôi, tôi cầu Chúa để ông cũng bị những bọn cuồng tín giết chết, chết một cách còn kinh khủng hơn tôi!
Khi bị đẩy vào chiếc hầm sẽ là mồ chôn sống cô, cô lại nói một lần nữa:
- Nước đâu, tôi và con tôi khát lắm rồi!
Từ cửa nhà tù nơi Ixaben đang bị giam, tôi nhìn thấy bà tu sĩ nọ tay cầm cốc nước và ít bánh mì đi tới; nhìn vẻ ngoài của bà tôi biết bà đã rót thuốc độc vào nước. Ngoài ra tôi không còn biết gì nữa.
Ngay sau đó tôi yêu cầu ông linh mục Đôminican nhanh chóng mở cửa cho tôi ra khỏi hầm. Bước mấy bước dọc theo hành lang, tôi dừng lại cách xa cánh cửa một quãng, và sững sờ vì hoảng sợ, tôi đã đứng như thế không biết bao lâu. Cuối cùng tôi nhìn thấy bà tu sĩ xuất hiện với chiếc đèn trong tay.
- Xong rồi, - bà vừa nói vừa thút thít khóc, - đừng lo, thuốc độc của ông hiệu nghiệm lắm. Vừa mới nhấp miệng, cả hai mẹ con đã ngủ thiếp. Như thế là cô ta chết mà không được rửa tội và ban phước. Thật đáng thương cho linh hồn cô ta!
- Đáng nguyền rủa linh hồn tất cả những người đã dính tay vào việc này! - Tôi đáp. - Còn bây giờ hãy cho tôi đi ra, và mong sao chúng ta không bao giờ gặp nhau nữa!
Bà dẫn tôi quay lại chiếc phòng nhỏ, ở đó tôi cởi bỏ chiếc áo choàng linh mục khủng khiếp, rồi đi tới chiếc cổng ở khu vườn và tới con thuyền vẫn còn đứng chờ dưới sông. Cảm thấy hơi mát dịu dàng của làn gió đêm trên mặt, tôi mừng rỡ như thể vừa thoát khỏi một cơn ác mộng. Nhưng đêm ấy, cũng như những đêm tiếp theo tôi trằn trọc không sao ngủ được. Hễ nhắm mắt, là trước mặt tôi lại hiện lên hình ảnh cô gái xinh đẹp bất hạnh kia, đúng như tôi thấy cô ta lần cuối. Dưới ánh sáng mờ tối của những bó đuốc, khoác tấm vải liệm trên người, cô kiêu hãnh đứng trong căn hầm như trong một chiếc quan tài bằng đá, một tay ghì chặt đứa con vào ngực, tay kia chìa ra đỡ cốc thuốc độc.
Ít ai muốn thấy những cảnh thế này lần thứ hai, mà rồi những người nhìn thấy chúng một lần cũng không nhiều, vì tòa án dị giáo và đồng lõa của chúng thường cố giấu không cho người khác biết những việc chúng làm. Nếu tôi miêu tả những gì tôi được chứng kiến đêm ấy không tốt lắm, thì không có nghĩa rằng tôi quên mà vì thậm chí cả bây giờ, gần bảy mươi năm trôi qua,  tôi vẫn khó lòng bình tĩnh để viết những điều kinh khủng ấy!
Có lẽ cái đáng ngạc nhiên hơn cả là thái độ của cô gái xinh đẹp đáng thương kia đối với thằng khốn nạn đã quyến rũ cô, lừa dối cô bằng một lễ cưới giả, và rồi bỏ rơi, để cô phải chết một cái chết đau đớn. Cô vẫn yêu hắn cho đến giây phút cuối cùng của đời mình. Một người như hắn có gì để được hưởng một sự chung thủy, thiêng liêng như vậy? Tôi không biết, nhưng đó là sự thật.
Bây giờ nghiền ngẫm lại tất cả những gì đã xảy ra lúc ấy, tôi lại nhớ tới những việc kém phần lạ lùng hơn tình cảm trong sáng của cô gái đáng thương kia. Như tôi đã nói, khi tên linh mục đánh cô, cô đã cầu mong hắn sẽ chết một cái chết còn kinh khủng hơn, bởi bàn tay những tên cuồng tín như hắn. Điều ấy đã xảy ra. Nhiều năm sau chính tên linh mục Pêđrô ấy được gửi tới Anahuac để truyền đạo cho những người bản xứ vô thần, và ở đấy, vì nổi tiếng độc ác, người da đỏ đã gọi hắn là “Con quỷ của Chúa Giêsu”. Một lần, đi xa hơn cần thiết, tới vùng đất của bộ lạc Ôtômi còn chưa bị chinh phục, hắn đã rơi vào tay các nhà tư tế của thần chiến tranh Uixilôpôctơli, và theo phong tục dã mãn ở đấy, hắn đã bị đem làm vật tế thần. Khi hắn bị đưa lên bàn chọc tiết, tôi nhắc hắn về lời nguyền rủa cuối cùng của Ixaben đơ Xiguenxa, nhưng không nói rằng chính tôi đã có mặt khi cô chết. Nghe thế, trong chốc lát, hắn co rúm người lại vì sợ hãi. Hắn thấy tôi là một thủ lĩnh da đỏ, và nghĩ chính quỷ xa tăng đã nói lên điều ấy qua đôi môi của tôi để đày đọa hắn trước khi chết. Nhưng thôi, như thế là đủ. Nếu cần, tôi sẽ kể tất cả một cách chi tiết về chuyện này vào một dịp khác. Còn bây giờ tôi chỉ muốn nói một điều, rằng có thể vì Chúa muốn bắt hắn đền tội, vì ngẫu nhiên, hoặc vì trong cơn hấp hối của mình, Ixaben đã báo trước về số phận của hắn, tên cố đạo cuồng tín ấy đã chết đúng như cô mong muốn và tôi không chút mảy may thương hại hắn, dù cái chết của hắn đã gây cho tôi không ít điều bất hạnh.
Ixaben đơ Xiguenxa đã chết thế đấy. Cô bị các cố đạo chôn sống chỉ vì dám vượt ra ngoài những điều quy định của chúng.
Khi tất cả những gì tôi được nhìn và được nghe trong cái đêm khủng khiếp ấy tạm lắng xuống trong lòng, cuối cùng tôi đã có thể nghĩ về bản thân. Một mặt tôi trở nên giàu có, và nếu muốn, tôi có thể trở lại Nôphôc cùng tất cả gia tài của mình, và một tương lai dễ chịu sẽ chờ tôi. - Điều này, lúc sống, Fônxêca đã nói với tôi. Nhưng mặt khác, lời thề mà tôi đã long trọng tuyên bố vẫn treo trên cổ tôi như quả tạ. Tôi đã thề sẽ trả thù Hoan đơ Gacxia, và cầu mong thánh thần trừng phạt tôi, nếu không làm được điều ấy. Nhưng làm sao có thể giết hắn, khi tôi sống yên lành và sung sướng ở nước Anh?
Cuối cùng tôi đã biết được  kẻ thù của tôi ở đâu, ít ra là nên tìm kiếm hắn ở vùng nào trên thế giới. ƠŒ những nơi có ít người da trắng, hắn sẽ không dễ trốn thoát khỏi tay tôi như ở Tây Ban Nha. Tôi biết được điều ấy về hắn từ miệng Ixaben, và đã kể ở đây khá chi tiết về câu chuyện của cô ta, chỉ vì nếu không có cô ta, tôi đã chẳng bao giờ lên đường đi tới Espanhiôla(Tên gọi quần đảo Haiti theo tiếng Tây Ban Nha. ). Cũng giống như thế, nếu các nhà tư tế của bộ lạc Ôtômi không giết tên đao phủ của cô là cha Pêđrô, tôi sẽ chẳng bao giờ quay trở lại nước Anh, vì nếu không có lễ tế thần ấy, người Tây Ban Nha sẽ không bao vây thành Xôxen, và có lẽ tận bây giờ, tôi vẫn ở bên ấy, có thể chết mà cũng có thể sống. Thường nhiều chi tiết bề ngoài rất nhỏ nhặt mà lại quyết định cả cuộc đời ta như vậy. Nếu Ixaben không nói ra những lời cuối cùng kia có lẽ dần dần tôi sẽ chán tìm kiếm một cách vô ích và sẽ bỏ về nước Anh, nơi hạnh phúc đang chờ tôi. Nhưng nghe cô nói xong, tôi không thể làm thế, vì về phía tôi, lúc ấy tôi nghĩ đó là một sự hèn nhát tồi tệ nhất. Vả lại, lúc ấy tôi còn nghĩ tới phải trả thù cho cả hai người, là mẹ tôi và Ixaben. Điều này nghe có vẻ khó hiểu, nhưng nếu ai được tận mắt nhìn thấy cô gái trẻ xinh đẹp ấy chết một cách rùng rợn thế nào, nhất định người đó thề sẽ trả thù kẻ đã quyến rũ, ruồng bỏ và làm cô ta đau khổ.
Thế là cuối cùng tôi đã hành động theo bản tính ương bướng của mình, trái với cả những điều mà sâu trong lòng tôi đang mong muốn, và không nghe lời khuyên của ông Fônxêca trong giờ hấp hối. Tôi quyết định thực hiện lời thề: đuổi theo Hoan đơ Gacxia cho tới tận chân trời góc biển, và giết chết hắn nếu gặp.
Trước hết, tôi cố gắng lặng lẽ và khôn khéo kiểm tra lại có phải Gacxia đi Ấn Độ không. Không đi sâu vào các chi tiết, tôi xin kể vắn tắt rằng tôi đã xác định được điều ấy nhờ những mối liên lạc mà tôi có.
Hai ngày sau cuộc ẩu đả ban đêm giữa tôi và Gacxia, có một người đàn ông, theo miêu tả rất gống Gacxia, nhưng mang tên khác, đã lên tàu rời Xêvin đi về phía các đảo Canarơ. ƠŒ đấy, tàu này sẽ chờ thêm một số tàu nữa rồi cùng nhau đi tới Espanhiôla. So sánh nhiều dữ kiện, tôi tin chắc người ấy không phải ai xa lạ mà chính là Hoan đơ Gacxia. Điều ấy chẳng có gì đáng lạ, vì Ấn Độ là nơi ẩn náu của những kẻ phiêu lưu và đủ các loại người khốn nạn không còn đất sống ở Tây Ban Nha. Và rồi tôi quyết định đuổi theo hắn. Một điều duy nhất an ủi tôi ít nhiều là sang đấy, tôi sẽ được thấy những vùng đất xa lạ. Lúc đó, thậm chí tôi không hề nghĩ tới những gì đang chờ mình trước mắt.
Nhưng trước hết tôi phải giải quyết xong cái gia tài mà bỗng nhiên tôi nhận được. Tôi hoàn toàn không biết phải làm gì với nó hay cất giữ nó nơi nào cho đến khi quay lại. Ngẫu nhiên, tôi biết tin lúc ấy ở Cađix đang có con tàu “Kẻ phiêu lưu” từ Iamut tới, - nó chính là con tàu đã chở tôi tới Tây Ban Nha, - và tôi quyết định ngay rằng tốt hơn hết là gửi vàng và các vật quý khác về Anh, nơi chúng sẽ được cất giữ cho tôi một cách tuyệt đối an toàn. Tôi liền viết thư gửi ông bạn của tôi là thuyền trưởng con tàu “Kẻ phiêu lưu” và báo ông biết tôi có một món hàng quý muốn nhờ tàu ông chuyên chở. Sau đó, tôi bắt đầu vội vã chuẩn bị cho ngày lên đường. Vì vội, tôi buộc phải bán ngôi nhà của Fônxêca và nhiều đồ vật khác với một giá rất rẻ. Phần lớn sách, bát đĩa và một số vật dụng khác tôi ra lệnh đóng hòm, gửi tàu theo dòng sông tới Cađix cho những nhà buôn mà các thương gia ở Iamut đã giới thiệu tôi đến gặp. Chỉ sau khi làm xong những việc ấy, tôi mới ra đi, mang theo mình tất cả số vàng tôi có được đựng trong những túi nhỏ giấu kĩ giữa những đồ vật khác.
Thế là sau một năm, tôi vĩnh viễn rời khỏi Xêvin. Thành phố này đã mang lại may mắn cho tôi. Rất nghèo khi đến, khi đi đã là người giàu có. Đấy chưa nói tới kinh nghiệm sống mà tôi học được ở đây, nó cũng không kém phần giá trị. Nhưng dù sao, tôi vẫn thấy mừng khi ra đi, vì ở đây, ở thành phố này, Hoan đơ Gacxia đã tuột khỏi tay tôi, ở đây tôi chôn cất người bạn tốt nhất của mình, và cũng ở đây tôi được chứng kiến cái chết của Ixaben đơ Xiguenxa.
Tôi tới Cađix một cách thuận lợi, không để mất một vật nhỏ nào, tôi thuê một chiếc thuyền trong cảng, và chẳng bao lâu sau đã ở trên tầu "Kẻ phiêu lưu", nơi thuyền trưởng Ben đang chờ tôi. Ông còn khỏe mạnh và rất vui khi gặp tôi. Nhưng tôi còn vui hơn khi biết ông mang tới cho tôi ba bức thư: một bức của bố tôi, một của em gái Mery và bức thứ ba của Lyly. Đó là bức thư duy nhất trong đời mà tôi nhận được của nàng.
Tuy nhiên nội dung của bức thư ấy không có gì đáng vui lắm. Sức khỏe bố tôi quá sa sút và hầu như ông không còn dậy nổi khỏi giường. Như sau này tôi được biết, ông chết trong nhà thờ Đichchingham đúng vào ngày tôi nhận được thư ông. Thư ông viết ngắn và buồn. Ông nói ông lấy làm tiếc đã để tôi ra đi, và có lẽ sẽ chẳng bao giờ còn gặp tôi nữa, vì thế, ông luôn cầu Chúa phù hộ cho tôi còn sống và trở lại nước Anh an toàn.
Còn về bức thư của Lyly mà nàng đã bí mật gửi khi biết tàu "Kẻ phiêu lưu" lại sang Cađix, thì nó tuy dài hơn nhưng không kém phần đau buồn. Nàng viết rằng tôi vừa đi xong, anh Giêfry đã xin được bố nàng đồng ý, và cả hai bắt đầu tìm mọi cách ép nàng lấy anh. Cuộc sống của nàng trở nên vô cùng nặng nề: Giêfry không rời nàng nửa bước, còn ông Bôza thì ngày đêm trách móc, gọi nàng là con lừa bướng bỉnh, ngu ngốc từ chối sự giàu sang, chỉ vì một kẻ lãng du nào đó.
Anh hãy tin em, anh yêu, - Lyly viết tiếp, - em sẽ không phản bội lời thề, nếu không bị  cưỡng ép phải lấy chồng. Mà họ đã dọa làm điều ấy. Nhưng thậm chí cả khi họ bắt được em đứng trước bàn thờ dù em không muốn, thì Tômax ơi, em sẽ không là vợ người khác lâu dài. Em khỏe mạnh, nhưng em sẽ chết vì buồn và xấu hổ. Tại sao em phải chịu những đau đớn này, phải chăng chỉ vì anh nghèo? Dù sao em vẫn tin một cách chắc chắn rằng mọi việc dần dần sẽ tốt hơn, ít ra một phần vì em trai em là Uyngfri đang rất say mê cô em Mery của anh. Từ trước tới nay nó vẫn giục em lấy Giêfry, nhưng Mery và em thân nhau, và cô ấy sẽ bắt được Uyngfri ủng hộ ta trước khi nhận lời lấy nó".
Bức thư kết thúc bằng những lời âu yếm và lời chúc tôi về quê hương an toàn.
Trong thư của mình, cô em gái Mery của tôi cũng hầu như nói về những chuyện ấy. Nó nói tạm thời nó chưa thể làm được gì cho tôi và Lyly. Anh Giêfry phát điên lên vì người yêu của tôi quá ốm yếu, bố tôi quá ốm yếu và không muốn can thiệp vào điều gì, còn ông Bôza thì đã nhìn ngó tới ruộng đất của chúng tôi, nên cương quyết bắt phải tổ chức lễ cưới.Tuy nhiên, theo Mery, tất cả những điều ấy sẽ phải thay đổi; vì sắp tới có thể nó sẽ nói một đôi lời ủng hộ tôi, và hi vọng không phải không có kết quả.
Những tin như thế làm tôi suy nghĩ rất lung. Nỗi nhớ nhà một lần nữa trỗi dậy trong tôi, thôi thúc tôi không dứt. Những lời nói âu yếm và làn hương nhè nhẹ tỏa ra từ bức thư Lyly đã làm sống lại trước tôi hình ảnh dịu dàng của nàng, làm trái tim tôi đau thắt vì mong muốn được ở bên nhau. Mặt khác, tôi biết bây giờ tôi sẽ được tiếp đón với những cánh tay rộng mở, vì từ nay tôi đã giàu có hơn nhiều so với ông anh của tôi, và ông Bôza sẽ không còn đuổi ra khỏi nhà một chàng rể trong túi có mười hai ngàn đồng tiền vàng. Cuối cùng, bản thân tôi cũng rất muốn gặp lại bố tôi, chừng nào ông còn sống!
Tuy nhiên, giữa tôi và Tổ quốc bị ngăn cách bởi bóng đen của Hoan đơ Gacxia và lời thề của tôi. Tôi chuẩn bị cho việc trả thù từ lâu, điều ấy bám chặt tôi, đến nỗi bây giờ thậm chí tôi không thể nghĩ tới cuộc sống hạnh phúc chừng nào mục đích kia chưa thực hiện được. Để đạt được hạnh phúc, trước hết tôi phải giết Gacxia đã. Tôi tin chừng nào hắn còn sống, lời thề độc của tôi sẽ bám theo tôi khắp nơi.
Vì vậy, tôi đã làm những việc như sau: tôi tìm gặp viên chưởng khế, nhờ ông ta viết một bản di chúc, sau đó tự tôi dịch ra tiếng Anh. Theo bản di chúc ấy, trừ hai trăm đồng pêxô để riêng cho tôi, tôi chia tất cả gia tài của tôi thành ba phần để trao cho ba người giữ cho đến ngày tôi quay lại. Ba người ấy là: bác sĩ Grimstơn ở Banghi, là ông giáo già trung thực của tôi; em gái tôi, - Mery và người yêu của tôi là Lyly Bôza. Để tăng phần hợp pháp, bản di chúc này được thuyền trưởng Ben và hai người Anh khác làm chứng, trong đó có nói rõ rằng tôi trao cho ba người nói trên được quyền sử dụng tài sản của tôi theo ý họ, nhưng với điều kiện một nửa số tiền phải đầu tư vào ruộng đất, và số còn lại vào những việc thu lợi khác. Tất cả lợi nhuận và số tiền thu được từ ruộng đất phải được trao cho Lyly Bôza cho đến khi nàng lấy chồng.
Đồng thời, tôi còn thảo một bản di chúc khác, theo đó phần lớn gia tài của tôi sẽ thuộc về Lyly Bôza, nếu đến ngày tôi chết nàng không lấy người khác làm chồng, và số còn lại cho Mery. Trong trường hợp Lyly lấy chồng hay chết, phần tiền của nàng sẽ được chuyển sang cho Mery và những người thừa kế của cô.
Khi hai tài liệu ấy được kí và đóng dấu, tôi trao chúng cho thuyền trưởng Ben cùng tất cả gia tài của tôi, để ông mang về Banghi và trao cho bác sĩ Grimstơn, là người sẽ trả công xứng đáng cho ông vì việc này. Ông thuyền trưởng vừa khóc vừa nài tôi cùng trở về nước Anh, và chỉ khi tôi cương quyết từ chối, ông mới hứa sẽ làm đúng những điều tôi dặn.
Cùng với vàng và các giấy tờ ấy, tôi còn gửi thêm mấy bức thư, cho bố tôi, cho Giêfry, Mery, bác sĩ Grimstơn, ông Bôza, và cuối cùng là cho Lyly. Trong những bức thư ấy tôi kể về tất cả những gì xẩy ra với tôi kể từ ngày tôi đặt chân lên đất Tây Ban Nha, vì tôi tin các bức thư trước đấy của tôi đã không tới được nước Anh. Đồng thời tôi cũng nói rõ việc tôi quyết định sẽ đi tìm Gacxia khắp nơi, cho tới chân trời góc biển.
Tự anh ra đi và có thể sẽ đánh mất cái hạnh phúc mà anh quý trọng nhất đời, - tôi viết cho Lyly. - Cứ để người khác nghĩ anh là một kẻ điên rồ! Nhưng em, em biết rõ trái tim anh và sẽ không lên án anh, dù quyết định của anh sẽ mang lại cho em nhiều đau khổ. Em biết đấy, một khi anh quyết định làm cái gì đó, thì không gì có thể bắt được anh thay đổi, trừ cái chết.Vả lại, anh còn bị ràng buộc bởi một lời thề mà lương tâm không cho phép anh phản bội. Thậm chí được ở bên em, anh cũng không hạnh phúc, nếu từ bỏ công việc tìm kiếm của anh. Trước hết là công việc, sau mới đến nghỉ ngơi. Trước hết là đau buồn, sau mới đến mừng vui. Đừng lo cho anh, anh tin anh sẽ sống và trở về. Còn trong trường hợp không sống sót để quay lại, anh đã làm tất cả để em không bao giờ phải lấy chồng trái ý. Nhưng bây giờ, khi Gacxia còn sống, anh phải đuổi theo hắn.
Còn bức thư tôi viết cho Giêfry thì rất ngắn, trong đó tôi đã nói tất cả những gì tôi nghĩ về một người lợi dụng sự vắng mặt của em trai để tán tỉnh cô người yêu đáng thương của anh ta. Sau này người ta kể lại với tôi rằng bức thư ấy không làm Giêfry thích lắm.
ƠŒ đây tôi muốn dừng lại để nói thêm rằng tất cả các bức thư và gia tài của tôi đã tới Iamut một cách an toàn. Sau đó, vàng và các đồ đạc của tôi được đưa đến Lôstôphơ, bốc lên một con thuyền, và khi dỡ xong các hàng hóa khỏi tàu của mình, thuyền trưởng Ben đã lên con thuyền ấy đi ngược dòng sông Uêvơni tới Banghi, và ở đây tất cả được chuyển tới nhà bác sĩ Grimstơn ở phố Nêdơghêt.
Thuyền trưởng Ben đã báo trước việc này cho bố tôi, Giêfry và Mery, cũng như ông Bôza cùng con trai và con gái ông; và đúng ngày hôm ấy, tất cả mọi người đã tụ tập ở nhà bác sĩ Grimstơn, trừ bố tôi, là người đã chết trước đấy hai tháng.
Vô cùng ngạc nhiên, họ lắng nghe lời ông thuyền trưởng kể, nhưng họ còn ngạc nhiên hơn khi các hòm vàng được mở ra và họ đưa tay cầm lên xem để kiểm tra với con số được nhắc đến trong các bức thư của tôi, vì từ xưa tới nay chưa ai ở cả vùng Banghi của chúng tôi được nhìn thấy một số vàng lớn như thế.
Lúc ấy Lyly đã òa lên khóc, lúc đầu vì vui mừng rằng từ nay tôi đã thành giàu có, còn sau vì buồn rằng tôi đã không trở về cùng số của cải này. Còn ông Bôza thì sau khi nhìn thấy vàng và nghe đọc lời di chúc trong chốc lát đã biến Lyly thành một người phụ nữ giàu có, bất kể tôi còn sống hay chết, ông vội nói to với mọi người rằng bao giờ ông cũng chỉ nghe tốt về tôi. Sau đó ông ôm hôn con gái, và chúc nàng đã gặp may mắn. Tóm lại, ai cũng hài lòng, trừ ông anh tôi, là người vội bỏ ra khỏi nhà mà không nói với ai một lời nào. Từ hôm ấy, Giêfry bắt đầu tìm cách quấy phá, càng ngày càng tồi tệ hơn, vì có thể nói rằng anh ta đã bị tước mất cốc rượu ngon đã kề sát miệng nhưng chưa kịp uống ngụm nào. Được thừa hưởng toàn bộ ruộng đất của bố tôi, Giêfry nghĩ Lyly nhất định thế nào cũng lấy anh ta làm chồng, hoặc tự nguyện, hoặc bị bắt buộc, thậm chí cả ngày nay ông bố cũng có quyền ép duyên con gái, nhất là khi con mình chưa tới tuổi thành niên, mà ông Bôza thì bao giờ cũng cho rằng chẳng cần đếm xỉa đến ý kiến của con gái, và ông sẽ không chịu dừng lại trước bất kì điều gì để đạt được mục đích.
Nhưng từ hôm ấy mọi chuyện thay đổi hẳn, - đúng là sức mạnh của đồng tiền lớn thật! Chẳng còn ai nhắc tới việc gả Lyly cho người nào đó ngoài tôi. Giả sử Lyly có muốn thế thì bây giờ ông bố chính là người sẽ ngăn nàng lại, vì nếu không, nàng sẽ mất toàn bộ số tiền tôi ghi trong di chúc. Nhưng để bù lại, mọi người vẫn tiếp tục lên án tôi là ngu ngốc, trách tôi không từ bỏ lời thề mà thậm chí còn quyết định đi tới miền Tây Ấn xa xôi để tìm kiếm Gacxia. Ông Bôza thì tự an ủi rằng trong trường hợp nào, tôi sống hay chết, số tiền nói trên vẫn thuộc về con gái ông. Chỉ một mình Lyly là ủng hộ tôi. Nàng nói:
- Tômax đã thề, và anh ấy phải thực hiện lời thề ấy. Đó là vấn đề tự trọng; từ nay tôi sẽ chờ anh ấy cho tới khi chúng tôi gặp nhau, ở thế giới này hoặc thế giới bên kia!
Tuy nhiên, nhắc tới những điều này ở đây là không đúng chỗ, vì mãi rất nhiều năm sau tôi mới biết được chúng. 
XI
ĐẮM TÀU 
Sang ngày hôm sau, khi giao cho thuyền trưởng Ben tất cả thư từ và tài sản của tôi xong, tàu "Kẻ phiêu lưu" từ từ rời cảng Cađix. Nhìn theo nó, tôi bỗng cảm thấy buồn kinh khủng, đến mức, thú thật, tôi đã khóc. Tôi sẵn sàng từ bỏ tất cả gia tài của tôi trên đó để thay chúng được trở về nước Anh. Nhưng quyết định của tôi là bất di bất dịch, và hàng chục năm sau tôi mới được trở lại quê hương, trên một con tàu khác.
Lúc ấy trong cảng có một chiếc tàu Tây Ban Nha rất lớn, tên là "Las Cinque Llagac", hay là "Năm vết thương của Giêsu" đang chuẩn bị đi Espanhiôla. Dưới cái tên nhà buôn Đaila, tôi đã xin được lên đi nhờ tàu ấy. Để khỏi bị phát giác, tôi đem một trăm năm mươi đồng pêxô mua những thứ hàng nghe nói ở Tây Ấn đang khan hiếm để mang theo. Tầu chở đầy những tay ưa phiêu lưu mạo hiểm người Tây Ban Nha, phần lớn thực chất là những tên lừa đảo bịp bợm đủ loại với các tiểu sử li kì nhất. Tuy nhiên, khi chưa uống rượu say, họ cũng là những bạn đường có thể chấp nhận được. Lúc này tôi đã nắm vững thành thạo thổ ngữ Caxtili, cộng với vẻ ngoài rất giống Tây Ban Nha, nên khó có thể nghĩ tôi là người Anh, điều này đã được tôi khai thác để phịa ra một câu chuyện thích hợp về hoàn cảnh gia đình và những lí do khiến tôi vượt biển đi tìm hạnh phúc nơi đất khách quê người. Tóm lại, mặc dù tôi là người điềm đạm và không tham gia các cuộc vui chung, chẳng bao lâu sau mọi người đã tỏ ra yêu mến tôi, nhưng chủ yếu vẫn do tôi nhiệt tình chữa bệnh cho họ.
Nói chung chẳng có gì đáng kể về chuyến du hành này, trừ cái phần kết đáng buồn của nó. Chúng tôi sống một tháng ở các đảo Canarơ, sau đó lên đường đi Espanhiôla, và suốt đường đều gặp gió thuận, tuy hơi yếu.
Khi cách Xantô - Đômingô, địa điểm cuối cùng của chúng tôi, theo lời ông thuyền trưởng chỉ còn một tuần lễ nữa, thì bỗng nhiên thời tiết thay đổi đột ngột. Từ phía bắc ập xuống một cơn bão khủng khiếp mỗi lúc một mạnh thêm. Ba ngày ba đêm liền con tàu già nua của chúng tôi phải rên rỉ, vặn vẹo dưới những cú đòn ghê gớm của cơn bão đang thổi dạt chúng tôi không biết đi đâu. Cuối cùng ai cũng biết rằng nếu bão không ngớt, tất cả chúng tôi sẽ chìm xuống đáy biển. Con tàu bị sứt mẻ nhiều chỗ, một cột buồm bị gió cuốn, cột thứ hai bị gãy phần trên, cách boong độ sáu bảy mét. Nước bắt đầu chảy vào hầm tàu. Nhưng tất cả những điều ấy chẳng nghĩa lí gì so với điều xảy ra vào ngày thứ tư. Một cơn sóng khổng lồ làm gẫy bánh lái, và con tàu bất lực của chúng tôi từ phút đó hoàn toàn phụ thuộc vào quyền lực của sóng biển. Độ một giờ sau đó, cơn phẫn nộ của đại dương một lần nữa đổ ập xuống boong tàu, làm lật tờ neo và nước ùa vào khoang. Bây giờ thì cái chết là không thể tránh khỏi.  
Và chính lúc ấy lại bắt đầu xẩy ra điều kinh khủng nhất. Những ngày trước đó thủy thủ và hành khách thi nhau uống rượu để cố xua đi nỗi sợ. Bây giờ, khi cái chết đang đến gần, họ bắt đầu nháo nhác đi lại trên tàu. Tiếng cầu kinh, tiếng rên khóc và chửi rủa hòa lẫn vào nhau thành một bản đồng ca hỗn độn. Những người không say tìm cách hạ thuyền xuống nước. Tôi và một vị linh mục tử tế khác cố cho phụ nữ và trẻ con xuống thuyền, - trên tàu, họ không ít, - nhưng làm điều đó không dễ. Những người thủy thủ say rượu gạt chúng tôi sang bên để nhảy xuống thuyền. Một chiếc lật úp và tất cả những ai đã ngồi trong đó liền chìm ngay xuống biển. Đúng lúc ấy con tàu nghiêng hẳn và nhanh chóng làm mồi cho hà bá.
Thấy không chờ thêm được nữa, tôi nói với ông linh mục hãy làm theo tôi rồi nhảy xuống nước bơi về phía chiếc thuyền thứ hai, nơi đang có mấy người phụ nữ vừa kêu lên hoảng sợ, vừa cố chèo chống một cách vô ích. Tôi bơi không đến nỗi tồi, không những tới thuyền một cách bình yên, mà còn tiếp cứu ông linh mục đang sắp chìm.
Trong lúc ấy, mũi con tàu nhô cao, rồi chìm dần phía đuôi xuống nước. Nó ở tư thế ấy trong hai phút, đủ để chúng tôi chèo thuyền xa nó một quãng. Đang mải miết chèo, bất chợt chúng tôi nghe có tiếng rú lên tuyệt vọng của những người đang ở trên boong, và con tàu lập tức biến mất. Nếu ở gần, nó sẽ kéo cả chúng tôi xuống đáy.
Trong mấy giây chúng tôi ngồi yên, sững sờ và khiếp sợ. Sau đó, khi nước trên chỗ con tàu vừa chìm không sủi bọt nữa, chúng tôi bắt đầu bơi ngược lại.  Xung quanh đầy các mảnh vỡ, nhưng chúng tôi chỉ cứu được một đứa bé đang bám vào mái chèo. Còn lại hai trăm người trên boong đã theo tàu chìm xuống nước. Có thể lúc ấy đang còn ai đó sống sót, nhưng trời tối dần nên chúng tôi không nhìn thấy.
Như thế cũng may cho chúng tôi, vì trong thuyền đã mười người, và không còn chỗ cho bất kì một người nào khác. Điều duy nhất bây giờ chúng tôi có thể làm được là giữ mũi thuyền cắt ngang những ngọn sóng. Bằng cách ấy chúng tôi đã trải qua một đêm dài vô tận. Tôi lấy làm lạ khi nhìn thấy, hay nói đúng hơn, nghe thấy ông bạn linh mục tốt bụng của tôi vừa chèo thuyền vừa nghe hết người phụ nữ này đến người phụ nữ khác xưng tội, và nghe xong, ông đã làm lễ rửa tội cho họ. Ông cầu nguyện Đức Chúa cứu rỗi linh hồn chúng tôi, vì việc cứu thể xác thì chẳng ai còn hi vọng. Đêm ấy, tôi đã trải qua những điều bản thân tôi cũng khó hình dung nổi nhưng tôi sẽ không dừng lại kể, vì trước mắt còn nhiều điều khác tồi tệ hơn đang chờ đợi tôi, và tôi sẽ buộc phải kể về chúng.
Cuối cùng đêm qua, và bình minh hé rạng trên đại dương mênh mông, vắng vẻ. Mặt trời lên dần. Lúc đầu, chúng tôi lấy thế làm mừng vì được sưởi ấm lại, nhưng chẳng bao lâu sau, cái nóng đã trở nên không sao chịu nổi. Trong thuyền không có cả thức ăn lẫn nước uống, và chúng tôi bắt đầu bị cái khát giày vò.
Trong lúc ấy gió thổi từng đợt mạnh, chuyển dần thành từng đợt đều và nhẹ hơn. Bằng mái chèo và những tấm chăn, chúng tôi dựng lên một cái gần như cánh buồm, và con thuyền của chúng tôi lao đi khá nhanh về phía trước. Nhưng đại dương vô bờ bến, mà chúng tôi thì không biết đang trôi giạt về hướng nào.
Mỗi lúc cơn khát càng trở nên gay gắt hơn. Khoảng gần trưa một đứa bé bỗng chết và chúng tôi đã cho xác nó xuống biển. Ba giờ sau, mẹ nó lấy mũ múc nước biển uống ừng ực. Lúc đầu cơn khát tưởng như dịu xuống, nhưng liền sau đó bà ta hóa điên. Bà ta đứng bật dậy, nhảy khỏi thuyền và chìm ngay lập tức. Khi mặt trời như một chiếc đĩa tròn được nung đỏ, cuối cùng ngả dần về phía tây, chỉ còn lại hai người có thể ngồi vững trên thuyền là ông linh mục và tôi. Những người còn lại nằm ngổn ngang trong thuyền như những con cá chết, khẽ rên rỉ một cách rất thương tâm. Đêm lại đến, không khí mát dịu hơn, và điều ấy làm chúng tôi đỡ khổ ít nhiều. Chúng tôi cầu Chúa ban cho cơn mưa, nhưng vô ích, và khi mặt trời lại xuất hiện trên khoảng không trong xanh, chúng tôi hiểu rằng đây là lần cuối cùng được nhìn thấy nó, nếu không được một điều kì diệu nào đấy bất ngờ cứu thoát. Trời lại nóng kinh khủng.
Hai giờ sau, một đứa trẻ khác lại chết. Khi chúng tôi hạ xác nó xuống biển, tôi vô tình ngước lên và bỗng nhiên nhìn thấy một con tàu phía xa. Con tàu ấy đang đi về phía chúng tôi. Tạ ơn Chúa vì điều kì diệu ấy, tôi và ông linh mục lại mệt nhọc chèo thuyền thẳng hướng con tàu đó. Gió thổi quá yếu, nên chiếc buồm tội nghiệp của chúng tôi đã không còn kéo nổi con thuyền đi thêm, dù chỉ mấy mét.
Cứ thế chúng tôi chèo gần một giờ. Gió ngừng thổi hẳn, con tàu với những cánh buồm ủ rũ đứng lặng, cách chúng tôi ba dặm. Tôi và ông linh mục vẫn đem hết sức lực cuối cùng còn lại để chèo. Tôi có cảm giác như tôi đang chết dưới những tia mặt trời nóng bỏng. Không một gợn gió nào làm dịu bớt cái nóng tàn nhẫn, môi chúng tôi nứt nẻ vì khát. Nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục chèo cho đến khi bóng của những chiếc buồm rơi vào thuyền và nhìn thấy những người thủy thủ đang đứng quan sát chúng tôi trên boong. Mấy phút sau, chúng tôi tiến lại sát thành tàu, và từ trên cao một chiếc thang bằng dây thừng được hạ xuống, chúng tôi nghe có người nói chuyện bằng tiếng Tây Ban Nha.
Tôi không nhớ chúng tôi đã leo lên tàu như thế nào. Tôi chỉ nhớ tôi nằm lăn dưới bóng cột buồm và bắt đầu ừng ực uống hết cốc nước này đến cốc nước khác mà người ta đưa cho tôi. Cuối cùng tôi không thấy khát nữa, nhưng bỗng nhiên lại buồn nôn, đầu óc quay cuồng đến mức tôi không thể ăn một miếng thức ăn nào, dù được đưa tận miệng. Hình như lúc ấy tôi ngất đi, và khi tỉnh lại, mặt trời đã ở ngay trên đầu.
Tôi vẫn nghĩ tôi đang ngủ. Không hiểu sao tôi như nghe có một giọng nói quen thuộc và khó chịu, dù thực ra tôi đang nằm một mình cạnh cột buồm: tất cả thủy thủ trên tàu tập trung ở phía mũi quanh một vật gì đó, hình như là một người đang nằm trên boong. Cạnh tôi là một chiếc đĩa lớn đựng đầy thức ăn và một chai rượu mạnh. Cảm thấy sức lực đã trở lại, tôi ăn uống một cách ngấu nghiến cho đến khi no mới thôi.
Trong lúc ấy, những người thủy thủ trước mũi tàu nâng người đang nằm ở đó vứt xuống biển. Tôi kịp nhận thấy da anh ta màu đen. Sau đó ba người, - theo quần áo tôi đoán là sĩ quan, - đi lại phía tôi. Tôi nhổm dậy để chào họ.
- Chào ông, - người sĩ quan cao nhất nói bằng giọng nhẹ nhàng và lịch sự, - xin phép được chúc mừng ông đã nhờ một phép lạ mà...
Nhưng ông ta bỗng im bặt.
Không lẽ tôi đang mê chăng? Tôi nghe giọng nói này quen thuộc một cách lạ lùng. Tôi ngước mắt nhìn thẳng vào mặt ông ta và thấy đang đứng trước tôi là Hoan đơ Gacxia!
Về phần hắn, hắn cũng nhận ngay ra tôi.
- Quỷ tha ma bắt tôi đi! - Hắn kêu lên. - Tôi gặp ai thế này! Chào ông, ông Tômax Uyngfin. Này các cậu ơi, lại đây mà xem chúng ta đã cứu được ai! Cái thằng nhãi này không phải là người Tây Ban Nha, hắn là một tên thám báo người Anh. Lần cuối cùng tôi gặp hắn trên đường phố Xêvin, nơi hắn định giết tôi vì tôi muốn bắt hắn trao cho nhà chức trách. Còn bây giờ thì hắn lại ở đây, với mục đích gì thì phải hỏi hắn mới biết được.
- Không đúng, - tôi cãi lại. - Tôi không phải thám báo, và tới vùng này chỉ vì chuyện riêng của tôi. Tôi muốn tìm gặp ông.
- Thế thì ông bạn gặp may đấy. Rất gặp may! Nhưng liệu cuộc gặp gỡ này có mang lại điều gì tốt đẹp cho ông không, thưa ông? Còn bây giờ thì hãy nói tôi biết, không lẽ chính ông là Tômax Uyngfin và ông là người Anh?
- Đúng, thế nhưng tôi...
- Gượm đã! Tại sao ông bạn linh mục của ông nói với tôi rằng ông đi trên tàu"Las Cinque Llagas" dưới cái tên Đaila?
- Tôi có những lí do riêng để làm điều ấy, Hoan đơ Gacxia.
- Ông nhầm rồi, thưa ông. Tên tôi là Xacxêđa, bạn bè của tôi ở đây có thể chứng minh điều đó. Ngày xửa ngày xưa tôi có biết một nhà quý tộc tên là Đơ Gacxia, nhưng ông ta chết từ lâu.
- Ông nói dối! - Tôi kêu lên, nhưng đúng lúc ấy một trong những đứa bạn của Gacxia đã đánh vào răng tôi.
- Bình tĩnh, anh bạn, - Gacxia ngăn hắn lại. - Đừng làm bẩn tay anh vì con chuột hôi này làm gì. Còn nếu ngứa tay chân thì cứ lấy gậy mà đánh. Các cậu nghe hắn nói rồi chứ, hắn thú nhận rằng hắn tới đây dưới một cái tên giả, và rằng hắn là công dân nước Anh, một trong những kẻ thù của chúng ta. Tôi có thể nói thêm rằng bản thân tôi biết rõ hắn là một tên thám báo đã nhiều lần định ám sát người khác. Tôi có thể thề với các cậu như vậy. Còn bây giờ, thưa các bạn, vì ở đây chúng ta đại diện cho nhà vua và được tuỳ mình giải quyết mọi việc, chúng ta phải tuyên án cho hắn. Và để không ai nghĩ tôi đã không theo đúng luật mà làm hại con chó Anh này chỉ vì hắn dám gọi tôi là kẻ nói dối, tôi xin trao quyền quyết định cho các bạn.
Tôi định lên tiếng cãi lại, nhưng tên Tây Ban Nha vừa rồi đánh tôi, một thằng khốn nạn có khuôn mặt kẻ cướp, đã vội rút kiếm thề rằng, nếu tôi mở miệng lần nữa, hắn sẽ giết tôi ngay lập tức. Vì thế tôi quyết định im lặng là hơn.
- Thằng người Anh này mà treo lên cột buồm thì trông cũng không đến nỗi nào! - Hắn nói.
Với vẻ hoàn toàn thờ ơ, Gacxia lẩm bẩm hát một điệu gì đó. Hắn ngước nhìn cột buồm, rồi lại nhìn lên cổ tôi. Hắn mỉm cười, cái nhìn đầy căm thù của hắn đốt cháy tôi như lửa.
- Tôi có một đề nghị còn tốt hơn, - một tên sĩ quan khác lên tiếng. - Nếu chúng ta treo hắn lên, chắc sẽ có lời bàn tán. Thậm chí nếu không có gì xảy ra, thì dù sao chúng ta cũng để mất một món lợi. Thằng cha này khoẻ mạnh và có lẽ sẽ sống được ở các hầm mỏ ít năm. Tôi đề nghị đem hắn bán cùng các thứ hàng còn lại. Nếu các cậu không phản đối, chính tôi sẽ mua hắn. Tôi cần những thằng như hắn ở trang trại của tôi!
Nghe thế, khuôn mặt Gacxia tái đi. Tất nhiên hắn muốn giết quách tôi một lần cho xong, nhưng vì cẩn thận, hắn không dám phản đối.
- Tôi thì thế nào cũng được, - hắn vừa nói vừa giả vờ ngáp. - Cậu có lấy không hắn cũng chẳng sao. Có điều phải cẩn thận kẻo hắn lại cắm dao vào lưng cậu.
Tên sĩ quan kia cười to và đáp:
- Chắc gì hắn có điều kiện để làm thế! Tôi chẳng bao giờ tới hầm mỏ mà anh bạn đáng yêu này của chúng ta thì phải sống những ngày cuối cùng của đời mình ở sâu dưới lòng đất ba mươi mét. Còn bây giờ, anh bạn người Anh ạ, tôi nghĩ tốt nhất anh nên xuống hầm tàu.
Tên sĩ quan gọi một người thuỷ thủ tới và ra lệnh mang đến cho tôi những chiếc cùm được tháo từ một xác chết. Chúng lục soát khắp người tôi, lấy đi số vàng còn lại, sau đó chúng xích hai chân và cổ tôi lại bằng một dây xích chung rồi lôi xuống khoang tàu. Trước khi tới đó, tôi đã đoán và hiểu cái món "hàng" đặc biệt của con tàu là gì. Nó chở những người nô lệ cướp được ở Fecnanđina, - đấy là cái tên những người Tây Ban Nha gọi hòn đảo Cuba, - đem tới bán ở Espanhiôla. Bây giờ tôi là một trong những người nô lệ như thế.
Tôi không biết phải miêu tả thế nào tất cả những cảnh rùng rợn trong khoang tàu, nơi tôi được dẫn tới. Khoang tàu thấp, chưa đầy hai mét, nô lệ mang xích nằm ngay trên đáy tàu, giữa những vũng nước bẩn. Nô lệ nhiều tới mức họ chỉ được nằm, xích móc vào các vòng tròn dính lên trên thành tàu. Cách đây một tuần, tổng cộng số người được tống xuống hầm tàu phải hơn hai trăm người, gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con, nhưng bây giờ con số ấy bị giảm một ít. Khoảng hai mươi người đã chết, như thế được xem là không nhiều vì người Tây Ban Nha thường dự tính trước rằng ti lệ hao hụt của thứ “hàng hóa” đặc biệt này là một phần ba hay thậm chí một nửa.
Khi đã ở trong hầm tàu, tôi cảm thấy mệt mỏi kinh khủng. Không gì, tôi cũng đã sống dở chết dở, thêm vào đó lại còn phải chịu đựng những tiếng kêu rùng rợn, mùi hôi thối lợm giọng và cả những điều đang hiện ra trước mắt tôi dưới ngọn đèn mờ mờ trên tay những tên cai ngục đang đi lại trong hầm tàu, nơi ánh sáng và không khí không lọt vào được. Không để ý tới những điều ấy, chúng cứ lôi tôi đi và chẳng bao lâu tôi đã bị xích lại giữa những người đàn ông và đàn bà da đen. Hai chân tôi đứng ngập trong nước bẩn.
Để giễu tôi, trước lúc rút lui, bọn Tây Ban Nha còn nói rằng đối với người Anh, một chiếc “giường” thế này đã là quá sang trọng. Tôi đứng vững một lúc, sau đó cơn buồn ngủ và sự tê dại kéo đến, và tôi chìm dần vào bóng tối. Cứ thế một ngày đêm trôi qua.
Khi mở mắt, tôi thấy đứng cạnh tôi, tay cầm đèn chính là tên Tây Ban Nha đã mua tôi, hắn quan sát những tên khác tháo xích khỏi chân một người đàn bà da màu gắn liền với xích của tôi. Cô ta đã chết, dưới ánh sáng ngọn đèn, tôi kịp nhìn thấy cô ta chết vì một thứ bệnh khủng khiếp mà từ trước tới nay tôi chưa gặp. Sau này, tôi được biết thứ bệnh đó gọi là "buồn nôn đen". Người đàn bà này không phải là nạn nhân duy nhất của nó, vì ngoài cô ta, tôi còn đếm được hai mươi xác chết nữa. Họ được lần lượt đưa ra khỏi hầm tàu. Nhiều nô lệ khác cũng mắc bệnh đang chờ chết.
Bọn Tây Ban Nha tỏ ra rất lo lắng. Chúng không biết đối phó thế nào với thứ bệnh khủng khiếp này ngoài việc quét dọn và thông gió hầm tàu, bằng cách tháo bỏ một vài tấm gỗ che ngay trên đầu chúng tôi. Nếu không làm thế, có lẽ tất cả chúng tôi đã chết.
Tôi tin tôi không lây bệnh chỉ vì tôi ở kề bên một lỗ thông hơi lớn nhất trên boong, và khi đứng thẳng, chừng nào dây xích cho phép, tôi có thể hít thở thứ không khí tương đối sạch sẽ.
Phân phát cho chúng tôi nước uống và một ít bánh khô nhạt nhẽo xong, bọn Tây Ban Nha liền bỏ đi. Tôi uống nước một cách thèm khát, nhưng bánh thì không ăn nổi vì chúng đã mốc.
Những gì tôi nghe và nhìn thấy xung quanh khủng khiếp tới mức tôi không muốn viết ra đây. Mặt trời hun nóng boong tàu ngột ngạt không chịu nổi. Tàu đứng yên một chỗ: tôi hiểu bên ngoài không có gió, và chúng tôi đang tự do trôi trên biển.
Gượng đứng trên hai chân, tôi tì gót chân vào thanh gờ dưới đáy tàu, lưng tựa vào thành. Trong tư thế ấy, tôi nhìn rõ chân những người đang đi trên boong. Bỗng nhiên trước mắt tôi thoáng qua bộ quần áo của người linh mục. Tôi nghĩ có lẽ đó là ông bạn đồng hành đã cùng tôi sống sót sau vụ đắm tàu. Tôi tìm cách làm ông ta chú ý, và một lúc sau đã thành công. Khi biết người ở dưới hầm tàu là ai, ông linh mục nằm xuống boong giả vờ nghỉ, và chúng tôi đã nói chuyện với nhau một lúc.
Ông báo cho tôi biết biển đang lặng gió đúng như tôi đoán, và rằng trên tàu đang có bệnh dịch hoành hành, - nó đã giết chết một phần ba thủy thủ. Ông còn nói thêm rằng đó là sự trừng phạt của Chúa vì sự độc ác và những việc làm tội lỗi của chúng.
Nghe thế, tôi liền đáp rằng Chúa trừng phạt không chỉ bọn chủ nô, mà cả những người nô lệ. Tôi hỏi, Gacxia, hay Xacxêđa như bè bạn hắn vẫn gọi, bây giờ đang ở đâu và thế nào?
Ông linh mục nói sáng nay hắn đã bị lây bệnh. Tin này làm tôi vui mừng, vì nếu trước kia tôi căm thù hắn, thì dễ hiểu bây giờ tôi đang mong muốn hắn chết như thế nào.
Sau đó ông linh mục bỏ đi, nhưng một lúc sau đã quay lại. Ông mang đến cho tôi một cốc nước chanh mà tôi cảm thấy như thứ nước thần thánh, ít thức ăn ngon và hoa quả. Tất cả những thứ ấy ông đưa cho tôi qua lỗ hổng trên boong. Vất vả lắm, tôi mới đưa đôi tay bị xích lấy được thức ăn và liền ngấu nghiến  ăn ngay không sót một mẩu nào. Sau đó, ông linh mục bỏ đi, làm tôi rất luyến tiếc. Chỉ sáng hôm sau tôi mới biết được nguyên nhân vì sao ông bỏ đi.
Một ngày nữa trôi qua, tiếp đến là một đêm dài vô tận. Cuối cùng bọn Tây Ban Nha lại xuất hiện trong hầm tàu. Lần này chúng phải lôi lên bốn mươi xác chết; trong thời gian qua số người lây bệnh còn nhiều hơn trước. Khi bọn Tây Ban Nha đi khỏi, tôi lại bắt đầu đứng dậy, chờ đợi ông bạn linh mục của mình. Nhưng tôi đã chờ đợi một cách vô ích: ông không còn xuất hiện nữa. 
XII
TÔMAX THOÁT CHẾT 
Tôi đứng hơn một giờ, cổ mỏi tưởng sắp gãy, và chờ đợi ông linh mục. Cuối cùng, khi tôi sắp ngã xuống sàn vì không còn sức chịu đựng thêm nữa trong tư thế gò bó ấy, qua lỗ hổng tôi chợt nhìn thấy bóng một chiếc váy phụ nữ. Tôi nhận ra ngay đó là của một bà đã thoát chết cùng chúng tôi trên thuyền.
- Thưa bà, - tôi khẽ nói. - Xin vì Chúa hãy lắng nghe tôi! Tôi đây, tôi là Đaila đây, tôi đang ở đây, giữa những người nô lệ. Người ta đã xích chặt hai chân tôi.
Người đàn bà rùng mình, nhưng sau đó, cũng như ông linh mục, bà ta ngồi xuống và được tôi kể cho nghe những điều kinh khủng trong hầm tàu và cả việc vì sao tôi rơi vào đây. Lúc ấy, tôi không nghĩ bà đã biết hết mọi chuyện.
- Nhưng than ôi, thưa ông, chúng tôi trên này cũng chẳng sung sướng hơn mấy, - bà ta đáp. - Bệnh dịch đang làm hại tất cả mọi người. Sáu thủy thủ đã chết, số người hấp hối còn nhiều hơn. Thà hôm ấy chúng ta cùng chết chìm với mọi người còn hơn! Thoát khỏi biển, chúng ta lại rơi đúng vào địa ngục. Mẹ tôi đã chết, còn đứa em nhỏ thì đang hấp hối.
- Ông linh mục đâu rồi? - Tôi hỏi.
- Ông ấy chết sáng hôm nay; xác vừa bị vứt xuống biển. Trước khi chết, ông ấy kể cho tôi nghe về ông và yêu cầu nếu có thể được thì giúp đỡ. Nhưng lúc đó ông ấy nói đã lẫn lộn và tôi nghĩ ông ta đang mê sảng. Vả lại, tôi biết giúp ông điều gì bây giờ?
- Có thể bà sẽ kiếm được thức ăn và nước uống cho tôi, - tôi đáp. - Tiếc là ông bạn của chúng ta không còn nữa, cầu Chúa phù hộ cho linh hồn ông ta. Còn thuyền trưởng Xacxêđa thì sao, ông ta chết chưa?
- Thưa ông, chưa. Ông ta là người duy nhất chống chọi nổi với bệnh tật, và hiện giờ đang dần dần bình phục. Xin lỗi, tôi phải đến với đứa em của tôi. Lát nữa tôi sẽ mang thức ăn tới cho ông.
Bà ta bỏ đi, nhưng một lát sau đã quay lại với một ít thức ăn và một bình rượu được giấu trong các vạt áo. Thế là một lần nữa tôi lại được ăn no, vừa ăn tôi vừa thầm cảm ơn lòng tốt của bà.
Người đàn bà ấy đã nuôi sống tôi trong hai ngày, lén lút mang thức ăn vào ban đêm. Đêm thứ hai, bà nói đứa em của bà đã chết, và hiện giờ trên tàu chỉ còn lại mười lăm thủy thủ và một sĩ quan còn khỏe mạnh. Bà cũng cảm thấy bà đã bị lây bệnh. Bà nói thêm rằng lượng nước dự trữ trên tàu sắp cạn, còn thức ăn thì đã hết. Sau hôm ấy, tôi chẳng còn nhìn thấy bà nữa và nghĩ bà đã chết. Hai mươi giờ sau cuộc gặp gỡ cuối cùng với bà; bản thân tôi cũng rời bỏ con tàu đáng nguyền rủa ấy.
Suốt ngày không hề có ai xuống hầm tàu để theo dõi hay cho nô lệ ăn. Mà rồi phần lớn nô lệ bây giờ chẳng cần phải trông coi nữa. Chỉ một ít còn sống sót, nhưng như tôi thấy, cả những người này cũng bị lây bệnh. Bản thân tôi thì không, có lẽ vì dạo ấy tôi có một sức khỏe rất tốt, nó đã giúp tôi tránh khỏi chứng cảm cúm và các loại bệnh tật khác. Thêm vào đó, thức ăn của tôi tốt hơn nhiều. Nhưng tôi cảm thấy không thể chịu đựng lâu hơn được nữa. Bị xích chặt giữa những xác chết, trong một chiếc quan tài kinh tởm đang trôi giữa biển, tôi mong muốn cái chết như mong muốn một lối thoát nhẹ nhàng khỏi những sự đau đớn  và kinh khủng này.
Lại một ngày như thế nữa trôi qua, và vẫn với cái nóng ngột ngạt ấy. Sau đó là đêm đen với tiếng kêu man dại và tiếng khóc của những người đang chết. Thế mà tôi vẫn ngủ thiếp được, và trong mơ tôi đã đi dạo cùng người yêu trên bờ sông Uêvơni thân thuộc.
Rạng sáng hôm sau, tôi thức dậy vì tiếng sắt thép va vào nhau. Mở mắt, tôi thấy mấy tên Tây Ban Nha đang soi đèn tháo xích cho tất cả nô lệ, - sống cũng như chết. Tháo xích xong, chúng lấy dây thừng cột vào xác chết hay những người đang hấp hối rồi những đứa đứng phía trên kéo lên boong. Sau đó, ngoài thành tàu nghe có tiếng nước té, - đó là phần kết của công việc. Tôi hiểu bọn Tây Ban Nha quyết định vứt tất cả những người nô lệ xuống biển vì không đủ nước uống, và vì hi vọng điều ấy có thể cứu những người còn sống khỏi bị lây bệnh.
Bọn Tây Ban Nha tiến về phía tôi mỗi lúc một gần hơn. Một lát sau, giữa chúng và tôi chỉ còn lại hai người nô lệ da đen, một đã chết, một còn sống. Sau họ sẽ đến lượt tôi. Biết trước điều gì đang chờ đợi mình, tôi bắt đầu suy nghĩ nên hành động ra sao. Nói với chúng rằng tôi đang sống và bệnh tật chưa động đến tôi rồi xin tha chết, hay cam chịu bị vứt xuống biển? Tôi rất muốn sống, nhưng việc tôi quyết định không cố gắng chống chọi chút nào nữa và sẽ chờ đón cái chết như chờ đón một sự giải thoát, đủ chứng tỏ những điều kinh khủng mà tôi phải trải qua đã làm tôi suy sụp về tinh thần và thể xác như thế nào. Vả lại, tôi biết trước rằng có cố tìm cách sống sót cũng vô ích. Bọn thủy thủ Tây Ban Nha đã phát điên vì hoảng sợ, chỉ nghĩ một điều là nhanh chóng thoát khỏi những tên nô lệ luôn đòi uống nước, và điều quan trọng nhất là chúng nghĩ chính họ đã gây nên căn bệnh này. Vì vậy tôi thầm đọc tất cả những bài kinh mà tôi có thể nhớ rồi sẵn sàng chờ chết. Nhưng dù linh hồn tôi cứng rắn đến đâu, thể xác tội nghiệp của tôi vẫn run rẩy lo sợ cái chết đang đến gần và những điều còn chưa biết sau nó.
Thế là sau khi kéo lên boong người bạn cùng cảnh ngộ còn sống bị xích chung với tôi, bọn Tây Ban Nha đã bắt đầu sờ tới tôi. Đám thủy thủ nửa trần truồng này làm việc  hùng hục, cố nhanh chóng thoát khỏi cái công việc mà chúng ghê tởm. Người chúng bóng nhẫy mồ hôi, và để khỏi ngất xỉu, giây lát chúng lại tợp từng ngụm rượu lớn.
- Cái thằng này còn sống và hình như chưa bị bệnh, - một đứa vừa tháo xích cho tôi vừa nói.
- Sống hay chết thì cũng phải nhanh chóng quẳng hắn xuống biển! - Một đứa khác bực dọc đáp, tôi nhận ra hắn chính là tên sĩ quan muốn nhận tôi làm nô lệ. - Thằng chó ghẻ người Anh này đã mang tai họa lại cho chúng ta. Quẳng hắn xuống biển! Cứ để lũ cá mập làm bạn với hắn!
- Đúng đấy, - tên thủy thủ đáp, và bằng một nhát búa cuối cùng đã giải thoát tôi khỏi dây xích. Cứ tống ra khỏi cửa là ổn. Tên người Anh kia, cầu Chúa đi, có lẽ lời cầu sẽ giúp mày đỡ khổ hơn một ít so với những đứa còn lại trên con tàu bị Chúa nguyền rủa này. Rượu đây, uống đi để làm giảm nhẹ cái chết.
Nói rồi, hắn chìa cho tôi chai rượu của hắn. Tôi vồ lấy, uống ừng ực từng ngụm lớn. Rượu làm tôi sảng khoái hơn đôi chút. Sau đó, chúng lấy dây thừng cột vào người tôi, ra hiệu, và những đứa trên boong bắt đầu kéo. Một lát sau, tôi đã treo lửng lơ trong khoang tàu, ngay dưới cửa hầm lên mặt boong.
Đúng lúc ấy, ánh sáng ngọn đèn chiếu lên người tên sĩ quan đã đề nghị giữ tôi lại để làm nô lệ nhưng bây giờ lại ra lệnh vứt tôi xuống biển. Tôi thấy trên mặt hắn dấu ấn của cái chết, điều mà đã là bác sĩ thì ai cũng nhận ra.
- Thôi, vĩnh biệt! - Tôi nói với hắn. - Có lẽ chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ lại gặp nhau. Bận bịu làm việc mà làm gì nữa đồ ngốc? Lần cuối cùng hãy nghỉ ngơi đi, vì bàn tay bệnh dịch đã chạm đến mày. Sáu giờ nữa, mày sẽ chết!
Nghe tôi nói thế, hắn há to mồm, sững sờ và kinh sợ, trong giây lát. Sau đó hắn tuôn ra một tràng những lời nguyền rủa khủng khiếp. Hắn vung chiếc búa, suýt nữa đánh tôi chết và bằng cách ấy chấm dứt mọi đau khổ của tôi, nhưng đúng lúc ấy tôi được kéo lên phía trên.
Mấy giây sau, tôi được hạ xuống, nằm lăn trên boong tàu. Bên cạnh tôi có hai người da đen đang đứng, - họ có nhiệm vụ vứt những tên nô lệ đáng thương xuống biển, - còn sau họ là Hoan đơ Gacxia đang ngồi trong chiếc ghế bành, phờ phạc sau cơn bệnh vừa qua. Tay hắn phe phẩy chiếc mũ rộng vành vì đêm ấy trời rất nóng.
Dưới ánh trăng hắn lập tức nhận ngay ra tôi, hắn nói:
- Tôi thấy ai thế này? Mày vẫn chưa chết à? Mày đúng là giỏi thật; thế mà tao cứ tưởng mày đã chết hoặc đang chết cơ đấy! Nếu không vì cái bệnh dịch chết tiệt này, có lẽ tao phải tự mình chăm lo tới số phận của mày, nhưng rồi cuối cùng mọi việc cũng đều tốt đẹp. Tao sẽ rất hài lòng khi cho mày xuống biển với cá mập, người bà con thân mến ạ. Đó là điều may mắn nhất trong suốt chuyến đi này, và nó sẽ an ủi tao sau tất cả những bất hạnh vừa qua. Nghĩa là mày đã vượt biển để tới đây báo thù tao có đúng thế không? Tốt lắm, tao hi vọng ở đây mày không cảm thấy khó chịu lắm. Có thể điều kiện không được tốt, nhưng chắc người ta đón tiếp mày nồng nhiệt! Nhưng than ôi, khách đòi ra về, và chủ buộc phải đưa tiễn. Chúc mày ngủ ngon, Tômax Uyngfin! Nếu gặp mẹ mày, hãy nói với bà ấy rằng tao lấy làm tiếc đã phải giết bà ấy, vì bà ấy là người duy nhất trên đời mà tao yêu. Chắc mày nghĩ lúc ấy tao tới nước Anh để giết bà ấy chứ gì? Không đâu. Chính bà ấy bắt tao phải làm thế, và tao đã làm thế, để cứu lấy mạng sống của tao. Nếu không giết bà ấy thì tao đã chẳng còn được thấy lại Tây Ban Nha. Bà ấy có quá nhiều chất máu của tao, và chắc sẽ không cho tao trốn thoát. Hình như cả trong mày cũng có cái thứ máu ấy, vì nếu không, mày đã chẳng nghĩ nhiều về việc trả thù như vậy. Nhưng than ôi, việc ấy chẳng mang lại cho mày điều gì tốt lành!
Nói đến đây, hắn im lặng ngả người vào lưng ghế, và lại khẽ quạt chiếc mũ rộng vành của hắn.
Quả là lúc ấy, khi ở trên bờ vực của cái chết, máu lại sôi lên trong người tôi vì phải nghe những lời giễu cợt cay độc như thế. Vâng, tất nhiên Gacxia có thể vui mừng vì thắng lợi! Tôi đã theo sát từng bước đi của hắn, nhưng thử hỏi mọi chuyện kết thúc thế nào? Chỉ một vài giây nữa thôi, hắn sẽ đem tôi làm mồi cho cá mập. Nhưng dù sao tôi vẫn cố trả lời hắn một cách xứng đáng nhất:
- Hoan đơ Gacxia, số phận không ủng hộ tao, - tôi nói. - Nhưng nếu trong mày đang còn dù chỉ một ít dũng cảm, thì hãy cho tao một thanh kiếm, và chúng ta sẽ đánh nhau để chấm dứt vĩnh viễn mối bất hòa này. Tao biết mày đang ốm yếu sau cơn bệnh, nhưng tao cũng chẳng khỏe hơn sau những ngày đêm bị nhốt dưới địa ngục của mày, Gacxia, chúng ta ngang sức nhau đấy!
- Có thể thế, người bà con ạ, rất có thể như thế! Nhưng chúng ta đánh nhau để làm gì? Phải nói thật rằng, những lần gặp nhau trước tao đã không gặp may, và điều đó rất đáng buồn. Mày hãy biết rằng hai lần trước tao lúng túng, đánh đấm chẳng ra gì, chỉ vì tao luôn nghĩ tới một lời báo trước như thể chính mày sẽ giết tao chết. Hầu như vì thế mà tao đã quyết định đi tới những vùng đất ấm áp hơn. Nhưng bây giờ thì chính mày cũng thấy rằng chỉ có ngốc mới tin vào những điều tiên tri như vậy. Tao quả có mắc bệnh, nhưng vẫn còn sống và chưa hề muốn chết, còn mày thì có thể xem như một xác chết, - xin lỗi vì tao nhắc tới điều ấy không thật tế nhị lắm. Các ông này này, - Gacxia hất hàm chỉ hai người da đen đang đứng cạnh, trong lúc chúng tôi nói chuyện, hai người này đã vứt xuống biển thêm một người nô lệ mới được đưa từ hầm tàu lên, - bây giờ các ông này sẽ cắt đứt cuộc chuyện trò thú vị của ta. Nếu có điều gì mày muốn yêu cầu tao thì hãy nói đi, vì thời gian không chờ đợi. Chúng tao phải làm sạch hầm tàu trước khi trời sáng.
- Tao không có điều gì phải yêu cầu mày cả, - tôi đáp. - Nhưng người ta có nhờ tao một việc mà tao phải làm. Có điều trước hết tao phải báo cho mày biết đôi chuyện. Mày tưởng mày đang thắng chứ gì, đồ giết người bẩn thỉu? Nhưng khoan hãy vui mừng. Trò chơi chưa kết thúc, và điều mà mày lo sợ vẫn có thể xảy ra. Tao chết, nhưng ý định trả thù của tao vẫn sống, vì tao trao nó cho Chúa để Ngài thay tao trừng phạt mày. Có thể mày còn sống thêm ít năm nữa, nhưng mày chạy đâu cho thoát cơn giận của Ngài? Một ngày nào đó mày sẽ phải chết đúng như tao sẽ chết đêm nay. Lúc ấy thì sao, Gacxia, lúc ấy mày nghĩ sao?
- Nói thế đủ lắm rồi, người bà con ạ, - hắn nói với nụ cười khinh bỉ, - theo tao biết thì mày còn chưa trở thành một nhà thuyết giáo. Mày vừa nói rằng mày được ai đó nhờ nhắn tao điều gì, nói nhanh lên! Ai có thể nhắn gì với một kẻ lang thang như tao?
- Ixaben đơ Xiguenxa, người mà mày đã lừa dối bằng cách tổ chức một đám cưới giả, và rồi nhẫn tâm bỏ rơi, - tôi đáp.
Gacxia chồm ra khỏi ghế và đến đứng trước mặt tôi.
- Chuyện gì xảy ra với cô ấy? - Hắn hỏi với giọng thì thào kinh ngạc.
- Các thầy tu đã chôn sống cô ta cùng đứa bé.
- Chôn sống? Lạy Chúa! Sao mày biết được điều ấy?
- Lúc ấy ngẫu nhiên tao có mặt ở đó, chỉ thế thôi. Cô ta yêu cầu tao báo cho mày biết mẹ con cô ta đã chết như thế nào, và rằng cô ta không hề nói lộ tên mày, và khi chết đã tha thứ cho mày tất cả. Ngoài ra cô ta chẳng nói gì nữa, nhưng tao muốn nói thêm đôi điều. Mong sao hình ảnh của cô gái đáng thương ấy và của mẹ tao sẽ bám theo mày suốt đời, ám ảnh mày cả lúc sống lẫn sau khi chết, cả trên mặt đất lẫn dưới địa ngục!
Trong giây lát Gacxia đưa hai tay ôm mặt, nhưng sau đó hắn bỏ tay xuống, ngồi phịch vào chiếc ghế và quát to với hai thuỷ thủ da đen:
- Kết thúc thằng nô lệ này đi! Chúng mày còn chờ gì?
Hai người này bước lại gần tôi, nhưng tôi không định để yên cho chúng muốn làm gì thì làm. Tôi nghĩ nếu có thể, tôi sẽ bắt Gacxia cùng chia chung số phận với tôi. Tôi chồm lên phía trước, ôm túm lấy người Gacxia và lôi hắn khỏi ghế. Sự tuyệt vọng và tức giận đã tăng thêm sức cho tôi. Tôi nâng được hắn lên cao ngang với mép thành tàu, nhưng đúng lúc ấy, những người thủy thủ da đen túm lấy tôi và giằng Gacxia ra. Tôi hiểu thế là hết. Không chờ những người da đen giết chết, tôi bám tay vào mép thành tàu rồi tự mình nhảy xuống biển.
Lí trí mách bảo tôi rằng trong hoàn cảnh của tôi, tốt nhất là nên chết ngay. Tôi quyết định không chống cự và sẽ từ từ chìm xuống đáy biển. Tuy nhiên, bản năng tự vệ vẫn mạnh hơn lí trí. Vừa rơi xuống nước, tôi đã vội ngoi lên, bơi dọc theo thành tàu, nhưng cố nép vào trong vì sợ Gacxia nhìn thấy và ra lệnh kết thúc đời tôi bằng một mũi tên hay một viên đạn. Lúc ấy tôi nghe ở phía trên có giọng hắn đang nói.
- Bây giờ thì có lẽ nó đã ngoẻo! - Hắn nói, vẫn không ngớt lời nguyền rủa tôi. - Suýt nữa lời tiên tri thành sự thật. Quỷ tha ma bắt hắn đi, tôi đã phải trải qua bao nỗi kinh sợ vì thằng chó con ấy!
Còn tôi thì vừa bơi vừa nguyền rủa mình tại sao không chết ngay. Còn gì nữa để hi vọng? Thậm chí nếu không một con cá mập nào thèm ăn thịt tôi, tôi cũng chỉ bơi được dưới nước ấm thế này từ sáu đến tám tiếng là cùng, sau đó thế nào cũng chết chìm. Thế thì vật lộn và phí sức để làm gì? Tuy nhiên, tôi vẫn tiếp tục bơi theo tàu một cách chậm chạp. Sau hầm tàu ngột ngạt và hôi thối, nước biển và không khí trong lành đã tác động lên tôi như rượu nho và thức ăn. Càng bơi, tôi càng thấy mình khỏe thêm.
Tôi đã tụt lại phía sau tàu khoảng một trăm mét; từ boong tàu, có lẽ không ai còn nhìn thấy tôi, nhưng tôi vẫn nghe rõ tiếng các xác chết bị vứt xuống biển và tiếng kêu rùng rợn của những người nô lệ cuối cùng đang sống sót. Tôi ngẩng đầu nhìn quanh. Cách tôi không xa có một vật gì đó lắc lư trên sóng. Tôi bơi lại gần, và chờ đợi mình có thể chết bất kì lúc nào, vì vùng biển này rất nhiều cá mập.
Một lát sau, tôi tới gần cái vật đang trôi kia, và sung sướng nhận thấy đó là một cái thùng lớn được quẳng từ tàu xuống. Nó trôi thẳng đứng nên nước không té vào được.
Tôi bám vào miệng thùng và nhìn thấy một nửa thùng đựng đầy bánh khô đã bị hỏng, có lẽ vì thế, người ta mới vứt nó xuống biển. Số bánh ấy đè chiếc thùng xuống, không cho nó lật úp.
Tôi nghĩ nếu chui được vào thùng, ít ra một thời gian tôi sẽ không phải lo sợ vì cá mập. Nhưng làm điều ấy bằng cách nào. Đúng lúc ấy, vô tình tôi nhìn lại phía sau, và lập tức mọi ý nghĩ liền bay khỏi đầu tôi. Tôi nhìn thấy cách tôi khoảng hai mươi mét một chiếc vây cá mập đang lao thẳng về phía mình. Tôi co rúm người vì sợ hãi. Tuyệt vọng làm tăng thêm sức mạnh và sự nhanh trí. Đạp một cái, tôi nhảy lên khỏi nước, bám chặt vào mép thùng bên kia và rồi co gối vọt vào thùng.
Làm sao tôi có thể nhảy được như thế? Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu nổi. Nhưng đúng là chỉ trong một giây tôi đã ngồi gọn trong thùng, mà chỉ bị xây xát một ít ở cằm.
Tuy nhiên chiếc thùng bỗng dưng tôi gặp được ấy đang sắp sửa chìm xuống dưới sức nặng của số bánh mốc thấm nước, của cơ thể tôi và của một ít nước đã chảy vào được khi tôi làm nghiêng thùng. Mép thùng chỉ còn cách mặt nước một vài phân. Tôi hiểu chỉ cần một cơn sóng nhỏ là chiếc thùng sẽ chìm ngay lập tức, trong khi con cá mập chỉ còn cách tôi khoảng năm mét.
Mấy giây sau nó lao tới, va mõm vào thùng làm chiếc thùng rung mạnh.
Tôi vội vã lấy tay múc nước ra. Mép thùng hầu như ở ngang mặt nước biển. Khi mép thùng nhô cao lên vài phân, giận dữ vì phải mất mồi, con cá mập quay lại, răng nó ngoạm sâu vào gỗ và các dây sắt buộc thùng. Chiếc thùng quay tròn một chỗ, và nước lại té vào trong. Tôi luôn tay múc nước ra như một thằng điên. Nếu con cá mập tấn công lần nữa, chắc chắn tôi sẽ chết, nhưng hình như gỗ và sắt không phải là thứ làm nó thích lắm. Con cá mập bỏ đi, và trong vòng mấy giờ tiếp theo, thỉnh thoảng tôi vẫn nhìn thấy chiếc vây của nó xuất hiện trên mặt nước phẳng lặng.
Lúc đầu, khi nước nhiều, tôi khum hai tay lại múc, sau đó tôi cởi giày và dùng nó thay gầu. Khi mép thùng nhô lên khoảng vài chục phân, tôi ngừng tay vì sợ nếu múc thêm thùng sẽ lật úp. Bây giờ tôi đã có thể nghỉ ngơi lấy sức. Nhưng cũng liền lúc ấy, tôi chợt nghĩ rằng mọi cố gắng của mình đều vô ích, vì dù sao tôi cũng chết chìm hay chết khát, và rồi tôi bắt đầu oán trách rằng mình đã mềm yếu, chỉ tìm cách tự kéo dài đau khổ.
Trong cơn tuyệt vọng, tôi giơ hai tay lên cao, cầu Chúa một cách thật chân thành và cuồng nhiệt. Một lát sau tôi cảm thấy hi vọng và bình tĩnh lạ lùng. Trong mấy ngày qua, ba lần tôi bị những mối nguy hiểm khủng khiếp đe dọa: trong lúc đắm tàu, bị giam trong hầm tàu Gacxia, nơi tôi có thể chết vì đói và bệnh dịch, và bây giờ thì tôi đang làm mồi cho cá mập. Nhưng tôi tin cả lần này tôi cũng sẽ vượt qua, vì chẳng phải ngẫu nhiên mà hai lần trước tôi thoát chết, cái chết chắc chắn người khác sẽ không tránh khỏi. Không lẽ bây giờ tôi bị chết một cách thảm hại nhất? Và thế là tôi lại bắt đầu hi vọng, mặc dù trong hoàn cảnh tôi, hi vọng là điều điên rồ vô ích. Tôi không nghĩ trời đã ban cho tôi cái hi vọng ấy, mà đơn giản chỉ vì lúc đó tôi còn tràn đầy sức sống và không thể tin rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ chết.
Dần dần tôi tươi tỉnh trở lại, đến mức thậm chí còn nhận thấy vẻ đẹp của đại dương ban đêm. Mặt nước đứng yên và phẳng lặng như nước hồ, không một làn gió nào làm gợn. Trăng đã lên, bầu trời chi chít hàng vạn ngôi sao sáng một cách kì lạ, mà ở nước Anh, tôi không bao giờ nhìn thấy. Nhưng rồi cuối cùng chúng bắt đầu nhạt dần, chân trời phía đông ửng đỏ, và một lát sau, những tia nắng đầu tiên xuất hiện. Lúc ấy, trên mặt biển hình thành một đám sương mù dày đặc mà ở cách khoảng năm mươi mét không thể nhìn thấy gì. Tôi cứ bơi mò mẫm suốt hơn một giờ liền. Chỉ khi mặt trời lên cao, sương tan, tôi mới nhận thấy mình đã bị đẩy cách con tàu khá xa: tôi thấy đỉnh cột buồm của nó mờ mờ tít chân trời, và rồi sau đấy nó cũng biến mất. Đến lúc ấy, toàn bộ mặt đại dương đã được quét sạch khỏi sương mù, chỉ một phía không hiểu sao ngay sát trên mặt nước còn sót lại một vết mờ sẫm, không giống sương mù, cũng chẳng giống hơi nước.
Mặt trời chiếu mỗi lúc một nóng hơn, gây cho tôi những đau đớn không sao chịu nổi. Trừ một vài ngụm nước trong hầm tàu, đã hơn một ngày đêm tôi chẳng được uống giọt nước nào; nhưng tôi sẽ không kể ở đây tất cả những gì bất hạnh mà tôi phải chịu đựng lúc ấy. Giờ tiếp giờ trôi qua, tôi vẫn đứng trong chiếc thùng của mình, suýt ngất xỉu và khát, với chiếc đầu trần phơi dưới những tia nóng bỏng của mặt trời nhiệt đới đang phản chiếu trên đại dương phẳng lặng. Ai chưa từng trải qua những gì tương tự, khó mà hình dung nổi điều này. Thỉnh thoảng tôi lại cảm thấy mệt mỏi tột độ, và mấy lần tôi suýt rơi xuống nước. Cuối cùng tôi lịm đi, hay nói đúng hơn, rơi vào trạng thái nửa mê nửa tỉnh, cho đến khi tiếng sóng vỗ và tiếng chim hót làm tôi thức dậy.
Ngẩng đầu lên, hết sức ngạc nhiên và sung sướng, tôi nhận ra cái vệt mờ sẫm kì lạ mà tôi tưởng là sương mù lại chính là một dải đất liền, thấp. Thủy triều nhanh chóng đưa tôi vào cửa một con sông lớn. Hàng vạn con hải âu vừa kêu vừa bay trên chỗ nước sông và nước biển gặp nhau, là nơi thường có nhiều cá. Một con bắt được một con cá nặng ít nhất cũng tới một cân rưỡi, định bay lên cao, nhưng con mồi nặng quá. Nó liền lấy mỏ mổ vào đầu cá cho chết và bắt đầu xé nó ra thành nhiều mảnh. Chiếc thùng của tôi đã tiến lại rất gần, tôi với tay nhanh chóng cướp được con cá của nó. Một giây sau tôi đã nhai ngấu nghiến con cá còn sống. Có thể cho thế là đáng sợ, nhưng chưa bao giờ trong đời tôi được ăn cái gì ngon như vậy! Vì không có nước uống nên tôi cố ăn càng nhiều càng tốt, còn lại bao nhiêu tôi giấu vào túi áo. Sau đó ý nghĩ của tôi hướng về phía bờ đất đang rầm rì tiếng sóng. Chẳng bao lâu sau tôi nhận thấy không thể cứ tiếp tục đứng trong thùng mà vượt các cơn sóng được nữa, vì vậy tôi nhảy ra khỏi thùng và ngồi lên trên nó. Các ngọn sóng suýt hất tôi xuống, nhưng thủy triều nhanh chóng đẩy tôi lên phía trước, và cuối cùng tôi đã ở trong cửa một con sông lớn.
Bây giờ lại một lần nữa số phận mỉm cười với tôi: tôi bắt được một miếng gỗ đang chảy xuôi theo dòng. Dùng nó làm chèo, tôi hướng chiếc thùng của tôi về phía một bụi rậm trên bờ. ƠŒ xa đó một chút là một hàng các cây cao tuyệt đẹp, cành lá sum sê với những chùm quả lớn.
Thế là sau hơn mười giờ ở trên thùng, tôi đã giạt lên bờ một cách an toàn. Điều này cũng thật lạ, vì dòng sông nơi ấy nhan nhản một loài bò sát gớm ghiếc mà ta vẫn gọi là cá sấu. Nhưng lúc đó, thậm chí tôi không hề biết tới sự tồn tại của chúng.
Tôi lên bờ thật đúng lúc, vì khi chân tôi chạm đất, cũng là khi nước rút, và tất nhiên sẽ kéo tôi trở lại biển khơi. Chỉ cần chậm một chút nữa là tôi sẽ chẳng bao giờ thoát lên được. Suốt mười phút, tôi đem hết sức mình bắt chiếc thùng nhích lên phía trước. Cuối cùng tôi nhận thấy nước dưới chân chỉ sâu hơn một mét. Tôi nhảy khỏi thùng và lội vào bờ. Tới nơi, tôi nằm úp mặt xuống cát, thầm cảm ơn Chúa đã cứu thoát.
Tuy nhiên, một lát sau cơn khát lại ập đến giày vò tôi còn hơn trước, bắt tôi gượng đứng dậy. Tôi đi ngược lên theo dòng sông cho đến khi gặp một vũng nước mưa. Nước nhạt và trong, tôi cúi xuống, giàn giụa nước mắt vì sung sướng.
Tôi cứ uống, uống mãi cho đến khi không còn uống được nữa. Chỉ những người từng lâm vào cảnh ngộ của tôi mới biết nước lã trong và mát, ngon lành đến mức nào.
Uống xong, tôi rửa sạch muối biển bám quanh người, rồi lấy trong túi ra phần cá còn lại, ăn hết không sót ti gì. Bữa tiệc này làm tôi khỏe hơn nhiều, nhưng vì quá mệt nên tôi liền nằm xuống bóng râm của một bụi rậm có những bông hoa trắng, và ngủ thiếp ngay lập tức.
Khi tôi mở mắt, trời đã tối hẳn. Có lẽ tôi còn ngủ thêm mấy giờ nữa, nếu không cảm thấy đau vì những nốt châm khó hiểu khắp người. Cuối cùng, đau quá, tôi giận dữ chồm dậy, thầm nguyền rủa đủ mọi thứ trên đời. Lúc đầu tôi không hiểu cái gì châm tôi đau đến thế, nhưng sau tôi nhận ra những côn trùng bé nhỏ giống như muỗi vừa bay vừa kêu vo vo. Bám vào da tôi, chúng châm vòi hút máu và đồng thời phóng chất độc vào da. Người Tây Ban Nha gọi những con vật hút máu bẩn thỉu là muỗi kim. Nhưng còn tồi tệ hơn, chúng là một loại côn trùng khác, lớn bằng đầu kim băng. Chúng bám hàng trăm con và châm vòi vào người tôi, sau đó để lại những vết phồng mọng nước. Chúng là một loại thuộc họ hàng nhà ve, người Tây Ban Nha gọi là Garrapatas. Ngoài chúng ra, còn có rất nhiều loại khác mà tôi không sao đếm xuể, có kích thước và vẻ ngoài khác nhau, nhưng cùng chung một đặc điểm là đều hút máu và có nọc độc.
Suốt đêm tôi phải vật lộn với chúng, đến mức gần như phát điên. Tôi không được chúng cho yên một phút nào! Gần sáng, tôi nhảy ùm xuống sông để chúng khỏi đốt, nhưng chưa đầy mười phút sau, một con cá sấu khổng lồ ngoi lên từ vũng bùn bên cạnh. Tôi chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy một con quái vật khủng khiếp và ghê tởm như vậy, và tất nhiên tôi đã hoảng sợ nhảy tót lên bờ. Lập tức hàng nghìn, hàng triệu con vật hút máu nhỏ bé xông đến bám vào da thịt tôi.
Nhưng thôi, nói về chúng như thế đã quá đủ. 
XIII
CÁI THỚT CHÉM BẰNG ĐÁ 
Cuối cùng, trời rạng sáng, tôi đang ở trong một tình trạng tồi tệ nhất. Mặt tôi sưng húp như quả dưa vì muỗi đốt, mà rồi khắp người tôi cũng thế. Chúng vẫn tiếp tục đốt tôi đau điếng, làm tôi lúc chạy, lúc nhảy lò cò như thằng điên. Không biết mình đang chạy đi đâu, tôi lách bừa qua các bụi rậm. Xung quanh là một vùng đầm lầy vô tận, không hề có dấu hiệu có người đang sống. Tôi đi dọc theo bờ sông, thỉnh thoảng lại vấp phải cá sấu hay những con rắn kinh tởm. Cảm thấy sức lực đang rời bỏ tôi và chẳng còn chịu được sự tra tấn này bao lâu nữa, tôi quyết định cứ đi mãi về phía trước, cho đến khi kiệt sức nằm xuống, để cái chết giải thoát tôi khỏi mọi điều đau khổ.
Tôi cứ đi như thế suốt một giờ liền, cuối cùng ra một quãng bờ vắng, nơi không có một cây sậy hay một bụi rậm nào. Tôi vừa đi vừa nhảy, luôn vung tay, khua chân đuổi bầy muỗi hút máu đáng nguyền rủa đang bâu đặc xung quanh. Cái chết đang chờ tôi rất gần. Sức lực hoàn toàn rời bỏ tôi, và vất vả lắm tôi mới đứng vững được trên đôi chân của mình. Đúng lúc ấy, tôi bỗng nhìn thấy trước mặt một toán người có nước da như đồng hun, mặc quần áo màu trắng. Có lẽ trước đó họ đánh cá ở dưới sông, bây giờ ngồi trên bờ ăn uống. Trên mặt nước phía sau họ có rất nhiều thuyền hình thoi dài, chở đủ thứ.
Thấy tôi, những người thổ dân kêu to điều gì đó bằng thứ tiếng mà tôi không hiểu. Mỗi người vớ vội lấy thứ vũ khí bên cạnh, - cung tên hoặc những chiếc gậy gỗ, xung quanh có gắn những mảnh đá nhọn do núi lửa phun ra, - và bắt đầu tiến lại gần, có lẽ với ý định kết thúc đời tôi. Tôi giơ cao hai tay cầu xin tha chết. Khi thấy tôi không có vũ khí và hoàn toàn bất lực, đám thổ dân bỏ cung tên và gậy xuống, rồi bắt đầu nói với tôi bằng thứ ngôn ngữ của họ. Tôi lắc đầu ra hiệu không hiểu, sau đó chỉ tay về phía biển rồi chỉ vào người và khuôn mặt sưng húp của tôi. Họ gật gật đầu. Một người chạy về phía những chiếc thuyền rồi mang đến một thứ mỡ có mùi hôi. Sau đó anh ta ra hiệu cho tôi cởi bỏ những mảnh giẻ rách trên người. Khi tôi cởi xong, họ bôi lên người tôi thứ mỡ màu nâu ấy, và lập tức tôi thấy dịu hẳn: không còn thấy đau và tê nữa, và điều quan trọng nhất là mùi của thứ mỡ ấy đã đuổi hết bầy côn trùng kia. Bây giờ hầu như chúng không còn bâu vào chích tôi nữa.
Sau đó đám người thổ dân cho tôi ăn cá rán, bánh, và cho uống một thứ nước nóng phủ đầy bọt màu nâu. Sau này tôi hiểu được đó là nước sôcôla. Khi tôi ăn, đám thổ dân khẽ bàn bạc với nhau, rồi ra hiệu cho tôi đến một trong những con thuyền và nằm lên một tấm gỗ dài được đặt sẵn trên đó. Theo sau tôi cùng lên con thuyền ấy còn ba người nữa, vì thuyền khá rộng. Một trong ba người ấy có vẻ quan trọng, với khuôn mặt dễ coi và dáng điệu đường bệ. Tôi đoán ngay ông ta là toán trưởng. Ông ta ngồi đối diện với tôi, còn hai người kia thì ngồi ở mũi và đuôi thuyền, tay cầm chèo. Thuyền chúng tôi bắt đầu đi, có ba chiếc khác đi kèm. Nhưng đi chưa được một dặm, tôi đã ngủ thiếp vì quá mệt mỏi.
Tôi tỉnh dậy, thấy khỏe hẳn, có lẽ do ngủ suốt nhiều giờ liền, vì lúc ấy mặt trời đã lặn. Tôi ngạc nhiên nhận thấy người thổ dân quan trọng đang ngồi đối diện từ trước tới giờ đã luôn tay xua muỗi bằng một cành cây rậm lá để tôi ngủ. Thấy ông ta tốt bụng, tôi không còn lo sẽ bị đối xử tồi tệ. Cảm thấy yên tâm, tôi bắt đầu suy nghĩ mình đã lạc vào đâu, và cái đất nước kì lạ này là gì, những con người này là ai. Nhưng chỉ một lát sau, tôi không còn tự làm khổ mình bằng những câu hỏi ấy nữa, và thay cho việc suy nghĩ vẩn vơ, tôi bắt đầu quan sát các bức tranh đang hiện ra trước mặt.
Bây giờ chúng tôi đi ngược một dòng sông hẹp hơn dòng sông mà tôi đã giạt lên bờ. Các bụi rậm biến mất, và thay cho chúng là những cánh đồng bằng phẳng trải dài hai bên. Hai bờ sông gần như trần trụi, nếu không có những thân cây khổng lồ còn to hơn cả những cây sồi to nhất. Có những cây đẹp một cách lạ lùng! Các dây leo bám chặt vào cành của chúng rồi buông thõng xuống. Mọc ngay trên thân cây là những bông hoa sặc sỡ như rêu bám trên tường. Một loài chim có lông lấp lánh và giọng khàn khàn đang nhảy nhót trên cành, còn bầy khỉ thì kêu chí chóe, tỏ vẻ lo sợ khi chúng tôi đến gần.
Khi mặt trời chiếu những tia nắng cuối cùng lên cái quang cảnh kì lạ chưa từng thấy ấy vừa lặn, thì chúng tôi đến một cái bến có những bậc cầu bằng gỗ, rồi bước lên bờ. Trời tối sẫm một cách nhanh chóng, tôi chỉ biết người ta đang dẫn tôi đi đâu đó theo một con đường khá tốt. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi tới cổng thành, nơi tập trung nhiều người và nghe có tiếng chó sủa. Qua cổng thành chúng tôi đi sâu vào một đường phố dài có nhà hai bên. Đến ngưỡng cửa ngôi nhà cuối cùng, người cùng đi với tôi dừng lại, cầm tay tôi dẫn vào một căn phòng thấp và hẹp được chiếu sáng bằng những chiếc đèn đất sét. Có mấy người đàn bà đi tới hôn ông ta, còn những người khác, có lẽ là đầy tớ gái, thì cúi xuống khẽ chạm một tay vào nền nhà. Sau đó tất cả mọi cái nhìn đều hướng về tôi, và từ mọi phía người ta tới tấp hỏi ông kia những câu hỏi mà tôi chỉ lờ mờ đoán biết nội dung.
Khi sự tò mò của mọi người đã được thỏa mãn, đám phụ nữ mang đến nhiều đĩa thức ăn kì lạ, được đặt ngay xuống nền đất. Chủ nhà mời tôi cùng ăn tối với ông. Tôi ngồi xuống một chiếc ghế bên cạnh và bắt đầu ăn.
Phục vụ chúng tôi trong bữa ăn là những người phụ nữ khá xinh đẹp, nhưng nổi hẳn trong số họ là một cô gái người cao, cân đối, có khuôn mặt dịu dàng và hiền hậu, làm vẻ đẹp của cô ta càng thêm hấp dẫn. Cô ta cũng có nước da ngăm ngăm như tất cả mọi người xung quanh, nhưng các đường nét trên mặt cô ta rất thanh tú và cân đối, còn đôi mắt thì tuyệt đẹp. Tôi nhắc tới cô ta ở đây vì hai nguyên nhân: thứ nhất là cô ta đã hai lần cứu tôi thoát chết, - khỏi bị đem làm vật tế thần và khỏi bị tra tấn dã man; thứ hai là cô ta không phải ai xa lạ, mà chính là Marina. Sau này cô ta là người tình của Côrtex, và nếu không được cô ta giúp đỡ, hắn sẽ chẳng bao giờ chiếm được Mêhicô. Nhưng lúc ấy, thậm chí cô ta không hề nghĩ rằng chính cô ta là người sẽ đem đất nước Anahuac của mình trao cho bọn chủ nô Tây Ban Nha độc ác. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, tôi nhận thấy Marina, - từ nay tôi sẽ gọi như thế, vì tên người da đỏ gọi cô ta một cách đầy đủ thì quá dài, - rất xúc động trước hoàn cảnh đáng buồn mà tôi đang lâm vào; cô ta đã cố tìm mọi cách để chiều tôi và giải phóng tôi khỏi sự tò mò quá đáng của những người xung quanh. Cô ta múc nước cho tôi rửa ráy, đưa tôi bộ quần áo sạch để thay những miếng giẻ bẩn thỉu tôi đang mặc, và khoác lên vai tôi một chiếc áo khoác được đan khéo léo bằng những chiếc lông chim sặc sỡ.
Sau bữa ăn tối, tôi được dẫn vào một căn phòng nhỏ. Trong phòng, thay cho giường là một chiếc phản gỗ, tôi liền nằm xuống và bắt đầu suy nghĩ về số phận đời mình. Cái thế giới trước kia của tôi có lẽ thế là đã mất đi vĩnh viễn và bây giờ tôi đang ở giữa những con người dễ chịu và tốt bụng, cứ theo bề ngoài mà xét thì không giống những người hoang dã một chút nào. Kể ra cũng có một điều làm tôi lo lắng: tôi nhận thấy mặc dù được đối xử tử tế, tôi vẫn bị xem như một tù nhân. Bên ngưỡng cửa phòng tôi hiện có một người lính được trang bị một thanh giáo có mũi nhọn bịt đồng, đang ngủ.
Trước khi thiếp đi, tôi nhìn quanh cái lỗ hổng thay cho cửa sổ và thấy ngôi nhà tôi đang ở nằm trên rìa một khu đất trống rất rộng. Chính giữa khu đất ấy, nổi lên một khối lớn màu sẫm hình chóp cao khoảng ba mươi mét. Đúng như tôi đoán, trên đỉnh cái kim tự tháp ấy là một ngôi đền có ngọn lửa đang cháy trước cửa ra vào. Vừa thiu thiu ngủ, tôi vừa tiếp tục nghĩ không hiểu cái công trình đồ sộ ấy được dựng lên để làm gì, và để thờ vị thần nào.
Sáng hôm sau, tôi sẽ được biết điều đó.
Có lẽ ở đây tôi phải dừng lại để nói những điều mà mãi tới sau này tôi mới biết. Lúc ấy tôi đã rơi vào thành phố Tabaxcô, thủ phủ của một trong những tỉnh phía Nam của vương quốc Anahuac, cách xa thành phố chính Tênôctitlan, nay là Mêhicô, khoảng mấy trăm dặm. Con sông mà tôi giạt vào cửa gọi là Rix Tabaxcô. Chính đây là nơi năm sau Côrtex đã đổ bộ lên. Còn ông chủ của tôi là người cầm đầu thành phố Tabaxcô, sau này đã tặng Marina cho Côrtex. Nghĩa là tôi là người da trắng đầu tiên sống giữa những người da đỏ, nếu không kể một anh chàng Aghila nào đó mà cách đấy sáu năm đã bị bão vứt lên bờ Iucatan cùng một số bạn bè của mình.
Côrtex cứu sống được Aghila, còn những người khác thì bị đem làm vật tế cho Uixilôpôctli, vị thần chiến tranh độc ác. Nhưng người da đỏ đã được nghe nhiều về người Tây Ban Nha và luôn nhìn họ với vẻ kinh sợ đầy mê tín. Cách đây gần một năm có một nhà quý tộc tên là Ecmanđex đơ Côrđôva đã tới bờ biển Iucutan, nhiều lần đánh nhau với thổ dân, và sau ông ta, không lâu trước khi tôi xuất hiện, các con tàu của Hoan đơ Grihanva đã ghé vào cửa sông Tabaxcô này. Điều ấy có nghĩa rằng người ta xem tôi là một đại diện của bộ lạc Teule xa lạ, - người da đỏ gọi người Tây Ban Nha bằng cái tên ấy, - tức là một kẻ thù mà các vị thần của họ đang cần được uống máu.
Nhờ ngủ một giấc say, mờ sáng hôm sau tôi tỉnh dậy, người tỉnh táo hẳn. Tôi rửa ráy, mặc bộ quần áo vải gai được chuẩn bị sẵn, rồi đi ra phòng lớn. Ngay lập tức người ta mang thức ăn tới, và tôi mới kịp ăn xong thì ông chủ của tôi đi vào. Cùng đi với ông còn có hai người với vẻ ngoài khiến tôi rùng mình vì sợ. Một thứ nhựa gì đấy dính chặt những mớ tóc đen dài và thẳng đứng của họ, mặt họ lộ vẻ độc ác, không khoan nhượng, còn những bộ quần áo đen họ mặc thì được may thêm những hình gì đó thần bí, có màu đỏ như máu. Tất cả những người có mặt, kể cả chính ông chủ, đều có vẻ kính trọng hai người đang nhìn tôi với sự sung sướng độc ác, làm tôi vô cùng khiếp sợ. Một người trong số họ đi lại gần, phanh chiếc áo đang che ngực tôi rồi đặt bàn tay bẩn thỉu gớm ghiếc lên trái tim tôi, và bắt đầu đếm to các mạch đập của nó,  vừa đếm vừa nói điều gì đấy. Sau này tôi biết được rằng ông ta nói tôi là người rất khỏe mạnh. Trong suốt thời gian ấy, người thứ hai không nói gì, chỉ gật đầu tán thưởng.
Để hiểu chuyện gì đang xẩy ra, tôi bắt đầu quan sát các khuôn mặt xung quanh. Bỗng nhiên tôi gặp cái nhìn của Marina. Điều tôi đọc thấy trong mắt cô không cho tôi nghi ngờ gì nữa: đôi mắt cô đầy vẻ kinh sợ và thương hại. Tôi hiểu rằng một cái chết rùng rợn đang chờ đợi tôi. Nhưng trước khi tôi kịp ý thức tất cả các việc ấy và định làm điều gì đó, thì hai nhà tư tế kia, - người da đỏ gọi họ là Paba, liền túm lấy tôi, lôi ra khỏi nhà. Tất cả những người có mặt, trừ ông chủ và Marina, đều đi theo.
Tôi đang đứng trên một khoảng đất trống, rộng, giống như cái sân chợ, được bao bọc xung quanh bằng những ngôi nhà đá xinh đẹp, thỉnh thoảng chen vào một vài túp lều trát đất nhỏ bé. Khoảng đất trống nhanh chóng được lấp đầy người. Đàn ông, đàn bà và trẻ con, ai cũng cố nhìn tôi đang được dẫn đến chiếc kim tự tháp đồ sộ, trên đỉnh có lửa cháy.
Đến nơi, tôi bị đẩy vào một chiếc phòng nhỏ lõm sâu trong chân kim tự tháp. ƠŒ đây mấy nhà tư tế khác cởi bỏ tất cả quần áo của tôi trừ chiếc khố, rồi đặt lên đầu tôi một vòng hoa. Trong phòng đã có hai người da đỏ khác. Nhìn khuôn mặt méo mó và kinh sợ của họ, tôi biết họ cũng bị đem giết.
Cuối cùng, đâu đó ở cao trên đầu chúng tôi có tiếng trống đánh to, dồn dập. Chúng tôi được dẫn ra khỏi phòng và cho đứng chính giữa một đoàn rất đông các nhà tư tế. Tôi đứng trước hai người da đỏ bất hạnh kia. Các nhà tư tế kéo dài giọng ca một bài hát man rợ gì đó, và chúng tôi bắt đầu đi lên, hết bậc này đến bậc khác, cho đến khi tới đỉnh kim tự tháp. Đó là một ô đất hình vuông bằng phẳng, mỗi cạnh khoảng hơn mười mét. Từ đây toàn cảnh thành phố và những vùng lân cận hiện lên rất đẹp, nhưng bây giờ, không phải là lúc nghĩ tới cảnh đẹp. Đứng đối diện với tôi là hai ngôi đền bằng gỗ cao gần hai mươi mét, - đó là đền thờ thần chiến tranh Uixilôpôctli và đền thờ thần không khí Kêxancôatli. Qua cánh cửa mở rộng dẫn vào hai đền thờ, tôi nhìn thấy tượng của hai vị thần được đẽo bằng đá, xấu xí một cách kinh tởm, còn trước tượng, trên hai chiếc bàn thờ thấp là trái tim của những người bị giết làm vật tế hôm qua đang ngâm nước trong những chiếc bát to bằng vàng. Trên các bức tường phía trong tháp có những hình vẽ rùng rợn. Đối diện với hai ngôi đền là ngọn lửa không bao giờ tắt đang cháy trên một chiếc bàn thờ lớn. Trước bàn thờ có một phiến đá cẩm thạch đen, hình vuông, cao như chiếc bàn trong các tiệm ăn của chúng ta, còn bên cạnh là một phiến đá khác, rất to, hình tròn giống chiếc cối xay đá, đường kính gần ba mét, chính giữa có một vòng tròn bằng đồng.
Tôi nhớ tất cả những điều này rất rõ, dù lúc ấy không có thời gian để quan sát chúng một cách kĩ lưỡng, vì vừa đặt chân tới đỉnh kim tự tháp, tôi liền bị túm chặt và đặt lên tảng đá hình tròn. Người ta buộc vào tôi một chiếc thắt lưng bằng da rồi lấy một đoạn dây thừng buộc vào chiếc thắt lưng và chiếc vòng đồng. Đoạn dây đủ dài để tôi có thể chạy từ bên này sang bên kia tảng đá, nhưng không thể xa hơn. Sau đó tôi được ấn vào tay một ngọn giáo đầu bịt sắt nhọn. Hai người da đỏ sắp bị đem giết đang đi sau tôi cũng được đưa những chiếc giáo tương tự. Sau đó người ta ra hiệu bắt đầu trận đánh: hai người da đỏ kia sẽ phải tấn công, còn tôi thì tự vệ.
Tôi nghĩ nếu giết được hai con người bất hạnh này, có thể tôi sẽ được tha chết, vì vậy tôi chuẩn bị sẵn sàng giết họ, những người không hề có lỗi, để cứu sống chính bản thân mình. Viên đại tư tế ra hiệu bắt hai người da đỏ tấn công tôi, nhưng cả hai sợ đến mức vẫn đứng yên không nhúc nhích. Thấy thế, viên tư tế khác lấy roi da đánh họ, và cả hai vừa kêu lên vì đau, vừa lao vào tôi. Một người đến gần tảng đá. Tôi đâm mũi giáo trúng tay anh ta. Để rơi vũ khí xuống, anh ta nhảy ra ngoài, người da đỏ thứ hai cũng làm theo anh ta. Họ không muốn đánh nhau, và bây giờ thì chẳng roi da nào có thể bắt được họ lao vào tôi nữa.
Thấy sự dũng cảm hoàn toàn rời bỏ họ, các viên tư tế quyết định đã đến lúc giết họ. Giữa tiếng nhạc và tiếng hát to, chúng kéo người da đỏ bị thương lại gần chiếc bàn đá cẩm thạch màu đen, - bây giờ thì tôi hiểu rằng đó là cái thớt chém bằng đá, - rồi đặt họ ngửa mặt lên trời. Năm viên tư tế bao quanh người da đỏ tội nghiệp: một tên giữ đầu, hai tên giữ tay và hai tên giữ chân. Sau đó viên đại tư tế đến; hắn mặc quần áo màu đỏ rực, và chính là tên nghe nhịp đập trái tim tôi. Lẩm bẩm đọc một câu chú nào đó, hắn vung chiếc đao hình cong làm bằng thứ đá đặc biệt phun từ núi lửa, và chỉ bằng một nhát, bổ đôi lồng ngực của nạn nhân. Hắn đang tiến hành nghi lễ dâng lễ vật cho thần Mặt trời.
Đúng lúc ấy, cả đám đông đang đứng phía dưới, tận mắt chứng kiến nghi lễ đẫm máu kia, liền vội vã nằm dài xuống đất cho đến khi trái tim của nạn nhân được thả vào chiếc bát bằng vàng đặt trước tượng thần Uixilôpôctli. Sau đó những tên tư tế gớm ghiếc kia lại lao vào xác anh ta. Vừa kêu lên man rợ, chúng vừa lôi nó tới mép đỉnh kim tự tháp rồi vứt xuống dưới theo bờ dốc đứng. Đến chân kim tự tháp, cái xác được những người chờ sẵn dưới đó mang đi. Lúc ấy tôi còn chưa biết chúng cần xác anh ta để làm gì.
Sau nạn nhân thứ nhất, lập tức đến nạn nhân thứ hai, và cả đám đông lại cung kính nằm dài trên mặt đất. Sau đó đến lượt tôi. Khi bị những viên tư tế túm chặt, tôi thấy tất cả quay cuồng trước mắt, và chỉ tỉnh lại khi đã nằm trên cái thớt chém bằng đá đáng nguyền rủa kia. Bị chúng giữ chặt hai tay, hai chân và đầu, tôi không sao cựa quậy nổi. Ngay sát đầu tôi là con quỷ mang hình người với chiếc dao cầm tay đang đứng. Sẽ không bao giờ tôi quên được cả khuôn mặt giận dữ, méo mó vì khát máu lẫn đôi mắt nẩy lửa, ti hí dưới đôi lông mày nhờn bóng của hắn. Hất những túm tóc đang treo trên trán về phía sau, hắn chần chừ trước khi hành động. Hắn thong thả ước lượng, ướm thử dao lên người tôi, vào chỗ hắn sẽ chém. Tôi có cảm giác như tôi đã nằm thế suốt hàng thế kỉ. Mỗi lần mũi dao khẽ chạm vào người, tôi lại run lên, và cuối cùng hắn quyết định vung dao lên.
Như trong một giấc mơ, tôi nhìn thấy mũi dao nhanh chóng hạ xuống. Thế là giờ phút cuối cùng của đời tôi đã đến! Nhưng đúng lúc ấy có bàn tay ai đó bỗng giữa chừng nắm chặt cánh tay tên đao phủ. Tôi nghe có giọng nói khe khẽ.
Hình như những điều người ấy nói không làm viên tư tế thích lắm. Hắn hú lên, rồi xông vào định giết tôi, những bàn tay kia lại túm lấy con dao khi nó đang bổ xuống. Viên tư tế bỏ đi vào đền thờ thần Kêxancôatli. Còn tôi thì vẫn nằm dài trên cái thớt chém, để một lúc phải chịu sự đau khổ của trăm nghìn cái chết. Tại sao tôi không bị giết ngay! Không lẽ chúng còn định tra tấn tôi trước khi giết? Chỉ riêng ý nghĩ ấy đủ làm tôi sợ hãi hơn tất cả những điều còn lại.
Tôi nằm trên tảng đá đen đáng nguyền rủa, phơi bộ ngực để trần cho mặt trời thiêu đốt. Từ phía dưới vọng lại tiếng ồn rầm rì của hàng vạn con người. Và trong khi tôi nằm như thế, cả quãng đời đã sống lần lượt hiện lên trước mắt tôi. Tôi nhớ lại hàng trăm điều vụn vặt bị lãng quên từ lâu, nhớ lại tuổi thiếu thời xa xôi, lời thề, cái hôn vĩnh biệt và những lời nói cuối cùng của Lyly; nhớ lại khuôn mặt của Gacxia khi hắn ra lệnh ném tôi xuống biển; nhớ lại cái chết của Ixaben đơ Xiguenxa, và tôi ngạc nhiên tự hỏi: tại sao, tại sao những người phụng sự các thần của tất cả các tôn giáo đều tàn ác như nhau?
Cuối cùng tôi lại nghe có tiếng bước chân, và vội vàng nhắm mắt lại. Tôi không còn đủ sức để nhìn con dao kinh khủng ấy nữa! Nhưng một phút trôi qua, rồi phút nữa, mà vẫn không thấy con dao bổ xuống. Thay cho điều ấy, bỗng nhiên tôi được thả ra và cho đứng dậy, mặc dù tôi nghĩ tôi sẽ chẳng bao giờ còn cần đến đôi chân nữa. Sau đó chúng dìu tôi đến mép đỉnh kim tự tháp, vì tự tôi, tôi không đi được. ƠŒ đây, tên tư tế đao phủ giết hụt tôi liền kêu to điều gì đó với những người đang đứng dưới chân kim tự tháp, làm cả đám đông xao động như cơn gió mạnh thổi qua cánh rừng. Rồi hắn dang hai cánh tay đẫm máu ôm tôi và hôn lên trán.
Chỉ bây giờ tôi mới nhận thấy đang đứng cạnh tôi là người thủ lĩnh da đỏ đường bệ và điềm đạm với nụ cười niềm nở trên môi. Chính ông ta là người đã gặp tôi ở cửa sông hôm nọ. Trước đấy, với nụ cười, ông ta vừa trao tôi cho những viên tư tế, và bây giờ cũng với nụ cười ấy, ông ta cứu tôi thoát khỏi tay chúng.
Người ta giúp tôi rửa ráy, mặc quần áo rồi dẫn vào tháp thờ thần Kêxancôatli, và đặt tôi trước bức tượng khủng khiếp của vị thần đó. Trong khi các viên tư tế lẩm bẩm đọc kinh, tôi đứng yên bất động, không đủ sức rời mắt khỏi chiếc bát bằng vàng trong đó đáng lẽ phải có trái tim tôi. Sau đó, có người đỡ hai bên, tôi đi xuống theo chiếc cầu thang lượn quanh kim tự tháp. Tới mặt đất, ông thủ lĩnh cầm tay tôi dẫn đi qua đám đông. Tôi nhận thấy bây giờ người da đỏ nhìn tôi với một vẻ sùng kính khó hiểu. Người đầu tiên tôi gặp ở nhà ông thủ lĩnh là Marina. Cô nói với tôi những lời dịu dàng nào đó nhưng tôi không hiểu. Người ta cho tôi được vào phòng mình, và tôi đã ở đấy đến hết ngày, mệt mỏi đến tột độ vì những lo lắng mới trải qua. Đúng là tôi đã rơi vào đất nước của quỷ xatăng!
Bây giờ là lúc tôi sẽ kể về việc vừa rồi vì sao tôi thoát chết. Marina đã giúp tôi. Cô ta thích tôi và lấy làm thương hại vì tôi phải gặp những điều bất hạnh như thế. Là người thông minh, Marina cứu được tôi thoát khỏi lưỡi dao tế thần.
Khi tôi đã đi tới cái thớt chém, cô ta nói với ông chủ của mình rằng vua Anahuac là Môntêzuma xưa nay vẫn sợ những người Tây Ban Nha, hay còn gọi là Teule xuất hiện, và rằng ai cũng biết vua muốn được tận mắt nhìn thấy một trong những người Teule ấy. Marina nói rằng không còn nghi ngờ gì nữa, tôi cũng là một Teule, và chắc chắn vua Môntêzuma sẽ tức giận nếu tôi bị đem làm vật tế thần ở nơi xa xôi này, thay cho việc phải đem tôi trình vua, còn sau đó nếu muốn; ngài có thể giết tôi ở thủ đô cũng chưa muộn. Viên thủ lĩnh đáp rằng cô ta nói đúng. Tuy nhiên bây giờ thì quá muộn, vì tôi đã ở trong tay các viên tư tế, mà giành lại tôi là điều không thể được.
- Ồ không! - Marina nói. - Chỉ cần nói với họ thế này là đủ: các ông đang đem một người Teule làm vật tế cho thần Kêxancôatli mà Kêxancôatli lại là một vị thần da trắng. Sẽ thế nào nếu như Teule này là con cháu của Ngài? Ngài sẽ tức giận nếu con Ngài được dâng làm vật tế cho chính Ngài. Mà nếu thậm chí Ngài không tức giận, thì vua Môntêzuma nhất định sẽ không bằng lòng, và sẽ trả thù cả thủ lĩnh và những viên tư tế.
Nghe xong, viên thủ lĩnh hiểu Marina nói đúng, vội vàng leo lên kim tự tháp. Ông ta tới nơi thật đúng lúc và đã kịp ngăn lưỡi dao đang bổ xuống người tôi. Lúc đầu viên đại tư tế không chịu, nhưng khi người thủ lĩnh nói rõ hết mọi chuyện, hắn hiểu rằng tốt hơn là nên nhân nhượng để khỏi chuốc vào thân cơn giận của Môntêzuma. Vì thế tôi được thả ra, đưa vào đền thờ, được chỉ cho đám đông xem, và Paba tuyên bố rằng thần công nhận tôi là một trong những đứa con của Ngài. Đó cũng là lí do từ nay người da đỏ nhìn tôi bằng con mắt tôn kính. 
                                                 XIV
CỨU GUATÊMÔC 
Sau cái ngày kinh khủng ấy, mọi người ở Tabaxcô, bắt đầu đối xử với tôi khác hẳn, và không còn nghĩ tới việc đem một người Tây Ban Nha, hay Teule như họ vẫn gọi tôi, làm vật tế cho các thần của họ nữa. Tất cả thay đổi ngay lập tức. Bây giờ tôi được mặc đẹp, lúc nào cũng no và có thể đi dạo nơi nào tùy thích, dù có lính đi kèm. Những người lính này phải đem đầu đền tội nếu để tôi bỏ trốn. Tôi được biết, một ngày sau khi tôi thoát khỏi tay của những viên tư tế, người ta cho người tới báo với Đức vua Môntêzuma vĩ đại về tôi, để Ngài cho biết ý kiến của mình. Nhưng đường từ đây tới Tênôctitlan không gần, và phải mất nhiều tuần nữa những người liên lạc mới trở lại.
Trong khi ấy hàng ngày tôi chăm chỉ học tiếng Maia và tiếng của những người Aztec. Marina nhiệt tình giúp tôi trong việc này. Bản thân cô ta không sinh ra ở Tabaxcô, mà ở Painala, phía đông nam đất nước. Marina bị mẹ đem bán cho các nhà buôn, để tài sản của bà rơi vào tay một đứa bé khác, là con chồng thứ hai, và bằng cách ấy, cuối cùng Marina đã ở trong nhà thủ lĩnh Tabaxcô.
Ngoài ngôn ngữ, tôi cố gắng hiểu biết càng nhiều càng tốt lịch sử và phong tục đất nước này, đồng thời tôi cũng tìm cách đọc các tài liệu được viết bằng hình vẽ mà ở đây rất thông dụng. Cũng trong thời gian này, nhờ có các kiến thức về nghề y, dần dần tôi nổi tiếng là một người thầy thuốc vĩ đại, và điều này càng làm dân chúng Tabaxcô tin chắc tôi đúng là con trai của thần Kêxancôatli tốt bụng.
Nhưng càng biết nhiều bao nhiêu, tôi càng ít hiểu về dân tộc này bấy nhiêu. Trong nhiều lĩnh vực, người da đỏ không hề thua kém các dân tộc châu Âu mà tôi biết. Họ là những người thợ thủ công và thợ xây dựng thật khéo léo. Ít thành phố của chúng ta có thể sánh nổi với các thành phố của họ về mặt kiến thức hoàn thiện, và ít đất nước nào có những bộ luật công bằng như họ. Ngoài ra, dân tộc này rất kiên nhẫn và dũng cảm. Nhưng sự mê tín đang đục khoét họ từ phía trong, như nấm làm hại phần ruột một thân cây khỏe mạnh. Bản thân sự thờ cúng của người da đỏ rất cao thượng và thậm chí có nhiều điều giống đạo Cơ Đốc, như lễ rửa tội chẳng hạn. Tuy nhiên, trên thực tế, những việc ấy dẫn tới điều gì thì tôi đã nói.
Lúc này tôi tự hỏi mình; suy cho cùng, cái gì xấu hơn, - đem người làm vật tế thần, hay tra tấn họ trong nhà tù của tòa án dị giáo rồi chôn sống trong bức tường một tu viện? Có lẽ cái thứ hai còn độc ác hơn!
Trong vòng một tháng ở Tabaxcô, tôi đã học tiếng của người da đỏ tốt đến mức đã có thể nói chuyện với Marina. Chúng tôi thành bạn với nhau, chỉ thế thôi. Từ Marina, tôi nắm được phần lớn các tin tức của đất nước này, ngoài ra, cô còn dạy tôi cách xử sự để khỏi rơi vào tai họa. Để bù lại, tôi kể cho cô nghe đôi điều về tôn giáo của chúng ta và về phong tục của người châu Âu. Chính nhờ những kiến thức ấy mà sau này Marina trở thành người không thể thay thế được đối với quân Tây Ban Nha. Cô ta đã tiếp nhận tôn giáo mới và đi theo con đường của người da trắng. Cứ thế tôi sống trong nhà của viên thủ lĩnh Tabaxcô hơn bốn tháng. Cuối cùng viên thủ lĩnh rất ưu ái với tôi này thậm chí còn đề nghị tôi lấy em gái ông ta làm vợ. Ông ta đã ngạc nhiên không ít khi thấy tôi từ chối một cách lịch sự, vì cô gái ấy quả rất xinh đẹp. Mặc dù bị từ chối, người ta vẫn đối xử với tôi rất tốt, và nếu trái tim tôi không hướng về nước Anh xa xôi, không lo sợ trước cái nghi lễ đẫm máu đang xảy ra trước mắt tôi hầu như hàng ngày, có lẽ tôi đã tự nguyện sống chung suốt đời với dân tộc tốt bụng, khéo tay và cần cù này.
Cuối cùng, sau đúng bốn tháng, người của triều đình Môntêzuma tới, - họ bị kẹt lại dọc đường vì sông ngập nước và vì các sự cố khác. Vua quan tâm tới tôi đến mức nghĩ cần thiết phải cử chính người cháu ruột của mình là hoàng thân Guatêmôc đến đây cùng một đám đông các chiến binh thiện xạ nhất để đưa tôi về Thủ đô.
Không bao giờ tôi quên được cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa tôi với hoàng thân, - người sau này đã thành bạn chí thiết của tôi, cả trong cuộc sống lẫn trong chiến đấu. Khi anh ta cùng đoàn tùy tùng tới Tabaxcô, tôi đang săn hươu ở vùng lân cận và làm những người da đỏ phải kinh ngạc vì tài nghệ bắn cung của tôi. Họ không biết tôi đạt tới sự điêu luyện ấy khi còn ở nước Anh, - hai lần tôi giành giải nhất trong các cuộc thi bắn cung ở Banghi. Khi người liên lạc đến, chúng tôi ngừng cuộc săn và vội vàng trở về thành phố, không quên mang theo con hươu săn được. Đến gần nhà viên thủ lĩnh, tôi thấy trong sân nhà ông ta đứng đầy các chiến binh ăn mặc sặc sỡ, trong số họ đặc biệt nổi bật một người với vẻ ngoài đường bệ. Anh ta còn trẻ, rất cao và rộng vai, có khuôn mặt dễ coi và cái nhìn của con đại bàng. Toàn bộ vẻ ngoài đầy quyền lực của anh ta toát lên một sự cao thượng đáng kính. Người anh ta được che bằng một chiếc áo giáp bằng vàng, vai khoác áo lông chim lấp lánh. Các lông chim được khéo léo đan vào với nhau thành từng sọc có màu khác nhau. Đầu anh ta đội mũ vàng, có biểu tượng nhà vua là hình một con đại bàng đang xé xác một con rắn vàng, được trang điểm bằng những viên đá quý. ƠŒ dưới đầu gối và cao hơn khuỷu tay một chút, anh ta mang những vành đai có đính những viên ngọc, còn trong tay là một chiếc giáo dài đầu nhọn bịt đồng.
Xung quanh con người này tụ tập rất nhiều các chiến binh sang trọng khác, ăn mặc không kém phần sặc sỡ, chỉ khác nhau ở chỗ thay cho chiếc áo khoác bằng vàng, họ mang những chiếc áo giáp bằng thứ vải đặc biệt được may thành nhiều lớp rất dày, gọi là Escanpili, còn trên mũ họ không phải biểu tượng nhà vua, mà là một túm lông chim dài được gắn vào mũ bằng một thứ keo và những viên đá quý. Đó là ấn tượng khi lần đầu tôi thấy hoàng thân Guatêmôc, cháu vua Môntêzuma, và sau này là ông vua cuối cùng của đất nước Anahuac. Thấy hoàng thân, tôi liền chào anh ta đúng theo phong tục người da đỏ, - chạm bàn tay phải xuống đất, sau đó đưa lên trán. Guatêmôc chăm chú nhìn tôi trong mấy giây. Tôi đứng trước anh ta trong bộ quần áo đơn giản của người đi săn với chiếc cung cầm tay. Anh ta mỉm cười thân mật nói:
- Teule, nếu tôi hiểu được điều gì đó về con người thì quả anh và tôi ngang nhau về dòng dõi và tuổi tác, vì vậy anh không phải cúi thấp chào tôi như một nô lệ chào chủ!
Nói xong, anh ta chìa tay cho tôi. Tôi cầm chặt bàn tay ấy, và với sự giúp đỡ của Marina, vẫn còn không rời mắt nhìn anh ta một cách ngưỡng mộ, tôi đáp:
- Thưa hoàng thân, có thể đúng như thế. ƠŒ đất nước của tôi, tôi cũng là người có tên tuổi và của cải, nhưng ở đây tôi chỉ là một tên nô lệ đáng thương, được cứu thoát khỏi bàn thờ tế thần.
- Tôi biết điều ấy, - Guatêmôc nhíu mày nói. - Cũng may mà người ta kịp cứu anh. Nếu không, cơn giận của Môntêzuma sẽ đổ xuống cả thành phố này, và lúc ấy...
Vừa nói những lời này, anh ta vừa nhìn viên thủ lĩnh đang đứng run lẩy bẩy. Thời ấy cái tên Môntêzuma thường làm người khác lo sợ như vậy.
Sau đó Guatêmôc hỏi có đúng tôi là một Teule, nghĩa là một người Tây Ban Nha hay không? Tôi đáp tôi là một người thuộc bộ lạc da trắng khác, nhưng trong người tôi có một nửa dòng máu Tây Ban Nha. Điều này làm anh ta ngạc nhiên, vì từ trước tới nay anh ta chưa hề nghe có các bộ lạc da trắng khác ngoài Teule. Sau đó tôi kể cho anh ta nghe đôi điều về bản thân, chủ yếu là về việc tôi đã rơi vào đây như thế nào.
Nghe xong, Guatêmôc nói:
- Nếu tôi hiểu đúng lời anh, Teule, thì anh không phải là người Tây Ban Nha, dù trong anh có dòng máu của giống người ấy, và anh đã tới đây trên một con tàu Tây Ban Nha. Tất cả những điều này thật khó hiểu. Tuy nhiên, cứ để vua Môntêzuma phán xét, còn bây giờ chúng ta nói sang chuyện khác. Anh hãy chỉ tôi xem cách anh sử dụng chiếc cung lớn ấy như thế nào. Anh mang đi theo hay làm nó ở đây? Người ta nói với tôi rằng anh là tay cung thiện xạ nhất giữa những người thổ dân nơi này!
Tôi chỉ cho Guatêmôc xem chiếc cung tự tôi làm nên. Nó có thể bắn xa hơn sáu mươi bước so với bất kì chiếc cung nào của người da đỏ. Sau đó, chúng tôi nói với nhau về các trận đánh và về săn bắn. Marina giúp chúng tôi vượt qua các trở ngại về ngôn ngữ; tới chiều, tôi và hoàng thân đã là bạn thân với nhau.
Guatêmôc và đoàn tuỳ tùng của chàng nghỉ lại ở Tabaxcô một tuần. Trong suốt thời gian ấy chúng tôi thường gặp và nói chuyện tay ba với nhau: hoàng thân, Marina và tôi. Chẳng bao lâu tôi nhận thấy Marina bắt đầu nhìn vị khách quý bằng đôi mắt một người đang yêu. Điều hấp dẫn cô ta không chỉ là của cải và danh tiếng của Guatêmôc. Là một người nhiều tham vọng, Marina không muốn bị giam hãm suốt đời trong cảnh nô lệ ở nhà viên thủ lĩnh, mà mơ ước được chia sẻ cùng Guatêmôc vinh quang và quyền lực.
Cô ta tìm đủ mọi cách để chinh phục trái tim hoàng thân, nhưng Guatêmôc không hề để ý. Cuối cùng cô ta quyết định nói thẳng với Guatêmôc, và đã làm điều ấy trong khi tôi đang có mặt.
- Thưa hoàng thân, ngày mai hoàng thân đã rời thành phố chúng tôi, - cô ta bắt đầu nói, giọng rụt rè. - Nếu hoàng thân cho phép người nữ tì của ngài được nói, tôi muốn xin hoàng thân một ân huệ.
- Cô cứ nói đi, - Guatêmôc đáp.
- Tôi muốn yêu cầu hoàng thân điều này: hãy mua tôi từ tay ông thủ lĩnh, hay nếu muốn hoàng thân có thể bắt ông ta trao tôi cho hoàng thân. Tôi muốn được theo hoàng thân về Tênôctitlan.
Guatêmôc phá lên cười:
- Cô nói rất thẳng thắn, - chàng đáp. - Nhưng cô phải biết rằng ở thành phố Tênôctitlan, tôi đang có công chúa em tôi và vợ là Têsuixpô, ngoài ra còn có ba phụ nữ quý phái khác, mà thật tiếc là những người này rất hay ghen.
Mặc dù có nước da ngăm đen, Marina cũng thẹn đỏ cả mặt, và đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi thấy đôi mắt hiền hậu của cô ta ánh lên giận dữ.
- Thưa hoàng thân, - cô ta nói - tôi yêu cầu hoàng thân cho tôi đi theo, chứ không yêu cầu lấy tôi làm vợ hay làm nhân tình!
- Nhưng cô đã nghĩ về điều ấy, - Guatêmôc cười đáp.
- Ta đừng vội nói tới những điều tôi nghĩ, thưa hoàng thân. Tôi muốn được nhìn thấy thành phố vĩ đại và đức vua vĩ đại, vì tôi đã quá mỏi mệt với cuộc sống nơi này, và cũng vì tôi muốn được vươn cao lên nữa. Hoàng thân từ chối tôi, thưa hoàng thân, nhưng có thể sẽ có lúc tôi tự vươn lên cao mà không cần hoàng thân giúp đỡ. Lúc ấy, tôi sẽ nhớ việc hôm nay hoàng thân đã làm nhục tôi, và tôi sẽ trả thù cả hoàng thân lẫn gia đình cao quý của hoàng thân!
Guatêmôc lại phá lên cười, nhưng sau đó liền nghiêm mặt lại.
- Cô nô lệ kia, cô đi quá xa rồi đấy! - Chàng nói. - Những điều cô vừa nói đủ để đưa lên thớt chém cả mười người một lúc. Nhưng vì tính kiêu hãnh đàn bà của cô bị xúc phạm và bản thân cô không biết mình đang nói gì, nên tôi không chấp. Cả anh, Teule, anh cũng đừng chấp những lời cô ta vừa nói, nếu anh hiểu.
Marina quay người, đi ra khỏi nhà. Ngực cô ta nhô lên hạ xuống dồn dập vì tức giận và vì tự ái, cũng có thể vì cả tình yêu không được chấp nhận. Khi đi ngang qua tôi, tôi nghe cô ta nói qua kẽ răng:
- Được lắm, có thể hoàng thân sẽ quên, nhưng tôi thì không bao giờ!
Về sau tôi thường nghĩ vẩn vơ khi nhớ lại ngày này.
Chuyện gì đã xảy ra? Ngẫu nhiên vì tức giận, Marina nói thế, hay lúc ấy cô ta quả thật đã nhìn thấy trước tương lai? Tôi còn tự hỏi một câu thế này: cuộc nói chuyện với Guatêmôc đóng vai trò thế nào trong cuộc đời sau này của Marina? Có đúng cô ta bán rẻ Tổ quốc mình để chuốc lấy sự nhục nhã và sự nguyền rủa của người khác chỉ vì tình yêu đối với Côrtex như sau này cô ta nói với tôi hay không? Trả lời những câu hỏi ấy thật khó, và có lẽ cũng chẳng cần thiết phải trả lời, vì chúng chẳng liên quan tới những gì sẽ xảy ra chẳng bao lâu sau đó. Mỗi lần xảy ra một sự kiện trọng đại nào đấy, chúng ta bắt đầu tìm kiếm nguyên nhân trong quá khứ, và thường mắc sai lầm. Có lẽ đó đơn giản chỉ là cơn giận bình thường của đàn bà, rồi cũng sẽ qua đi và bị lãng quên. Trong thực tế ít ai xây dựng ngôi nhà cuộc đời mình trên nền tảng vững chắc của một thứ tình cảm nào đó, - căm thù hay hi vọng, tuyệt vọng hay đam mê, - như đã xảy ra với tôi. Thông thường thì các trường hợp ngẫu nhiên lại chi phối cả cuộc đời chúng ta. Tôi chỉ biết một điều rằng quả thật Marina đã không quên cuộc nói chuyện ấy.
Trước khi nói về những chuyện xảy ra với tôi ở Tênôctitlan, nơi con gái của vua Môntêzuma sẽ trở thành vợ tôi và tôi sẽ gặp lại Gacxia một lần nữa, tôi muốn kể thêm ở đây một sự kiện đã xảy ra trong thời gian tôi ở Tabaxcô.
Vào ngày chúng tôi lên đường, để làm hài lòng các vị thần, và để các vị thần giúp đỡ chúng tôi trong cuộc hành trình dài sắp tới, đồng thời nhân dịp một trong những ngày hội liên tiếp của người da đỏ, một cuộc tế thần vĩ đại đã được tổ chức trên đỉnh kim tự tháp. Tôi buộc phải chứng kiến những cảnh rùng rợn ấy hàng ngày, và hôm ấy cũng như mọi người tôi cũng leo lên đỉnh kim tự tháp. Phía dưới tụ tập rất nhiều người. Chúng tôi đứng quanh cái thớt chém bằng đá và chờ đợi. Tất cả đã sẵn sàng.
Và kia, tên Paba độc ác, tên đã đếm nhịp đập trái tim tôi bước ra từ tháp thờ và ra hiệu cho những tên đầy tớ của hắn đặt con mồi đầu tiên lên thớt chém. Đúng lúc ấy hoàng thân Guatêmôc đột nhiên bước lên phía trước và vừa chỉ vào tên Paba, vừa ra lệnh cho những tên tư tế.
- Bắt người này cho ta!
Những người kia do dự. Tất nhiên Guatêmôc là hoàng thân, và dòng máu hoàng tộc đang chảy trong người chàng, tuy thế, giết một viên đại tư tế vẫn được xem là điều không hợp ý thần! Thấy thế, Guatêmôc vừa mỉm cười vừa cởi chiếc vòng đeo tay được trang điểm bằng một hòn đá quý màu xanh thẫm, trên đó có khắc những hình thù kì lạ. Đồng thời chàng còn rút ra một cuộn giấy có những dòng chữ tượng hình, và đưa nó cùng chiếc vòng cho mọi người xem. Đó là chiếc vòng đeo tay của chính đức vua Môntêzuma, và trên tờ giấy có chữ kí của quan đại tư tế thành Tênôctitlan. Ai không làm theo lệnh của người có những thứ này, sẽ phải chết và bị làm nhục. Vì vậy, không nói một lời nào, các viên tư tế liền túm chặt người cầm đầu của chúng rồi đứng lặng chờ lệnh.
- Hãy đặt ông ta lên thớt chém để làm vật tế thần Kêxancôatli, - Guatêmôc ra lệnh một cách ngắn gọn.
Bây giờ thì chính tên đao phủ vẫn thường vui mừng một cách độc ác trước cái chết của người khác, phải run lên vì sợ hãi, và hắn khóc to. Rõ ràng hắn không thích cái viên thuốc mà hắn vẫn cho người khác uống.
- Thưa hoàng thân, tôi làm gì để phải chết thế này? - Hắn kêu to. - Tôi là người phụng sự trung thành các thần và các vua cơ mà!
- Ngươi phải chết, vì ngươi đã dám đem Teule này làm vật tế thần, - Guatêmôc vừa đáp vừa chỉ vào tôi. - Vì ngươi muốn bằng cách ấy làm trái ý đức vua Môntêzuma, và vì các tội ác khác của ngươi đã được ghi trên tờ giấy này. Teule là con trai thần Kêxancôatli; chính người đã tuyên bố điều ấy. Thế thì hãy để thần Kêxancôatli được nhận một người khác thay con trai của thần! Ta nói hết. Giết hắn đi!
Ngay lập tức các viên tư tế khác, vốn từ trước tới nay chỉ làm theo lệnh của tên Paba này, liền ném hắn lên hòn đá chém. Một tên trong bọn khoác vào người chiếc áo đỏ của hắn, và mặc dù hắn van khóc, đe dọa, anh ta đã tỏ rõ hết tài nghệ của mình. Một giây sau, xác của tên khốn kiếp ấy đã bị vứt lăn xuống theo bờ dốc kim tự tháp. Phải nói rằng tôi hoàn toàn không lấy làm buồn khi hắn phải chết đúng như rất nhiều người tư tế khác bị hắn bắt chết. Trong việc này có lẽ tôi chưa đủ nhân từ như đạo Cơ Đốc vẫn dạy. Khi mọi việc xong xuôi, Guatêmôc quay sang phía tôi và nói:
- Tất cả các kẻ thù của anh sẽ phải chết như thế, anh bạn Teule ạ.
Sự kiện ấy cho tôi thấy vua Môntêzuma có quyền lực lớn thế nào. Chỉ cần nhìn thấy chiếc vòng đeo tay của ngài, là lập tức các viên tư tế giết ngay chính ông chủ của mình!
Khoảng một giờ sau chúng tôi lên đường, bắt đầu một cuộc hành trình lâu dài. Trước đó tôi đã kịp chia tay một cách thân thiết với viên thủ lĩnh chủ nhà và với Marina, là người khi từ biệt đã không kìm nổi nước mắt. Tôi chẳng bao giờ gặp lại viên thủ lĩnh, nhưng Marina thì sau này tôi còn được gặp.
Cuộc hành trình của chúng tôi kéo dài suốt một tháng. Đường đi xa và rất khó khăn. Không ít khi chúng tôi phải đốn cây mở đường, thỉnh thoảng lại bị kẹt không qua được sông. Trong thời gian ấy tôi được chứng kiến nhiều điều kì lạ. Chúng tôi được đón tiếp một cách hết sức trọng thể ở rất nhiều các điểm dân cư mà chúng tôi dừng lại, nhưng nếu đem kể hết ra đây, e sẽ chiếm nhiều thời gian.
Nhưng dù sao tôi vẫn phải kể về một sự kiện, vì nó là khởi điểm của tình bạn giữa tôi và hoàng thân Guatêmôc. Tình bạn ấy chỉ bị cắt đứt bởi cái chết của hoàng thân, nhưng cho tới tận bây giờ trái tim tôi vẫn giữ được nhiều kỉ niệm đẹp về nó.
Một lần do nước lũ, phải dừng lại, chúng tôi quyết định tiêu phí thời gian bằng cách săn bắn. Chẳng bao lâu ba con hươu đã bị bắn chết, nhưng lúc ấy Guatêmôc phát hiện một con hươu đực trên đồi, chúng tôi liền rón rén đi tới. Nhưng con hươu lại đứng giữa chỗ trống, quanh nó hàng trăm bước không có một thân cây hay bụi rậm nào, vì vậy không thể lại gần nó được, Guatêmôc cười nói với tôi:
- Teule, người ta kể về anh đủ thứ chuyện, như thể đời này không ai bắn cung giỏi bằng anh. Con hươu kia đang đứng cách xa ba lần cái khoảng cách mà người Aztec chúng tôi có thể bắn trúng. Anh hãy thi thố tài nghệ của anh đi.
- Để tôi thử xem, - tôi đáp, - kể con mồi cũng xa thật.
Chúng tôi đứng núp dưới một thân cây xâyba, có lá tỏa xung quanh hàng chục mét, tôi đặt mũi tên lên chiếc cung lớn tự tay làm, giống hệt chiếc cung tôi có ở nước Anh, rồi nheo mắt ngắm bắn. Mũi tên bay vèo đi dưới tiếng thì thầm tán thưởng của mọi người và đã cắm đúng vào tim con hươu kia.
Chúng tôi bước ra khỏi bóng cây và đang định đi tới chỗ con hươu bị giết thì bỗng nhiên một con báo đực, trước đó cũng rình con mồi này, nhảy lên vai Guatêmôc. Đó là một con vật khổng lồ. Nó vật hoàng thân xuống đất, ngồi lên lưng và bắt đầu dùng móng cào cấu. Nếu không có chiếc mũ che đầu và bộ áo giáp bằng vàng thì ngay lập tức con thú ấy đã giết chết Guatêmôc và chàng sẽ chẳng bao giờ làm vua Anahuac. Tuy nhiên, đối với Guatêmôc, rất có thể chết lúc ấy lại tốt hơn.
Thấy con báo cào cấu hoàng thân, các chiến binh đi theo bảo vệ nghĩ chàng đã chết, và tuy là những người dũng cảm, họ đã hoảng sợ bỏ chạy. Nhưng tôi thì không, mặc dù nên chạy theo họ thì hơn. Bên hông tôi đang mang thứ vũ khí yêu thích của người da đỏ, thay cho thanh kiếm, là một chiếc gậy dẹt, đầu nhọn, có cắm những mảnh đá ôpxiđian sắc như răng cá mập. Tháo dây lưng rút nó ra, tôi lao vào tấn công con báo. Bị đánh cú đầu tiên vào đầu, con báo quay tròn dưới đất, giàn giụa máu, nhưng giây sau nó gào lên giận dữ rồi nhảy vào tôi. Cầm chiếc gậy bằng cả hai tay, tôi đem hết sức đánh một lần nữa khi nó đang ở trên không. Cú đánh thứ hai này đúng vào mõm và sọ nó, mạnh đến mức chiếc gậy gãy vụn thành nhiều mảnh, nhưng con báo không vì thế mà dừng lại. Tôi bị hất ngã, con báo chồm tới, cắm phập răng và móng vào ngực tôi, may mà hôm ấy tôi mặc chiếc áo giáp được may bằng thứ vải đặc biệt rất dày, nếu không nó sẽ xé xác tôi. Nhưng thậm chí cả cái áo khoác ấy cũng không cứu cổ và gáy tôi thoát khỏi những vết thương sâu. Móng con báo còn để lại dấu vết trên người tôi cho đến tận bây giờ.
Lúc ấy tôi nghĩ thế là giờ phút cuối cùng của đời tôi đã đến: tuy nhiên, cú đánh cuối cùng khủng khiếp của tôi đã quyết định số phận con báo; một trong những mảnh ôpxiđian đã cắm phập vào não nó. Cấu cào cơ thể tôi, các móng vuốt của nó run lên, nó ngẩng đầu lần cuối, rống to rồi ngã phịch xuống người tôi.
Bị đè dưới một trọng lượng quá lớn, và vô cùng yếu ớt vì những vết thương đau, tôi cứ nằm thế cho đến khi sự dũng cảm quay lại với các chiến binh kia.Cuối cùng họ đến gần, kéo xác con báo khỏi người tôi. Đến lúc ấy hoàng thân Guatêmôc, người được chứng kiến tất cả nhưng không cử động nổi, cũng nhổm dậy được.
- Teule, - chàng bảo tôi, - anh đúng là một người dũng cảm, và nếu anh sống qua tai họa này, tôi thề tôi sẽ là bạn anh cho tới khi chết, cũng như anh là bạn của tôi. Guatêmôc chỉ nói với tôi, như thể không nhìn thấy các chiến binh đang đứng quanh. Chàng thậm chí không nghĩ cần thiết phải trách họ.
Nhưng lúc ấy tôi đã ngất đi. 
XVI
TRIỀU ĐÌNH VUA MÔNTÊZUMA 
Tôi bị thương nặng đến mức suốt một tuần sau đó phải nằm yên một chỗ, và cuối cùng người ta phải làm cáng đưa tôi đi. Chỉ khi còn cách Tênôctitlan ba ngày đường, tôi mới có thể tự mình đi được. Các con đường ở đây tốt hơn ở nước Anh rất nhiều, và chúng luôn được chăm sóc cẩn thận. Tôi lấy làm mừng là tự đi được trên hai chân của mình, vì tôi hoàn toàn không muốn ngồi trên vai người khác, điều người da đỏ xem là bình thường. Đi lại kiểu ấy hợp với phụ nữ hơn. Vả lại, tôi không thấy cần thiết để người ta cáng. Cái nóng dịu bớt, bây giờ chúng tôi đang đi qua một vùng cao nguyên mát mẻ, thỉnh thoảng lại gặp những dãy núi.
Chưa bao giờ tôi thấy một vùng đất ảm đạm như cao nguyên trần trụi vô tận này. ƠŒ đây chẳng có cây cối gì ngoài các bụi gai alôe và các cây xương rồng đủ hình thù kì dị nhất, vì chỉ chúng mới sống nổi ở một nơi đất có nhiều cát và thiếu nước thế này. Đúng là một đất nước kì lạ! Một đất nước có ba vùng khí hậu kề sát nhau, và cạnh những cánh rừng nhiệt đới lại là một cao nguyên mênh mông cằn cỗi.
Chúng tôi ngủ đêm ở một trong những ngôi nhà được xây dọc đường cho du khách. Ngôi nhà ấy không xa một cái đèo vượt qua dãy núi bao quanh thung lũng Tênôctitlan. Rất lâu, trước khi trời sáng chúng tôi lên đường đi tiếp, vì đang ở một độ cao lớn nên trời rất lạnh, và cũng vì sau những ngày nóng bức vừa qua, bây giờ không ai ngủ được. Ngoài ra Guatêmôc muốn ngay đêm ấy chúng tôi về tới thành phố.
Đi được mấy trăm bước, con đường bắt đầu dẫn chúng tôi lên đèo. Vô tình tôi dừng lại, sững sờ vì ngạc nhiên. Xa xa phía dưới, như trong lòng một chiếc bát khổng lồ, là những vùng đất và hồ nước còn bị bóng đêm che phủ chưa nhìn thấy rõ, nhưng ngay trước mặt tôi sừng sững hai đỉnh núi phủ tuyết có mây bao bọc. Những tia sáng của mặt trời còn ẩn náu đâu đó chiếu lên chúng, nhuộm màu trắng của chúng thành màu máu đỏ rực. Pôpôca- têpêcli, có nghĩa là ngọn núi nhả khói và núi Ixatacxiacli - người phụ nữ đang ngủ. Khó có thể hình dung cảnh nào hùng vĩ hơn hai ngọn núi này vào lúc trời gần sáng.
Trên miệng núi lửa Pôpôcatêpêcli, có một cột khói dày đang bay lên. Phía trong, nó được trộn lẫn bởi các tàn lửa, phía ngoài được nhuốm đỏ bởi mặt trời đang lên, trông giống một cột lửa tự quay xung quanh mình. Các sườn dốc phủ tuyết dưới chân nó dần dần đổi màu, từ màu trắng lóa mắt sang màu đỏ sẫm, từ màu đỏ sang màu nâu. Miêu tả lại cảnh này là việc không thể làm nổi; chỉ những ai từng tận mắt nhìn thấy mới có thể hình dung được những cảnh tương tự.
Chiêm ngưỡng Pôpôcatêpêcli xong, tôi quay sang Ixta- cxiactli. Ngọn núi này không cao như ngọn núi chồng - người Aztec xem hai núi lửa này là một cặp vợ chồng. Lúc đầu tôi chỉ thấy đấy là hình một người phụ nữ khổng lồ như được nặn từ tuyết. Người phụ nữ này như đang nằm yên trong chiếc quan tài được nâng lên mây cao, để các suối tóc chảy theo sườn núi. Chẳng bao lâu sau, những tia mặt trời xuất hiện, và bà ta thức giấc, đường bệ đứng lên từ những đám mây hồng, tạo nên cảnh tượng hết sức kì diệu và ngoạn mục. Tuy nhiên, dù buổi sáng người đàn bà đang ngủ đẹp đến đâu, tôi vẫn yêu bà ta vào buổi chiều hơn, khi bà ta lộng lẫy và oai vệ nằm xuống chiếc giường đệm của mình và từ từ chìm sâu trong bóng tối.
Khi tôi đứng ngắm hai đỉnh núi, ánh bình minh dần dần chiếu sáng các sườn núi, để lộ những khu rừng bao quanh chúng. Nhưng cả một vùng đồng bằng rộng lớn phía dưới vẫn bị mây mù che kín. Mây mù chậm chạp quây tròn như mặt biển cuộn sóng, và như các hòn đảo, ngọn đồi và mái nhà các cung điện lần lượt xuất hiện. Chúng tôi đang đi xuống theo một con đường khá dốc, càng đi sương mù càng mỏng dần, cuối cùng chúng tôi nhìn thấy phía dưới là các mặt hồ Sancô, Khôsimincô và Texcôcô đang phản chiếu dưới ánh mặt trời như ba chiếc gương vĩ đại. Trên bờ của ba hồ ấy có nhiều thành phố nhỏ và thành phố lớn nhất là Tênôctitlan, trông nó như đang bơi giữa mặt nước phẳng lặng. Xung quanh thành phố là các cánh đồng ngô xanh tươi, các rừng cây rậm rạp, và xa tít mãi phía sau là bức tường đen của dãy núi đá bao quanh thung lũng.
Suốt ngày chúng tôi nhanh chóng đi ngang qua đất nước kì diệu ấy, bỏ lại phía sau thành phố Amêcamêca và Aiôxingô mà tôi sẽ không miêu tả ở đây, đồng thời qua rất nhiều làng xóm tuyệt đẹp nằm rải rác trên bờ hồ Sancô. Sau đó chúng tôi leo lên một cái đập bằng đá giống như một con đường rộng chạy ngang qua hồ; xế chiều chúng tôi đã tới thành phố Tlauaca. Từ đây chúng tôi đi tới Ixtapalapana, nơi Guatêmôc muốn ngủ qua đêm trong nhà ông bác mình là Cuitlahua. Nhưng tới nơi, được báo trước về việc chúng tôi sắp về, vua Môntêzuma ra lệnh chúng tôi phải lên đường đi Tênôctitlan ngay lập tức. Đồng thời vua gửi tới những chiếc kiệu để đón chúng tôi. Chúng tôi buộc phải ngồi lên kiệu và rời thành phố của những vườn cây xanh tươi này.
Không dừng lại nghỉ nơi nào nữa, những người khiêng kiệu khiêng chúng tôi đi theo bờ đê phía nam, tiến vào Thủ đô. Chúng tôi đi ngang qua nhiều khu dân cư với những ngôi nhà được xây trên cọc giữa mặt hồ, qua những vườn cây trồng trên các bè nổi giữa nước như những con thuyền, qua rất nhiều các kim tự tháp nhỏ và các đền thờ lộng lẫy. Trên mặt đê hàng nghìn người da đỏ đang bận rộn đi lại theo nhiều hướng khác nhau. Cuối cùng, trước khi mặt trời lặn, chúng tôi đã tới Hôlôc, một vị trí phòng thủ trên chỗ giao nối của hai con đê. Than ôi, như nhiều thành lũy tuyệt vời khác mà tôi được nhìn thấy hôm đó, Hôlôc đã bị Côrter hủy diệt hoàn toàn.
Từ Hôlôc trở đi là địa phận của Tênôctitlan, - bây giờ gọi là Mêhicô, - một trong những thành phố vĩ đại và hùng mạnh nhất mà tôi đã gặp. ƠŒ ngoại ô, nhà cửa được xây bằng một thứ gạch không nung, nhưng ở những khu phố trung tâm và giàu có nổi lên các tòa nhà cao xây bằng đá đỏ. Chính giữa mỗi nhà có khu vườn bao quanh là một cái sân nhỏ. Xen giữa các nhà là một hệ thống chi chít các con kênh có đường dành cho người đi bộ hai bên. Trên các quảng trường có những kim tự tháp hình bậc thang, các cung điện và đền thờ. Nhưng tất cả những cảnh ấy lập tức bỗng mờ nhạt khi chúng tôi đi tới một quảng trường buôn bán rất rộng và tôi nhìn thấy một kim tự tháp khổng lồ, bốn phía có bốn cầu thang bằng đá dẫn lên đỉnh; trên mỗi bậc thang có rất nhiều sọ người trắng hếu. Còn trên đỉnh kim tự tháp là một ngôi đền thờ lộng lẫy được xây bằng các tảng đá đẽo nhẵn, bốn bức tường chạm trổ các hình rắn đủ loại. Tôi chỉ kịp nhìn thoáng qua ngôi đền thờ ấy, vì lúc đó trời đã sập tối, và chúng tôi được dẫn đi tiếp, theo các đường phố sẩm tối.
Một lát sau tôi nhận thấy các ngôi nhà của thành phố bị bỏ lại phía sau. Bây giờ chúng tôi đi lên một ngọn đồi mọc đầy những cây thông hình chóp rất cao. Cuối cùng những người khiêng kiệu dừng lại giữa một cái sân rộng và tôi được mời bước xuống.
Ngôi nhà mà hoàng thân Guatêmôc dẫn tôi đi vào quả đúng rất khác thường! Các trần nhà được làm bằng các tấm gỗ tuyết tùng, trên tường treo la liệt các loại vải quý đủ màu; còn vàng ở đây có lẽ giống gạch và gỗ sồi trong một ngôi nhà người Anh. Sau đó chúng tôi đi theo đám người hầu cầm những chiếc gậy bằng gỗ tuyết tùng qua rất nhiều phòng, cho đến khi tới một gian lớn có những người đầy tớ khác đang đợi sẵn. Họ tắm rửa cho chúng tôi bằng thứ nước thơm, cho mặc những bộ quần áo sang trọng, rồi dẫn đến một cánh cửa, nơi chúng tôi phải cởi dép và khoác lên người những chiếc áo khoác vải thô màu đen để che bộ quần áo lộng lẫy của mình. Sau đó chúng tôi mới được phép bước qua ngưỡng cửa đi vào gian phòng lớn, nơi đã tập trung sẵn rất nhiều những người đàn ông quý tộc và một số phụ nữ. Tất cả đứng im và ai cũng khoác trên người một chiếc áo khoác vải thô tương tự. ƠŒ cuối gian phòng có một chiếc bình phong bằng gỗ mạ vàng, từ phía ấy vang lên những tiếng nhạc du dương. Chúng tôi dừng lại giữa gian phòng được những bó đuốc tỏa mùi thơm chiếu sáng. Có mấy người lại gần chào hoàng thân Guatêmôc nhưng tôi nhận thấy tất cả đều tò mò ngắm nhìn tôi. Cuối cùng một người phụ nữ cao, cân đối và rất xinh đẹp xuất hiện. Cô ta mặc bộ quần áo sang trọng được trang điểm bằng các viên đá quý lấp lánh trên nền áo màu sẫm. Từ trước tới giờ tôi phải ngạc nhiên nhiều lần, tới mức mệt mỏi, tuy thế vẻ ngoài của người phụ nữ này làm tôi sững sờ; chưa bao giờ tôi thấy một khuôn mặt xinh đẹp đến thế! Bao quanh bởi những lọn tóc cong cong hình sóng đang chảy dài xuống vai, khuôn mặt ấy được chiếu sáng bởi đôi mắt to và dịu dàng như mắt nai. Các đường nét trên mặt thật hài hòa và đầy tình cảm. Nó có vẻ hơi buồn, nhưng vẫn cho ta cảm giác rằng nếu cần nó có thể trở nên giận dữ hay độc ác. Người đàn bà quý phái này chỉ mười tám tuổi là cùng, cô ta mới bước vào giai đoạn phát triển nhất, nhưng đã có vẻ ngoài một phụ nữ chín chắn, với dáng điệu của một bậc vua chúa.
- Chào Guatêmôc, ông anh của tôi! - Nàng dịu dàng nói. - Thế là cuối cùng anh về tới nhà! Đức vua chờ anh đã lâu và anh sẽ phải giải thích cho ngài biết vì sao anh về chậm. Chị gái tôi và là vợ anh cũng ngạc nhiên về sự chậm trễ này.
Trong khi cô gái nói, có lẽ tôi cảm thấy nhiều hơn là tôi được nhìn tận mắt, rằng cô ta đang chăm chú quan sát tôi.
- Chào Ôtômi, cô em của tôi! - Guatêmôc đáp. - Tôi bị kẹt lại dọc đường. Đường từ Tabaxcô tới đây xa xôi, vả lại dọc đường lại xảy ra chuyện không may với ông bạn Teule của tôi đây, - vừa nói, vừa gật đầu chỉ về phía tôi.
- Chuyện không may nào?
- Anh ta đã liều mạng cứu tôi khỏi móng vuốt của một con báo, trong khi những người khác bỏ chạy. Anh ta đã bị thương. Chuyện xảy ra thế này..., - rồi chàng vắn tắt kể lại những gì đã xảy ra.
Cô gái lắng nghe một cách chăm chú, và tôi nhận thấy đôi mắt cô ta ánh lên long lanh. Khi Guatêmôc kể xong, cô ta quay sang nói với tôi:
- Chào anh, Teule. Anh không phải là người thuộc bộ lạc chúng tôi nhưng dù sao tôi vẫn thích anh.
Và rồi vẫn nụ cười trên môi, cô ta đi ra.
- Người phụ nữ này là ai vậy? - Tôi hỏi Guatêmôc.
- Đó là Ôtômi, cô em họ của tôi, công chúa bộ lạc Ôtômi, con gái yêu của bác tôi là vua Môntêzuma, - hoàng thân đáp. - Cô ấy thích anh, Teule, và về nhiều mặt, như thế là tốt. Nhưng... xì!
Đúng lúc ấy tấm bình phong cuối gian phòng bỗng mở, tôi nhận thấy một người cao lớn đang chìm trong các cuộn khói thuốc lá. Ông ta ngồi trên những chiếc gối được thêu sặc sỡ, và theo phong tục người da đỏ, đang hút một chiếc tẩu thuốc bằng gỗ mạ vàng. Đó chính là vua Môntêzuma. So với những người da đỏ khác, khuôn mặt ông ta quá trắng, được bao quanh bằng những lọn tóc màu đen và thưa, nên có vẻ hơi buồn và mệt mỏi. Ông ta mặc bộ quần áo màu trắng vải bông tinh khiết, chiếc thắt lưng bằng vàng và đôi dép có đính những viên ngọc trai. Đầu ông ta được trang điểm những chiếc lông chim màu xanh lá cây. Phía sau vua có mấy cô gái xinh đẹp hầu như trần truồng đang chơi các nhạc cụ dân tộc, còn đối diện là bốn vị cố vấn già, đi chân trần và cũng khoác trên người những chiếc áo khoác màu sẫm.
Khi tấm bình phong được mở, tất cả mọi người có mặt trong gian phòng quỳ xuống, tôi cũng vội vàng làm theo. Rồi được vua giơ chiếc tẩu mạ vàng ra hiệu, chúng tôi lại đứng dậy. Tuy nhiên tôi nhận thấy ai cũng đứng khoanh tay, và cúi nhìn xuống đất, không dám ngẩng lên.
Môntêzuma ra hiệu một lần nữa, ba người đàn ông đứng tuổi đi lại gần. Tôi đoán đó là các vị sứ thần. Họ yêu cầu vua điều gì đấy và vua đã đáp lại bằng một cái gật đầu. Sau đó họ rút lui, vừa không ngớt gật đầu chào, vừa lùi dần phía sau; cho đến khi hòa lẫn vào đám đông. Môntêzuma nói điều gì đó với một trong các vị cố vấn của mình. Ông này cúi đầu, chậm chạp đi về cuối gian phòng vừa đưa mắt nhìn quanh. Cuối cùng đôi mắt ông ta dừng lại ở Guatêmôc. Thật ra tìm hoàng thân không khó, vì chàng cao hơn hẳn một cái đầu so với những người khác.
- Xin chào hoàng thân, - ông kia nói. - Đức vua Môntêzuma muốn nói chuyện với ông và với người bạn đường Teule của ông.
- Anh hãy làm tất cả giống như tôi, - Guatêmôc khẽ bảo tôi rồi đi về phía tấm bình phong bằng gỗ. Khi chúng tôi bước vào, tấm bình phong khép lại, ngăn chúng tôi với những người đang ở ngoài.
Chúng tôi đứng yên, khoanh tay cúi nhìn xuống đất đến khi vua ra hiệu cho phép lại gần.
- Cháu kể đi, - Môntêzuma nói, không to nhưng đầy quyền lực.
- Thưa Đức vua Môntêzuma vĩ đại, cháu đã tới thành phố Tabaxcô, tìm thấy Teule ở đó và dẫn anh ta về đây. Đồng thời theo lệnh vua, cháu đã đem tên đại tư tế làm vật tế thần, bây giờ, xin hoàn lại dấu hiệu quyền lực của vua.
Nói đoạn, Guatêmôc trao cho ông cố vấn chiếc vòng tay của Môntêzuma.
- Tại sao cháu về muộn thế?
- Vì dọc đường xảy ra chuyện không may, thưa Đức vua Môntêzuma vinh quang! Để cứu sống cháu, người bạn đường Teule này đã bị thương nặng vì móng vuốt một con báo. Bộ da của nó đã được mang về đây làm quà tặng vua.
Đến lúc này, ông vua Aztec mới quay sang nhìn tôi. Một trong những viên cố vấn đưa tới một cuộn giấy, và rồi Môntêzuma bắt đầu đọc, thỉnh thoảng lại ngước lên nhìn tôi.
- Các điều miêu tả đều chính xác, - cuối cùng ông ta nói. - Trong này chỉ quên không nói một điều là người Teule này xinh đẹp hơn bất kì người đàn ông Anahuac nào khác. Teule, hãy cho ta biết: vì sao những người bà con của ngươi lại tìm đến đất nước ta? Tại sao họ giết các thần dân của ta!
- Thưa Đức vua, tôi không biết gì về điều ấy, - tôi đáp, với sự giúp đỡ của Guatêmôc. - Những người ấy không phải bà con của tôi.
- Trong này ghi rõ ngươi mang trong người dòng máu Teule, và rằng ngươi đổ bộ xuống bờ biển của ta từ một trong những chiếc tàu lớn của họ. Chính ngươi đã công nhận điều ấy.
- Vâng, đúng thế, thưa Đức vua, nhưng tôi thuộc một bộ lạc khác, và tôi bơi tới bờ biển của Đức vua trên một chiếc thùng.
- Ta nghĩ ngươi đang nói dối. - Môntêzuma chau mày nói. - Nếu thế cá sấu và cá mập sẽ ăn thịt ngươi ngay lập tức. Hãy nói ta biết, Teule, - ông ta hỏi tôi với vẻ lo lắng rõ rệt, - có đúng ngươi là con cháu của thần Kêxancôatli không?
- Tôi không biết, thưa Đức vua. Tôi là một đại diện của giống người da trắng, và ông tổ chúng tôi là Ađam.
- Có lẽ đó là một cái tên khác của thần Kêxancôatli. Từ lâu có lời sấm rằng con cháu ngài sẽ trở về đây, bây giờ có lẽ giờ phút ấy đã đến.
Môntêzuma thở dài lo lắng rồi nói tiếp:
- Bây giờ thì ngươi hãy rút lui, Teule, sáng mai ngươi kể ta nghe về những người bà con của ngươi, sau đó hội đồng các quan tư tế sẽ quyết định ngươi được sống hay phải chết.
Vừa nghe nhắc đến các viên tư tế, tôi giật bắn người, rồi hoảng sợ nắm chặt hai tay kêu to:
- Thưa Đức vua, nếu muốn, xin ngài cứ giết tôi, nhưng đừng trao tôi vào tay các quan tư tế một lần nữa.
- Tất cả chúng ta đều nằm trong tay các quan tư tế, là những người đại diện các thần nơi hạ thế, - Môntêzuma lạnh lùng đáp. - Ngoài ra, hôm nay ta nghĩ ngươi đã nói dối với ta. Bây giờ thì đi đi!
Thế là tôi rút lui với tâm trạng nặng nề vì lo sợ những điều sắp xảy ra. Guatêmôc cũng cúi đầu đi bên tôi. Tôi thầm nguyền rủa cái giây phút ma quỷ xúi tôi tự công nhận có dòng máu Tây Ban Nha trong tim, mặc dù tôi không là người Tây Ban Nha. Nếu biết cơ sự này, thậm chí có bị tra tấn, tôi cũng không hé răng! Nhưng bây giờ thì hối tiếc quá muộn.
Theo Guatêmôc, tôi đi tới những gian phòng phía trong của lâu đài Sapantêpêc. ƠŒ đó, đang chờ chúng tôi là cô vợ xinh đẹp của hoàng thân, công chúa Têsuixpô và một số đàn ông, đàn bà quý phái khác. Trong số họ có cả Ôtômi, con gái của vua Môntêzuma.
Trong bữa ăn tối thịnh soạn, tôi được ngồi bên Ôtômi. Nàng dịu dàng nói chuyện với tôi, hỏi han về đất nước tôi và về giống người Teule. Từ nàng tôi biết các Teule ấy, tức là bọn Tây Ban Nha, đã gây nhiều phiền muộn cho Môntêzuma, người xem họ là con cháu của thần Kêxancôatli. Môntêzuma rất tin vào lời tiên tri cổ xưa, nói rằng chẳng bao lâu nữa thần Kêxancôatli sẽ trở lại, một lần nữa cai quản đất nước mình.
Tối hôm ấy, Ôtômi thật hấp dẫn và xinh đẹp, đến mức trái tim tôi phải xúc động. Đây là lần đầu tiên trong suốt thời gian qua, một người đàn bà khác trong giây lát đã làm tôi tạm quên nàng Lyly của tôi. Bây giờ nàng ở xa, đâu đó tận nước Anh, và tôi đã nghĩ có lẽ chẳng bao giờ chúng tôi còn gặp lại! Nhưng, như sau này tôi được biết, đêm ấy không chỉ riêng trái tim tôi xúc động.
Ngồi cách chúng tôi không xa là Papanxin, em gái của vua Môntêzuma. Bà ta không còn trẻ và nói chung không phải xinh đẹp, nhưng ít khi tôi được nhìn thấy một khuôn mặt vừa hấp dẫn vừa buồn rầu đến thế, như thể nó đã in dấu ấn của thần chết. Mấy tuần sau Papanxin chết thật, và thậm chí cả dưới mộ bà ta cũng không tìm thấy sự thư thả. Nhưng thôi, tôi sẽ kể về chuyện này sau.
Ăn xong, chúng tôi uống nước cacao, hay còn gọi là sôcôla, và mỗi người hút một tẩu thuốc. Cái tập quán lạ lùng nhưng khá hấp dẫn ấy tôi đã học được khi còn ở Tabaxcô và cho đến tận bây giờ vẫn không sao bỏ được, dù mang thuốc lá vào nước Anh không phải dễ. Cuối cùng tôi được dẫn vào một phòng nhỏ, tường ốp gỗ tùng linh, giành làm phòng ngủ cho tôi, tuy nhiên, tôi trằn trọc mãi không sao ngủ được. Đầu óc tôi đầy các ấn tượng mới mẻ. Trước mắt tôi hiện lên các bức tranh lạ lùng của một đất nước khác hẳn, rất văn minh mà cũng rất dã man. Tôi nghĩ về ông vua khá buồn rầu của đất nước ấy, ông vua có tất cả những gì mà con người mong muốn: sự giàu có vô tận, hàng trăm bà vợ xinh đẹp, những đứa con thương yêu, một đội quân đông đảo và một nền nghệ thuật phát triển. Ông ta là ông chủ tuyệt đối của hàng triệu người, điều khiển một đất nước kì diệu nhất trên thế giới, là người có thể đạt được tất cả những niềm vui nơi hạ thế, được tôn thờ và có thể sánh ngang với các vị thần về mọi mặt, trừ sự bất tử. Ấy thế mà con người ấy lại đang bị sự sợ hãi và mê tín giày vò, và về mặt tinh thần còn bất hạnh hơn cả tên nô lệ bất hạnh nhất trong các lâu đài của ông ta. Giống nhà tiên tri Eccleziatstơ, Môntêzuma có thể kêu to một cách đau khổ:
“Ta đã giành được cho ta vàng bạc và châu báu của các vua chúa từ khắp mọi miền; đã nuôi trong nhà các ca sĩ đàn ông và đàn bà, đã tận hưởng mọi thú vui của con người... Ta chẳng bao giờ từ chối điều mà đôi mắt ta mong muốn; không ngăn cấm trái tim ta bất cứ niềm vui nào; vì trái tim sung sướng trong mọi công việc của ta... Nhưng bây giờ nhìn lại tất cả những việc ta làm, tất cả những điều ta ham muốn, ta bỗng thấy mọi điều chỉ là sự phù phiếm và sự mệt mỏi về tâm hồn. Chúng chẳng mang lại ích lợi gì ở đời này!".
Môntêzuma có thể nói như thế, và ông ta đã nói như thế, có điều bằng những lời lẽ khác. Điệu múa thần chết được miêu tả trên các bức tường trong nhà thờ Đichchingham, nơi hài cốt của ba thế hệ vua chúa được chôn cất, đủ nói lên một cách hùng hồn rằng cả các bậc vua chúa cũng không tránh khỏi số phận chung của con người, và rằng cái phần hạnh phúc họ được hưởng cũng không hơn những con người bình thường khác, và thậm chí còn ngược lại, như một lần Anđrex đơ Fônxêca đã nói. Hạnh phúc thực sự chỉ là giấc mơ mà hàng ngày chúng ta nằm mơ rồi tỉnh dậy, để bù đắp những đau buồn mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời ngắn ngủi và gian khổ.
Sau đó ý nghĩ của tôi hướng về nàng công chúa Ôtômi xinh đẹp, người đã nhìn tôi, như tôi nhận thấy, với vẻ dịu dàng hiền hậu. Tôi thấy nàng thật hấp dẫn, vì tôi còn trẻ, và vì người yêu duy nhất của tôi là Lyly đang ở chốn rất xa, xa đến mức tôi tưởng như đã để mất vĩnh viễn. Có gì đáng ngạc nhiên nếu trái tim tôi bị chinh phục bởi sắc đẹp và phẩm hạnh của một cô gái da đỏ? Có lẽ không một người đàn ông nào không bị nàng thôi miên bởi sự dịu dàng, vẻ đẹp và sự kiều diễm rất cao thượng mà chỉ các bậc vua chúa mới có. Từ nàng, cũng như từ trong trang phục của nàng, toát lên vẻ hoang dại, nhưng lúc đó tôi chỉ thấy như thế là đáng quý. Chính điều ấy hấp dẫn và làm xúc động trái tim tôi hơn cả. Vẻ nữ tính dịu dàng của nàng được trang điểm thêm bởi một nét gì đó đặc biệt, khó hiểu và ảm đạm. Sự lộng lẫy theo cách phương Đông của nàng, - cái mà các bà quý phái, được giáo dục tốt nhất ở nước Anh chúng ta đang thiếu, - một lúc làm kích thích óc tưởng tượng và tình cảm chúng ta, rồi đi thẳng vào trái tim.
Vâng, Ôtômi là một trong những phụ nữ mà bất cứ người đàn ông nào cũng muốn yêu và được yêu, vì biết trên đời này những người như thế rất hiếm, và điều kiện đặc biệt làm nảy sinh các phẩm chất của họ lại càng hiếm hơn nữa. Thông minh và cuồng nhiệt, cao thượng và đầy nữ tính, đồng thời dũng cảm như một chiến binh và xinh đẹp tuyệt trần với đầu óc sinh động luôn mở rộng để đón kiến thức, và tâm hồn trong sáng, bề ngoài có vẻ luôn thay đổi nhưng thực chất rất trung thành và biết nâng niu danh dự như một người đàn ông, - Ôtômi, con gái vua Môntêzuma, công chúa của bộ lạc Ôtômi là một người như thế! Có gì đáng ngạc nhiên nếu sắc đẹp của nàng làm xúc động trái tim tôi, và sau này, khi số phận ban cho tôi tình yêu của Ôtômi, tôi cũng đem lòng yêu nàng?
Đồng thời trong tính cách Ôtômi có nhiều điểm mà nếu biết, tôi sẽ phải dè chừng. Dù có vẻ đẹp, sự hấp dẫn và những phẩm hạnh cao quý như thế, sâu trong tâm hồn, Ôtômi vẫn là một cô gái hoang dã, và dù được giấu kín, dòng máu da đỏ nhiều khi vẫn thắng thế trong nàng.
Tôi vừa nằm trong một căn phòng của lâu đài Sapuntêpêc, vừa suy nghĩ như vậy. Bên ngoài, những bước chân nặng nề của người lính canh nhắc tôi biết tình yêu và những cái tốt đẹp tương tự không phải dành cho tôi, vì số phận đời tôi đang nghìn cân treo sợi tóc. Ngày mai các quan tư tế sẽ quyết định tôi được sống hay phải chết, mà những ai đã rơi vào tay chúng thì chẳng khó gì không đoán được cái đang chờ đợi. Với chúng, tôi là một người nước ngoài thuộc bộ lạc da trắng. Tất nhiên một con mồi thế này sẽ nghìn lần hấp dẫn hơn cho các vị thần của chúng, so với trái tim một người da đỏ bình thường. Cũng chỉ vì mục đích này mà tôi được cứu thoát khỏi con dao tế thần ở Tabaxcô, để sau đó được đặt lên một bàn thờ cao hơn ở Tênôctitlan, - chỉ thế thôi. Tôi sẽ phải chết một cái chết kinh khủng ở xa Tổ quốc, thậm chí không người nào biết tới điều ấy. Tôi ngủ thiếp với những ý nghĩ buồn rầu như vậy.
Tôi bị đánh thức bởi những tia nắng buổi sáng. Ra khỏi giường, tôi đi tới ô cửa sổ có những chấn song bằng gỗ, và nhìn ra ngoài.
Lâu đài nơi tôi đang ở được xây trên đỉnh một ngọn đồi ở chỏm đá. Sóng hồ Texcôcô vỗ vào chân nó. Chính giữa hồ, cách bờ khoảng một dặm, nổi lên trên mặt nước là các đỉnh tháp của đền thờ Tênôctitlan. Trên các sườn đồi và xung quanh nó có những cây tùng linh cổ thụ mọc thành từng nhóm riêng biệt, với những chùm dây leo như những bộ râu màu xám huyền ảo. Chúng cao lớn đến mức cây sồi to nhất ở xứ đạo Đichchingham của chúng tôi sẽ trở nên nhỏ bé và lùn tịt, nếu đứng cạnh cây bé nhất trong số đó, còn cây lớn nhất thì có tán rộng đến hai mươi hai bước. Dưới bóng râm của cây đại thụ ấy là các khu vườn của Môntêzuma với những chùm hoa sặc sỡ kì lạ, với các đài phun nước bằng đá cẩm thạch, các vườn chim và các chuồng nuôi thú dữ. Tôi nghĩ chưa bao giờ mình được nhìn thấy một cảnh đến thế.
“Thôi được, - tôi thầm nghĩ. - Có chết cũng chẳng sao! Để bù lại, tôi đã được thấy đất nước Anahuac, ông vua, các phong tục và thần dân của nó. Riêng việc ấy đã đủ nói lên một điều gì đó!” 
XVI
TÔMAX TRỞ THÀNH THẦN 
Lẽ nào rạng sáng hôm ấy tôi có thể nghĩ rằng trước khi mặt trời lặn, tôi, Tômax Uyngfin, một nhà quý tộc khiêm tốn, có thể trở thành thần và là người được kính trọng nhất sau Đức vua Môntêzuma, hay nói chính xác hơn, là vị thần của thành phố Tênôctitlan?
Chuyện xảy ra thế này. Sau bữa ăn sáng với gia đình hoàng thân Guatêmôc, tôi được dẫn tới phòng xử của tòa án, hay như ở đây người ta vẫn gọi Toà án của Thần. ƠŒ đấy, Môntêzuma đã ngồi trên ngai vàng, xét xử với sự long trọng và uy nghi mà tôi không đủ lời để đem kể ra đây. Xung quanh ông ta là các quan cố vấn và các nhà đại quý tộc, còn phía trước là một chiếc sọ người có gắn một viên kim cương và những viên đá quý to đến mức có thể toả sáng xung quanh. Trong tay vua, thay cho quyền trượng là một mũi tên.
Trước Môntêzuma có mấy thủ lĩnh bị bắt vì tội phản bội đang đứng chờ. Toà án xét xử họ một cách nhanh chóng. Sau khi tuyên bố lời buộc tội, họ được hỏi xem có muốn nói đôi lời tự bào chữa không, và mỗi người lần lượt trình bày một cách vắn tắt trường hợp của mình. Sau đó Môntêzuma, nãy giờ vẫn ngồi yên, liền cầm tờ giấy trên đó có những lời buộc tội, lặng lẽ lấy mũi tên chọc thủng hình mỗi bị cáo được vẽ lên giấy, và bằng cách ấy đã kết án tử hình tất cả. Các nạn nhân được dẫn đi ngay, tôi vẫn không biết họ sẽ bị giết bằng cách nào.
Khi vụ án xử những người phản bội được giải quyết xong, mấy quan tư tế mặc áo đen ảm đạm, tóc dài để rối sau lưng bước vào phòng. Tôi cảm thấy xương sống ớn lạnh khi nhìn những con người độc ác, kiêu căng với những đôi mắt sắc lạnh ấy. Tôi nhận thấy thậm chí đối với Đức vua, họ cũng không tỏ ra kính trọng lắm.
;NormSp=900Các quan cố vấn và các chiến binh quý tộc bỏ ra ngoài, các quan tư tế nói chuyện với Môntêzuma. Sau đó, hai người trong số họ lại gần, dắt tôi khỏi tên lính canh rồi đưa đến ngai vàng. ƠŒ đây, một quan tư tế bỗng ra lệnh cho tôi cởi quần áo, và tuy xấu hổ, nhưng tôi phải làm theo. Khi trên người chẳng còn mảnh vải nào, tôi trần truồng đứng trước vua, các quan tư tế liền quây lại xung quanh, bắt đầu quan sát người tôi một cách chăm chú. Trên tay tôi có vết sẹo do thanh kiếm Gacxia để lại, những vết thương do răng và móng vuốt con báo cào cấu vừa kịp lành, còn đỏ trên hai vai và lưng tôi. Các quan tư tế hỏi tôi vì sao có những vết sẹo ấy. Nghe tôi trả lời xong, họ tránh sang bên để tôi không nghe thấy, rồi bắt đầu cãi nhau kịch liệt, nhưng vẫn không đi tới một quyết định nào, cuối cùng phải quay sang nhờ vua phán quyết. Suy nghĩ một lát, Môntêzuma nói, và tôi lại nghe rõ từng lời ông ta:
- Các vết sẹo này không do bẩm sinh, lúc mới ra đời chúng chưa có trên người anh. Đó là dấu vết do cơn giận của người và thú dữ để lại.
Các quan tư tế còn thảo luận với nhau một đôi điều gì đó, cuối cùng người cầm đầu khẽ nói thầm vào tai Môntêzuma. Vua gật đầu đứng dậy khỏi ngai vàng và đi lại gần tôi. Tôi trần truồng đứng trước ông ta, khẽ run lên vì lạnh, bởi lẽ không khí ở Tênôctitlan không phải bao giờ cũng ấm nóng. Môntêzuma vừa đi vừa tháo khỏi cổ mình chiếc dây chuyền bằng vàng và đá quý, cởi chiếc áo bào đang mặc rồi tự tay đeo dây chuyền vào cổ và khoác áo lên vai tôi. Sau đó ông ta nhẫn nhục quỳ trước tôi, giơ hai tay về phía trước và ôm tôi với vẻ van xin.
- Kính chào con trai của thần Kêxancôatli! - Ông ta nói. - Xin ngài hãy nhân từ với chúng tôi! Ngài là tượng trưng của thần Têcatlipôca, là linh hồn của Thế giới, là người sáng tạo muôn loài! Chúng tôi đã làm điều gì để được Ngài hài lòng, ban cho hạnh phúc bằng sự xuất hiện của Ngài vào năm này? Chúng tôi có thể làm được gì để đền đáp lại ân nghĩa cao cả này? Ngài đã tạo ra chúng tôi và tất cả trái đất chúng tôi đang sống. Xin ngài ra lệnh, tất cả chúng tôi là nô lệ của Ngài. Lệnh Ngài sẽ được thực hiện ngay lập tức. Ngài muốn gì, xin cứ nói, và điều mong muốn ấy sẽ trở thành sự thật trước khi Ngài kịp dứt lời. Hỡi Têcatlipôca, tôi, Môntêzuma, nô lệ của Ngài, đang quỳ gối trước Ngài, và cùng với tôi là tất cả thần dân của tôi đang chờ Ngài ra lệnh.
Một lần nữa ông ta lại sụp lạy.
- Chúng tôi đang hướng tới Ngài, - các quan tư tế họa theo. - Hỡi thần Têcatlipôca, chúng tôi quỳ gối trước Ngài!
Tôi tiếp tục đứng im, sững sờ vì vở kịch khó hiểu này, Môntêzuma vỗ tay ra hiệu, lập tức xuất hiện những người đàn bà mang những bộ quần áo đẹp và các vòng hoa tới. Họ đem những bộ quần áo ấy mặc vào người tôi, đeo các vòng hoa lên đầu tôi, không ngớt cầu nguyện và nhắc đi nhắc lại:
- Thần Têcatlipôca mới chết hôm qua bây giờ hiện lại. Xin hãy vui mừng! Thần Têcatlipôca hiện lại với chúng ta dưới dạng một tù nhân Teule.
Chỉ lúc này tôi mới hiểu rằng bây giờ tôi là một vị thần, không phải bình thường mà là vị thần vĩ đại nhất. Chưa bao giờ trong đời, tôilại cảm thấy mình là một thằng ngốc đến thế.
Tiếp theo những người đàn bà là những người đàn ông uy nghi và quan trọng, tay cầm nhạc cụ. Người ta nói với tôi rằng từ nay họ sẽ dạy nhạc và các môn khác cho tôi, còn cả đội quân người hầu đông đúc trong cung vua sẽ là nô lệ của tôi. Cùng tiếng nhạc, tôi được dẫn ra khỏi phòng. Một người truyền lệnh đi trước kêu to rằng tôi, thần Têcatlipôca, linh hồn của Thế giới, người sáng tạo muôn loài, một lần nữa lại về thăm dân tộc của mình. Tôi được dẫn qua tất cả các sân và tất cả các phòng trong cung điện. Và ở đâu đàn ông, đàn bà và trẻ con cũng nằm bẹp trước tôi để cầu khấn, vâng, trước tôi, Tômax Uyngfin, từ xứ đạo Đichchingham, hạt Nôphôc. Cuối cùng tôi có cảm giác rằng có lẽ tôi đã hóa điên thật.
Sau đó, tôi được đặt lên kiệu và người ta khiêng tôi đi xuống từ ngọn đồi Sapuntêpêc dọc theo bờ đê, đi tiếp khắp thành phố, qua tất cả các phố phường, rồi tới một quảng trường rộng trước đền thờ. Đi trước tôi là người truyền lệnh và các quan tư tế, còn phía sau là các chàng trai quý tộc và người hầu. Bất cứ nơi nào chúng tôi đi qua, mọi người đều nằm rạp trước tôi. Dần dần tôi hiểu làm thần cũng khá cực nhọc.
Người ta cáng tôi đi qua những dãy tường có chạm trổ các hình rắn, theo một chiếc cầu thang dốc đứng bị gãy, lên tới đỉnh một chiếc kim tự tháp khổng lồ, nơi có đền thờ và các bức tượng. ƠŒ đây, dưới tiếng đánh dồn dập của một cái trống rất lớn, các viên tư tế bắt đầu dâng cho tôi hết người này đến người khác, và tôi buộc phải chứng kiến những cảnh chém giết đẫm máu ấy,  khó khăn lắm tôi mới giữ được để không nôn ọe.
Cuối cùng, tôi xuống kiệu. Mọi người trải thảm và quàng hoa dưới chân tôi. Nhưng tôi rùng mình vì kinh sợ khi nghĩ có thể bây giờ người ta sẽ giết tôi để làm lễ vật cho chính tôi hay một vị thần nào khác. Thật may điều ấy đã không xảy ra. ƠŒ mép đỉnh kim tự tháp, - tôi từ chối không muốn đến gần vì sợ bất ngờ bị xô xuống, - đích danh viên đại tư tế tuyên bố với đám đông hàng nghìn người về chức danh thần thánh của tôi; lập tức mọi người trên quảng trường và các quan tư tế trên đỉnh kim tự tháp liền vội vã quỳ gối. Các nghi lễ này kéo dài một cách kinh khủng. Đầu óc tôi rối mù lên vì những lời cầu nguyện, những tiếng nhạc, tiếng thét và những xác chết đẫm máu. Tôi thở dài nhẹ nhõm khi cuối cùng chúng tôi lên đường quay lại Sapuntêpêc.
Tuy nhiên, ở đây các nghi lễ long trọng mới lại chờ tôi. Tôi được dẫn qua một loạt các phòng rất đẹp kề sát các phòng nghỉ của chính Đức vua, và người ta trịnh trọng tuyên bố với tôi rằng từ nay tất cả mọi người trong cung vua Môntêzuma sẽ là người hầu của tôi, ai dám trái lệnh tôi, sẽ phải chết!
Lúc ấy, lần đầu tiên tôi lên tiếng nói, tôi tỏ ý muốn ở lại một mình để nghỉ ngơi chút ít. Tôi ra lệnh cho người hầu trong lúc tôi nghỉ phải chuẩn bị một bữa tiệc lớn trong các phòng của hoàng thân Guatêmôc, là nơi tôi hi vọng sẽ gặp công chúa Ôtômi.
Các cố vấn và các chiến binh quý tộc trong đám tuỳ tùng của tôi định ngăn lại, nói đêm ấy vua Môntêzuma, người hầu của tôi, muốn tổ chức lễ mừng tôi, nhưng tôi vẫn không thay đổi quyết định. Cuối cùng họ rút lui, báo rằng một giờ nữa sẽ quay lại để cùng tôi đi dự tiệc.
Cởi bỏ các thứ quần áo thần thánh khỏi người, tôi khoan khoái nằm dài trên đống gối, bắt đầu suy nghĩ. Tôi bỗng thấy xốn xang lạ lùng. Chẳng lẽ tôi là thần và quyền lực của tôi là vô hạn hay sao? Tuy nhiên, đầu óc hay nghi ngờ của tôi lại đặt ra những câu hỏi ngược lại. Người ta biến tôi thành thần để làm gì, và liệu tôi giữ được cái quyền lực ấy trong bao lâu?
Chưa đầy một giờ sau, các quan cố vấn và đám người hầu của tôi đã quay lại với những bộ quần áo mới và những vòng hoa mới. Mặc quần áo và cài hoa cho tôi xong, họ theo tôi tới nhà Guatêmôc. Những người phụ nữ xinh đẹp đi trước, vừa đi vừa chơi các nhạc cụ dân tộc.
Hoàng thân Guatêmôc đang đợi chúng tôi. Tôi được đón tiếp thật long trọng, như thể tôi không phải là người tù hôm nào, mà chính là Đức vua vậy. Nhưng đồng thời tôi thấy Guatêmôc đang có điều gì lúng túng, đôi mắt lộ vẻ thương hại. Tôi cúi xuống, khẽ hỏi:
- Thưa hoàng thân, tất cả những điều này nghĩa là gì? Có đúng tôi là thần thật không, hay người ta đang giễu tôi?
- Xì!... đối với anh, điều này vừa tốt lại vừa không tốt, - chàng ghé sát tai tôi, nói khẽ đến mức vất vả lắm mới nghe được. - Sau này tôi sẽ nói anh hiểu.
Rồi chàng cao giọng nói thêm.
- Thưa thần Têcatlipôca, thần của các vị thần, Ngài muốn ăn tiệc cùng chúng tôi hay thích ngồi một mình?
- Hoàng thân, các vị thần thích ngồi giữa đám bạn bè vui vẻ, - tôi đáp.
Trong khi trò chuyện, tôi nhìn thấy công chúa Ôtômi giữa đám đông đang bước vào phòng. Vì vậy, khi mọi người bắt đầu ngồi xuống những chiếc gối sau những chiếc bàn thấp, tôi chần chừ chờ nàng ngồi rồi lập tức đến ngồi bên cạnh. Điều này làm những người đang có mặt rất bối rối, vì đã có một chỗ danh dự dành sẵn cho tôi ở đầu bàn, bên phải là hoàng thân Guatêmôc, còn bên trái là Têsuixpô, vợ chàng.
- Thưa thần Têcatlipôca, chỗ của thần không phải ở đây, - Ôtômi khẽ nói, khuôn mặt màu ô liu của nàng đỏ ửng.
- Thưa công chúa Ôtômi, tôi nghĩ một vị thần có thể ngồi bất cứ nơi nào tuỳ ý, - tôi đáp và hạ giọng nói thêm: - Lẽ nào đối với thần còn có chỗ khác xứng đáng hơn được ngồi cạnh vị nữ thần xinh đẹp nhất đời?
Nàng lại đỏ mặt, nói:
- Rất tiếc tôi không phải là nữ thần, mà là một cô gái trần tục bình thường. Nhưng nếu muốn tôi ngồi cạnh trong bữa tiệc hôm nay, thần phải đứng dậy nói to ý định của mình. Sẽ không ai dám phản đối. Thậm chí cả bố tôi là vua Môntêzuma cũng vậy.
Tôi liền đứng dậy, và bằng thứ tiếng Aztec rất lủng củng, tôi tuyên bố với tất cả những người đang có mặt.
- Từ nay chỗ ngồi của ta trên các bàn tiệc sẽ là chỗ cạnh công chúa Ôtômi. Ta muốn thế!
Nghe những lời này, mặt Ôtômi càng đỏ hơn. Khách khứa thì thầm với nhau. Guatêmôc lúc đầu khẽ chau mày, nhưng sau lại mỉm cười. Các quan cố vấn của tôi cúi thấp đầu, còn những người truyền lệnh thì dõng dạc hô to:
- Hãy làm theo ý thần Têcatlipôca! Từ nay chỗ ngồi của công chúa Ôtômi sẽ ở cạnh thần Têcatlipôca, vì thần yêu nàng!
Từ đêm ấy, Ôtômi bao giờ cũng ngồi cạnh tôi, trừ những lần tôi phải dự tiệc riêng với vua Môntêzuma. Khắp thành phố, nàng Ôtômi xinh đẹp đã được gọi là nàng “công chúa hạnh phúc, người yêu của thần Têcatlipôca”. Tập quán và sự mê tín lớn tới mức người Aztec tin một cách chân thành rằng kẻ được xem là linh hồn của Thế giới, dù chỉ trong một thời gian ngắn, có thể biến một người đàn bà thành hạnh phúc và danh giá tột độ bằng cách tỏ ý muốn cô ta ngồi cạnh mình trong những lần dự tiệc.
Khi bữa tiệc bắt đầu, tôi khẽ hỏi Ôtômi tất cả những điều này nghĩa là gì?
- Than ôi, lẽ nào anh chẳng biết? - Nàng thì thầm đáp lại. - Bây giờ không thể trả lời được, nhưng tôi chỉ muốn nói điều này: chừng nào, đang là thần, anh có thể muốn ngồi đâu tùy ý, nhưng sẽ có lúc người ta bắt anh nằm chỗ anh không muốn một chút nào. Khi bữa tiệc kết thúc, anh hãy nói to rằng anh muốn dạo quanh vườn, và tôi sẽ phải đi theo anh. Có thể lúc ấy tôi sẽ kể anh nghe mọi chuyện.
Tôi làm theo lời khuyên của nàng, và khi tiệc vãn, tôi nói tôi muốn đi dạo với công chúa Ôtômi. Chúng tôi bước ra khỏi lâu đài, đi dưới bóng những cây tùng linh đại thụ bám đầy những đám dây leo màu xám. Như những bộ râu người già, chúng khẽ đung đưa trên mỗi cành cây, dưới làn gió mát ban đêm. Nhưng, than ôi, chúng tôi không được ở riêng một mình. Cách chúng tôi hai mươi bước về phía sau là cả đám tùy tùng đông đúc của tôi cùng đám nhạc công luôn miệng thổi những chiếc sáo đáng nguyền rủa, và những cô vũ nữ xinh đẹp nhảy múa dưới thứ âm nhạc hỗn độn ấy. Tôi ra lệnh cho họ im lặng, nói rằng từ xưa tới nay sau giờ múa nhạc là giờ nghỉ ngơi, nhưng họ cương quyết không nghe, và đó là lệnh duy nhất của tôi không được chấp hành. Đám tùy tùng, các nhạc công và vũ nữ luôn bám theo tôi khắp nơi. Chỉ trong những ngày ấy tôi mới hiểu rằng đôi khi sự cô đơn là cái quý giá nhất mà ta mong muốn.
Chẳng biết làm gì hơn, chúng tôi dạo tiếp dưới bóng cây, và một lát sau, dù phải nghe tiếng nhạc đang dai dẳng bám theo, chúng tôi say sưa nói chuyện, và tôi đã được biết một số phận kinh khủng thế nào đang chờ tôi phía trước.
- Anh hãy lắng nghe tôi, Teule, - Ôtômi nói. Nàng bao giờ cũng gọi tôi như thế khi không ai nghe chúng tôi nói chuyện. - Đất nước chúng tôi có lệ hàng năm chọn một người tù binh trẻ tuổi để tôn anh ta thành người đại diện trần gian của thần Têcatlipôca, người sáng tạo Thế giới. Để được chọn, người tù chỉ cần có hai ưu điểm là xuất thân từ dòng dõi cao quý và không có tội lỗi hay khuyết tật nào. Anh tới đây đúng vào ngày phải chọn một người tù mới để làm thần Têcatlipôca, và các quan tư tế đã chọn anh, vì anh là một nhà quý tộc và xinh đẹp hơn bất kì người đàn ông Anahuac nào khác. Ngoài ra anh thuộc giống người Teule, là con cái của thần Kêxancôatli mà từ lâu chúng tôi đã được nghe tiếng. Vua Môntêzuma, bố tôi, sợ sự xuất hiện của họ hơn mọi thứ trên đời, và vì vậy các quan tư tế cho rằng anh có thể cứu chúng tôi thoát khỏi cơn giận của giống người Teule và làm các thần hài lòng.
Ôtômi ngừng lời, như đang vất vả tìm lời để nói những gì nàng sắp nói, nhưng tôi đã không chú ý tới điều đó. Những lời vừa rồi của nàng làm tôi hài lòng; nó phù hợp với ý thức về sự vĩ đại của tôi mà tôi đang cảm thấy, và nâng tôi lên trong chính mắt của mình. Một nàng công chúa xinh đẹp công nhận tôi hơn hẳn bất kì người đàn ông nào ở Anahuac! Tới lúc ấy tôi chỉ cho mình là một chàng trai có vẻ ngoài không đến nỗi, và tất nhiên chưa có người nào, cả đàn ông, đàn bà lẫn trẻ con, xem tôi là “tuyệt vời”. Tuy nhiên, như ta biết, leo cao lắm, càng ngã đau. Trường hợp của tôi cũng vậy.
- Teule, tôi nói thật với anh điều này, - Ôtômi nói, - dù tôi lấy làm buồn rằng anh phải nghe nó từ miệng tôi. Trong một năm anh sẽ là vị thần của thành Tênôctitlan và sẽ chẳng gặp điều gì phiền muộn. Anh chỉ phải có mặt trong các dịp hội hè khác nhau, người ta sẽ dạy anh đôi chút về nghi lễ. Bất kì điều gì anh muốn sẽ trở thành pháp luật bắt buộc cho tất cả. Nếu anh mỉm cười với ai đó, thì nụ cười của anh sẽ được xem như ân huệ của thánh thần, và mọi người sẽ cầu nguyện, tôn thờ anh. Cả vua Môntêzuma, bố tôi, cũng đối xử với anh kính trọng như người ngang hàng hay thậm chí còn hơn. Cánh cửa dẫn tới mọi niềm vui sẽ mở rộng trước anh, trừ việc lấy vợ. Chỉ khi bắt đầu bước vào tháng cuối cùng trong năm, người ta sẽ chọn cho anh bốn cô gái xinh đẹp nhất trong nước để làm vợ.
- Ai sẽ chọn? - Tôi hỏi.
- Tôi không biết, Teule, - Ôtômi đáp. - Tôi không biết điều bí mật. Có khi chính thần tự chọn, cũng có khi do các quan tư tế. Lúc thế này, lúc thế nọ. Nhưng hãy nghe tôi nói hết, lúc ấy có lẽ anh sẽ quên tất cả. Trong một tháng anh sẽ sống với các bà vợ của mình, tham gia tiệc tùng và hội hè trong tất cả các gia đình danh giá nhất thành phố. Nhưng vào ngày cuối cùng của tháng ấy người ta sẽ đặt anh lên kiệu vua, và cùng với các bà vợ, anh sẽ được dẫn tới chỗ gọi là “luyện kim loại”. Sau đó người ta đưa anh lên đỉnh chiếc kim tự tháp mà chúng tôi gọi là Nhà vũ khí, ở đó các bà vợ sẽ chia tay anh mãi mãi. Còn sau đấy thì, - than ôi, Teule, tôi thật khó nói với anh điều này! - Sau đó anh sẽ được đem làm vật tế chính vị thần mà anh đang mang tên, tức thần Têcatlipôca vĩ đại. Trái tim anh sẽ được dứt khỏi lồng ngực, đầu anh sẽ bị chặt khỏi người, cắm lên chiếc cọc gọi là cọc cắm đầu...
Nghe một lời tuyên án khủng khiếp như thế, tôi nấc lên khóc to, hai chân lảo đảo làm tôi suýt ngã xuống đất. Nhưng sau đó tôi bỗng bừng bừng nổi giận và quên hẳn lời dặn của bố tôi. Tôi bắt đầu nguyền rủa tất cả các vị thần độc ác ở Anahuac và cái dân tộc đã tôn thờ những vị thần ấy, lúc đầu bằng các thứ tiếng Aztec và Maia, khi cạn từ tôi tiếp tục nguyền rủa họ bằng tiếng Tây Ban Nha và bằng cái tiếng Anh cổ xưa, tốt đẹp của chúng ta.
Hiểu tôi một phần, phần khác do tự đoán, Ôtômi liền kinh sợ chìa hai tay về phía tôi, năn nỉ:
- Teule, tôi xin anh không được nguyền rủa các vị thần đáng sợ ấy, nếu không, anh sẽ bị trừng phạt một cách dã man! Nếu nghe được những lời anh vừa nói, mọi người sẽ nghĩ trong anh không phải linh hồn tốt mà là linh hồn xấu, và anh sẽ phải chết một cái chết vô cùng đau đớn. Còn nếu thậm chí mọi người không nghe thấy, thì các vị thần sẽ nghe, vì các vị thần luôn có mặt khắp nơi!
- Cứ để họ nghe! - Tôi đáp. - Đó là các ông thần giả dối, và đất nước này là một  đất nước đáng nguyền rủa vì nó tôn thờ các vị thần ấy. Các vị thần này sẽ chết, tất cả những người tôn thờ họ cũng chết theo. Tôi nói thẳng với cô điều ấy. Cứ để tất cả nghe rõ những điều tôi đang nói! Thà bị tra tấn chết bây giờ còn hơn suốt cả năm phải chịu một sự tra tấn khác là chờ đợi cái chết đến gần! Nhưng tôi sẽ không chết một mình. Cả biển máu do bàn tay các quan tư tế ở đất nước này gây nên đang kêu gọi vị thần chân chính trả thù, và vị thần ấy sẽ trả thù chúng!
Điên lên vì kinh sợ và giận dữ một cách bất lực, tôi tiếp tục tuôn ra không nghỉ. Vô cùng ngạc nhiên và lo lắng, Ôtômi nghe những lời nguyền rủa cay độc, trong khi sau lưng chúng tôi, sáo vẫn kêu réo rắt, và các vũ nữ vẫn nhảy múa.
Bỗng nhiên tôi thấy Ôtômi như thôi không nghe tôi nữa. Đôi mắt nàng hướng về phương đông, như vừa nhìn thấy bóng ma. Tôi ngoái lại. Cả bầu trời sau tôi đỏ hồng. Từ chân trời cho đến đỉnh đầu một luồng ánh sáng trắng nhợt tỏa theo hình chiếc quạt, xen lẫn những tia lửa đỏ. Cán chiếc quạt kì dị ấy cắm đầu xuống đất, còn các nan quạt che kín cả nửa bầu trời phía đông. Vô tình, tôi chợt im lặng, sững sờ vì cảnh tượng lạ lùng này. Đúng lúc ấy những tiếng kêu kinh sợ vang lên từ các lâu đài. Mọi người chạy ùa ra ngoài để nhìn về ngọn lửa hồng đang cháy rực phía đông.
Và kia, chính Đức vua Môntêzuma cùng đám quan lại quý tộc đang bước ra; trong ánh sáng mờ ảo tôi thấy môi ông ta mấp máy, còn đôi tay thì run lên thảm hại. Lúc ấy lại xảy ra một điều kì lạ nữa. Từ bầu trời không mây bỗng rơi xuống thành phố một quả cầu bằng lửa. Trong giây lát nó dừng lại trên đỉnh ngôi đền thờ cao nhất rồi bùng cháy, chiếu sáng rực rỡ kim tự tháp và khu quảng trường nằm cạnh, rồi tắt hẳn. Nhưng trên chỗ của nó liền xuất hiện một ngọn lửa mới, - đền thờ thần Kêxancôatli bốc cháy!
Tất cả những người được chứng kiến cảnh tượng ấy từ đồi Sapuntêpêc và từ khắp nơi trong thành phố đều kêu lên tuyệt vọng, và rên rỉ đau xót. Thậm chí cả tôi cũng phải hoảng sợ, dù hiểu ánh sáng đang tỏa khắp bầu trời đêm ấy và những đêm sau có lẽ chỉ là một ngôi sao chổi bình thường, còn đám cháy ở đền thờ thì do một tia chớp tròn gây nên. Tuy nhiên những người Aztec và đặc biệt là vua Môntêzuma, người luôn bị ám ảnh về sự xuất hiện của một giống người da trắng mà theo lời tiên tri sẽ đánh bại và tiêu diệt toàn bộ vương quốc của ông ta, thì lại cho đó là những điềm gở nhất.
Đúng lúc mọi người đang đứng lặng sững sờ vì kinh ngạc thì một người đưa tin vẻ mỏi mệt, khắp người bụi phủ từ xa tới lách qua đám đông đến cúi rạp trước vua. Ông ta rút ra từ cái nếp gấp chiếc áo của mình một cuộn giấy, đưa cho một quan đại thần đứng cạnh. Tuy nhiên, do quá sốt ruột, vua Môntêzuma đã phá vỡ nghi lễ, vội giành lấy cuộn giấy từ tay ông kia, giở ra và bắt đầu đọc dưới ánh sáng của bầu trời sáng rực và ngọn lửa của đền thờ đang cháy. Tất cả nín thở nhìn vua. Bỗng Môntêzuma kêu to lên, vứt cuộn giấy và giơ hai tay ôm mặt. Ngẫu nhiên cuộn giấy rơi gần tôi, tôi nhìn thấy trên đó những hình vẽ thô kệch các con tàu Tây Ban Nha và những hình người mang trang phục nước ấy. Sự tuyệt vọng của Môntêzuma không có gì khó hiểu: quân Tây Ban Nha đã đổ bộ lên đất nước của ông ta!
Mấy quan cố vấn đi lại định lựa lời an ủi, nhưng ông ta gạt đi.
- Hãy để ta yên! - Ông ta rên rỉ. - Đừng ngăn cản ta khóc thương dân tộc Anahuac! Điều tiên tri đã thành sự thật, và thế là Anahuac sẽ bị tiêu diệt. Con cái của thần Kêxancôatli sẽ thống trị trên mảnh đất này và sẽ giết chết con cái của ta. Hãy để cho ta được khóc!
Đúng lúc ấy lại một người liên lạc nữa từ lâu đài đi tới. Mặt anh ta lộ vẻ đau buồn.
- Nói đi! - Môntêzuma ra lệnh:
- Thưa Đức vua, xin hãy tha thứ cho đôi môi mang lại tin buồn này. Bà Papanxin, em gái vua sắp chết, vì những điềm báo kinh khủng kia, - anh ta đưa tay chỉ lên bầu trời đỏ rực.
Nghe tin cô em gái yêu quý của mình đang hấp hối, Môntêzuma lặng lẽ che mặt bằng vạt áo rồi chậm chạp đi vào lâu đài.
Vầng sáng màu hồng vẫn tiếp tục phát ra muôn nghìn tia lửa hừng hực phía đông như bầu trời giữa cảnh hoàng hôn, còn phía dưới, ngọn lửa tham lam không ngừng thiêu hủy đền thờ thần Kêxancôatli.
Tôi quay sang Ôtômi. Nàng đứng cạnh, ngơ ngác run lẩy bẩy.
- Có đúng tôi đã nói với công chúa rằng đất nước này là đáng nguyền rủa không?
- Vâng, Teule, anh có nói thế, - nàng đáp. - Đất nước của chúng tôi đáng bị nguyền rủa!
Sau đó chúng tôi đi vào lâu đài. Thậm chí cả vào cái giờ kinh khủng ấy, các nhạc công và đám vũ nữ vẫn bám theo chúng tôi.
XVII
ĐIỀU TIÊN TRI CỦA PAPANXIN
Sáng hôm sau, Papanxin chết, đến chiều, bà ta được chôn ở nghĩa địa Sapuntêpêc cạnh tổ tiên của nhà vua, với sự long trọng hiếm thấy. Nhưng như sau này chúng ta sẽ thấy, được chôn ở đấy bà ta cũng không lấy gì làm thích lắm.
Ngày hôm ấy tôi hiểu được rằng làm thần không phải là điều đơn giản. Tôi bị yêu cầu phải học hết tất cả các môn nghệ thuật, cụ thể là phải học biểu diễn cái thứ nhạc hoang dã của người da đỏ, mà năng khiếu về nhạc thì tôi chẳng có một tí gì. Thế nhưng chẳng ai thèm hỏi tôi về việc này. Các ông cố vấn kiêm thầy dạy học của tôi là những người có tuổi đáng kính, đáng lẽ phải làm những việc xứng đáng hơn, thế mà hàng ngày vẫn mang đàn đến bắt tôi học. Một số người khác thì dạy tôi văn phạm tiếng Aztec, thơ ca và các nghệ thuật khác theo trình độ hiểu biết của họ, nhưng đây là những môn tôi học một cách thích thú. Tuy nhiên tôi vẫn không quên câu châm ngôn dân gian, là càng hiểu biết nhiều càng thêm đau khổ. Mà quả thật tôi cần gì những thứ kiến thức ấy, khi chẳng bao lâu nữa chúng sẽ phải chết với tôi trên cái thớt chém bằng đá!
Ý nghĩ về việc sẽ bị đem làm vật tế thần lúc đầu làm tôi rất tuyệt vọng. Nhưng sau đó tôi lại nghĩ cái chết đã kề sát tôi nhiều lần, thế mà cuối cùng tôi vẫn thoát được, có thể cả lần này tôi cũng gặp may chăng? Ít ra thì từ nay cho tới khi phải chết còn lâu. Chừng nào còn được làm thần, bất kể sẽ phải chết hay không, tôi muốn sống như thần quãng thời gian mình được sống và tận hưởng mọi thú vui trên trái đất. Và tôi đã sống thoải mái. Chắc xưa nay hiếm ai có các khả năng và điều kiện lớn như tôi, lại khác thường đến thế, mà rồi nếu có, cũng chẳng ai bằng tôi trong việc khai thác chúng một cách triệt để như vậy. Phải thú nhận rằng tôi cảm thấy gần như hạnh phúc, nếu không bị ám ảnh bởi nỗi buồn nhớ nhà và nhớ người yêu đôi lúc ập đến bất ngờ và rất mãnh liệt. Quyền lực của tôi vô tận, mà tất cả những gì bao quanh thì thật kì diệu và khác lạ. Nhưng thôi, tôi xin kể tiếp.
Suốt mấy ngày sau cái chết của Papanxin, triều đình và cả thành phố chìm ngập trong cảnh tang lễ. Đủ các thứ tin đồn kì lạ làm ai cũng phải bối rối. Đêm nào nửa trời phía đông cũng đỏ bừng, và ngày nào cũng có các điềm lạ hay các tin tức khủng khiếp về bọn Tây Ban Nha. Phần lớn người da đỏ xem chúng là các vị thần da trắng, con cháu của Kêxancôatli, nay quay lại với mảnh đất mà có thời tổ tiên chúng ta đã từng làm chủ.
Giữa sự hỗn loạn ấy, chính Môntêzuma là người cảm thấy bất hạnh nhất. Những tuần gần đây hầu như ông ta chẳng ăn uống gì và hoàn toàn không ngủ. Trong trạng thái ấy, ông ta đã cho người tới gặp tình địch cũ của mình là Nêxananpili, người cầm đầu nghiêm khắc và thông minh của đất nước Texcôcô. Môntêzuma yêu cầu Nêxananpili đến gặp mình, và ông kia đã đến.
Đó là một ông già có đôi mắt sắc sảo và giận dữ. Vô tình tôi được chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa ông và Môntêzuma, vì với tư cách là thần, tôi có thể đi dạo bất kì nơi nào tôi muốn, thậm chí có quyền có mặt cả khi vua hội họp với các cố vấn cao cấp nhất của mình.
Gặp Nêxananpili, chào hỏi nhau xong, Môntêzuma kể cho ông ta nghe về các điềm gở, về sự xuất hiện của người Tây Ban Nha và yêu cầu ông đem sự thông minh của mình ra xua tan hộ bóng tối. Nêxananpili vừa vuốt bộ râu bạc dài, vừa đáp rằng trái tim Môntêzuma bây giờ đã nặng, nhưng sắp tới sẽ còn nặng hơn.
- Ông hãy nghe tôi nói đây, - Nêxananpili nói. - Tôi biết đã đến ngày quyền lực của chúng ta kết thúc. Tôi tin chắc vào điều ấy đến mức sẵn sàng chơi với ông một ván Tlastli(Tlastli: một kiểu chơi ném vòng của người da đỏ. Ván chơi này là có thật được ghi trong lịch sử của người Aztec, tác giả chỉ nhầm một chỗ: thay cho ba con gà chọi là ba con gà tây mà thời ấy ở châu Âu chưa có.), nếu thua, tôi sẽ mất cho ông toàn bộ vương quốc của tôi, cái mà ông cũng như tổ tiên ông từ lâu đã muốn chinh phục.
- Nếu tôi thua, tôi sẽ mất gì? - Môntêzuma hỏi.
- Chúng ta sẽ chơi thế này. Ông đặt cọc ba con gà chọi, nếu tôi thắng, ông phải đưa móng cựa chúng cho tôi. Còn tôi sẽ đặt cọc cả quốc gia Texcôcô của tôi.
- Như thế không ngang nhau, - Môntêzuma nói. - Gà chọi thì nhiều mà quốc gia thì ít.
- Thì đã sao? - Ông kia đáp. - Chúng ta đang chống lại số phận. Cuộc chơi này sẽ quyết định tất cả. Nếu ông thắng và lấy được đất nước tôi, thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp, còn nếu tôi thắng thì hãy vĩnh biệt mãi mãi sự vinh quang của Anahuac, vì dân tộc chúng ta sẽ bị tiêu diệt, đất đai chúng ta sẽ bị những kẻ mới tới xâm chiếm.  
- Thôi được, ta cứ chơi rồi xem, - Môntêzuma đồng ý, và họ bắt đầu đi tới sân chơi.
Lúc đầu Môntêzuma thắng và ông ta bắt đầu lớn tiếng khoe khoang rằng chẳng bao lâu nữa sẽ là ông chủ của Texcôcô.
- Nếu thế thì tốt lắm! - Ông già Nêxananpili thông minh nói, nhưng cũng từ đó ông vua Aztec bắt đầu thua. Dù cố gắng đến đâu, không lần nào ông ta ném nổi quả cầu vào chiếc vòng; cuối cùng Nêxananpili thắng và nhận được ba con gà chọi. Nhạc nổi lên, các nhà quý tộc đến vây quanh và chúc mừng ông vua già. Nhưng đáp lại, ông ta chỉ thở dài nói:
- Tôi thà bị thua mất quốc gia của tôi còn hơn thắng để lấy mấy con gà này, vì nếu thua, đất nước của tôi sẽ được chuyển vào tay một người khác cùng chung dân tộc với tôi. Nhưng than ôi, toàn bộ đất đai của tôi và của ông ta sẽ lọt vào tay người ngoại bang. Chúng sẽ loại bỏ các vị thần da đỏ và xóa sạch mọi vinh quang của chúng ta!
Nói xong những lời ấy, Nêxananpili đứng dậy chia tay với Môntêzuma rồi lên đường trở về nước mình. May mà chẳng bao lâu sau ông chết, không phải tận mắt nhìn thấy những điều tiên tri đáng sợ của ông trở thành sự thật.
Nêxananpili đi được một ngày lại có tin mới về bọn người Tây Ban Nha. Tin này còn làm Môntêzuma lo lắng hơn trước. Quá lo sợ, ông ta cho mời một nhà chiêm tinh học nổi tiếng khắp nước vì đã nhìn thấy trước nhiều điều rất hiệu nghiệm. Khi nhà chiêm tinh này tới, Môntêzuma khóa chặt cửa ngồi riêng với ông ta. Tôi không biết ông này nói gì với Môntêzuma, nhưng có lẽ không phải những điều tốt lành, vì ngay đêm ấy Môntêzuma đã cho lính xô đổ ngôi nhà của nhà chiêm tinh, và ông ta đã chết. Hai ngày sau cái chết của nhà chiêm tinh, Môntêzuma nghĩ tôi có thể cho ông ta những tin tức cần thiết, vì ông ta vẫn tiếp tục xem tôi là một Teule. Khi hoàng hôn sắp tắt, ông ta cho người tới mời tôi cùng đi dạo với ông ta trong vườn. Tôi tới gặp ông ta với sự tháp tùng của đám nhạc công vẫn không chịu để tôi yên dù chỉ một phút. Thấy thế, Môntêzuma nói rằng muốn nói chuyện riêng với tôi và đã ra lệnh bắt tất cả rút lui. Chúng tôi cùng đi dưới tán lá sum sê những cây tùng linh đại thụ, Môntêzuma đi trước, tôi theo sau, cách nhau một bước.
- Teule, hãy kể tôi nghe về những người bà con của anh, - cuối cùng Môntêzuma lên tiếng nói. - Tại sao họ đổ bộ lên bờ biển của chúng tôi? Xem chừng không được nói dối đâu đấy!
- Thưa Đức vua Môntêzuma, họ không phải là bà con của tôi! - Tôi đáp. - Chỉ mẹ tôi là người cùng bộ lạc với họ.
- Ta ra lệnh cho anh chỉ được nói sự thật, anh nghe rõ chứ? Nếu mẹ anh là người cùng bộ lạc với chúng, lẽ nào anh không là một Teule, lẽ nào anh không cùng máu thịt với mẹ anh!
- Tùy Đức vua muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, - tôi cúi đầu nói, rồi bắt đầu kể về người Tây Ban Nha, về đất nước vĩ đại, về sự tàn ác và về lòng tham đối với vàng bạc của họ. Môntêzuma chăm chú lắng nghe, nhưng hình như không tin, dù chỉ một nửa những gì tôi nói, vì sự sợ hãi khiến ông ta nghi ngờ người khác. Khi tôi im lặng, ông ta lại hỏi:
- Chúng tới Anahuac để làm gì?
- Thưa Đức vua, tôi nghĩ chúng tới để chiếm vùng đất này, để cướp phá tất cả các kho báu của vua và lật đổ các vị thần của người Aztec.
- Thế thì anh khuyên ta nên làm gì, Teule? Làm sao ta chống nổi chúng, những chiến binh khỏe mạnh, mặc áo sắt và ngồi trên lưng những con thú hoang dại độc ác? Chúng có những cái ống gì đó kêu to như sấm, làm hàng trăm người ngã xuống, còn tay chúng cầm một cái que dài, lấp lánh như bạc. Làm sao ta có thể đánh lại chúng? Than ôi, đó là điều không thể làm nổi, vì chúng là con cháu thần Kêxancôatli đang trở lại để làm chủ vùng đất này. Từ bé ta được nghe nói về chúng, suốt đời ta lo sợ vì chúng, còn hôm nay chúng đã tới gần trước cửa nhà ta.
- Tôi chỉ là một vị thần, - tôi đáp. - Nhưng nếu được một ông vua trần gian cho phép, tôi xin có một vài lời khuyên đơn giản. Phải dùng sức mạnh để chống lại sức mạnh! Chúng không đông, và vua có đủ một nghìn binh lính của vua để chống lại một đứa trong bọn chúng. Hãy chủ động tấn công, giết chúng ngay lập tức, đừng chờ khi chúng tìm được đồng minh!
- Và đấy là lời khuyên của một kẻ mà mẹ cũng là Teule! - Môntêzuma nhếch mép cười mỉa mai. - Nào, ông cố vấn, hãy nói tôi nghe: làm sao tôi biết được tôi đang đánh nhau với người mà không phải với các thần? Làm sao tôi biết được các mong muốn thật sự và các ý nghĩ của những con người hay những vị thần ấy, khi họ không nói tiếng của tôi, và tôi không hiểu tiếng họ?
- Điều này không khó lắm, thưa Đức vua, - tôi nói. - Tôi biết tiếng nói của chúng. Hãy cử tôi đi, tôi sẽ tìm cách biết hết mọi điều cho vua.
Vừa nói những lời này, tôi vừa cảm thấy trong tim lóe lên đôi tia hi vọng. Nếu tôi tìm đến được những người Tây Ban Nha, tôi sẽ thoát khỏi bàn thờ tế thần, thậm chí có khả năng trở lại nước Anh, vì chúng tới đây bằng tàu, mà có tàu tới đây nghĩa là có tàu quay lại. Tạm thời, tôi chưa có điều gì phải phàn nàn về số phận của mình, nhưng đương nhiên tôi vẫn muốn trở lại sống giữa những người theo đạo Thiên Chúa.
Môntêzuma lặng lẽ nhìn tôi một lúc, rồi đáp:
- Teule, chắc anh đang xem tôi là một thằng ngốc. Không lẽ anh nghĩ tôi có thể cho anh tới gặp chúng để anh kể chúng biết về nỗi sợ và sự mềm yếu của tôi, và chỉ cho chúng tất cả những điểm yếu của đất nước Anahuac? Không lẽ anh nghĩ tôi không biết anh tới đây để làm gì? Anh ngốc lắm. Tôi biết anh là thám báo của bọn người Teule! Anh tới đây để do thám đất nước chúng tôi! Ngay từ hôm đầu tiên tôi đã biết được điều ấy, và xin thề trước thần Uixilôpôctli, rằng nếu anh không được chọn làm thần Têcatlipôca, thì ngày mai trái tim anh đã nằm trên bàn thờ! Hãy cẩn thận và đừng khuyên tôi những lời khuyên ngu ngốc nữa, nếu không, anh sẽ phải chết sớm hơn anh tưởng. Hãy biết rằng không ngẫu nhiên tôi hỏi anh hôm nay, mà chính các vị thần sai tôi làm điều ấy. Tôi đã đọc được ý các thần trên những trái tim được đem làm vật tế hôm nay, và tôi nói chuyện với anh để anh bộc lộ hết các ý nghĩ bí mật của anh, và để bắt chúng quay lại chống chính bản thân anh. Anh khuyên tôi đánh nhau với người Teule? Thế thì tôi sẽ không đánh nhau với họ. Tôi sẽ đón họ bằng những lời nói dịu dàng và bằng quà cáp, vì biết những điều anh khuyên chỉ làm hại tôi!
Môntêzuma nói tất cả những lời này bằng giọng không to lắm, nhưng đầy vẻ giận dữ. Ông ta đứng trước tôi, hai tay khoanh trước ngực, đầu cúi thấp, người run lên lẩy bẩy. Tôi được một phen hoảng sợ thật sự. Dù là thần, nhưng tôi biết chỉ cần một cái gật đầu của ông vua trần gian này là lập tức tôi sẽ phải chết một cách đau đớn. Tuy thế, điều làm tôi ngạc nhiên nhất lúc ấy là sự ngu dốt của ông ta, một người thông minh và tỉnh táo trong những việc khác. Ông ta không tin tôi mà chỉ tin một cách mù quáng vào các vị thần đang đẩy ông ta tới chỗ chết. Nhưng vì sao? Chỉ hôm nay tôi mới tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi ấy.
Bản thân Môntêzuma không có lỗi. Định mệnh hướng dẫn mọi bước đi của ông ta. Các vị thần của Anahuac đều giả dối. Bây giờ tôi biết đằng sau các bức tượng bằng đá thô thiển và xấu xí ấy là các viên tư tế còn sống và độc ác như chính quỷ dữ. Không ngẫu nhiên chúng nói các thần thích máu đỏ của những người bị đem làm vật tế. Nhưng sự nguyền rủa đang treo ngay trên đầu chúng. Khi qua chúng, Môntêzuma hỏi ý kiến các vị thần, chúng đã khuyên ông ta những lời khuyên có hại, mang lại cái chết cho chính bản thân chúng và tất cả những người tôn thờ chúng.
Trong khi chúng tôi nói chuyện, mặt trời tắt một cách nhanh chóng, làm tất cả chìm trong bóng tối. Chỉ những đỉnh núi lửa Pôpôcatêpêcli và Ixatacxinacli phủ tuyết vẫn còn được chiếu sáng bởi cái ráng màu đỏ như máu.
Chưa bao giờ hình người phụ nữ nằm trong chiếc quan tài vĩnh cửu trên đỉnh Ixatacxinacli nổi lên rõ nét và trọn vẹn như đêm ấy. Có thể đó chỉ là trò chơi của óc tưởng tượng, nhưng rõ ràng tôi đã nhìn thấy hình một người phụ nữ khổng lồ thấm đầy máu.
Nhưng có lẽ nó không phải là óc tưởng tượng của riêng tôi, vì khi vừa ngừng lời, đôi mắt Môntêzuma ngẫu nhiên nhìn lên đỉnh núi lửa, và ông ta cũng sững sờ đứng lặng, không đủ sức nhìn đi chỗ khác.
- Teule, hãy nhìn kia! - Cuối cùng ông ta nói với nụ cười cay đắng. - Hãy nhìn kia! Linh hồn của dân tộc Anahuac đang nằm ở đấy. Nó thấm đầy máu và sắp bị đem chôn xuống đất. Anh cũng thấy rằng cả khi chết, nó cũng đáng sợ chứ?
Khi ông ta vừa nói xong và đang định quay đi, thì từ phía núi vọng lại những tiếng kêu hoang dại, khác thường và đầy đau đớn, làm máu trong người tôi đông cứng lại vì sợ. Môntêzuma hoảng hốt túm chặt tay tôi, và cả hai chúng tôi nhìn như dán mắt về phía núi Ixatacxinacli, nơi có những tiếng kêu rên khủng khiếp. Chúng tôi có cảm giác như người phụ nữ đầy máu và ngập trong ráng đỏ ấy đang đứng dậy từ chiếc quan tài bằng đá của mình. Bà ta đứng dậy từ từ như còn ngái ngủ, và cuối cùng đã đứng thẳng thành một hình người khổng lồ trên đỉnh núi. Run lên vì sợ, chúng tôi ngước mắt nhìn người phụ nữ khổng lồ đang choàng chiếc áo trắng có những vết máu thấm ấy. Trong mấy giây, bà ta đứng yên nhìn xuống Tênôctitlan. Sau đó bà ta chìa tay về phía thành phố với vẻ đầy thông cảm, nhưng chính lúc ấy, bóng đêm đã nuốt chửng bà ta, và tiếng kêu khủng khiếp tắt dần.
- Này, Teule, - Môntêzuma thì thầm nói, - phải anh thấy những điềm gở thế này hàng ngày không đáng sợ lắm sao? Tôi sợ lắm, hãy lắng nghe những tiếng rên khóc trong thành phố! ƠŒ đấy người ta cũng nhìn thấy. Anh có nghe người ta đang kêu rên vì sợ hãi không? Anh có nghe các quan tư tế đang đánh trống để xua sự nguyền rủa các của các thần khỏi chúng ta không? Khóc đi, khóc đi, hỡi đồng bào của ta! Hãy cầu nguyện đi, hỡi các quan tư tế, và hãy tăng thêm số người bị dâng làm tế vật, vì ngày chết của chúng ta đang đến gần! Hỡi Tênôctitlan, vua của tất cả các thành phố, ta đã thấy ngươi sụp đổ và bị chà đạp. Ta đã thấy các cung điện của ngươi xạm đen vì lửa cháy, các đền thờ của ngươi bị vấy bẩn, và các khu vườn xinh đẹp trở thành hoang dại. Ta đã thấy những người phụ nữ xinh đẹp của ngươi bị bắt làm nô lệ cho người ngoại tộc, và các hoàng tử con vua trở thành kẻ hầu cho chúng. Các dòng kênh của ngươi đỏ ngầu vì máu các con ngươi, và trên mặt đê đầy xương của họ. Cái chết đang hoành hành khắp nơi, miếng bánh mì ngươi ăn trở thành ô nhục, số phận của ngươi là sự tuyệt vọng. Ngươi đã nuôi ta lớn, ngươi là cái nôi che chở tổ tiên ta, hỡi Tênôctitlan, vua của tất cả các thành phố. Thế mà bây giờ ta phải nói với ngươi: vĩnh biệt, vĩnh biệt mãi mãi!
Giữa đêm tối, Môntêzuma đã đau đớn kêu to lên như thế. Cuối cùng mặt trăng tròn nhô lên sau dãy núi, ánh sáng mờ đục của nó chiếu qua các cành tùng linh treo đầy những đám dây leo như những bộ râu huyền bí. Trăng chiếu sáng thân hình cao dong dỏng của Môntêzuma, khuôn mặt méo mó vì đau khổ, và đôi tay gầy gò của ông ta, lúc đưa lên, lúc hạ xuống trong cơn tột đỉnh của tình cảm. Trăng cũng chiếu sáng các đồ trang sức trên người tôi và các nhà quý tộc, các nhạc công đang nằm yên bất động vì sợ hãi. Chỉ lần này họ mới tạm quên những chiếc sáo dai dẳng của họ. Một làn gió nhẹ thổi qua, làm lung lay tán lá.
Nhưng những điều kì lạ của đêm ấy chưa kết thúc.
Khi Môntêzuma nói xong những lời tiên tri của mình, tôi thận trọng hỏi ông ta có phải gọi các quan cận thần đến không, - những người này thường vẫn đi theo ông ta nhưng bây giờ đang ở xa đâu đó.
- Không, - Môntêzuma đáp. - Tôi không muốn họ thấy sự đau khổ và nỗi lo sợ của tôi. Họ có thể run sợ, nhưng tôi, phải tỏ ra bao giờ cũng dũng cảm. Hãy đi thêm với tôi một lát, Teule, và nếu anh có ý định giết tôi thì hãy giết đi, tôi sẽ không lấy thế làm tiếc.
Tôi không đáp gì, chỉ lặng lẽ đi theo. Ông ta đi xuống phía dưới theo một trong những con đường nhỏ rậm rạp nhất, ngoằn ngoèo qua các thân cây lớn. Nếu muốn, tôi có thể dễ dàng giết chết ông ta ở đây. Nhưng để làm gì? Vả lại dù tôi biết Môntêzuma là kẻ thù của tôi, tôi vẫn thấy ghê tởm khi nghĩ đến sự giết chóc.
Ông ta đi tiếp hơn một dặm, nhưng không nói lời nào. Chúng tôi lặng lẽ đi, lúc dưới bóng cây, lúc trong các khu vườn mọc đầy hoa kì lạ, cho tới khi gặp một chiếc cổng lớn, phía sau là nơi chôn giữ hài cốt của gia đình vua. Ngay trước cổng là một con đường rộng được ánh trăng chiếu sáng. Chính giữa đường có một vật gì đó trăng trắng đang nằm, trông xa như thân hình một người phụ nữ, nhưng chỉ một mình tôi nhìn thấy. Không thấy gì xung quanh, Môntêzuma chăm chú nhìn lên cánh cổng, cuối cùng ông ta nói:
- Cách đây bốn ngày cánh cổng này đã mở để đón em gái tôi là Papanxin. Tôi nghĩ chỉ ít ngày nữa nó sẽ mở cho tôi.
Trong lúc ông ta nói, hình người trên cỏ động đậy như thể vừa tỉnh dậy khỏi giấc ngủ. Rồi giống người phụ nữ bằng tuyết trên núi, nó cũng đứng thẳng toàn thân, và cũng chìa hai tay về phía trước. Lúc này Môntêzuma đã nhìn thấy và run bắn lên. Tôi cũng thấy khắp người ớn lạnh.
Người phụ nữ, - vâng, đó chính là một người phụ nữ, - từ từ tiến lại, và chúng tôi đã có thể nhìn thấy bà ta đang mặc bộ quần áo người chết. Bà ta ngẩng đầu, để ánh trăng soi vào mặt. Môntêzuma kêu thét lên kinh hãi, tôi cũng kêu to theo ông: đó là khuôn mặt nhợt nhạt của Papanxin, người đã bị chôn ở đây bốn ngày trước đó.
Bước từng bước nhẹ nhàng và lặng lẽ như trong giấc mơ, bà ta đi lại gần và dừng lại trước bụi cây có bóng đang che khuất chúng tôi. Sau đó Papanxin, - hay là linh hồn của bà ta, - nhìn thẳng vào chúng tôi bằng đôi mắt mở to, rồi nói:
- Môntêzuma, anh đấy à? Tôi biết anh đang ở gần, nhưng không nhìn thấy.
Môntêzuma liền bước ra khỏi bóng cây, mặt đối mặt với bà ta.
- Ngươi là ai? - Ông ta hỏi. - Ngươi là ai mà mang quần áo người chết thế này?
- Tôi là Papanxin. Tôi về đây từ thế giới của người chết để mang đến cho ông một vài tin tức.
- Cô mang đến cho tôi tin gì?
- Tin về cái chết, Môntêzuma. Vương quốc của ông sẽ sụp đổ, chẳng bao lâu nữa ông sẽ chết, và cùng chết với ông là hàng trăm nghìn người khác dưới quyền ông cai trị. Tôi đã ở thế giới những người chết bốn ngày, và ở đấy tôi đã thấy các vị thần giả dối của chúng ta. Đó không phải là thần mà là những con quỷ! Dưới ấy tôi cũng gặp những người tôn thờ các vị thần giả dối đó. Gặp các nhà tư tế phụng sự chúng. Tất cả những người này đều phải chịu những sự đau đớn không sao chịu nổi. Dân tộc Anahuac sẽ phải chết, vì nó đã tôn thờ quỷ dữ làm thần!
- Papanxin, em gái của tôi, lẽ nào cô không có một tin gì an ủi cho tôi sao?
- Không, - Papanxin đáp. - Nếu từ bỏ các vị thần giả dối của anh, có thể anh sẽ cứu được linh hồn mình, nhưng cuộc đời anh và cuộc đời dân tộc anh thì không cách nào cứu được.
Sau đó Papanxin quay đi, đứng lẫn trong bóng cây. Tôi nghe tiếng bộ quần áo chết chóc của bà ta sột soạt trên cỏ.
Một cơn giận điên khùng bỗng ập đến với Môntêzuma.
- Thế thì mày cũng đáng nguyền rủa, em gái Papanxin của ta ạ! - Ông ta quát to. - Mày trở về từ cõi chết để làm gì? Không lẽ chỉ để mang lại những tin tức đau buồn ấy cho ta? Nếu mày mang lại hi vọng hay chỉ cho ta đường thoát, ta sẽ vui mừng chào đón mày. Còn bây giờ thì hãy quay về với bóng tối, và cầu mong toàn bộ sức nặng của trái đất sẽ đè lên trái tim mày vĩnh viễn! Còn các vị thần của ta thì... tổ tiên ta thờ họ, ta sẽ thờ họ đến cùng. Cả khi họ ruồng bỏ ta, ta cũng không bỏ họ! Các vị thần đang giận dữ vì trên bàn thờ có ít vật tế. Từ nay ta sẽ tăng gấp đôi! Ta sẽ ra lệnh đặt lên bàn thờ trái tim tất cả những người làm nghề tư tế, vì họ không làm các thần hài lòng!
Môntêzuma giận dữ khôn cùng, như một người yếu đuối đang điên lên vì kinh sợ. Đám người hầu và các quan cận thần đang ở xa, bây giờ kéo đến đứng quanh, ngạc nhiên và khiếp sợ.
Cuối cùng, Môntêzuma cởi bỏ quần áo đang mặc, và vừa nhổ tóc, nhổ râu, vừa co quắp lăn trên mặt đất. Đám người hầu ôm lấy ông ta, mang vào lâu đài.
Ba ngày ba đêm liền không ai nhìn thấy vua. Tuy nhiên, những gì ông ta nói về việc tế thần không phải là lời nói suông, vì từ sáng hôm sau số lượng những người bị giết để tế thần tăng gấp đôi trong cả nước. Bóng chiếc thánh giá của người Tây Ban Nha đã rơi lên bàn thờ Anahuac, nhưng ngọn khói tế thần vẫn nghi ngút bay cao, và từ các đỉnh kim tự tháp vẫn vọng lại tiếng thét thê thảm của những tù nhân bị giết. Giờ phút cuối cùng của các vị thần quỷ dữ đã điểm, chúng vẫn tiếp tục gặt hái vụ mùa đẫm máu của chúng.
Tôi, Tômax Uyngfin, tôi đã được tận mắt nhìn thấy những điềm báo trước ấy, nhưng đó là điềm báo trước của thần thánh, hay chỉ là các hiện tượng thiên nhiên bình thường, - tôi không dám nói. Những ngày ấy toàn đất nước Anahuac chìm ngập trong không khí kinh hoàng, và dễ hiểu khi đầu óc đã cuồng loạn, con người sẽ cho là điềm gở những cái mà vào những thời điểm bình thường khác, họ hoàn toàn không chú ý.
Còn về sự sống lại của Papanxin thì đúng là có thật. Có thể trước đó bà ta chưa chết, mà bị đem chôn khi chỉ ngất đi. Sau đêm ấy bà ta không xuất hiện nữa, bản thân tôi cũng chẳng thấy lại lần nào. Tuy nhiên, người ta có nói với tôi rằng sau này Papanxin đã nhập đạo Giatô, và thường kể về những điều kì lạ bà ta được nhìn thấy ở thế giới của người chết (Câu chuyện về sự sống lại của Papanxin được ghi trong cuốn sử của Becnađinô đơ Xaagun, một trong những nhà viết sử đầu tiên của Tây Ban Nha ở Nam Mỹ.)
XVIII
CHỌN VỢ 
Từ ngày tôi thành thần Têcatlipôca cho đến khi người Tây Ban Nha đặt chân tới Tênôctitlan là một quãng thời gian mấy tháng, và trong quãng thời gian ấy, toàn thành phố đầy rẫy các sự cố lo lắng. Môntêzuma liên tiếp cho người mang quà, vàng bạc và đá quý tới gặp Côrtex, yêu cầu hắn rút lui. Ông vua đã hóa điên này không hiểu một điều đơn giản rằng càng tỏ ra giàu có bao nhiêu, chỉ càng kích thích và lôi kéo kẻ cướp vào nhà mình bấy nhiêu.
Côrtex khôn khéo tiếp các sứ thần của ông ta bằng những lời hứa suông lịch sự, và tặng lại những đồ chơi vặt vãnh. Chỉ thế thôi.
Người Tây Ban Nha ngày một tiến sâu vào nội địa đất nước, và Môntêzuma đã thất kinh khi nghe tin bộ lạc Tlatxcalan hiếu chiến bị đánh bại. Tlatxcalan là kẻ thù cố hữu của Môntêzuma, nhưng cho đến lúc ấy nó là vật ngăn cách giữa người Aztec và người da trắng xâm lược. Sau đó có tin những người Tlatxcalan bị đánh bại ấy thành đồng minh và chư hầu của người Tây Ban Nha, và bây giờ hàng nghìn chiến binh Tlatxcalan hùng mạnh đang cùng với quan thầy của chúng tấn công thành Sôlulu thiêng liêng. Một thời gian sau lại có tin đồn khắp nơi về sự chém giết đẫm máu ở Sôlulu và rằng những người chiến thắng đã xô đổ tất cả các thần của thành phố ấy.
Người ta kể cho nhau nghe đủ các điều kì diệu về người Tây Ban Nha, về sức mạnh và sự dũng cảm của họ, về những chiếc áo đâm không thủng, về cái thứ vũ khí thét ra lửa và kêu to như sấm, và về những con thú khủng khiếp mà họ cưỡi. Một hôm có người mang đến cho Môntêzuma đầu hai người da trắng bị giết trong một trận đánh. Đó là hai chiếc đầu to lớn, tóc xù một cách đáng sợ, và cùng với chúng là đầu một con ngựa. Vừa nhìn thấy, Môntêzuma suýt ngất vì sợ, nhưng vẫn ra lệnh đưa chúng đặt trong ngôi đền thờ lớn cho mọi người xem, và tuyên bố kẻ nào dám đặt chân tới Anahuac sẽ phải chịu một số phận tương tự.
Trong khi đấy, công việc của quốc gia thì hỗn độn và rối mù lên. Hàng ngày diễn ra các cuộc họp của các hội đồng quý tộc, đại tư tế và thủ lĩnh các bộ lạc láng giềng thân thiện. Người nói thế này, kẻ nói thế khác, cuối cùng chỉ còn lại sự thiếu tự tin và sự do dự tội lỗi. Nếu lúc ấy Môntêzuma nghe theo lời khuyên của Guatêmôc, một vị tướng vĩ đại, thì Anahuac đã không lọt vào tay người Tây Ban Nha, vì Guatêmôc đã nhiều lần thuyết phục Môntê- zuma gạt bỏ mọi sự sợ hãi để chủ động tấn công chúng, chừng nào chưa muộn. Trao đổi sứ thần và quà cáp như thế đã quá đủ! Cần tập hợp đội quân đông đảo của người Aztec lại và tiêu diệt quân thù trong các hẻm núi!
Nhưng than ôi, đáp lại mọi lời khuyên của Guatêmôc bao giờ Môntêzuma cũng nói:
- Tất cả những điều ấy cũng vô ích thôi, cháu ạ. Làm sao có thể chống lại những con người ấy, khi họ được chính các thần ủng hộ? Nếu muốn, các thần sẽ giúp ta, còn nếu không thì ta sẽ chết! Ta không nghĩ về bản thân ta, nhưng đồng bào ta sẽ thế nào? Chuyện gì sẽ xảy ra với phụ nữ và trẻ em, chuyện gì sẽ xảy ra với người ốm yếu và già cả? Tai họa, tai họa đang đến với ta! - Rồi ông đưa hai tay ôm mặt, bắt đầu than khóc như đứa trẻ. Guatêmôc bỏ đi, không nói được lời nào vì tức giận khi thấy một ông vua vĩ đại mà ngu ngốc như thế. Nhưng chàng có thể làm gì hơn? Như tôi, Guatêmôc cho rằng chính trời bắt Môntêzuma hóa điên để trừng phạt Anahuac.
ƠŒ đây cần nói thêm rằng cái địa vị thần thánh quả có cho phép tôi biết và nhìn thấy tất cả mọi điều, nhưng dù sao, tôi, Tômax Uyngfin, vẫn chỉ là một con rối đáng thương bị lôi cuốn vào dòng chảy của các sự kiện vĩ đại mà trong vòng hai thế hệ tiếp theo đã xóa khỏi mặt đất quốc gia vĩ đại của người Aztec. Vâng, tôi chỉ là thứ đồ chơi được đẩy lên đỉnh ngọn sóng ấy, và quyền lực của tôi cũng chỉ là cái quyền lực của bọt sóng. Môntêzuma xem tôi là một tên thám báo và không tin bất kì điều gì tôi nói. Các quan tư tế thì một lúc nhìn tôi như nhìn một vị thần và là một vật tế tương lai. Chỉ Guatêmôc, bạn tôi và Ôtômi, người đang thầm yêu tôi vẫn tin tôi, và với họ, tôi thường nói chuyện về nhiều điều, giải thích cho họ biết bản chất những gì đang xảy ra trước mắt. Nhưng cả hai người này cũng bất lực.
Để mất trí khôn, Môntêzuma vẫn nắm giữ quyền lực của mình, và bằng cánh tay run rẩy, ông ta lái con tàu quốc gia lúc nghiêng bên này, lúc nghiêng bên nọ.  Tôi có cảm giác như tất cả các thủy thủ đã rời bỏ con tàu ấy, để nó tự nhiên lao thẳng vào cái chết.
Nỗi kinh sợ những gì sắp xảy ra bao trùm lên tất cả, không trừ một ai. Tuy vậy, - mà cũng có thể chính vì thế, - mọi người tìm đủ cách hưởng thụ càng nhiều càng tốt, chỉ trừ những lúc phải tạm nghỉ để tiến hành các nghi lễ tôn giáo. Vào thời gian này không ai bỏ qua một ngày lễ nào, không một bàn thờ nào trống rỗng. Như dòng sông chảy nhanh khi gần tới thác, thấy trước cái chết sắp đến, người dân Aztec như chợt tỉnh dậy sau giấc ngủ, đang cố sống gấp một cuộc sống căng thẳng, dồn dập. Từ sáng đến tối trên đỉnh các kim tự tháp vang lên tiếng kêu của những người bị giết, và từ chập tối đến sáng, các đường phố ngập trong tiếng nhạc chói tai, hoang dã. “Các vị thần ngoại bang đang tấn công chúng ta, - người ta nói với nhau như thế. - Hãy uống đi, ăn đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết!”. Và thế là những người đàn bà chính chuyên nhất bắt đầu lao vào con đường trụy lạc, những người đàn ông trang nghiêm nhất, vẫn quý trọng danh dự bộ lạc mình bỗng trở thành những kẻ đểu giả, và thậm chí trẻ con những ngày ấy cũng say rượu đi lang thang giữa phố, dù trước đó điều này đối với người Aztec là một tội lỗi không tha thứ được!
Môntêzuma rời bỏ ngọn đồi Sapuntêpêc, để cùng tất cả triều đình dọn đến ở trong một lâu đài trên quảng trường rộng đối diện với kim tự tháp lớn nhất. Có thể gọi lâu đài này là thành phố trong lòng một thành phố khác. Dưới các mái nhà của nó đêm đêm tập trung hơn một nghìn người, đấy là chưa kể các loại người lùn và tàn tật, hàng trăm loại chim quý trong các lồng nuôi chim và rất nhiều thú dữ được nhốt trong chuồng. ƠŒ đây, ở lâu đài này, tôi tiệc tùng hàng ngày với bất kì ai tôi muốn, và khi chán tiệc tùng, tôi lại khoác lên người bộ quần áo lấp lánh. Với sự tháp tùng của một đám đông người hầu trẻ tuổi và các nhà quý tộc danh giá, tôi đi ra phố, vừa đi vừa chơi chiếc đàn thụ cầm của người Aztec (trong một chừng mực nào đó tôi đã biết chơi thứ đàn đáng ghét này). Dân chúng vừa kêu vừa chạy ra khỏi nhà, cúi rạp trước tôi, trẻ con ném hoa xuống chân tôi, các cô gái vừa nhảy múa xung quanh, vừa hôn tay chân tôi, và rồi một lát sau đi theo tôi là cả đám đông hàng nghìn người. Cả tôi cũng nhảy múa và kêu thét như một thằng điên, vì vào những ngày ấy, giữa không khí cuồng loạn chung, tôi cảm thấy như tôi bị điên thật sự. Tôi cố xua tan nỗi sợ, tôi muốn quên đi việc tôi sẽ bị đem làm vật tế thần, và rằng hàng ngày mũi dao đẫm máu đang xích lại gần trái tim tôi.
Tôi muốn quên đi tất cả, nhưng than ôi, đó là điều không thể làm nổi. Uống rượu mêxcalipunkê nhiều đến đâu, đầu tôi vẫn tỉnh táo. Các vòng hoa, các cô gái xinh đẹp, và sự tôn sùng của dân chúng chẳng còn làm tôi quan tâm. Ý nghĩ về cái chết cứ dai dẳng bám theo tôi, tôi buồn rầu nhớ lại ngôi nhà tổ tiên và cô gái tôi yêu quý. Những lúc ấy tôi tưởng trái tim tôi sẽ không chịu thêm được nữa, và nếu không có lòng tốt của nàng Ôtômi, có lẽ tôi đã tìm cách tự sát. Người con gái xinh đẹp và cao quý của vua Môntêzuma bao giờ cũng ở cạnh tôi. Nàng tìm trăm nghìn cách khác nhau để làm tôi vui, và thỉnh thoảng từ đôi môi nàng, tôi nghe những lời không rõ về cuộc sống, và hi vọng, làm máu trong người tôi lại chảy mạnh.
Tôi muốn nhắc lại rằng lần đầu gặp Ôtômi trong cung vua Môntêzuma, tôi thấy nàng đẹp và rất hấp dẫn. Nhưng bây giờ, dù vẫn thấy nàng xinh đẹp như thế, trong trái tim khô cứng vì sợ hãi của tôi không còn chỗ cho những tình cảm âu yếm đối với Ôtômi hay bất cứ người đàn bà nào khác. Khi tôi không bị say vì rượu hay vì sự sùng bái của đám đông, tất cả các ý nghĩ của tôi đều hướng lên trời cao: tôi muốn làm dịu bớt tâm hồn tôi, là điều hóa ra không phải dễ.
Tôi thường nói chuyện với Ôtômi, kể cho nàng nghe về tôn giáo của chúng ta và về nhiều chuyện khác như có thời tôi từng kể cho Marina, nghe nói bây giờ cô ta là tình nhân và là phiên dịch của Côrtêx, người cầm đầu bọn Tây Ban Nha. Ôtômi chăm chú lắng nghe, không rời đôi mắt dịu dàng của nàng khỏi tôi, nhưng không hơn, vì ngoài xinh đẹp và dũng cảm, nàng còn là một trong những người phụ nữ khiêm tốn và ý tứ nhất.
Cảnh sống ấy kéo dài cho đến lúc người Tây Ban Nha từ Sôlulu kéo quân tới Tênôctitlan.
Một buổi sáng nọ, tôi ngồi trong vườn, chiếc đàn cầm tay. Trong đám tuỳ tùng của tôi, các nhà quý tộc và các thầy dạy học đang trò chuyện điều gì rất sôi nổi, cách xa tôi một quãng. Từ chỗ đang ngồi, tôi nhìn thấy chiếc sân nơi hàng ngày vua họp hội đồng cố vấn. Đồng thời tôi cũng nhận thấy khi các thủ lĩnh rút lui, các quan tư tế bắt đầu kéo vào sân, sau đó xuất hiện một tốp các cô gái xinh đẹp có một vài bà lớn tuổi đi theo.
Hoàng thân Guatêmôc xuất hiện và đi lại gần tôi. Thời gian gần đây chàng ít cười, nhưng hôm nay Guatêmôc đã cười và hỏi tôi có biết điều gì đang xảy ra không. Tôi đáp tôi không biết và không muốn biết, chắc Môntêzuma đang chuẩn bị “quà” mới cho các ông chủ Tây Ban Nha của mình.
- Hãy suy nghĩ kĩ những điều anh đang nói, Teule! - Guatêmôc bực mình nói. - Thậm chí anh nói đúng, tôi cũng bắt anh phải nuốt lại lời nói của anh và không được quên rằng anh là thần Têcatlipôca. Chỉ tình yêu của tôi mới cứu nổi anh.
Sau đó, nguôi nguôi một chút, chàng nói tiếp:
- Than ôi, sự điên rồ của ông bác tôi đã dẫn tới việc người ta có thể nói những câu như thế. Chao, giá tôi là vua của đất nước Anahuac! Chưa đầy một tuần, đầu của tất cả những tên Teule ở Sôlulu sẽ được trang điểm cho mái nhà của đền thờ kia!
- Hãy suy nghĩ kĩ những điều anh đang nói, - thưa hoàng thân, - tôi giễu cợt đáp lại. - Nếu có ai nghe những lời anh nói, thì anh sẽ buộc phải nuốt lại chúng. Sẽ có lúc anh là vua, để lúc ấy xem anh đánh nhau với bọn Teule thế nào. Ít ra người khác sẽ được chứng kiến điều ấy, còn tôi thì sắp chết. Nhưng chuyện gì xảy ra đằng kia thế? Hay Môntêzuma đang chọn vợ mới cho ông ta?
- Vâng, ông ta chọn vợ, nhưng không phải cho ông ta. Teule, đừng quên rằng anh không được sống bao lâu nữa. Vì vậy Môntêzuma cùng các quan tư tế đang chọn xem ai sẽ là vợ của anh.
- Vợ của tôi? - Tôi kêu lên kinh ngạc. - Vợ của người sắp chết? Bây giờ tôi cần gì đến tình yêu và vợ con! Một vài tuần nữa bàn thờ tế thần sẽ là giường cưới của tôi. Ôi, Guatêmôc, anh nói anh yêu tôi. Tôi đã cứu anh sống. Nếu yêu tôi, anh hãy cứu tôi đi. Anh đã thề sẽ làm điều đó.
- Tôi đã thề sẽ làm tất cả những gì tôi có thể làm, và sẵn sàng hi sinh vì anh, Teule. Tôi sẽ giữ đúng lời thề đó, vì không phải ai cũng đánh giá cao cuộc sống như anh, anh bạn ạ. Nhưng dù sao tôi vẫn bất lực không giúp anh được. Anh sẽ phải làm vật tế cho các thần, và dù tôi có chết một nghìn lần, cũng chẳng thay đổi được điều đó. Chỉ có trời mới cứu nổi anh, nếu muốn, vì vậy hãy tự an ủi mình, Teule, và đến giờ phải chết hãy chết một cách dũng cảm. Số phận anh chẳng thua kém gì số phận tôi, vì chúng ta ai cũng phải chết. Còn bây giờ thì tạm biệt!
Khi Guatêmôc đi khỏi, tôi rời khu vườn trở về phòng mình, nơi tôi thường tiếp những người tới khấn thần Têcatlipôca, tức là tôi. Tôi ngồi xuống ngai vàng của tôi và chìm ngập trong khói thuốc lá. Thật may tôi được ở một mình. Nếu không được tôi cho phép, chẳng ai dám vào đây.
Viên phụ trách đám người hầu của tôi đến báo có người muốn nói chuyện với tôi. Tôi đang quá mệt mỏi vì suy nghĩ nhiều và đang muốn được khuây khỏa bằng cách nào đó, nên đã gật đầu ra hiệu đồng ý. Người hầu đi ra, và trước tôi xuất hiện một người đàn bà quàng khăn kín người. Tôi ngạc nhiên nhìn cô ta, ra lệnh cởi khăn che mặt. Cô ta làm theo, và tôi đã nhận ra đó là công chúa Ôtômi.
Không hiểu chuyện gì đã xảy ra, tôi đứng dậy đi về phía nàng. Thông thường nàng chẳng bao giờ đến tìm tôi một mình, nhưng lúc ấy, tôi nghĩ có thể nàng có việc cần gặp tôi, hay đang thực hiện một nghi lễ nào đó mà tôi không biết.
- Mời anh cứ ngồi, - Ôtômi lúng túng nói. - Với tư cách anh, anh không được đứng trước mặt tôi.
- Vì sao? - Tôi hỏi. - Thậm chí nếu không kính trọng cô với tư cách là công chúa, tôi vẫn phải nghiêng mình trước vẻ đẹp của cô.
- Nói thế đủ rồi, - Ôtômi ngắt lời tôi bằng cái phẩy tay mềm mại. - Theo một phong tục cổ xưa, tôi đi tới đây vì có tin tức cho anh. Người ta đã chọn xong ai sẽ là vợ của anh. Tôi sẽ đọc tên từng người cho anh biết.
- Đọc đi, Ôtômi!
- Những người này là... - rồi nàng nói tên ba cô gái. Tôi biết họ là những cô gái xinh đẹp nhất trong nước.
- Tôi tưởng bốn người cơ mà? - Tôi hỏi với nụ cười cay đắng. - Hay người ta tước bà vợ thứ tư rồi?
- Vâng, bốn người, - Ôtômi đáp và lại im lặng.
- Thế thì nói đi! - Tôi kêu lên. - Hãy nói đi, người ta chọn một cô gái bất hạnh nào nữa để làm vợ tôi, người sắp sửa bị đem làm vật tế thần?
- Đó là một cô gái thuộc dòng dõi cao quý, có những tước vị còn cao hơn những tước vị anh có thể cho cô ta.
Tôi nhìn nàng vẻ dò hỏi, Ôtômi lại nói:
- Người thứ tư và cũng là người đầu tiên trong số họ là tôi, Ôtômi, con gái của vua Môntêzuma, công chúa của bộ lạc Ôtômi.
- Cô à? - Tôi ngạc nhiên kêu lên rồi ngã người xuống đống gối. - Không lẽ lại chính là cô?
- Vâng, tôi. Anh hãy nghe tôi nói! Các quan tư tế đã chọn tôi như cô gái xinh đẹp nhất Anahuac, mặc dù tôi chưa xứng đáng được gọi là thế. Bố tôi vô cùng tức giận, nói không có gì trên đời có thể bắt được con gái ông thành vợ một tù nhân sắp phải chết trên bàn thờ tế thần. Nhưng các quan tư tế đáp lại rằng lúc này, khi các thần đang tức giận, vua không được đòi ngoại lệ cho con gái mình. “Lẽ nào người đàn bà danh giá nhất nước không xứng đáng làm vợ một vị thần?” - họ hỏi thế. Bố tôi đành đồng ý, và nói tùy tôi quyết định. Theo các quan tư tế, tôi đáp rằng trong những ngày đau buồn này cả người đàn bà kiêu hãnh nhất cũng phải nhẫn nhục để thành vợ một tù nhân nô lệ được gọi là thần và sắp bị đem làm vật tế. Thế là tôi, công chúa Ôtômi, đồng ý làm vợ anh!
Nhưng nếu lúc ấy tôi biết được những gì tôi đọc thấy trong mắt anh bây giờ, có lẽ tôi đã không đồng ý. Trong cái nhục của mình, tôi hi vọng kiếm được tình yêu, dù trong chốc lát, để sau đó được chết cùng anh trên bàn thờ, và theo phong tục chúng tôi, nếu muốn, tôi có quyền làm thế. Tuy nhiên, hình như anh không lấy thế làm vui. Bây giờ mà rút lui thì đã muộn, nhưng anh đừng lo. Anh còn có các bà vợ khác, tôi sẽ không quấy rầy anh. Tôi đã nói hết tất cả những gì phải nói. Bây giờ tôi có thể lui ra được chứ? Thưa thần Têcatlipôca, mười hai ngày nữa lễ cưới sẽ được tiến hành trọng thể!
Ngồi dậy khỏi đống gối, tôi cầm tay Ôtômi và nói:
- Cảm ơn cô, cô Ôtômi cao thượng. Nếu không có cô và Guatêmôc, nếu không có lòng nhân từ và sự chăm sóc của cô và hoàng thân, chắc chắn tôi đã chết từ lâu. Cô còn muốn an ủi tôi cho tới phút cuối cùng, và nếu tôi hiểu đúng, thậm chí cô quyết định sẽ chết cùng tôi. Nhưng hãy nói tôi biết, Ôtômi, vì sao cô làm thế? ƠŒ đất nước chúng tôi, chỉ khi yêu người đàn ông hết sức say đắm, người đàn bà mới quyết định chia sẻ với anh ta cái số phận như số phận đang chờ tôi trên bàn thờ tế thần. Tôi không hiểu vì sao một người như cô, xứng đáng làm vợ bất kì bậc vua chúa nào, lại có thể đem trái tim mình trao cho một tên nô lệ đáng thương. Tôi phải hiểu những lời cô nói thế nào, Ôtômi?
- Hãy tìm câu trả lời trong trái tim anh, - Ôtômi khẽ nói, tay nàng run run trong tay tôi.
Tôi nhìn nàng: nàng thật xinh đẹp! Tôi chợt nghĩ về sự chung thủy của nàng, về lòng dũng cảm không chịu lùi bước trước cái chết kinh khủng nhất, và hơi thở của sự dịu dàng ấy đã chạm vào tâm hồn tôi. Nhưng thậm chí cả vào giây phút ấy, trước mặt tôi vẫn hiện lên một khu vườn ở nước Anh, hình bóng một cô gái Anh mà tôi chia tay dưới gốc sồi ở Đichchingham, và tôi lại nhớ tới những gì chúng tôi đã thề với nhau. Tôi biết cô gái ấy còn sống, đang chờ tôi, và tôi nghĩ chừng nào chưa chết, tôi cũng phải trung thành với cô gái ấy. Tôi buộc phải cưới những cô gái da đỏ này làm vợ, nhưng nếu dù chỉ một lần tôi nói với Ôtômi rằng tôi yêu nàng, nghĩa là tôi đã phản bội lời thề. Mà Ôtômi thì chỉ cần tình yêu chứ không cần gì khác. Mặc dù miếng mồi hấp dẫn đến đâu, và tôi có xúc động bao nhiêu chăng nữa, tôi vẫn không nói với nàng những lời nàng chờ đợi.
- Ngồi xuống, Ôtômi, - tôi nói. - Hãy ngồi xuống và lắng nghe tôi nói. Cô nhìn thấy cái nhẫn vàng này chứ?
Tôi tháo chiếc nhẫn của Lyly khỏi ngón tay và đưa cho nàng xem:
- Cô có nhìn thấy những dòng chữ khắc phía trong không? Ôtômi gật đầu, nhưng không nói lời nào. Tôi thấy đôi mắt nàng lộ vẻ sợ hãi.  
- Để tôi đọc cô nghe, Ôtômi, - rồi tôi dịch sang tiếng Aztec hai câu thơ cảm động:
Dù chúng ta ở đâu,  
    Trái tim vẫn bên nhau.
Chỉ lúc ấy Ôtômi mới lên tiếng, nói:
- Những dòng chữ này nghĩa là gì? Tôi chỉ hiểu các chữ tượng hình của chúng tôi thôi.
- Ôtômi, nó có nghĩa là ở một đất nước xa xôi nơi tôi ra đi để tới đây, có một cô gái. Cô ta yêu tôi và tôi yêu cô ta.
- Nghĩa là cô ta là vợ của anh.
- Không, Ôtômi, cô ta chưa là vợ của tôi, nhưng đã hứa sẽ lấy tôi làm chồng.
- Cô ta hứa sẽ là vợ của anh, - Ôtômi buồn bã nhắc lại. - Nghĩa là cũng giống như tôi bây giờ. Trong việc này tôi và cô ta như nhau, Teule. Khác chăng chỉ ở chỗ anh yêu cô ta mà không yêu tôi. Anh muốn nói thế chứ gì? Nếu vậy, đừng nói nữa vô ích, - tôi đã hiểu tất cả. Nhưng nếu tôi đã để mất anh, thì cô ta cũng để mất anh. Giữa cô ta và anh là đại dương mênh mông, là bàn thờ tế thần và cái chết đau đớn. Còn bây giờ thì hãy để tôi đi, Teule. Tôi sẽ phải thành vợ anh, điều ấy không thể tránh khỏi, nhưng tôi không quấy rầy anh đâu, vả lại chẳng bao lâu nữa tất cả sẽ kết thúc. Anh sẽ làm đường đi tới Ngôi nhà của Mặt trời. Còn tôi sẽ cầu nguyện để anh gặp được trên ấy những gì anh muốn gặp. Những tháng qua tôi đã cố nhen lên trong anh tia hi vọng, cố tìm lối thoát cho anh, và tôi nghĩ hình như tôi đã tìm thấy. Nhưng hóa ra tôi nhầm, và bây giờ tất cả đều kết thúc. Nếu anh chân thành nói rằng anh yêu tôi, điều đó sẽ tốt hơn cho cả hai ta; và nếu anh nói lời ấy vào giờ phút cuối cùng, có thể vẫn còn tốt cho ta, nhưng tôi không yêu cầu anh làm thế, tôi không cần sự giả dối! Bây giờ tôi đi, Teule, nhưng trước khi đi, tôi muốn nói rằng lúc này tôi còn kính trọng anh hơn trước vì anh đã dũng cảm nói thẳng tất cả sự thật với tôi, con gái của vua Môntêzuma, khi anh có thể dễ dàng nói dối và anh sẽ được an toàn hơn. Cô gái bên kia đại dương chắc rất biết ơn anh. Tôi không mong cho cô ta điều gì xấu, nhưng từ nay giữa cô ta và tôi là một sự thù địch suốt đời. Tôi và cô ta là những người xa lạ và sẽ mãi mãi là người xa lạ, nhưng cô ta đã chạm vào tay anh như bây giờ tôi đang chạm tay anh. Anh đã nối liền chúng tôi với nhau và biến chúng tôi thành những kẻ tử thù. Tạm biệt người chồng chưa cưới của tôi! Chúng ta sẽ không gặp nhau cho tới khi “cô gái tội nghiệp” bị bắt làm vợ “một tên nô lệ đáng thương”: tự anh nói như thế, Teule!
Nói rồi Ôtômi đứng dậy, quấn khăn kín người và mặt, rồi thong thả bước ra khỏi phòng, để tôi ở lại một mình trong trạng thái vô cùng bối rối. Chỉ những thằng ngốc mới từ chối tình yêu của một cô gái như Ôtômi và bây giờ tôi đang bị giày vò vì hối hận. Tôi tự hỏi mình: liệu Lyly có thể hạ mình từ độ cao của sự vĩ đại như thế, có thể vứt bỏ bộ quần áo vua chúa để nằmcạnh tôi trên cái thớt chém tế thần hay không? Có lẽ không, vì không thể có một sự tự hi sinh man dại như thế ở những người phụ nữ của thế giới chúng ta. Chỉ những người con gái của Mặt trời mới có thể yêu mãnh liệt và cũng căm ghét mãnh liệt nhường ấy. Khát vọng và tình cảm là điều duy nhất thiêng liêng mà họ tin theo một cách mù quáng. Để thỏa mãn tình cảm của mình, họ sẵn sàng hi sinh thân mình, sẵn sàng đi tới cái chết.
XIX
BỐN NỮ THẦN
Một thời gian nữa trôi qua, cuối cùng đã đến ngày Côrtex cùng đoàn quân xâm lược của hắn đặt chân lên đất Tênôctitlan. Tôi sẽ không kể ở đây tất cả những gì người Tây Ban Nha đã gây nên ở thành phố ấy, vì đó là việc của nhà viết sử, mà tôi thì chỉ muốn nói về câu chuyện của chính bản thân tôi.
Tôi không được tận mắt thấy Côrtex và Môntêzuma gặp nhau thế nào. Tôi chỉ thấy ông ta mặc bộ quần áo sang trọng nhất và ra đi cùng với đám cận thần quý tộc, chẳng khác gì vua Xôlômông đang ở lúc vinh quang tột độ. Tuy thế, tôi nghĩ không một người nô lệ nào bị dẫn đến bàn thờ tế thần lại có thể buồn bã như Môntêzuma vào cái ngày bất hạnh ấy. Sự quẫn trí đã làm hại ông ta, có lẽ ông ta cũng tự hiểu ông ta đang đi tới cái chết.
Sau đó, vào buổi chiều, tôi lại nhìn thấy Môntêzuma. Người ta khiêng ông ta trên chiếc kiệu bằng vàng đi về phía cung điện do bố ông ta là Ahaiacatli dựng nên cách cung điện của Môntêzuma khoảng năm trăm bước. Tiếp sau đó tôi nghe có tiếng kêu của đám đông, tiếng ngựa hí, tiếng nói của những tên lính vũ trang, và từ phòng mình tôi đã nhìn thấy những người Tây Ban Nha đang đi dọc theo phố chính. Trái tim tôi đập rộn lên sung sướng, vì dù sao đó cũng là những người theo đạo Thiên chúa!
Cưỡi ngựa đi đầu là Côrtex, thủ lĩnh đội quân Tây Ban Nha. Hắn mang áo giáp và khí giới sang trọng, người tầm thước, vẻ quý phái, đôi mắt trầm tư nhưng vẫn có vẻ láu lỉnh. Theo sau hắn còn có mấy người cưỡi ngựa, nhưng phần lớn binh lính của đội quân ít ỏi của hắn đều đi bộ. Chúng vừa ngơ ngác nhìn xung quanh, vừa nói chuyện với nhau bằng tiếng Tây Ban Nha. Đứa nào mặt cũng rám nắng, phần lớn bị thương trong các trận đánh và hầu như tất cả ăn mặc đều rách rưới. Nhìn những con người được trang bị đơn sơ này, tôi khâm phục sự dũng cảm của họ, vì họ đã dám bất chấp bệnh tật và các cuộc giao tranh liên tiếp mở đường xuyên qua cả đội quân hàng nghìn người của kẻ thù để tới tận trái tim của vương quốc Anahuac này.
Đi cạnh Côrtex, một tay cầm cương ngựa cho hắn là một cô gái da đỏ xinh đẹp, mặc áo trắng, đầu đội một vòng hoa. Khi đi ngang qua lâu đài, cô ta ngoái lại nhìn, lập tức tôi nhận ra đó là Marina, người bạn cũ của tôi. Cô ta đã mang lại cho đất nước mình muôn nghìn tai họa, nhưng hình như cô ta vẫn cảm thấy hạnh phúc vì được sưởi ấm bằng vinh quang và tình yêu của Côrtex.
Khi bọn người Tây Ban Nha đi ngang, tôi chăm chú quan sát khuôn mặt chúng với một hi vọng mơ hồ và độc ác. Tất nhiên có thể bị cái chết cản trở, nhưng tôi hầu như vẫn tin một cách chắc chắn rằng tôi sẽ nhìn thấy kẻ thù của tôi trong số chúng. Bản năng thầm nhắc tôi rằng hắn còn sống, và tôi biết hễ có điều kiện là Gacxia sẽ tham gia cuộc viễn chinh này, vì mùi máu, vàng và cướp bóc nhất định sẽ lôi cuốn trái tim độc ác của hắn. Tuy nhiên trong số những người Tây Ban Nha đã tới Tênôctitlan hôm ấy, tôi không thấy hắn.
Đêm đến, tôi gặp Guatêmôc để hỏi chàng sự thể thế nào.
- Mọi chuyện đang thuận lợi cho một con diều hâu chui vào tổ chim câu, - chàng mỉm cười cay đắng đáp, - nhưng chim câu thì chẳng vui vẻ một chút nào. Bây giờ ông bác của tôi cùng tên cầm đầu người Tây Ban Nha đang trò chuyện thân mật với nhau ở đằng kia, - chàng chỉ về phía lâu đài Ahaiacatli.- Nhưng trong tiếng gù gù như tiếng chim câu của hắn, tôi nghe có tiếng rít chim ưng. Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ được nhìn thấy ở Tênôctitlan những cảnh rùng rợn!
Và chàng đã nói đúng. Một tuần sau bọn Tây Ban Nha phản bội và bắt vua Môntêzuma làm con tin. Chúng giữ ông ta trong lâu đài Ahaiacatli được dành riêng cho chúng, binh lính canh phòng ông ta suốt ngày đêm.
Sau đó các sự kiện cứ nối tiếp nhau xảy ra. Thủ lĩnh các bộ lạc dọc bờ biển nổi loạn, giết chết mấy người Tây Ban Nha. Theo lệnh Côrtex, Môntêzuma cho gọi họ về Tênôctitlan, và khi họ tới nơi, bọn Tây Ban Nha đã thiêu sống những người không chịu khuất phục này trên quảng trường trước lâu đài. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Chúng còn bắt cả Môntêzuma, tay mang xích, phải chứng kiến sự trừng phạt ấy. Ông vua của người Aztec đã hạ thấp mình đến mức bị xích lại như một tên trộm bình thường. Ngay sau việc làm nhục nhã ấy, Môntêzuma thề sẽ trung thành một đời với vua Tây Ban Nha, tiếp theo, ông ta đã lừa bắt và trao vào tay quân Tây Ban Nha Côcamaxin, người cầm đầu Texcôcô, vì ông ta dám nghĩ tới việc tấn công bọn xâm lược. Sau đó Môntêzuma trao cho chúng tất cả số vàng xưa nay tích góp được và tất cả các kho báu của quốc gia trị giá tới hàng trăm, trăm nghìn đồng bảng Anh. Thế mà dân chúng vẫn cam chịu điều ấy, vì ngay từ đầu họ đã mất hết nhuệ khí, và theo thói quen, vẫn tiếp tục làm theo lệnh của ông vua bị cầm tù.
Nhưng khi Môntêzuma cho phép người Tây Ban Nha tổ chức một buổi lễ thờ Chúa Giêsu trong đền thờ lớn nhất của người Aztec, thì hàng nghìn người da đỏ rất giận dữ, tuy bề ngoài vẫn im lặng. Sự tức giận ấy treo lửng lơ trong không khí, có thể nghe thấy nó trong mỗi lời nói, và nó cứ ầm ỳ, vang dội như tiếng sóng vọng lại từ đại dương đang nổi giận. Mây đen kéo lại dần. Cơn bão có thể ập đến bất cứ lúc nào.
Tuy thế, cuộc sống của tôi vẫn diễn ra như cũ, ngoại trừ một việc là từ nay tôi không được phép bước ra khỏi lâu đài, vì người ta sợ tôi tìm cách liên lạc với người Tây Ban Nha, dù chúng không hề nghĩ người Aztec đã bắt làm tù binh và sắp sửa đem giết để tế thần một người da trắng. Ngoài ra, những ngày ấy tôi hầu như không gặp lại công chúa Ôtômi. Sau cuộc tỏ tình kì lạ vừa rồi, người vợ chưa cưới đầu tiên ấy của tôi đã tìm cách lảng tránh tôi. Khi ngẫu nhiên gặp nhau trong bữa tiệc hay ngoài vườn, nàng chỉ nói với tôi về những việc chung chung hay về những việc quốc gia. Mọi chuyện kéo dài cho đến khi lễ cưới được tổ chức. Tôi nhớ việc đó xảy ra một ngày trước cái chết khủng khiếp của sáu trăm nhà quý tộc Aztec được tập trung lại nhân một ngày lễ thờ thần Uixilôpôctli.
Vào ngày tổ chức lễ cưới, người ta dành cho tôi các nghi lễ và vinh dự thật lớn, như thể tôi là một vị thần thực sự. Những người danh giá nhất thành phố kéo đến chào lạy, đốt hương thơm cho tôi, đến mức tôi cảm thấy buồn nôn và chóng mặt.
Mặc dù cả đất nước đang chìm ngập trong đau buồn, các quan tư tế vẫn thực hiện các nghi lễ một cách chu đáo như cũ, sự độc ác của họ cũng không giảm bớt chút nào. Người ta đặt nhiều hi vọng vào tôi. Họ tin rằng đem tôi làm vật tế, họ sẽ thoát được cơn giận của các thần, vì họ vẫn xem tôi là một trong những Teule.
Khi trời sắp tối, một bữa tiệc linh đình kéo dài hơn hai giờ đã được bày ra để mừng tôi. Tiệc xong, tất cả đứng dậy và cùng đồng thanh ca ngợi tôi:
- Vinh quang thay thần Têcatlipôca! Cầu mong thần được hạnh phúc ở đây, trên trái đất, và hạnh phúc ở kia, trên Ngôi nhà Mặt trời! Lên trên ấy, thần hãy nhớ đến chúng tôi! Nhớ rằng chúng tôi đã tôn thờ thần, đã dành cho thần những gì tốt nhất, và hãy tha thứ cho tội lỗi của chúng tôi. Lạy thần Têcatlipôca vinh quang.
Sau đó hai nhà quý tộc bước lên phía trước, lấy đuốc soi đường dẫn tôi vào một căn phòng lộng lẫy, nơi tôi chưa đặt chân tới bao giờ. ƠŒ đây họ mặc cho tôi bộ quần áo lộng lẫy bằng thứ vải bông mịn nhất có thêu những chiếc lông chim côlibli lấp lánh. Trên đầu tôi là một vòng hoa, còn trên cổ và hai cổ tay là các dây chuyền và các vòng đeo gắn những viên đá quý rất lớn. Trong bộ trang phục ấy, - nó hợp với một cô gái xinh đẹp hơn, - tôi thấy  mình đúng là một tay ăn diện kiểu cách vào bậc nhất...
Khi trang điểm xong, bỗng nhiên tất cả các bó đuốc đều phụt tắt, trong chốc lát bóng tối bao trùm xung quanh. Sau đó từ xa có tiếng hát vọng lại: đó là tiếng các cô gái hát bài hát hôn lễ, theo tôi là rất hay,  nhưng khó có thể miêu tả được.
Bài hát kết thúc. Bây giờ trong bóng tối tôi chỉ nghe tiếng quần áo sột soạt và tiếng người thì thầm nói chuyện. Rồi một giọng đàn ông vang lên:
- Hỡi những người đã được Trời chọn, các cô ở đâu?
- Chúng tôi đang ở đây, - một giọng phụ nữ đáp lại. Hình như đó là Ôtômi.
- Hỡi các cô gái của Anahuac! - Lại lần nữa vang lên trong bóng tối tiếng nói của con người vô hình kia. - Hỡi Têcatlipôca, thần của các vị thần, xin hãy lắng nghe tôi! Các cô đã được nhận một vinh dự vĩ đại. Trời ban cho các cô danh giá, phẩm hạnh và sắc đẹp của bốn nữ thần. Trời chọn các cô làm bạn đường của thần Têcatlipôca anh linh, người sáng tạo và là ông chủ của các cô. Thần xuống thăm chúng ta trong một thời gian ngắn để sau đó trở lại Ngôi nhà Mặt trời của mình. Hãy xứng đáng với vinh dự ấy! Hãy quý mến và chiều chuộng thần để thần cũng tiếp nhận sự chiều chuộng ấy và có ý nghĩ tốt đẹp về thành phố chúng ta. ƠŒ trái đất này các cô không sống lâu với thần, vì như con chim trong lồng, linh hồn thần đã vươn cánh và chẳng bao lâu nữa sẽ bay ra khỏi ngục tối thể xác và rời bỏ chúng ta. Sắp đến ngày thần sẽ lại tự do! Nếu muốn, một trong số các cô sẽ được phép đi theo thần lên Ngôi nhà Mặt trời rực rỡ và sống cùng thần trong đó. Nhưng như ta đã nói, dù đi theo hay ở lại đây để khóc thần cho tới ngày cuối cùng, các cô phải chiều chuộng thần, phải dịu dàng và vui vẻ, nếu không, các cô sẽ bị trừng phạt ở đời này và cả sau khi chết; nếu không, cơn giận của trời đất sẽ đổ lên đầu các cô và tất cả chúng ta. Còn thần, thưa thần Têcatlipôca, chúng tôi xin thần hãy nhận các cô gái này, các cô gái danh giá và cao quý như những nữ thần che chở họ, vì họ là những người phụ nữ xinh đẹp và quý phái nhất Anahuac, một cô trong họ là con gái Đức vua Môntêzuma. Tất nhiên, họ chưa phải là những người hoàn hảo tuyệt đối, vì sự hoàn hảo tuyệt đối chỉ có được ở thế giới các thần. ƠŒ đây không có những người đàn bà hoàn hảo, và họ chỉ là cái bóng, là hiện
thân của các nữ thần bất tử, các người vợ thực sự của thần. Nhưng than ôi, đó là cái tốt nhất chúng tôi có thể có để trao cho thần. Và chúng tìi hi vọng khi từ bỏ đất nước này ra đi, thần sẽ không nghĩ xấu về phụ nữ chúng tôi, và sẽ ban ơn cho họ từ trên cao, vì còn tiếp tục ở lại với thần là những hồi tưởng tốt đẹp về những người được gọi là vợ thần trên trái đất.
Giọng nói im lặng, một lúc sau lại tiếp tục:
- Hỡi những người phụ nữ, nhân danh tên của tất cả các vị thần và tên của các thần phù hộ cho các cô Hôxi, Hilô, Atla và Clitctô, ta tuyên bố gắn đời các cô với vị thần sáng thế Têcatlipôca trong thời gian thần ở lại với chúng ta trên trái đất! Vị thần này đã tạo ra các cô và bây giờ lấy các cô làm vợ! Nghi lễ đã kết thúc, ta cầu mong cuộc hôn nhân của các cô với thần sẽ được hạnh phúc. Nhưng hãy nhớ rằng niềm vui của các cô không bền vững suốt đời! Còn bây giờ các cô hãy nhìn cái sẽ xảy ra trong tương lai!
Khi những lời này vừa dứt, ở cuối gian phòng bỗng sáng bừng lên với nhiều bó đuốc, soi rõ một cảnh rùng rợn. ƠŒ đấy, trên hòn đá chém có một người đang nằm. Đến tận bây giờ tôi vẫn không biết chính xác đó là người thật hay chỉ là hình người bằng sáp, vì nó được trang điểm đủ các màu, và vì da cũng trắng nhợt như da của tôi. Năm quan tư tế giữ chặt tay, chân và đầu anh ta, còn người thứ sáu thì đứng bên cạnh, hai tay giơ cao con dao sắc. Người này vung dao, và khi lưỡi dao hạ xuống, lấp lánh, thì tất cả các bó đuốc bỗng tắt. Nghe có tiếng đâm sắc gọn và một tiếng rên kéo dài vọng ra từ bóng tối, rồi tất cả lại im lặng.
Các cô dâu lại hát bài hát hôn lễ của mình, tuy nhiên sau cái cảnh tôi vừa được thấy và được nghe, thậm chí cả tiếng hát kì lạ, hoang dã và dịu dàng ấy cũng không làm tôi quan tâm nữa.
Trong bóng tối, họ hát mỗi lúc một to hơn, cho đến khi ở cuối phòng loé lên một bó đuốc, rồi bó thứ hai, thứ ba... nhưng tôi vẫn không biết ai thắp chúng. Cuối cùng cả gian phòng rực rỡ ánh sáng. Bàn thờ, thớt chém và các quan tư tế đều biến mất. Chỉ còn lại một mình chúng tôi, - tôi và bốn bà vợ mới cưới.
Đó là những người đàn bà cao, đẹp, mặc quần áo trắng của cô dâu, mang hoa và các vòng đá quý. Trên trán mỗi cô có biểu tượng của một trong bốn vị nữ thần, và đúng Ôtômi, cô gái đường bệ và xinh đẹp nhất trong số họ trông chẳng khác gì một vị nữ thần thực sự. Các cô gái lần lượt đi lại gần tôi, mỉm cười quỳ gối, rồi vừa nói vừa hôn tay tôi:
- Hỡi thần Têcatlipôca, tôi được chọn làm vợ của thần trong một thời gian. Tôi là người hạnh phúc nhất trong tất cả các bà vợ. Cầu mong các vị thần tốt bụng phù hộ để thần thích tôi và yêu tôi say đắm như tôi yêu thần!
Nói xong những lời này, mỗi cô đứng sang bên để không nghe những gì cô tiếp theo đang nói.
Người cuối cùng đến gần tôi là Ôtômi. Nàng quỳ gối, nói lên những lời thiêng liêng bắt buộc phải nói, sau đó nàng hạ giọng nói thêm:
- Tôi đã nói với anh như cô dâu và nữ thần phải nói với chồng và thần Têcatlipôca. Còn bây giờ, Teule, tôi nói với anh như một người đàn bà nói với một người đàn ông. Anh không yêu tôi, và nếu anh muốn, chúng ta sẽ không là vợ chồng với nhau, vì theo ý người khác mà chúng ta ở vào tình thế này. Bằng cách ấy, anh sẽ giải phóng cho tôi khỏi sự nhục nhã. Anh không phải lo về họ, - nàng hất đầu chỉ ba cô kia, - đó là các bạn gái của tôi, và họ sẽ không phản bội tôi.
- Tùy cô, Ôtômi, - tôi đáp một cách ngắn gọn.
- Cảm ơn vì sự tốt bụng của anh, Teule, - nàng vừa mỉm cười buồn bã vừa khẽ nói, rồi một lần nữa cúi trước tôi và ra đi, - đường bệ và xinh đẹp đến mức trái tim tôi lại thổn thức, như thể vì tình yêu. Từ đêm ấy cho đến cái giờ phút khủng khiếp khi tôi bị đem làm vật tế thần, tôi và công chúa Ôtômi không hôn nhau lần nào và cũng không nói với nhau một lời âu yếm nào.
Tuy thế, càng ngày chúng tôi càng thân thiết và quyến luyến nhau hơn. Chúng tôi thường nói chuyện với nhau, và tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được để hướng trái tim nàng tới một niềm tin chân chính. Nhưng hóa ra, đó không là việc đơn giản. Như bố mình là Môntêzuma, Ôtômi tôn thờ các vị thần của dân tộc nàng, mặc dù nàng căm ghét bọn người tư tế. Nàng lấy làm tức giận khi người bị đem tế thần không phải là kẻ thù. Nàng nói rằng tất cả những điều này đều do các quan tư tế nghĩ ra, và rằng trước kia trên bàn thờ các thần không phải tim người mà là hoa.
Cứ thế, ngày tiếp ngày trôi qua. Tình cảm của tôi trở nên sâu nặng, một cách từ từ và khó nhận thấy, cuối cùng bản thân tôi cũng không biết vì sao, nhưng tôi đã yêu Ôtômi hơn tất cả những người khác trên đời, trừ Lyly.
Về ba người vợ còn lại, thì mặc dù tốt bụng và hấp dẫn, chẳng bao lâu họ làm tôi thấy chán ghét. Nhưng tôi vẫn tiếp tục tiệc tùng với họ suốt đêm, vì nếu người khác biết họ không làm tôi vừa lòng, họ sẽ phải chịu một cái chết nhục nhã. Vả lại, tôi muốn xua tan nỗi sợ bằng cách uống rượu và vui chơi, vì cuộc đời tôi đang được đếm từng ngày, và cái chết kinh khủng đang đến gần không sao cưỡng lại.
Một ngày sau lễ cưới của tôi đã xảy ra vụ thảm sát nhục nhã sáu trăm nhà quý tộc Aztec, theo lệnh Anvarađô, người chỉ huy bọn Tây Ban Nha trong khi Côrtex vắng mặt. Lúc ấy Côrtex đang ở trên bờ biển, bận đánh nhau với Narvaex, người được kẻ thù cũ của Côrtex là quan toàn quyền Cuba Vêlaskex phái đến để chống lại hắn.
Hôm ấy là ngày có hội thờ thần Uixilôpôctli với các nghi lễ tế thần, hát hò và nhảy múa trên cái sân lớn của đền thờ được bao bọc xung quanh bằng một bức tường cao có chạm trổ các hình rắn. Một sự may mắn ngẫu nhiên, hôm ấy, trước khi đến đền thờ, hoàng thân Guatêmôc quyết định trước hết tới thăm tôi vào buổi sáng.
Nhìn bộ quần áo lộng lẫy của chàng, tôi hỏi có phải chàng định tham gia ngày hội không.
- Vâng, - Guatêmôc đáp. - Tại sao anh hỏi thế?
- Vì nếu là anh, tôi sẽ không tới đó. Xin hỏi anh: những người nhảy múa có mang vũ khí không?
- Không, vì tục lệ không cho phép.
- Nghĩa là họ tay không, Guatêmôc, mà những chàng trai quý tộc ấy lại là lực lượng đáng quý nhất của Anahuac. Họ sẽ tay không nhảy múa trong một khu sân bị bọc kín xung quanh, còn những tên Tây Ban Nha có vũ trang thì đứng xem. Anh hãy nói tôi biết điều gì sẽ xảy ra với họ, nếu người Tây Ban Nha tìm cách gây sự?
- Tôi không hiểu vì sao anh nói như vậy? Tôi tin chắc người da trắng sẽ không làm cái điều hèn hạ bẩn thỉu ấy. Tuy nhiên, tôi vẫn nghe theo lời khuyên của anh. Dù sao hội vui đã bắt đầu, - anh thấy đấy, mọi người đã tập trung đông đủ, - nhưng tôi sẽ không tham dự.
- Thế là anh thông minh, - tôi nói. - Guatêmôc, tôi biết anh bao giờ cũng là người thông minh!
Một lát sau, Ôtômi, Guatêmôc và tôi đi ra vườn và leo lên đỉnh một chiếc kim tự tháp nhỏ được Môntêzuma cho xây để làm chỗ quan sát khu chợ và các sân đền thờ. Từ đây có thể nhìn rõ những người quý tộc Aztec đang nhảy múa theo tiếng hát và tiếng nhạc. Dưới ánh mặt trời rực rỡ, những chiếc áo choàng được làm bằng lông chim của họ lấp lánh như muôn nghìn viên đá quý. Thật là một cảnh tượng vui vẻ! Lẽ nào họ có thể hình dung nổi sắp tới chuyện gì sẽ xảy ra?
Xen giữa những người đang nhảy múa, bọn Tây Ban Nha đứng thành từng túm, người mặc áo giáp tay cầm kiếm và súng. Chẳng bao lâu sau tôi nhận thấy dần dần chúng đi ra khỏi đám đông người da đỏ, và như đàn ong trong tổ, chúng bắt đầu tụ tập quanh các cửa ra vào và các chỗ khác dưới sự che chở của bức tường có các hình rắn chạm trổ.
- Như thế nghĩa là gì? - Guatêmôc hỏi, và đúng lúc ấy tôi thấy một tên Tây Ban Nha phất cao một mảnh vải trắng.
Chiếc khăn trắng vừa buông xuống, lập tức cả sân đền thờ nghi ngút khói, và từ đấy vọng lại phía chúng tôi từng tràng tiếng đạn nổ. Những người chết và bị thương nằm ngổn ngang trên sân, nhưng phần lớn những người tay không vẫn tiếp tục tụ lại giữa sân, như một đàn cừu ngơ ngác vì hoảng sợ. Lúc ấy bọn Tây Ban Nha liền rút kiếm, và vừa kêu to tên các vị thánh che chở cho chúng như chúng vẫn thường làm khi định tiến hành một tội lỗi nào đấy, chúng vừa lao vào chém giết những người Aztec tội nghiệp. Một số bị chúng giết tại chỗ, số khác vừa khóc vừa tìm đường chạy trốn, nhưng không ai trốn thoát được vì các cửa ra vào đã bị canh giữ, mà tường thì quá cao không leo qua nổi. Bọn người Tây Ban Nha, - cầu Chúa hãy trừng phạt chúng, - đã chém giết không chừa một người nào. Chúng thực hiện âm mưu của mình một cách nhanh chóng! Chưa đầy mười phút từ khi chiếc khăn trắng được vung lên, sáu trăm người Aztec đã bị chết hoặc đang hấp hối, nằm ngổn ngang trên các viên đá lát sân, còn bọn Tây Ban Nha thì vừa kêu lên sung sướng, vừa giật khỏi những người đã chết các đồ trang sức quý giá.
Tôi quay sang nói với Guatêmôc:
- Hình như anh không đi dự cuộc vui này là đúng, có phải thế không, anh bạn của tôi?
Guatêmôc không nói gì. Chàng đứng lặng nhìn đăm đăm về phía những người bị giết và những kẻ giết người. Chỉ Ôtômi mỉm cười cay đắng nói:
- Các ông là những người theo đạo Thiên chúa tốt bụng! Các ông đã đáp lại sự hiếu khách của chúng tôi thế đấy! Tôi nghĩ bây giờ bố tôi đã có thể hoàn toàn hài lòng với các vị khách của ông. Nếu là ông, từ lâu tôi đã cho bọn người này lên nằm trên bàn thờ tế thần! Anh nói các thần của chúng tôi là những con quỷ, thế thì những tên giết người này là ai, vì chúng cũng thờ thần của anh?
Cuối cùng Guatêmôc lên tiếng:
- Chúng ta chỉ còn lại một cách là trả thù. Môntêzuma đã bị biến thành một người đàn bà hèn nhát. Đối với tôi, ông ta đã chết, và nếu cần tôi sẽ tự tay giết chết ông ấy! Nhưng ở Anahuac còn có hai người đàn ông nữa, đó là Cuitlahua, - bác tôi và tôi. Chừng ấy cũng đủ! Bây giờ tôi đi thu thập binh sĩ!
Rồi chàng bỏ đi.
Suốt đêm cả thành phố nhộn nhạo như tổ ong, đến sáng, sân chợ và tất cả các phố đều tràn ngập hàng nghìn, hàng vạn binh sĩ có mang vũ khí. Họ ào ạt đi về phía lâu đài Ahaiacatli, và như những đợt sóng va vào núi đá, họ bị lửa đạn Tây Ban Nha xô bật trở lại. Người Aztec ba lần tiến sát cổng thành, nhưng cả ba lần đều phải rút lui. Trước lần tấn công thứ tư, trên thành bỗng xuất hiện ông vua hèn nhát Môntêzuma. Ông ta van nài mọi người rút lui, nếu không, tính mạng ông ta sẽ bị đe dọa. Sự sùng bái của người Aztec đối với ông ta còn lớn đến mức nghe thế, các binh sĩ dừng lại không tấn công nữa.
Tuy nhiên, không ai có ý định bỏ về nhà. Bị Môntê- zuma cấm không được chém giết người Tây Ban Nha, họ quyết định bắt chúng phải chết đói, và từ giờ phút ấy họ bắt đầu bao vây cung điện Ahaiacatli. Trong trận đánh đầu tiên này đã có hàng trăm người Aztec bị giết, nhưng bọn xâm lược bị bao vây còn bị tổn thất nặng nề hơn. Người Aztec đã bắt được mấy tên Tây Ban Nha và rất nhiều tên Tlatxcalan tay sai của chúng. Các tù binh lập tức bị kéo lên đỉnh kim tự tháp và bị giết để làm vật tế thần ngay trước con mắt của đồng bọn.
Mấy ngày sau, toán quân của Côrtex trở về Tênôc- titlan. Hắn đã chiến thắng đối thủ, và nhiều binh lính của Narvaex bây giờ đi theo hắn. Trong số đó có một người tôi biết rất rõ, là Gacxia.
Không hiểu vì sao Côrtex dễ dàng được nhập với đồng bọn hắn ở lâu đài Ahaiacatli mà không gặp một cản trở nào. Ngày hôm sau hắn ra lệnh thả em vua Môntêzuma là Cuitlahua, thủ lĩnh Palanipan, hi vọng điều này sẽ làm dân chúng lắng xuống. Tuy nhiên Cuitlahua không là người hèn nhát. Vừa ra khỏi nơi giam giữ, ông ta liền cho họp hội đồng cố vấn mà trong lúc ông ta vắng mặt, Guatêmôc cầm đầu. Hội đồng họp quyết định chiến đấu đến cùng. Môntêzuma bị tuyên bố là kẻ phản bội, và bằng sự hèn nhát của mình đã mang tai họa lại cho đất nước. Thế là các trận đánh lại được khôi phục.
Nếu quyết định này được chấp nhận cách đây hai tháng, chắc bây giờ ở Tênôctitlan không còn một tên Tây Ban Nha nào sống sót. Tất nhiên Marina là kẻ đã giúp Côrtex giành được thắng lợi, nhưng dù sao Môntêzuma vẫn là người chủ yếu dẫn tới sự sụp đổ, diệt vong của vương quốc Anahuac.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét