Công Chúa Ô-tô-mi - 2
X
CÁI CHẾT CỦA IXABEN ĐƠ XIGUENXA
Chúng tôi lặng lẽ đi dọc
theo dãy hành lang dài hun hút, tôi nhìn thấy qua các ô cửa sổ có chắn song, từ
các căn phòng nhỏ đang nhìn theo chúng tôi là những cặp mắt của các nữ tu sĩ
như bị chôn sống trong đó. Vì vậy chẳng có gì đáng ngạc nhiên, khi bất chấp cái
chết, một người phụ nữ trẻ muốn thoát khỏi các hầm tối của nhà tù này để ra với
cuộc sống và tình yêu! Và vì cái “tội lỗi” ấy cô ta bây giờ sẽ phải chết.
Không, nhất định Chúa không quên tội ác của những tên linh mục này, không quên
cả cái dân tộc đã sản sinh ra chúng!
Mà đúng Ngài đã không quên
thật, bởi vì bây giờ còn đâu cái vinh quang của đất nước Tây Ban Nha, và thử
hỏi cái gì đã xảy ra với những nghi lễ độc ác mà đất nước ấy từng lấy làm hãnh
diện? ƠŒ đây, ở nước Anh, bàn tay chúng đã bị chặn đứng hoàn toàn và mãi mãi. Chúng
muốn cùm chúng ta, những người Anh tự do vào các gông sắt của chúng, nhưng
chúng ta đã phá bỏ những gông sắt ấy, và chúng sẽ chẳng bao giờ còn tác dụng
nữa.
ƠŒ cuối hành lang có một
chiếc cầu thang, chúng tôi theo nó đi xuống rồi dừng lại trước một cánh cửa
nặng nề có thanh sắt chắn ngang. Ông thầy tu mở cửa bằng chiếc chìa khóa của
mình, cho chúng tôi vào rồi lại khóa chặt như cũ. Từ đây bắt đầu hành lang thứ
hai được xây ngầm trong một bức tường dày, sau đó có một cửa nữa, và tiếp đến
là chỗ thi hành bản án.
Đó là một tầng hầm thấp và
ẩm ướt, phía bên kia tường được nước sông bào mòn. Trong sự im lặng chết chóc,
tôi nghe tiếng nước róc rách từ bên ngoài vọng vào. Căn phòng độ tám mét chiều
rộng và mười mét chiều dài. Nó được chống đỡ bởi những chiếc cột nặng nề, ở bức
tường phía sau có cánh cửa thứ hai, dẫn tới hầm giam.
Trong một góc của căn
phòng ảm đạm ấy, được chiếu sáng mờ mờ bởi những ngọn đèn và những bó đuốc nhỏ,
có hai người mặc áo choàng đen vải thô, đầu đội mũ hình chóp che mặt, đang lặng
lẽ tôi vôi. Vôi sôi sùng sục, bốc khói sặc sụa. Bên cạnh họ là những phiến đá
được đẽo gọt cẩn thận, còn phía đối diện là một chiếc hầm được khoét lõm vào
tường, trông như một chiếc quan tài dựng đứng, đầu nhỏ phía dưới. Đối diện với
chiếc hầm ấy là một chiếc thánh giá to nặng bằng gỗ dẻ. Cũng trong bức tường ấy
tôi còn nhìn thấy hai chiếc hầm tương tự, chắn bằng những phiến đá cũng có màu
trắng nhợt như thế. Trên mỗi phiến đá có khắc các con số ngày tháng. Một chiếc
hầm đã được lấp cửa cách đây một trăm năm, còn chiếc khác, - ba mươi năm.
Khi chúng tôi bước xuống
hầm ngầm, ở đấy chẳng có ai ngoài hai người linh mục kiêm thợ đẽo đá, nhưng một
lát sau, từ hành lang thứ hai chúng tôi nghe có tiếng hát dịu dàng và trang
nghiêm vọng lại. Tiếng hát mỗi lúc một to hơn, và chẳng bao lâu sau tôi đã nghe
rõ từng lời: đó là một bài hát cầu kinh bằng tiếng La tinh hát khi chôn cất
người chết. Sau đó dàn đồng ca xuất hiện: tám nữ tu sĩ khăn voan che kín mặt
lần lượt cứ hai người một đi qua cửa, đứng thành hàng, dọc bức tường đối diện
rồi im lặng. Theo sau họ là cô gái phạm tội có hai nữ tu sĩ đi kèm, và người
cuối cùng là một linh mục tay cầm thánh giá. Ông ta mặc áo đen, khuôn mặt nửa
như điên dại của ông ta để trần.
Tất cả những cảnh ấy và
các chi tiết khác tôi đã nhìn thấy và ghi nhớ suốt đời, nhưng lúc đó tôi có cảm
giác tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài khuôn mặt của cô gái nạn nhân đáng thương nọ.
Tôi nhận ra cô ta, dù trước đây chỉ nhìn thấy một lần mà lại dưới ánh trăng. Cô
ta thay đổi rất nhiều: khuôn mặt xinh đẹp ngày nào đã bắt đầu mang màu sáp ong,
bây giờ trên đó chỉ nhìn thấy đôi môi màu đỏ thẫm và hai con mắt thật to, đau
buồn và lấp lánh như hai ngôi sao. Nhưng đó chính là khuôn mặt của cô ta, chính
người phụ nữ này tôi đã nhìn thấy cách đây bảy tháng khi cô ta nói chuyện với
người tình không chung thủy của mình. Có điều bây giờ thân hình cao dong dỏng
của cô ta đã bị quấn trong chiếc khăn liệm của thần chết và xuôi theo nó là
những món tóc đen để xõa. Cô ta bế trên tay đứa con đang ngủ, chốc chốc lại lo
lắng ghì chặt nó vào lòng.
Trước ngưỡng cửa ngôi mộ
của mình, Ixaben đơ Xiguenxa dừng lại, hoảng hốt nhìn quanh như cầu xin giúp
đỡ. Nhưng cái nhìn tuyệt vọng của cô đã dừng lại một cách vô ích trên các khuôn
mặt được che kín bằng mũ nhọn của những tên linh mục im lặng. Sau đó cô nhìn
thấy chiếc hầm và hố vôi đang bốc khói. Cô rùng mình, và có lẽ đã ngã xuống
ngất đi nếu không có các nữ tu sĩ đi cạnh đỡ và cầm tay dắt đến cho ngồi vào
chiếc ghế, như một xác chết còn sống.
Các nghi lễ rùng rợn bắt
đầu. Người linh mục theo giáo phái Đôminican đến đứng trước cô gái bất hạnh,
tuyên bố các tội lỗi của cô và đọc to bản án:
- Cô, và cùng với cô là
đứa con tội lỗi của cô, sẽ bị bỏ rơi một mình với Chúa để Ngài định đoạt theo ý
mình.
Nhưng hình như cô gái tội
nghiệp ấy đã không nghe thấy lời buộc tội cũng như những lời an ủi sau đó. Cuối
cùng ông linh mục kết thúc, làm dấu thánh và quay sang tôi, nói:
- Bây giờ thì con hãy lại
gần và nói chuyện với cô ta, chừng nào chưa muộn.
Sau đó ông ta ra lệnh cho
những người có mặt lui vào góc hầm để họ không nghe chúng tôi nói chuyện. Mọi
người lặng lẽ nghe theo. Có lẽ họ cho tôi là vị linh mục có trách nhiệm làm lễ
rửa tội cho cô ta.
Với trái tim đập mạnh, tôi
đi lại gần, cúi xuống nói sát vào tai cô ta:
- Cô hãy nghe tôi nói, Ixaben
đơ Xiguenxa! - Nghe tôi nhắc tên, cô ta rùng mình, - Hoan đơ Gacxia, người đã
quyến rũ và bỏ rơi cô bây giờ ở đâu?
- Làm sao ông biết được
cái tên ấy? - Ixaben hỏi. - Thậm chí các đòn tra tấn cũng không bắt nổi tôi
nhắc tới nó.
- Tôi không là linh mục,
và không biết gì về các cuộc tra tấn ấy. Tôi chính là người đã đánh nhau với
Gacxia vào cái đêm người ta bắt được cô, có lẽ nếu không vì cô, tôi đã giết
chết hắn.
- Tôi cứu sống ông ấy, và
đó là niềm an ủi của tôi.
- Ixaben đơ Xiguenxa, -
tôi nói tiếp. - Tôi là bạn cô, người bạn chân thành và là cuối cùng. Rồi bây
giờ cô sẽ thấy rõ điều ấy. Hãy cho tôi biết: Gacxia ở đâu? Giữa tôi và cô có
cái cần thanh toán với nhau.
- Nếu là bạn của tôi, xin
ông đừng hành hạ tôi nữa. Tôi không biết gì về ông ấy. Cách đây nhiều tháng ông
ấy đã đi tới nơi mà chắc không bao giờ ông có thể đặt chân tới, - ông ấy đi
sang Ấn Độ(Tác
giả muốn nói tới Tây Ấn, tức là vùng Nam Mỹ ngày nay. Thời ấy khi mới khám phá
ra châu Mỹ, người ta lầm tưởng đó là Ấn Độ. Trong cuốn sách này, chữ “Ấn Độ”
xin hiểu theo nghĩa ấy.), dù sao ông không tìm thấy ông ta đâu.
- Ai mà biết được! Nhưng
nếu chúng tôi gặp nhau, cô có muốn nhắn ông ta điều gì không?
- Không. Mà rồi... khoan
đã! Hãy nói cho ông ấy biết rằng chúng tôi, vợ và con ông ấy, đã chết như thế
nào, và rằng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được để tòa án dị giáo không
biết tên thật của ông ấy, nếu không, ông ấy cũng phải chết như chúng tôi.
- Chỉ có thế thôi à?
- Vâng... mà không, hãy
nói thêm với ông ấy rằng khi chết, tôi vẫn yêu và tha thứ cho ông ấy.
- Tôi không có nhiều thời
gian, - tôi nói. - Hãy tỉnh lại và nghe tôi nói đây!
Tôi bảo cô ta như thế vì
vừa nói xong những lời kia, cô ta lặng im như chìm trong một giấc ngủ nào đó.
- Tôi là người giúp việc
của Anđrex đơ Fônxêca, người đã khuyên cô nhưng cô không nghe nên mới gặp tai
họa này. Tôi đã đưa cho bà tu sĩ của cô một thứ thuốc, khi bà ấy đưa cốc nước
cho cô, cô hãy uống hết và cho con cô cùng uống. Nếu làm thế, cái chết sẽ đến
với cô một cách nhanh chóng và không đau đớn. Cô hiểu tôi chứ?
- Vâng, vâng! - Ixaben vừa
thở hổn hển, vừa đáp. - Cầu Chúa phù hộ cho ông vì điều ấy. Bây giờ, tôi không
còn sợ nữa. Từ lâu chính tôi đã muốn chết nhưng tôi lo sợ phải chết như thế
này.
- Bây giờ thì vĩnh biệt,
hỡi cô gái tội nghiệp! Chúa sẽ ở bên cô!
- Vĩnh biệt! - Cô ta dịu
dàng đáp, - nhưng vì sao lại gọi tôi là tội nghiệp, khi tôi được chết một cái
chết nhẹ nhàng, và cùng với đứa con mà tôi yêu quý?
Rồi Ixaben cúi xuống nhìn
đứa con đang ngủ.
Sau đó tôi bước xa khỏi cô
ta, và lặng lẽ đứng cạnh tường, đầu cúi nhìn xuống đất. Ông linh mục ra lệnh
cho mọi người ai đứng vào chỗ người ấy.
- Hỡi cô gái tội lỗi, -
ông ta quay sang nói với Ixaben. - Cô có muốn nói với chúng tôi điều gì không,
trước khi đôi môi cô phải lặng im mãi mãi?
- Có, tôi muốn nói! -
Ixaben đáp bằng giọng rõ ràng và dịu dàng, thậm chí không hề run rẩy, vì bây
giờ cô biết cô sẽ được chết nhanh chóng và không đau đớn. - Vâng, tôi muốn nói
với mọi người rằng tôi chết với lương tâm trong sạch, vì nếu tôi có phạm tội
thì chỉ là cái tội không làm đúng như mọi người thường làm, chứ không phải phản
bội Đức Chúa. Vâng, tôi không giữ đúng lời thề, nhưng lời thề ấy người ta đã ép
tôi phải chấp nhận, và dù sao nó cũng không trói buộc nổi tôi. Tôi được sinh ra
do tình yêu và ánh sáng, thế mà người ta nhốt tôi vào bóng tối của cái tu viện
này, để tôi bị chết dần trong đó. Vì thế, tôi phá vỡ lời thề, và tôi lấy làm
vui mừng đã hành động như vậy, mặc dù tôi phải đem mạng sống của mình ra để trả
giá. Cứ cho là người yêu ruồng bỏ tôi, cứ cho là đám cưới của tôi không hợp
pháp như bây giờ mọi người đang nói, - tôi không biết điều ấy, - nhưng đối với
tôi, dù sao lễ cưới ấy vẫn hợp pháp, thiêng liêng, và trước Chúa, tâm hồn tôi
trong sạch. Tôi đã sống một cuộc sống thật sự, trong vòng mấy giờ tôi được làm
người vợ, người mẹ hạnh phúc, và bây giờ, theo ý muốn của các ông, tôi thà bị
chôn sống trong căn phòng này còn hơn bị chết dần chết mòn trong các căn phòng
chật hẹp trên kia. Còn bây giờ, hãy lắng nghe tôi nói đây! Các ông dám nói với
các con chiên của Chúa: “Cấm không được yêu đương!" Và rồi các ông giết
chết họ vì tội họ dám yêu nhau. Nhưng sự độc ác của các ông sẽ có ngày quay lại
đổ lên đầu chính các ông! Hãy nhớ lấy lời tôi: chúng sẽ quay lại chống các ông
và chống cái nhà thờ mà các ông đang phụng sự, lúc ấy nhà thờ và những người
như các ông sẽ chết, tên tuổi các ông sẽ là câu nguyền rủa trên miệng người
đời!
Tiếng thì thầm ngạc nhiên
và kinh sợ chuyền nhau khắp tầng hầm.
- Cô ta điên rồi! - Ông
linh mục Đôminican kêu lên. - Cô ta mất trí, và trong cơn điên loạn của mình đã
nói những lời phản Chúa! Đừng nghe cô ta! Làm lễ rửa tội cho cô ta đi! - Ông ta
quay sang ông linh mục mặc áo đen. - Nhanh lên, trước khi cô ta kịp nói thêm
những điều nhảm nhí khác!
Ông linh mục áo đen có cái
nhìn sắc và nảy lửa đi lại gần Ixaben, dí chiếc thánh giá vào mũi cô và lẩm bẩm
nói điều gì đó. Nhưng Ixaben liền đứng dậy khỏi ghế, đẩy chiếc thánh giá ra.
- Cút đi! - Cô kêu lên. -
Ông không có quyền rửa tội cho tôi! Tôi sẽ tự hối lỗi trước Chúa, chứ không
phải trước những kẻ nhân danh Chúa để giết người như ông!
Nghe thế, hắn điên lên vì
tức giận.
- Nếu thế thì cho mày
xuống địa ngục mà không được rửa tội, đồ đáng nguyền rủa! - Hắn gầm lên và lấy
chiếc thánh giá bằng ngà voi nặng đập thẳng vào mặt cô, vừa đánh vừa không ngớt
lời chửi rủa tục tĩu.
Ông linh mục Đôminican
giận dữ ra lệnh cho hắn im lặng, nhưng Ixaben chỉ đưa tay lau máu trên trán rồi
phá lên cười điên dại:
- Ôi, bây giờ tôi thấy,
ông còn là một thằng hèn! - Cô nói. - Này, ông cố đạo, hãy nghe tôi nói đây!
Vào phút cuối cùng này của đời tôi, tôi cầu Chúa để ông cũng bị những bọn cuồng
tín giết chết, chết một cách còn kinh khủng hơn tôi!
Khi bị đẩy vào chiếc hầm
sẽ là mồ chôn sống cô, cô lại nói một lần nữa:
- Nước đâu, tôi và con tôi
khát lắm rồi!
Từ cửa nhà tù nơi Ixaben
đang bị giam, tôi nhìn thấy bà tu sĩ nọ tay cầm cốc nước và ít bánh mì đi tới;
nhìn vẻ ngoài của bà tôi biết bà đã rót thuốc độc vào nước. Ngoài ra tôi không
còn biết gì nữa.
Ngay sau đó tôi yêu cầu
ông linh mục Đôminican nhanh chóng mở cửa cho tôi ra khỏi hầm. Bước mấy bước
dọc theo hành lang, tôi dừng lại cách xa cánh cửa một quãng, và sững sờ vì
hoảng sợ, tôi đã đứng như thế không biết bao lâu. Cuối cùng tôi nhìn thấy bà tu
sĩ xuất hiện với chiếc đèn trong tay.
- Xong rồi, - bà vừa nói
vừa thút thít khóc, - đừng lo, thuốc độc của ông hiệu nghiệm lắm. Vừa mới nhấp
miệng, cả hai mẹ con đã ngủ thiếp. Như thế là cô ta chết mà không được rửa tội
và ban phước. Thật đáng thương cho linh hồn cô ta!
- Đáng nguyền rủa linh hồn
tất cả những người đã dính tay vào việc này! - Tôi đáp. - Còn bây giờ hãy cho
tôi đi ra, và mong sao chúng ta không bao giờ gặp nhau nữa!
Bà dẫn tôi quay lại chiếc
phòng nhỏ, ở đó tôi cởi bỏ chiếc áo choàng linh mục khủng khiếp, rồi đi tới
chiếc cổng ở khu vườn và tới con thuyền vẫn còn đứng chờ dưới sông. Cảm thấy
hơi mát dịu dàng của làn gió đêm trên mặt, tôi mừng rỡ như thể vừa thoát khỏi
một cơn ác mộng. Nhưng đêm ấy, cũng như những đêm tiếp theo tôi trằn trọc không
sao ngủ được. Hễ nhắm mắt, là trước mặt tôi lại hiện lên hình ảnh cô gái xinh
đẹp bất hạnh kia, đúng như tôi thấy cô ta lần cuối. Dưới ánh sáng mờ tối của
những bó đuốc, khoác tấm vải liệm trên người, cô kiêu hãnh đứng trong căn hầm
như trong một chiếc quan tài bằng đá, một tay ghì chặt đứa con vào ngực, tay
kia chìa ra đỡ cốc thuốc độc.
Ít ai muốn thấy những cảnh
thế này lần thứ hai, mà rồi những người nhìn thấy chúng một lần cũng không
nhiều, vì tòa án dị giáo và đồng lõa của chúng thường cố giấu không cho người
khác biết những việc chúng làm. Nếu tôi miêu tả những gì tôi được chứng kiến
đêm ấy không tốt lắm, thì không có nghĩa rằng tôi quên mà vì thậm chí cả bây
giờ, gần bảy mươi năm trôi qua, tôi vẫn khó lòng bình tĩnh để viết những
điều kinh khủng ấy!
Có lẽ cái đáng ngạc nhiên
hơn cả là thái độ của cô gái xinh đẹp đáng thương kia đối với thằng khốn nạn đã
quyến rũ cô, lừa dối cô bằng một lễ cưới giả, và rồi bỏ rơi, để cô phải chết
một cái chết đau đớn. Cô vẫn yêu hắn cho đến giây phút cuối cùng của đời mình.
Một người như hắn có gì để được hưởng một sự chung thủy, thiêng liêng như vậy?
Tôi không biết, nhưng đó là sự thật.
Bây giờ nghiền ngẫm lại
tất cả những gì đã xảy ra lúc ấy, tôi lại nhớ tới những việc kém phần lạ lùng
hơn tình cảm trong sáng của cô gái đáng thương kia. Như tôi đã nói, khi tên
linh mục đánh cô, cô đã cầu mong hắn sẽ chết một cái chết còn kinh khủng hơn,
bởi bàn tay những tên cuồng tín như hắn. Điều ấy đã xảy ra. Nhiều năm sau chính
tên linh mục Pêđrô ấy được gửi tới Anahuac để truyền đạo cho những người bản xứ
vô thần, và ở đấy, vì nổi tiếng độc ác, người da đỏ đã gọi hắn là “Con quỷ của Chúa Giêsu”. Một lần, đi xa
hơn cần thiết, tới vùng đất của bộ lạc Ôtômi còn chưa bị chinh phục, hắn đã rơi
vào tay các nhà tư tế của thần chiến tranh Uixilôpôctơli, và theo phong tục dã
mãn ở đấy, hắn đã bị đem làm vật tế thần. Khi hắn bị đưa lên bàn chọc tiết, tôi
nhắc hắn về lời nguyền rủa cuối cùng của Ixaben đơ Xiguenxa, nhưng không nói
rằng chính tôi đã có mặt khi cô chết. Nghe thế, trong chốc lát, hắn co rúm
người lại vì sợ hãi. Hắn thấy tôi là một thủ lĩnh da đỏ, và nghĩ chính quỷ xa
tăng đã nói lên điều ấy qua đôi môi của tôi để đày đọa hắn trước khi chết.
Nhưng thôi, như thế là đủ. Nếu cần, tôi sẽ kể tất cả một cách chi tiết về
chuyện này vào một dịp khác. Còn bây giờ tôi chỉ muốn nói một điều, rằng có thể
vì Chúa muốn bắt hắn đền tội, vì ngẫu nhiên, hoặc vì trong cơn hấp hối của
mình, Ixaben đã báo trước về số phận của hắn, tên cố đạo cuồng tín ấy đã chết
đúng như cô mong muốn và tôi không chút mảy may thương hại hắn, dù cái chết của
hắn đã gây cho tôi không ít điều bất hạnh.
Ixaben đơ Xiguenxa đã chết
thế đấy. Cô bị các cố đạo chôn sống chỉ vì dám vượt ra ngoài những điều quy
định của chúng.
Khi tất cả những gì tôi
được nhìn và được nghe trong cái đêm khủng khiếp ấy tạm lắng xuống trong lòng,
cuối cùng tôi đã có thể nghĩ về bản thân. Một mặt tôi trở nên giàu có, và nếu
muốn, tôi có thể trở lại Nôphôc cùng tất cả gia tài của mình, và một tương lai
dễ chịu sẽ chờ tôi. - Điều này, lúc sống, Fônxêca đã nói với tôi. Nhưng mặt khác,
lời thề mà tôi đã long trọng tuyên bố vẫn treo trên cổ tôi như quả tạ. Tôi đã
thề sẽ trả thù Hoan đơ Gacxia, và cầu mong thánh thần trừng phạt tôi, nếu không
làm được điều ấy. Nhưng làm sao có thể giết hắn, khi tôi sống yên lành và sung
sướng ở nước Anh?
Cuối cùng tôi đã biết được
kẻ thù của tôi ở đâu, ít ra là nên tìm kiếm hắn ở vùng nào trên thế giới.
ƠŒ những nơi có ít người da trắng, hắn sẽ không dễ trốn thoát khỏi tay tôi như
ở Tây Ban Nha. Tôi biết được điều ấy về hắn từ miệng Ixaben, và đã kể ở đây khá
chi tiết về câu chuyện của cô ta, chỉ vì nếu không có cô ta, tôi đã chẳng bao
giờ lên đường đi tới Espanhiôla(Tên gọi quần đảo Haiti theo tiếng Tây Ban Nha. ). Cũng giống
như thế, nếu các nhà tư tế của bộ lạc Ôtômi không giết tên đao phủ của cô là
cha Pêđrô, tôi sẽ chẳng bao giờ quay trở lại nước Anh, vì nếu không có lễ tế
thần ấy, người Tây Ban Nha sẽ không bao vây thành Xôxen, và có lẽ tận bây giờ,
tôi vẫn ở bên ấy, có thể chết mà cũng có thể sống. Thường nhiều chi tiết bề
ngoài rất nhỏ nhặt mà lại quyết định cả cuộc đời ta như vậy. Nếu Ixaben không
nói ra những lời cuối cùng kia có lẽ dần dần tôi sẽ chán tìm kiếm một cách vô
ích và sẽ bỏ về nước Anh, nơi hạnh phúc đang chờ tôi. Nhưng nghe cô nói xong,
tôi không thể làm thế, vì về phía tôi, lúc ấy tôi nghĩ đó là một sự hèn nhát
tồi tệ nhất. Vả lại, lúc ấy tôi còn nghĩ tới phải trả thù cho cả hai người, là
mẹ tôi và Ixaben. Điều này nghe có vẻ khó hiểu, nhưng nếu ai được tận mắt nhìn
thấy cô gái trẻ xinh đẹp ấy chết một cách rùng rợn thế nào, nhất định người đó
thề sẽ trả thù kẻ đã quyến rũ, ruồng bỏ và làm cô ta đau khổ.
Thế là cuối cùng tôi đã
hành động theo bản tính ương bướng của mình, trái với cả những điều mà sâu
trong lòng tôi đang mong muốn, và không nghe lời khuyên của ông Fônxêca trong giờ
hấp hối. Tôi quyết định thực hiện lời thề: đuổi theo Hoan đơ Gacxia cho tới tận
chân trời góc biển, và giết chết hắn nếu gặp.
Trước hết, tôi cố gắng
lặng lẽ và khôn khéo kiểm tra lại có phải Gacxia đi Ấn Độ không. Không đi sâu
vào các chi tiết, tôi xin kể vắn tắt rằng tôi đã xác định được điều ấy nhờ
những mối liên lạc mà tôi có.
Hai ngày sau cuộc ẩu đả
ban đêm giữa tôi và Gacxia, có một người đàn ông, theo miêu tả rất gống Gacxia,
nhưng mang tên khác, đã lên tàu rời Xêvin đi về phía các đảo Canarơ. ƠŒ đấy,
tàu này sẽ chờ thêm một số tàu nữa rồi cùng nhau đi tới Espanhiôla. So sánh
nhiều dữ kiện, tôi tin chắc người ấy không phải ai xa lạ mà chính là Hoan đơ
Gacxia. Điều ấy chẳng có gì đáng lạ, vì Ấn Độ là nơi ẩn náu của những kẻ phiêu
lưu và đủ các loại người khốn nạn không còn đất sống ở Tây Ban Nha. Và rồi tôi
quyết định đuổi theo hắn. Một điều duy nhất an ủi tôi ít nhiều là sang đấy, tôi
sẽ được thấy những vùng đất xa lạ. Lúc đó, thậm chí tôi không hề nghĩ tới những
gì đang chờ mình trước mắt.
Nhưng trước hết tôi phải
giải quyết xong cái gia tài mà bỗng nhiên tôi nhận được. Tôi hoàn toàn không
biết phải làm gì với nó hay cất giữ nó nơi nào cho đến khi quay lại. Ngẫu
nhiên, tôi biết tin lúc ấy ở Cađix đang có con tàu “Kẻ phiêu lưu” từ Iamut tới, - nó chính là con tàu đã chở tôi tới
Tây Ban Nha, - và tôi quyết định ngay rằng tốt hơn hết là gửi vàng và các vật
quý khác về Anh, nơi chúng sẽ được cất giữ cho tôi một cách tuyệt đối an toàn.
Tôi liền viết thư gửi ông bạn của tôi là thuyền trưởng con tàu “Kẻ phiêu lưu” và báo ông biết tôi có một
món hàng quý muốn nhờ tàu ông chuyên chở. Sau đó, tôi bắt đầu vội vã chuẩn bị
cho ngày lên đường. Vì vội, tôi buộc phải bán ngôi nhà của Fônxêca và nhiều đồ
vật khác với một giá rất rẻ. Phần lớn sách, bát đĩa và một số vật dụng khác tôi
ra lệnh đóng hòm, gửi tàu theo dòng sông tới Cađix cho những nhà buôn mà các
thương gia ở Iamut đã giới thiệu tôi đến gặp. Chỉ sau khi làm xong những việc
ấy, tôi mới ra đi, mang theo mình tất cả số vàng tôi có được đựng trong những
túi nhỏ giấu kĩ giữa những đồ vật khác.
Thế là sau một năm, tôi
vĩnh viễn rời khỏi Xêvin. Thành phố này đã mang lại may mắn cho tôi. Rất nghèo
khi đến, khi đi đã là người giàu có. Đấy chưa nói tới kinh nghiệm sống mà tôi
học được ở đây, nó cũng không kém phần giá trị. Nhưng dù sao, tôi vẫn thấy mừng
khi ra đi, vì ở đây, ở thành phố này, Hoan đơ Gacxia đã tuột khỏi tay tôi, ở
đây tôi chôn cất người bạn tốt nhất của mình, và cũng ở đây tôi được chứng kiến
cái chết của Ixaben đơ Xiguenxa.
Tôi tới Cađix một cách thuận
lợi, không để mất một vật nhỏ nào, tôi thuê một chiếc thuyền trong cảng, và
chẳng bao lâu sau đã ở trên tầu "Kẻ
phiêu lưu", nơi thuyền trưởng Ben đang chờ tôi. Ông còn khỏe mạnh và
rất vui khi gặp tôi. Nhưng tôi còn vui hơn khi biết ông mang tới cho tôi ba bức
thư: một bức của bố tôi, một của em gái Mery và bức thứ ba của Lyly. Đó là bức
thư duy nhất trong đời mà tôi nhận được của nàng.
Tuy nhiên nội dung của bức
thư ấy không có gì đáng vui lắm. Sức khỏe bố tôi quá sa sút và hầu như ông
không còn dậy nổi khỏi giường. Như sau này tôi được biết, ông chết trong nhà
thờ Đichchingham đúng vào ngày tôi nhận được thư ông. Thư ông viết ngắn và
buồn. Ông nói ông lấy làm tiếc đã để tôi ra đi, và có lẽ sẽ chẳng bao giờ còn
gặp tôi nữa, vì thế, ông luôn cầu Chúa phù hộ cho tôi còn sống và trở lại nước
Anh an toàn.
Còn về bức thư của Lyly mà
nàng đã bí mật gửi khi biết tàu "Kẻ
phiêu lưu" lại sang Cađix, thì nó tuy dài hơn nhưng không kém phần đau
buồn. Nàng viết rằng tôi vừa đi xong, anh Giêfry đã xin được bố nàng đồng ý, và
cả hai bắt đầu tìm mọi cách ép nàng lấy anh. Cuộc sống của nàng trở nên vô cùng
nặng nề: Giêfry không rời nàng nửa bước, còn ông Bôza thì ngày đêm trách móc,
gọi nàng là con lừa bướng bỉnh, ngu ngốc từ chối sự giàu sang, chỉ vì một kẻ
lãng du nào đó.
Anh hãy tin em, anh yêu, - Lyly viết tiếp, - em sẽ không phản
bội lời thề, nếu không bị cưỡng ép phải lấy chồng. Mà họ đã dọa làm điều
ấy. Nhưng thậm chí cả khi họ bắt được em đứng trước bàn thờ dù em không muốn,
thì Tômax ơi, em sẽ không là vợ người khác lâu dài. Em khỏe mạnh, nhưng em sẽ
chết vì buồn và xấu hổ. Tại sao em phải chịu những đau đớn này, phải chăng chỉ
vì anh nghèo? Dù sao em vẫn tin một cách chắc chắn rằng mọi việc dần dần sẽ tốt
hơn, ít ra một phần vì em trai em là Uyngfri đang rất say mê cô em Mery của
anh. Từ trước tới nay nó vẫn giục em lấy Giêfry, nhưng Mery và em thân nhau, và
cô ấy sẽ bắt được Uyngfri ủng hộ ta trước khi nhận lời lấy nó".
Bức thư kết thúc bằng
những lời âu yếm và lời chúc tôi về quê hương an toàn.
Trong thư của mình, cô em
gái Mery của tôi cũng hầu như nói về những chuyện ấy. Nó nói tạm thời nó chưa
thể làm được gì cho tôi và Lyly. Anh Giêfry phát điên lên vì người yêu của tôi
quá ốm yếu, bố tôi quá ốm yếu và không muốn can thiệp vào điều gì, còn ông Bôza
thì đã nhìn ngó tới ruộng đất của chúng tôi, nên cương quyết bắt phải tổ chức
lễ cưới.Tuy nhiên, theo Mery, tất cả những điều ấy sẽ phải thay đổi; vì sắp tới
có thể nó sẽ nói một đôi lời ủng hộ tôi, và hi vọng không phải không có kết
quả.
Những tin như thế làm tôi
suy nghĩ rất lung. Nỗi nhớ nhà một lần nữa trỗi dậy trong tôi, thôi thúc tôi
không dứt. Những lời nói âu yếm và làn hương nhè nhẹ tỏa ra từ bức thư Lyly đã
làm sống lại trước tôi hình ảnh dịu dàng của nàng, làm trái tim tôi đau thắt vì
mong muốn được ở bên nhau. Mặt khác, tôi biết bây giờ tôi sẽ được tiếp đón với
những cánh tay rộng mở, vì từ nay tôi đã giàu có hơn nhiều so với ông anh của
tôi, và ông Bôza sẽ không còn đuổi ra khỏi nhà một chàng rể trong túi có mười
hai ngàn đồng tiền vàng. Cuối cùng, bản thân tôi cũng rất muốn gặp lại bố tôi,
chừng nào ông còn sống!
Tuy nhiên, giữa tôi và Tổ
quốc bị ngăn cách bởi bóng đen của Hoan đơ Gacxia và lời thề của tôi. Tôi chuẩn
bị cho việc trả thù từ lâu, điều ấy bám chặt tôi, đến nỗi bây giờ thậm chí tôi
không thể nghĩ tới cuộc sống hạnh phúc chừng nào mục đích kia chưa thực hiện
được. Để đạt được hạnh phúc, trước hết tôi phải giết Gacxia đã. Tôi tin chừng
nào hắn còn sống, lời thề độc của tôi sẽ bám theo tôi khắp nơi.
Vì vậy, tôi đã làm những
việc như sau: tôi tìm gặp viên chưởng khế, nhờ ông ta viết một bản di chúc, sau
đó tự tôi dịch ra tiếng Anh. Theo bản di chúc ấy, trừ hai trăm đồng pêxô để
riêng cho tôi, tôi chia tất cả gia tài của tôi thành ba phần để trao cho ba
người giữ cho đến ngày tôi quay lại. Ba người ấy là: bác sĩ Grimstơn ở Banghi,
là ông giáo già trung thực của tôi; em gái tôi, - Mery và người yêu của tôi là
Lyly Bôza. Để tăng phần hợp pháp, bản di chúc này được thuyền trưởng Ben và hai
người Anh khác làm chứng, trong đó có nói rõ rằng tôi trao cho ba người nói
trên được quyền sử dụng tài sản của tôi theo ý họ, nhưng với điều kiện một nửa
số tiền phải đầu tư vào ruộng đất, và số còn lại vào những việc thu lợi khác.
Tất cả lợi nhuận và số tiền thu được từ ruộng đất phải được trao cho Lyly Bôza cho
đến khi nàng lấy chồng.
Đồng thời, tôi còn thảo
một bản di chúc khác, theo đó phần lớn gia tài của tôi sẽ thuộc về Lyly Bôza,
nếu đến ngày tôi chết nàng không lấy người khác làm chồng, và số còn lại cho
Mery. Trong trường hợp Lyly lấy chồng hay chết, phần tiền của nàng sẽ được
chuyển sang cho Mery và những người thừa kế của cô.
Khi hai tài liệu ấy được
kí và đóng dấu, tôi trao chúng cho thuyền trưởng Ben cùng tất cả gia tài của
tôi, để ông mang về Banghi và trao cho bác sĩ Grimstơn, là người sẽ trả công
xứng đáng cho ông vì việc này. Ông thuyền trưởng vừa khóc vừa nài tôi cùng trở
về nước Anh, và chỉ khi tôi cương quyết từ chối, ông mới hứa sẽ làm đúng những
điều tôi dặn.
Cùng với vàng và các giấy
tờ ấy, tôi còn gửi thêm mấy bức thư, cho bố tôi, cho Giêfry, Mery, bác sĩ
Grimstơn, ông Bôza, và cuối cùng là cho Lyly. Trong những bức thư ấy tôi kể về
tất cả những gì xẩy ra với tôi kể từ ngày tôi đặt chân lên đất Tây Ban Nha, vì
tôi tin các bức thư trước đấy của tôi đã không tới được nước Anh. Đồng thời tôi
cũng nói rõ việc tôi quyết định sẽ đi tìm Gacxia khắp nơi, cho tới chân trời
góc biển.
Tự anh ra đi và có thể sẽ đánh mất cái hạnh phúc mà anh quý
trọng nhất đời, - tôi viết cho Lyly. - Cứ để người khác nghĩ anh là một kẻ điên
rồ! Nhưng em, em biết rõ trái tim anh và sẽ không lên án anh, dù quyết định của
anh sẽ mang lại cho em nhiều đau khổ. Em biết đấy, một khi anh quyết định làm
cái gì đó, thì không gì có thể bắt được anh thay đổi, trừ cái chết.Vả lại, anh
còn bị ràng buộc bởi một lời thề mà lương tâm không cho phép anh phản bội. Thậm
chí được ở bên em, anh cũng không hạnh phúc, nếu từ bỏ công việc tìm kiếm của
anh. Trước hết là công việc, sau mới đến nghỉ ngơi. Trước hết là đau buồn, sau
mới đến mừng vui. Đừng lo cho anh, anh tin anh sẽ sống và trở về. Còn trong
trường hợp không sống sót để quay lại, anh đã làm tất cả để em không bao giờ
phải lấy chồng trái ý. Nhưng bây giờ, khi Gacxia còn sống, anh phải đuổi theo
hắn.
Còn bức thư tôi viết cho
Giêfry thì rất ngắn, trong đó tôi đã nói tất cả những gì tôi nghĩ về một người
lợi dụng sự vắng mặt của em trai để tán tỉnh cô người yêu đáng thương của anh
ta. Sau này người ta kể lại với tôi rằng bức thư ấy không làm Giêfry thích lắm.
ƠŒ đây tôi muốn dừng lại
để nói thêm rằng tất cả các bức thư và gia tài của tôi đã tới Iamut một cách an
toàn. Sau đó, vàng và các đồ đạc của tôi được đưa đến Lôstôphơ, bốc lên một con
thuyền, và khi dỡ xong các hàng hóa khỏi tàu của mình, thuyền trưởng Ben đã lên
con thuyền ấy đi ngược dòng sông Uêvơni tới Banghi, và ở đây tất cả được chuyển
tới nhà bác sĩ Grimstơn ở phố Nêdơghêt.
Thuyền trưởng Ben đã báo
trước việc này cho bố tôi, Giêfry và Mery, cũng như ông Bôza cùng con trai và
con gái ông; và đúng ngày hôm ấy, tất cả mọi người đã tụ tập ở nhà bác sĩ
Grimstơn, trừ bố tôi, là người đã chết trước đấy hai tháng.
Vô cùng ngạc nhiên, họ
lắng nghe lời ông thuyền trưởng kể, nhưng họ còn ngạc nhiên hơn khi các hòm
vàng được mở ra và họ đưa tay cầm lên xem để kiểm tra với con số được nhắc đến
trong các bức thư của tôi, vì từ xưa tới nay chưa ai ở cả vùng Banghi của chúng
tôi được nhìn thấy một số vàng lớn như thế.
Lúc ấy Lyly đã òa lên
khóc, lúc đầu vì vui mừng rằng từ nay tôi đã thành giàu có, còn sau vì buồn
rằng tôi đã không trở về cùng số của cải này. Còn ông Bôza thì sau khi nhìn thấy
vàng và nghe đọc lời di chúc trong chốc lát đã biến Lyly thành một người phụ nữ
giàu có, bất kể tôi còn sống hay chết, ông vội nói to với mọi người rằng bao
giờ ông cũng chỉ nghe tốt về tôi. Sau đó ông ôm hôn con gái, và chúc nàng đã
gặp may mắn. Tóm lại, ai cũng hài lòng, trừ ông anh tôi, là người vội bỏ ra
khỏi nhà mà không nói với ai một lời nào. Từ hôm ấy, Giêfry bắt đầu tìm cách
quấy phá, càng ngày càng tồi tệ hơn, vì có thể nói rằng anh ta đã bị tước mất
cốc rượu ngon đã kề sát miệng nhưng chưa kịp uống ngụm nào. Được thừa hưởng
toàn bộ ruộng đất của bố tôi, Giêfry nghĩ Lyly nhất định thế nào cũng lấy anh
ta làm chồng, hoặc tự nguyện, hoặc bị bắt buộc, thậm chí cả ngày nay ông bố
cũng có quyền ép duyên con gái, nhất là khi con mình chưa tới tuổi thành niên,
mà ông Bôza thì bao giờ cũng cho rằng chẳng cần đếm xỉa đến ý kiến của con gái,
và ông sẽ không chịu dừng lại trước bất kì điều gì để đạt được mục đích.
Nhưng từ hôm ấy mọi chuyện
thay đổi hẳn, - đúng là sức mạnh của đồng tiền lớn thật! Chẳng còn ai nhắc tới
việc gả Lyly cho người nào đó ngoài tôi. Giả sử Lyly có muốn thế thì bây giờ
ông bố chính là người sẽ ngăn nàng lại, vì nếu không, nàng sẽ mất toàn bộ số
tiền tôi ghi trong di chúc. Nhưng để bù lại, mọi người vẫn tiếp tục lên án tôi
là ngu ngốc, trách tôi không từ bỏ lời thề mà thậm chí còn quyết định đi tới
miền Tây Ấn xa xôi để tìm kiếm Gacxia. Ông Bôza thì tự an ủi rằng trong trường
hợp nào, tôi sống hay chết, số tiền nói trên vẫn thuộc về con gái ông. Chỉ một
mình Lyly là ủng hộ tôi. Nàng nói:
- Tômax đã thề, và anh ấy
phải thực hiện lời thề ấy. Đó là vấn đề tự trọng; từ nay tôi sẽ chờ anh ấy cho
tới khi chúng tôi gặp nhau, ở thế giới này hoặc thế giới bên kia!
Tuy nhiên, nhắc tới những
điều này ở đây là không đúng chỗ, vì mãi rất nhiều năm sau tôi mới biết được
chúng.
XI
ĐẮM TÀU
Sang ngày hôm sau, khi
giao cho thuyền trưởng Ben tất cả thư từ và tài sản của tôi xong, tàu "Kẻ phiêu lưu" từ từ rời cảng
Cađix. Nhìn theo nó, tôi bỗng cảm thấy buồn kinh khủng, đến mức, thú thật, tôi
đã khóc. Tôi sẵn sàng từ bỏ tất cả gia tài của tôi trên đó để thay chúng được
trở về nước Anh. Nhưng quyết định của tôi là bất di bất dịch, và hàng chục năm
sau tôi mới được trở lại quê hương, trên một con tàu khác.
Lúc ấy trong cảng có một
chiếc tàu Tây Ban Nha rất lớn, tên là "Las
Cinque Llagac", hay là "Năm
vết thương của Giêsu" đang chuẩn bị đi Espanhiôla. Dưới cái tên nhà
buôn Đaila, tôi đã xin được lên đi nhờ tàu ấy. Để khỏi bị phát giác, tôi đem
một trăm năm mươi đồng pêxô mua những thứ hàng nghe nói ở Tây Ấn đang khan hiếm
để mang theo. Tầu chở đầy những tay ưa phiêu lưu mạo hiểm người Tây Ban Nha,
phần lớn thực chất là những tên lừa đảo bịp bợm đủ loại với các tiểu sử li kì
nhất. Tuy nhiên, khi chưa uống rượu say, họ cũng là những bạn đường có thể chấp
nhận được. Lúc này tôi đã nắm vững thành thạo thổ ngữ Caxtili, cộng với vẻ
ngoài rất giống Tây Ban Nha, nên khó có thể nghĩ tôi là người Anh, điều này đã
được tôi khai thác để phịa ra một câu chuyện thích hợp về hoàn cảnh gia đình và
những lí do khiến tôi vượt biển đi tìm hạnh phúc nơi đất khách quê người. Tóm
lại, mặc dù tôi là người điềm đạm và không tham gia các cuộc vui chung, chẳng
bao lâu sau mọi người đã tỏ ra yêu mến tôi, nhưng chủ yếu vẫn do tôi nhiệt tình
chữa bệnh cho họ.
Nói chung chẳng có gì đáng
kể về chuyến du hành này, trừ cái phần kết đáng buồn của nó. Chúng tôi sống một
tháng ở các đảo Canarơ, sau đó lên đường đi Espanhiôla, và suốt đường đều gặp
gió thuận, tuy hơi yếu.
Khi cách Xantô - Đômingô,
địa điểm cuối cùng của chúng tôi, theo lời ông thuyền trưởng chỉ còn một tuần
lễ nữa, thì bỗng nhiên thời tiết thay đổi đột ngột. Từ phía bắc ập xuống một
cơn bão khủng khiếp mỗi lúc một mạnh thêm. Ba ngày ba đêm liền con tàu già nua
của chúng tôi phải rên rỉ, vặn vẹo dưới những cú đòn ghê gớm của cơn bão đang
thổi dạt chúng tôi không biết đi đâu. Cuối cùng ai cũng biết rằng nếu bão không
ngớt, tất cả chúng tôi sẽ chìm xuống đáy biển. Con tàu bị sứt mẻ nhiều chỗ, một
cột buồm bị gió cuốn, cột thứ hai bị gãy phần trên, cách boong độ sáu bảy mét.
Nước bắt đầu chảy vào hầm tàu. Nhưng tất cả những điều ấy chẳng nghĩa lí gì so
với điều xảy ra vào ngày thứ tư. Một cơn sóng khổng lồ làm gẫy bánh lái, và con
tàu bất lực của chúng tôi từ phút đó hoàn toàn phụ thuộc vào quyền lực của sóng
biển. Độ một giờ sau đó, cơn phẫn nộ của đại dương một lần nữa đổ ập xuống
boong tàu, làm lật tờ neo và nước ùa vào khoang. Bây giờ thì cái chết là không
thể tránh khỏi.
Và chính lúc ấy lại bắt
đầu xẩy ra điều kinh khủng nhất. Những ngày trước đó thủy thủ và hành khách thi
nhau uống rượu để cố xua đi nỗi sợ. Bây giờ, khi cái chết đang đến gần, họ bắt
đầu nháo nhác đi lại trên tàu. Tiếng cầu kinh, tiếng rên khóc và chửi rủa hòa
lẫn vào nhau thành một bản đồng ca hỗn độn. Những người không say tìm cách hạ
thuyền xuống nước. Tôi và một vị linh mục tử tế khác cố cho phụ nữ và trẻ con
xuống thuyền, - trên tàu, họ không ít, - nhưng làm điều đó không dễ. Những
người thủy thủ say rượu gạt chúng tôi sang bên để nhảy xuống thuyền. Một chiếc
lật úp và tất cả những ai đã ngồi trong đó liền chìm ngay xuống biển. Đúng lúc
ấy con tàu nghiêng hẳn và nhanh chóng làm mồi cho hà bá.
Thấy không chờ thêm được
nữa, tôi nói với ông linh mục hãy làm theo tôi rồi nhảy xuống nước bơi về phía
chiếc thuyền thứ hai, nơi đang có mấy người phụ nữ vừa kêu lên hoảng sợ, vừa cố
chèo chống một cách vô ích. Tôi bơi không đến nỗi tồi, không những tới thuyền
một cách bình yên, mà còn tiếp cứu ông linh mục đang sắp chìm.
Trong lúc ấy, mũi con tàu
nhô cao, rồi chìm dần phía đuôi xuống nước. Nó ở tư thế ấy trong hai phút, đủ
để chúng tôi chèo thuyền xa nó một quãng. Đang mải miết chèo, bất chợt chúng
tôi nghe có tiếng rú lên tuyệt vọng của những người đang ở trên boong, và con
tàu lập tức biến mất. Nếu ở gần, nó sẽ kéo cả chúng tôi xuống đáy.
Trong mấy giây chúng tôi
ngồi yên, sững sờ và khiếp sợ. Sau đó, khi nước trên chỗ con tàu vừa chìm không
sủi bọt nữa, chúng tôi bắt đầu bơi ngược lại. Xung quanh đầy các mảnh vỡ,
nhưng chúng tôi chỉ cứu được một đứa bé đang bám vào mái chèo. Còn lại hai trăm
người trên boong đã theo tàu chìm xuống nước. Có thể lúc ấy đang còn ai đó sống
sót, nhưng trời tối dần nên chúng tôi không nhìn thấy.
Như thế cũng may cho chúng
tôi, vì trong thuyền đã mười người, và không còn chỗ cho bất kì một người nào
khác. Điều duy nhất bây giờ chúng tôi có thể làm được là giữ mũi thuyền cắt
ngang những ngọn sóng. Bằng cách ấy chúng tôi đã trải qua một đêm dài vô tận.
Tôi lấy làm lạ khi nhìn thấy, hay nói đúng hơn, nghe thấy ông bạn linh mục tốt
bụng của tôi vừa chèo thuyền vừa nghe hết người phụ nữ này đến người phụ nữ
khác xưng tội, và nghe xong, ông đã làm lễ rửa tội cho họ. Ông cầu nguyện Đức
Chúa cứu rỗi linh hồn chúng tôi, vì việc cứu thể xác thì chẳng ai còn hi vọng.
Đêm ấy, tôi đã trải qua những điều bản thân tôi cũng khó hình dung nổi nhưng
tôi sẽ không dừng lại kể, vì trước mắt còn nhiều điều khác tồi tệ hơn đang chờ
đợi tôi, và tôi sẽ buộc phải kể về chúng.
Cuối cùng đêm qua, và bình
minh hé rạng trên đại dương mênh mông, vắng vẻ. Mặt trời lên dần. Lúc đầu,
chúng tôi lấy thế làm mừng vì được sưởi ấm lại, nhưng chẳng bao lâu sau, cái
nóng đã trở nên không sao chịu nổi. Trong thuyền không có cả thức ăn lẫn nước
uống, và chúng tôi bắt đầu bị cái khát giày vò.
Trong lúc ấy gió thổi từng
đợt mạnh, chuyển dần thành từng đợt đều và nhẹ hơn. Bằng mái chèo và những tấm
chăn, chúng tôi dựng lên một cái gần như cánh buồm, và con thuyền của chúng tôi
lao đi khá nhanh về phía trước. Nhưng đại dương vô bờ bến, mà chúng tôi thì
không biết đang trôi giạt về hướng nào.
Mỗi lúc cơn khát càng trở
nên gay gắt hơn. Khoảng gần trưa một đứa bé bỗng chết và chúng tôi đã cho xác
nó xuống biển. Ba giờ sau, mẹ nó lấy mũ múc nước biển uống ừng ực. Lúc đầu cơn
khát tưởng như dịu xuống, nhưng liền sau đó bà ta hóa điên. Bà ta đứng bật dậy,
nhảy khỏi thuyền và chìm ngay lập tức. Khi mặt trời như một chiếc đĩa tròn được
nung đỏ, cuối cùng ngả dần về phía tây, chỉ còn lại hai người có thể ngồi vững
trên thuyền là ông linh mục và tôi. Những người còn lại nằm ngổn ngang trong
thuyền như những con cá chết, khẽ rên rỉ một cách rất thương tâm. Đêm lại đến,
không khí mát dịu hơn, và điều ấy làm chúng tôi đỡ khổ ít nhiều. Chúng tôi cầu
Chúa ban cho cơn mưa, nhưng vô ích, và khi mặt trời lại xuất hiện trên khoảng
không trong xanh, chúng tôi hiểu rằng đây là lần cuối cùng được nhìn thấy nó,
nếu không được một điều kì diệu nào đấy bất ngờ cứu thoát. Trời lại nóng kinh
khủng.
Hai giờ sau, một đứa trẻ
khác lại chết. Khi chúng tôi hạ xác nó xuống biển, tôi vô tình ngước lên và
bỗng nhiên nhìn thấy một con tàu phía xa. Con tàu ấy đang đi về phía chúng tôi.
Tạ ơn Chúa vì điều kì diệu ấy, tôi và ông linh mục lại mệt nhọc chèo thuyền
thẳng hướng con tàu đó. Gió thổi quá yếu, nên chiếc buồm tội nghiệp của chúng
tôi đã không còn kéo nổi con thuyền đi thêm, dù chỉ mấy mét.
Cứ thế chúng tôi chèo gần
một giờ. Gió ngừng thổi hẳn, con tàu với những cánh buồm ủ rũ đứng lặng, cách
chúng tôi ba dặm. Tôi và ông linh mục vẫn đem hết sức lực cuối cùng còn lại để
chèo. Tôi có cảm giác như tôi đang chết dưới những tia mặt trời nóng bỏng.
Không một gợn gió nào làm dịu bớt cái nóng tàn nhẫn, môi chúng tôi nứt nẻ vì
khát. Nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục chèo cho đến khi bóng của những chiếc buồm
rơi vào thuyền và nhìn thấy những người thủy thủ đang đứng quan sát chúng tôi
trên boong. Mấy phút sau, chúng tôi tiến lại sát thành tàu, và từ trên cao một
chiếc thang bằng dây thừng được hạ xuống, chúng tôi nghe có người nói chuyện
bằng tiếng Tây Ban Nha.
Tôi không nhớ chúng tôi đã
leo lên tàu như thế nào. Tôi chỉ nhớ tôi nằm lăn dưới bóng cột buồm và bắt đầu
ừng ực uống hết cốc nước này đến cốc nước khác mà người ta đưa cho tôi. Cuối
cùng tôi không thấy khát nữa, nhưng bỗng nhiên lại buồn nôn, đầu óc quay cuồng
đến mức tôi không thể ăn một miếng thức ăn nào, dù được đưa tận miệng. Hình như
lúc ấy tôi ngất đi, và khi tỉnh lại, mặt trời đã ở ngay trên đầu.
Tôi vẫn nghĩ tôi đang ngủ.
Không hiểu sao tôi như nghe có một giọng nói quen thuộc và khó chịu, dù thực ra
tôi đang nằm một mình cạnh cột buồm: tất cả thủy thủ trên tàu tập trung ở phía
mũi quanh một vật gì đó, hình như là một người đang nằm trên boong. Cạnh tôi là
một chiếc đĩa lớn đựng đầy thức ăn và một chai rượu mạnh. Cảm thấy sức lực đã
trở lại, tôi ăn uống một cách ngấu nghiến cho đến khi no mới thôi.
Trong lúc ấy, những người
thủy thủ trước mũi tàu nâng người đang nằm ở đó vứt xuống biển. Tôi kịp nhận
thấy da anh ta màu đen. Sau đó ba người, - theo quần áo tôi đoán là sĩ quan, -
đi lại phía tôi. Tôi nhổm dậy để chào họ.
- Chào ông, - người sĩ
quan cao nhất nói bằng giọng nhẹ nhàng và lịch sự, - xin phép được chúc mừng
ông đã nhờ một phép lạ mà...
Nhưng ông ta bỗng im bặt.
Không lẽ tôi đang mê
chăng? Tôi nghe giọng nói này quen thuộc một cách lạ lùng. Tôi ngước mắt nhìn
thẳng vào mặt ông ta và thấy đang đứng trước tôi là Hoan đơ Gacxia!
Về phần hắn, hắn cũng nhận
ngay ra tôi.
- Quỷ tha ma bắt tôi đi! -
Hắn kêu lên. - Tôi gặp ai thế này! Chào ông, ông Tômax Uyngfin. Này các cậu ơi,
lại đây mà xem chúng ta đã cứu được ai! Cái thằng nhãi này không phải là người
Tây Ban Nha, hắn là một tên thám báo người Anh. Lần cuối cùng tôi gặp hắn trên
đường phố Xêvin, nơi hắn định giết tôi vì tôi muốn bắt hắn trao cho nhà chức
trách. Còn bây giờ thì hắn lại ở đây, với mục đích gì thì phải hỏi hắn mới biết
được.
- Không đúng, - tôi cãi
lại. - Tôi không phải thám báo, và tới vùng này chỉ vì chuyện riêng của tôi.
Tôi muốn tìm gặp ông.
- Thế thì ông bạn gặp may
đấy. Rất gặp may! Nhưng liệu cuộc gặp gỡ này có mang lại điều gì tốt đẹp cho
ông không, thưa ông? Còn bây giờ thì hãy nói tôi biết, không lẽ chính ông là
Tômax Uyngfin và ông là người Anh?
- Đúng, thế nhưng tôi...
- Gượm đã! Tại sao ông bạn
linh mục của ông nói với tôi rằng ông đi trên tàu"Las Cinque Llagas" dưới cái tên Đaila?
- Tôi có những lí do riêng
để làm điều ấy, Hoan đơ Gacxia.
- Ông nhầm rồi, thưa ông.
Tên tôi là Xacxêđa, bạn bè của tôi ở đây có thể chứng minh điều đó. Ngày xửa
ngày xưa tôi có biết một nhà quý tộc tên là Đơ Gacxia, nhưng ông ta chết từ
lâu.
- Ông nói dối! - Tôi kêu
lên, nhưng đúng lúc ấy một trong những đứa bạn của Gacxia đã đánh vào răng tôi.
- Bình tĩnh, anh bạn, -
Gacxia ngăn hắn lại. - Đừng làm bẩn tay anh vì con chuột hôi này làm gì. Còn
nếu ngứa tay chân thì cứ lấy gậy mà đánh. Các cậu nghe hắn nói rồi chứ, hắn thú
nhận rằng hắn tới đây dưới một cái tên giả, và rằng hắn là công dân nước Anh,
một trong những kẻ thù của chúng ta. Tôi có thể nói thêm rằng bản thân tôi biết
rõ hắn là một tên thám báo đã nhiều lần định ám sát người khác. Tôi có thể thề
với các cậu như vậy. Còn bây giờ, thưa các bạn, vì ở đây chúng ta đại diện cho
nhà vua và được tuỳ mình giải quyết mọi việc, chúng ta phải tuyên án cho hắn.
Và để không ai nghĩ tôi đã không theo đúng luật mà làm hại con chó Anh này chỉ
vì hắn dám gọi tôi là kẻ nói dối, tôi xin trao quyền quyết định cho các bạn.
Tôi định lên tiếng cãi
lại, nhưng tên Tây Ban Nha vừa rồi đánh tôi, một thằng khốn nạn có khuôn mặt kẻ
cướp, đã vội rút kiếm thề rằng, nếu tôi mở miệng lần nữa, hắn sẽ giết tôi ngay
lập tức. Vì thế tôi quyết định im lặng là hơn.
- Thằng người Anh này mà
treo lên cột buồm thì trông cũng không đến nỗi nào! - Hắn nói.
Với vẻ hoàn toàn thờ ơ,
Gacxia lẩm bẩm hát một điệu gì đó. Hắn ngước nhìn cột buồm, rồi lại nhìn lên cổ
tôi. Hắn mỉm cười, cái nhìn đầy căm thù của hắn đốt cháy tôi như lửa.
- Tôi có một đề nghị còn
tốt hơn, - một tên sĩ quan khác lên tiếng. - Nếu chúng ta treo hắn lên, chắc sẽ
có lời bàn tán. Thậm chí nếu không có gì xảy ra, thì dù sao chúng ta cũng để
mất một món lợi. Thằng cha này khoẻ mạnh và có lẽ sẽ sống được ở các hầm mỏ ít
năm. Tôi đề nghị đem hắn bán cùng các thứ hàng còn lại. Nếu các cậu không phản
đối, chính tôi sẽ mua hắn. Tôi cần những thằng như hắn ở trang trại của tôi!
Nghe thế, khuôn mặt Gacxia
tái đi. Tất nhiên hắn muốn giết quách tôi một lần cho xong, nhưng vì cẩn thận,
hắn không dám phản đối.
- Tôi thì thế nào cũng
được, - hắn vừa nói vừa giả vờ ngáp. - Cậu có lấy không hắn cũng chẳng sao. Có
điều phải cẩn thận kẻo hắn lại cắm dao vào lưng cậu.
Tên sĩ quan kia cười to và
đáp:
- Chắc gì hắn có điều kiện
để làm thế! Tôi chẳng bao giờ tới hầm mỏ mà anh bạn đáng yêu này của chúng ta thì
phải sống những ngày cuối cùng của đời mình ở sâu dưới lòng đất ba mươi mét.
Còn bây giờ, anh bạn người Anh ạ, tôi nghĩ tốt nhất anh nên xuống hầm tàu.
Tên sĩ quan gọi một người
thuỷ thủ tới và ra lệnh mang đến cho tôi những chiếc cùm được tháo từ một xác
chết. Chúng lục soát khắp người tôi, lấy đi số vàng còn lại, sau đó chúng xích
hai chân và cổ tôi lại bằng một dây xích chung rồi lôi xuống khoang tàu. Trước
khi tới đó, tôi đã đoán và hiểu cái món "hàng" đặc biệt của con tàu
là gì. Nó chở những người nô lệ cướp được ở Fecnanđina, - đấy là cái tên những
người Tây Ban Nha gọi hòn đảo Cuba, - đem tới bán ở Espanhiôla. Bây giờ tôi là
một trong những người nô lệ như thế.
Tôi không biết phải miêu
tả thế nào tất cả những cảnh rùng rợn trong khoang tàu, nơi tôi được dẫn tới.
Khoang tàu thấp, chưa đầy hai mét, nô lệ mang xích nằm ngay trên đáy tàu, giữa
những vũng nước bẩn. Nô lệ nhiều tới mức họ chỉ được nằm, xích móc vào các vòng
tròn dính lên trên thành tàu. Cách đây một tuần, tổng cộng số người được tống xuống
hầm tàu phải hơn hai trăm người, gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con, nhưng bây giờ
con số ấy bị giảm một ít. Khoảng hai mươi người đã chết, như thế được xem là
không nhiều vì người Tây Ban Nha thường dự tính trước rằng ti lệ hao hụt của
thứ “hàng hóa” đặc biệt này là một phần ba hay thậm chí một nửa.
Khi đã ở trong hầm tàu,
tôi cảm thấy mệt mỏi kinh khủng. Không gì, tôi cũng đã sống dở chết dở, thêm
vào đó lại còn phải chịu đựng những tiếng kêu rùng rợn, mùi hôi thối lợm giọng
và cả những điều đang hiện ra trước mắt tôi dưới ngọn đèn mờ mờ trên tay những
tên cai ngục đang đi lại trong hầm tàu, nơi ánh sáng và không khí không lọt vào
được. Không để ý tới những điều ấy, chúng cứ lôi tôi đi và chẳng bao lâu tôi đã
bị xích lại giữa những người đàn ông và đàn bà da đen. Hai chân tôi đứng ngập
trong nước bẩn.
Để giễu tôi, trước lúc rút
lui, bọn Tây Ban Nha còn nói rằng đối với người Anh, một chiếc “giường” thế này
đã là quá sang trọng. Tôi đứng vững một lúc, sau đó cơn buồn ngủ và sự tê dại
kéo đến, và tôi chìm dần vào bóng tối. Cứ thế một ngày đêm trôi qua.
Khi mở mắt, tôi thấy đứng
cạnh tôi, tay cầm đèn chính là tên Tây Ban Nha đã mua tôi, hắn quan sát những
tên khác tháo xích khỏi chân một người đàn bà da màu gắn liền với xích của tôi.
Cô ta đã chết, dưới ánh sáng ngọn đèn, tôi kịp nhìn thấy cô ta chết vì một thứ
bệnh khủng khiếp mà từ trước tới nay tôi chưa gặp. Sau này, tôi được biết thứ
bệnh đó gọi là "buồn nôn đen".
Người đàn bà này không phải là nạn nhân duy nhất của nó, vì ngoài cô ta, tôi
còn đếm được hai mươi xác chết nữa. Họ được lần lượt đưa ra khỏi hầm tàu. Nhiều
nô lệ khác cũng mắc bệnh đang chờ chết.
Bọn Tây Ban Nha tỏ ra rất
lo lắng. Chúng không biết đối phó thế nào với thứ bệnh khủng khiếp này ngoài
việc quét dọn và thông gió hầm tàu, bằng cách tháo bỏ một vài tấm gỗ che ngay
trên đầu chúng tôi. Nếu không làm thế, có lẽ tất cả chúng tôi đã chết.
Tôi tin tôi không lây bệnh
chỉ vì tôi ở kề bên một lỗ thông hơi lớn nhất trên boong, và khi đứng thẳng,
chừng nào dây xích cho phép, tôi có thể hít thở thứ không khí tương đối sạch
sẽ.
Phân phát cho chúng tôi
nước uống và một ít bánh khô nhạt nhẽo xong, bọn Tây Ban Nha liền bỏ đi. Tôi
uống nước một cách thèm khát, nhưng bánh thì không ăn nổi vì chúng đã mốc.
Những gì tôi nghe và nhìn
thấy xung quanh khủng khiếp tới mức tôi không muốn viết ra đây. Mặt trời hun
nóng boong tàu ngột ngạt không chịu nổi. Tàu đứng yên một chỗ: tôi hiểu bên
ngoài không có gió, và chúng tôi đang tự do trôi trên biển.
Gượng đứng trên hai chân,
tôi tì gót chân vào thanh gờ dưới đáy tàu, lưng tựa vào thành. Trong tư thế ấy,
tôi nhìn rõ chân những người đang đi trên boong. Bỗng nhiên trước mắt tôi
thoáng qua bộ quần áo của người linh mục. Tôi nghĩ có lẽ đó là ông bạn đồng
hành đã cùng tôi sống sót sau vụ đắm tàu. Tôi tìm cách làm ông ta chú ý, và một
lúc sau đã thành công. Khi biết người ở dưới hầm tàu là ai, ông linh mục nằm
xuống boong giả vờ nghỉ, và chúng tôi đã nói chuyện với nhau một lúc.
Ông báo cho tôi biết biển
đang lặng gió đúng như tôi đoán, và rằng trên tàu đang có bệnh dịch hoành hành,
- nó đã giết chết một phần ba thủy thủ. Ông còn nói thêm rằng đó là sự trừng
phạt của Chúa vì sự độc ác và những việc làm tội lỗi của chúng.
Nghe thế, tôi liền đáp
rằng Chúa trừng phạt không chỉ bọn chủ nô, mà cả những người nô lệ. Tôi hỏi,
Gacxia, hay Xacxêđa như bè bạn hắn vẫn gọi, bây giờ đang ở đâu và thế nào?
Ông linh mục nói sáng nay
hắn đã bị lây bệnh. Tin này làm tôi vui mừng, vì nếu trước kia tôi căm thù hắn,
thì dễ hiểu bây giờ tôi đang mong muốn hắn chết như thế nào.
Sau đó ông linh mục bỏ đi,
nhưng một lúc sau đã quay lại. Ông mang đến cho tôi một cốc nước chanh mà tôi
cảm thấy như thứ nước thần thánh, ít thức ăn ngon và hoa quả. Tất cả những thứ
ấy ông đưa cho tôi qua lỗ hổng trên boong. Vất vả lắm, tôi mới đưa đôi tay bị
xích lấy được thức ăn và liền ngấu nghiến ăn ngay không sót một mẩu nào.
Sau đó, ông linh mục bỏ đi, làm tôi rất luyến tiếc. Chỉ sáng hôm sau tôi mới
biết được nguyên nhân vì sao ông bỏ đi.
Một ngày nữa trôi qua,
tiếp đến là một đêm dài vô tận. Cuối cùng bọn Tây Ban Nha lại xuất hiện trong
hầm tàu. Lần này chúng phải lôi lên bốn mươi xác chết; trong thời gian qua số
người lây bệnh còn nhiều hơn trước. Khi bọn Tây Ban Nha đi khỏi, tôi lại bắt
đầu đứng dậy, chờ đợi ông bạn linh mục của mình. Nhưng tôi đã chờ đợi một cách
vô ích: ông không còn xuất hiện nữa.
XII
TÔMAX THOÁT CHẾT
Tôi đứng hơn một giờ, cổ
mỏi tưởng sắp gãy, và chờ đợi ông linh mục. Cuối cùng, khi tôi sắp ngã xuống
sàn vì không còn sức chịu đựng thêm nữa trong tư thế gò bó ấy, qua lỗ hổng tôi
chợt nhìn thấy bóng một chiếc váy phụ nữ. Tôi nhận ra ngay đó là của một bà đã
thoát chết cùng chúng tôi trên thuyền.
- Thưa bà, - tôi khẽ nói.
- Xin vì Chúa hãy lắng nghe tôi! Tôi đây, tôi là Đaila đây, tôi đang ở đây,
giữa những người nô lệ. Người ta đã xích chặt hai chân tôi.
Người đàn bà rùng mình,
nhưng sau đó, cũng như ông linh mục, bà ta ngồi xuống và được tôi kể cho nghe
những điều kinh khủng trong hầm tàu và cả việc vì sao tôi rơi vào đây. Lúc ấy,
tôi không nghĩ bà đã biết hết mọi chuyện.
- Nhưng than ôi, thưa ông,
chúng tôi trên này cũng chẳng sung sướng hơn mấy, - bà ta đáp. - Bệnh dịch đang
làm hại tất cả mọi người. Sáu thủy thủ đã chết, số người hấp hối còn nhiều hơn.
Thà hôm ấy chúng ta cùng chết chìm với mọi người còn hơn! Thoát khỏi biển, chúng
ta lại rơi đúng vào địa ngục. Mẹ tôi đã chết, còn đứa em nhỏ thì đang hấp hối.
- Ông linh mục đâu rồi? -
Tôi hỏi.
- Ông ấy chết sáng hôm
nay; xác vừa bị vứt xuống biển. Trước khi chết, ông ấy kể cho tôi nghe về ông
và yêu cầu nếu có thể được thì giúp đỡ. Nhưng lúc đó ông ấy nói đã lẫn lộn và
tôi nghĩ ông ta đang mê sảng. Vả lại, tôi biết giúp ông điều gì bây giờ?
- Có thể bà sẽ kiếm được
thức ăn và nước uống cho tôi, - tôi đáp. - Tiếc là ông bạn của chúng ta không
còn nữa, cầu Chúa phù hộ cho linh hồn ông ta. Còn thuyền trưởng Xacxêđa thì
sao, ông ta chết chưa?
- Thưa ông, chưa. Ông ta
là người duy nhất chống chọi nổi với bệnh tật, và hiện giờ đang dần dần bình
phục. Xin lỗi, tôi phải đến với đứa em của tôi. Lát nữa tôi sẽ mang thức ăn tới
cho ông.
Bà ta bỏ đi, nhưng một lát
sau đã quay lại với một ít thức ăn và một bình rượu được giấu trong các vạt áo.
Thế là một lần nữa tôi lại được ăn no, vừa ăn tôi vừa thầm cảm ơn lòng tốt của
bà.
Người đàn bà ấy đã nuôi
sống tôi trong hai ngày, lén lút mang thức ăn vào ban đêm. Đêm thứ hai, bà nói
đứa em của bà đã chết, và hiện giờ trên tàu chỉ còn lại mười lăm thủy thủ và
một sĩ quan còn khỏe mạnh. Bà cũng cảm thấy bà đã bị lây bệnh. Bà nói thêm rằng
lượng nước dự trữ trên tàu sắp cạn, còn thức ăn thì đã hết. Sau hôm ấy, tôi
chẳng còn nhìn thấy bà nữa và nghĩ bà đã chết. Hai mươi giờ sau cuộc gặp gỡ
cuối cùng với bà; bản thân tôi cũng rời bỏ con tàu đáng nguyền rủa ấy.
Suốt ngày không hề có ai
xuống hầm tàu để theo dõi hay cho nô lệ ăn. Mà rồi phần lớn nô lệ bây giờ chẳng
cần phải trông coi nữa. Chỉ một ít còn sống sót, nhưng như tôi thấy, cả những
người này cũng bị lây bệnh. Bản thân tôi thì không, có lẽ vì dạo ấy tôi có một
sức khỏe rất tốt, nó đã giúp tôi tránh khỏi chứng cảm cúm và các loại bệnh tật
khác. Thêm vào đó, thức ăn của tôi tốt hơn nhiều. Nhưng tôi cảm thấy không thể
chịu đựng lâu hơn được nữa. Bị xích chặt giữa những xác chết, trong một chiếc
quan tài kinh tởm đang trôi giữa biển, tôi mong muốn cái chết như mong muốn một
lối thoát nhẹ nhàng khỏi những sự đau đớn và kinh khủng này.
Lại một ngày như thế nữa
trôi qua, và vẫn với cái nóng ngột ngạt ấy. Sau đó là đêm đen với tiếng kêu man
dại và tiếng khóc của những người đang chết. Thế mà tôi vẫn ngủ thiếp được, và
trong mơ tôi đã đi dạo cùng người yêu trên bờ sông Uêvơni thân thuộc.
Rạng sáng hôm sau, tôi
thức dậy vì tiếng sắt thép va vào nhau. Mở mắt, tôi thấy mấy tên Tây Ban Nha
đang soi đèn tháo xích cho tất cả nô lệ, - sống cũng như chết. Tháo xích xong,
chúng lấy dây thừng cột vào xác chết hay những người đang hấp hối rồi những đứa
đứng phía trên kéo lên boong. Sau đó, ngoài thành tàu nghe có tiếng nước té, -
đó là phần kết của công việc. Tôi hiểu bọn Tây Ban Nha quyết định vứt tất cả
những người nô lệ xuống biển vì không đủ nước uống, và vì hi vọng điều ấy có
thể cứu những người còn sống khỏi bị lây bệnh.
Bọn Tây Ban Nha tiến về
phía tôi mỗi lúc một gần hơn. Một lát sau, giữa chúng và tôi chỉ còn lại hai
người nô lệ da đen, một đã chết, một còn sống. Sau họ sẽ đến lượt tôi. Biết
trước điều gì đang chờ đợi mình, tôi bắt đầu suy nghĩ nên hành động ra sao. Nói
với chúng rằng tôi đang sống và bệnh tật chưa động đến tôi rồi xin tha chết,
hay cam chịu bị vứt xuống biển? Tôi rất muốn sống, nhưng việc tôi quyết định
không cố gắng chống chọi chút nào nữa và sẽ chờ đón cái chết như chờ đón một sự
giải thoát, đủ chứng tỏ những điều kinh khủng mà tôi phải trải qua đã làm tôi
suy sụp về tinh thần và thể xác như thế nào. Vả lại, tôi biết trước rằng có cố
tìm cách sống sót cũng vô ích. Bọn thủy thủ Tây Ban Nha đã phát điên vì hoảng
sợ, chỉ nghĩ một điều là nhanh chóng thoát khỏi những tên nô lệ luôn đòi uống
nước, và điều quan trọng nhất là chúng nghĩ chính họ đã gây nên căn bệnh này.
Vì vậy tôi thầm đọc tất cả những bài kinh mà tôi có thể nhớ rồi sẵn sàng chờ
chết. Nhưng dù linh hồn tôi cứng rắn đến đâu, thể xác tội nghiệp của tôi vẫn
run rẩy lo sợ cái chết đang đến gần và những điều còn chưa biết sau nó.
Thế là sau khi kéo lên
boong người bạn cùng cảnh ngộ còn sống bị xích chung với tôi, bọn Tây Ban Nha
đã bắt đầu sờ tới tôi. Đám thủy thủ nửa trần truồng này làm việc hùng
hục, cố nhanh chóng thoát khỏi cái công việc mà chúng ghê tởm. Người chúng bóng
nhẫy mồ hôi, và để khỏi ngất xỉu, giây lát chúng lại tợp từng ngụm rượu lớn.
- Cái thằng này còn sống
và hình như chưa bị bệnh, - một đứa vừa tháo xích cho tôi vừa nói.
- Sống hay chết thì cũng
phải nhanh chóng quẳng hắn xuống biển! - Một đứa khác bực dọc đáp, tôi nhận ra
hắn chính là tên sĩ quan muốn nhận tôi làm nô lệ. - Thằng chó ghẻ người Anh này
đã mang tai họa lại cho chúng ta. Quẳng hắn xuống biển! Cứ để lũ cá mập làm bạn
với hắn!
- Đúng đấy, - tên thủy thủ
đáp, và bằng một nhát búa cuối cùng đã giải thoát tôi khỏi dây xích. Cứ tống ra
khỏi cửa là ổn. Tên người Anh kia, cầu Chúa đi, có lẽ lời cầu sẽ giúp mày đỡ khổ
hơn một ít so với những đứa còn lại trên con tàu bị Chúa nguyền rủa này. Rượu
đây, uống đi để làm giảm nhẹ cái chết.
Nói rồi, hắn chìa cho tôi
chai rượu của hắn. Tôi vồ lấy, uống ừng ực từng ngụm lớn. Rượu làm tôi sảng
khoái hơn đôi chút. Sau đó, chúng lấy dây thừng cột vào người tôi, ra hiệu, và
những đứa trên boong bắt đầu kéo. Một lát sau, tôi đã treo lửng lơ trong khoang
tàu, ngay dưới cửa hầm lên mặt boong.
Đúng lúc ấy, ánh sáng ngọn
đèn chiếu lên người tên sĩ quan đã đề nghị giữ tôi lại để làm nô lệ nhưng bây
giờ lại ra lệnh vứt tôi xuống biển. Tôi thấy trên mặt hắn dấu ấn của cái chết,
điều mà đã là bác sĩ thì ai cũng nhận ra.
- Thôi, vĩnh biệt! - Tôi
nói với hắn. - Có lẽ chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ lại gặp nhau. Bận bịu làm
việc mà làm gì nữa đồ ngốc? Lần cuối cùng hãy nghỉ ngơi đi, vì bàn tay bệnh
dịch đã chạm đến mày. Sáu giờ nữa, mày sẽ chết!
Nghe tôi nói thế, hắn há
to mồm, sững sờ và kinh sợ, trong giây lát. Sau đó hắn tuôn ra một tràng những
lời nguyền rủa khủng khiếp. Hắn vung chiếc búa, suýt nữa đánh tôi chết và bằng
cách ấy chấm dứt mọi đau khổ của tôi, nhưng đúng lúc ấy tôi được kéo lên phía
trên.
Mấy giây sau, tôi được hạ
xuống, nằm lăn trên boong tàu. Bên cạnh tôi có hai người da đen đang đứng, - họ
có nhiệm vụ vứt những tên nô lệ đáng thương xuống biển, - còn sau họ là Hoan đơ
Gacxia đang ngồi trong chiếc ghế bành, phờ phạc sau cơn bệnh vừa qua. Tay hắn
phe phẩy chiếc mũ rộng vành vì đêm ấy trời rất nóng.
Dưới ánh trăng hắn lập tức
nhận ngay ra tôi, hắn nói:
- Tôi thấy ai thế này? Mày
vẫn chưa chết à? Mày đúng là giỏi thật; thế mà tao cứ tưởng mày đã chết hoặc
đang chết cơ đấy! Nếu không vì cái bệnh dịch chết tiệt này, có lẽ tao phải tự
mình chăm lo tới số phận của mày, nhưng rồi cuối cùng mọi việc cũng đều tốt
đẹp. Tao sẽ rất hài lòng khi cho mày xuống biển với cá mập, người bà con thân
mến ạ. Đó là điều may mắn nhất trong suốt chuyến đi này, và nó sẽ an ủi tao sau
tất cả những bất hạnh vừa qua. Nghĩa là mày đã vượt biển để tới đây báo thù tao
có đúng thế không? Tốt lắm, tao hi vọng ở đây mày không cảm thấy khó chịu lắm.
Có thể điều kiện không được tốt, nhưng chắc người ta đón tiếp mày nồng nhiệt!
Nhưng than ôi, khách đòi ra về, và chủ buộc phải đưa tiễn. Chúc mày ngủ ngon,
Tômax Uyngfin! Nếu gặp mẹ mày, hãy nói với bà ấy rằng tao lấy làm tiếc đã phải
giết bà ấy, vì bà ấy là người duy nhất trên đời mà tao yêu. Chắc mày nghĩ lúc
ấy tao tới nước Anh để giết bà ấy chứ gì? Không đâu. Chính bà ấy bắt tao phải
làm thế, và tao đã làm thế, để cứu lấy mạng sống của tao. Nếu không giết bà ấy
thì tao đã chẳng còn được thấy lại Tây Ban Nha. Bà ấy có quá nhiều chất máu của
tao, và chắc sẽ không cho tao trốn thoát. Hình như cả trong mày cũng có cái thứ
máu ấy, vì nếu không, mày đã chẳng nghĩ nhiều về việc trả thù như vậy. Nhưng
than ôi, việc ấy chẳng mang lại cho mày điều gì tốt lành!
Nói đến đây, hắn im lặng
ngả người vào lưng ghế, và lại khẽ quạt chiếc mũ rộng vành của hắn.
Quả là lúc ấy, khi ở trên
bờ vực của cái chết, máu lại sôi lên trong người tôi vì phải nghe những lời
giễu cợt cay độc như thế. Vâng, tất nhiên Gacxia có thể vui mừng vì thắng lợi!
Tôi đã theo sát từng bước đi của hắn, nhưng thử hỏi mọi chuyện kết thúc thế
nào? Chỉ một vài giây nữa thôi, hắn sẽ đem tôi làm mồi cho cá mập. Nhưng dù sao
tôi vẫn cố trả lời hắn một cách xứng đáng nhất:
- Hoan đơ Gacxia, số phận
không ủng hộ tao, - tôi nói. - Nhưng nếu trong mày đang còn dù chỉ một ít dũng
cảm, thì hãy cho tao một thanh kiếm, và chúng ta sẽ đánh nhau để chấm dứt vĩnh
viễn mối bất hòa này. Tao biết mày đang ốm yếu sau cơn bệnh, nhưng tao cũng
chẳng khỏe hơn sau những ngày đêm bị nhốt dưới địa ngục của mày, Gacxia, chúng
ta ngang sức nhau đấy!
- Có thể thế, người bà con
ạ, rất có thể như thế! Nhưng chúng ta đánh nhau để làm gì? Phải nói thật rằng,
những lần gặp nhau trước tao đã không gặp may, và điều đó rất đáng buồn. Mày
hãy biết rằng hai lần trước tao lúng túng, đánh đấm chẳng ra gì, chỉ vì tao
luôn nghĩ tới một lời báo trước như thể chính mày sẽ giết tao chết. Hầu như vì
thế mà tao đã quyết định đi tới những vùng đất ấm áp hơn. Nhưng bây giờ thì
chính mày cũng thấy rằng chỉ có ngốc mới tin vào những điều tiên tri như vậy.
Tao quả có mắc bệnh, nhưng vẫn còn sống và chưa hề muốn chết, còn mày thì có
thể xem như một xác chết, - xin lỗi vì tao nhắc tới điều ấy không thật tế nhị
lắm. Các ông này này, - Gacxia hất hàm chỉ hai người da đen đang đứng cạnh,
trong lúc chúng tôi nói chuyện, hai người này đã vứt xuống biển thêm một người
nô lệ mới được đưa từ hầm tàu lên, - bây giờ các ông này sẽ cắt đứt cuộc chuyện
trò thú vị của ta. Nếu có điều gì mày muốn yêu cầu tao thì hãy nói đi, vì thời
gian không chờ đợi. Chúng tao phải làm sạch hầm tàu trước khi trời sáng.
- Tao không có điều gì
phải yêu cầu mày cả, - tôi đáp. - Nhưng người ta có nhờ tao một việc mà tao
phải làm. Có điều trước hết tao phải báo cho mày biết đôi chuyện. Mày tưởng mày
đang thắng chứ gì, đồ giết người bẩn thỉu? Nhưng khoan hãy vui mừng. Trò chơi
chưa kết thúc, và điều mà mày lo sợ vẫn có thể xảy ra. Tao chết, nhưng ý định
trả thù của tao vẫn sống, vì tao trao nó cho Chúa để Ngài thay tao trừng phạt
mày. Có thể mày còn sống thêm ít năm nữa, nhưng mày chạy đâu cho thoát cơn giận
của Ngài? Một ngày nào đó mày sẽ phải chết đúng như tao sẽ chết đêm nay. Lúc ấy
thì sao, Gacxia, lúc ấy mày nghĩ sao?
- Nói thế đủ lắm rồi,
người bà con ạ, - hắn nói với nụ cười khinh bỉ, - theo tao biết thì mày còn
chưa trở thành một nhà thuyết giáo. Mày vừa nói rằng mày được ai đó nhờ nhắn
tao điều gì, nói nhanh lên! Ai có thể nhắn gì với một kẻ lang thang như tao?
- Ixaben đơ Xiguenxa,
người mà mày đã lừa dối bằng cách tổ chức một đám cưới giả, và rồi nhẫn tâm bỏ
rơi, - tôi đáp.
Gacxia chồm ra khỏi ghế và
đến đứng trước mặt tôi.
- Chuyện gì xảy ra với cô
ấy? - Hắn hỏi với giọng thì thào kinh ngạc.
- Các thầy tu đã chôn sống
cô ta cùng đứa bé.
- Chôn sống? Lạy Chúa! Sao
mày biết được điều ấy?
- Lúc ấy ngẫu nhiên tao có
mặt ở đó, chỉ thế thôi. Cô ta yêu cầu tao báo cho mày biết mẹ con cô ta đã chết
như thế nào, và rằng cô ta không hề nói lộ tên mày, và khi chết đã tha thứ cho
mày tất cả. Ngoài ra cô ta chẳng nói gì nữa, nhưng tao muốn nói thêm đôi điều.
Mong sao hình ảnh của cô gái đáng thương ấy và của mẹ tao sẽ bám theo mày suốt
đời, ám ảnh mày cả lúc sống lẫn sau khi chết, cả trên mặt đất lẫn dưới địa
ngục!
Trong giây lát Gacxia đưa
hai tay ôm mặt, nhưng sau đó hắn bỏ tay xuống, ngồi phịch vào chiếc ghế và quát
to với hai thuỷ thủ da đen:
- Kết thúc thằng nô lệ này
đi! Chúng mày còn chờ gì?
Hai người này bước lại gần
tôi, nhưng tôi không định để yên cho chúng muốn làm gì thì làm. Tôi nghĩ nếu có
thể, tôi sẽ bắt Gacxia cùng chia chung số phận với tôi. Tôi chồm lên phía
trước, ôm túm lấy người Gacxia và lôi hắn khỏi ghế. Sự tuyệt vọng và tức giận
đã tăng thêm sức cho tôi. Tôi nâng được hắn lên cao ngang với mép thành tàu,
nhưng đúng lúc ấy, những người thủy thủ da đen túm lấy tôi và giằng Gacxia ra.
Tôi hiểu thế là hết. Không chờ những người da đen giết chết, tôi bám tay vào
mép thành tàu rồi tự mình nhảy xuống biển.
Lí trí mách bảo tôi rằng
trong hoàn cảnh của tôi, tốt nhất là nên chết ngay. Tôi quyết định không chống
cự và sẽ từ từ chìm xuống đáy biển. Tuy nhiên, bản năng tự vệ vẫn mạnh hơn lí
trí. Vừa rơi xuống nước, tôi đã vội ngoi lên, bơi dọc theo thành tàu, nhưng cố
nép vào trong vì sợ Gacxia nhìn thấy và ra lệnh kết thúc đời tôi bằng một mũi tên
hay một viên đạn. Lúc ấy tôi nghe ở phía trên có giọng hắn đang nói.
- Bây giờ thì có lẽ nó đã
ngoẻo! - Hắn nói, vẫn không ngớt lời nguyền rủa tôi. - Suýt nữa lời tiên tri
thành sự thật. Quỷ tha ma bắt hắn đi, tôi đã phải trải qua bao nỗi kinh sợ vì thằng
chó con ấy!
Còn tôi thì vừa bơi vừa
nguyền rủa mình tại sao không chết ngay. Còn gì nữa để hi vọng? Thậm chí nếu
không một con cá mập nào thèm ăn thịt tôi, tôi cũng chỉ bơi được dưới nước ấm
thế này từ sáu đến tám tiếng là cùng, sau đó thế nào cũng chết chìm. Thế thì
vật lộn và phí sức để làm gì? Tuy nhiên, tôi vẫn tiếp tục bơi theo tàu một cách
chậm chạp. Sau hầm tàu ngột ngạt và hôi thối, nước biển và không khí trong lành
đã tác động lên tôi như rượu nho và thức ăn. Càng bơi, tôi càng thấy mình khỏe
thêm.
Tôi đã tụt lại phía sau
tàu khoảng một trăm mét; từ boong tàu, có lẽ không ai còn nhìn thấy tôi, nhưng
tôi vẫn nghe rõ tiếng các xác chết bị vứt xuống biển và tiếng kêu rùng rợn của
những người nô lệ cuối cùng đang sống sót. Tôi ngẩng đầu nhìn quanh. Cách tôi
không xa có một vật gì đó lắc lư trên sóng. Tôi bơi lại gần, và chờ đợi mình có
thể chết bất kì lúc nào, vì vùng biển này rất nhiều cá mập.
Một lát sau, tôi tới gần
cái vật đang trôi kia, và sung sướng nhận thấy đó là một cái thùng lớn được quẳng
từ tàu xuống. Nó trôi thẳng đứng nên nước không té vào được.
Tôi bám vào miệng thùng và
nhìn thấy một nửa thùng đựng đầy bánh khô đã bị hỏng, có lẽ vì thế, người ta
mới vứt nó xuống biển. Số bánh ấy đè chiếc thùng xuống, không cho nó lật úp.
Tôi nghĩ nếu chui được vào
thùng, ít ra một thời gian tôi sẽ không phải lo sợ vì cá mập. Nhưng làm điều ấy
bằng cách nào. Đúng lúc ấy, vô tình tôi nhìn lại phía sau, và lập tức mọi ý
nghĩ liền bay khỏi đầu tôi. Tôi nhìn thấy cách tôi khoảng hai mươi mét một
chiếc vây cá mập đang lao thẳng về phía mình. Tôi co rúm người vì sợ hãi. Tuyệt
vọng làm tăng thêm sức mạnh và sự nhanh trí. Đạp một cái, tôi nhảy lên khỏi
nước, bám chặt vào mép thùng bên kia và rồi co gối vọt vào thùng.
Làm sao tôi có thể nhảy
được như thế? Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu nổi. Nhưng đúng là chỉ trong
một giây tôi đã ngồi gọn trong thùng, mà chỉ bị xây xát một ít ở cằm.
Tuy nhiên chiếc thùng bỗng
dưng tôi gặp được ấy đang sắp sửa chìm xuống dưới sức nặng của số bánh mốc thấm
nước, của cơ thể tôi và của một ít nước đã chảy vào được khi tôi làm nghiêng
thùng. Mép thùng chỉ còn cách mặt nước một vài phân. Tôi hiểu chỉ cần một cơn
sóng nhỏ là chiếc thùng sẽ chìm ngay lập tức, trong khi con cá mập chỉ còn cách
tôi khoảng năm mét.
Mấy giây sau nó lao tới,
va mõm vào thùng làm chiếc thùng rung mạnh.
Tôi vội vã lấy tay múc
nước ra. Mép thùng hầu như ở ngang mặt nước biển. Khi mép thùng nhô cao lên vài
phân, giận dữ vì phải mất mồi, con cá mập quay lại, răng nó ngoạm sâu vào gỗ và
các dây sắt buộc thùng. Chiếc thùng quay tròn một chỗ, và nước lại té vào
trong. Tôi luôn tay múc nước ra như một thằng điên. Nếu con cá mập tấn công lần
nữa, chắc chắn tôi sẽ chết, nhưng hình như gỗ và sắt không phải là thứ làm nó
thích lắm. Con cá mập bỏ đi, và trong vòng mấy giờ tiếp theo, thỉnh thoảng tôi
vẫn nhìn thấy chiếc vây của nó xuất hiện trên mặt nước phẳng lặng.
Lúc đầu, khi nước nhiều,
tôi khum hai tay lại múc, sau đó tôi cởi giày và dùng nó thay gầu. Khi mép
thùng nhô lên khoảng vài chục phân, tôi ngừng tay vì sợ nếu múc thêm thùng sẽ
lật úp. Bây giờ tôi đã có thể nghỉ ngơi lấy sức. Nhưng cũng liền lúc ấy,
tôi chợt nghĩ rằng mọi cố gắng của mình đều vô ích, vì dù sao tôi cũng chết
chìm hay chết khát, và rồi tôi bắt đầu oán trách rằng mình đã mềm yếu, chỉ tìm
cách tự kéo dài đau khổ.
Trong cơn tuyệt vọng, tôi
giơ hai tay lên cao, cầu Chúa một cách thật chân thành và cuồng nhiệt. Một lát
sau tôi cảm thấy hi vọng và bình tĩnh lạ lùng. Trong mấy ngày qua, ba lần tôi
bị những mối nguy hiểm khủng khiếp đe dọa: trong lúc đắm tàu, bị giam trong hầm
tàu Gacxia, nơi tôi có thể chết vì đói và bệnh dịch, và bây giờ thì tôi đang
làm mồi cho cá mập. Nhưng tôi tin cả lần này tôi cũng sẽ vượt qua, vì chẳng
phải ngẫu nhiên mà hai lần trước tôi thoát chết, cái chết chắc chắn người khác
sẽ không tránh khỏi. Không lẽ bây giờ tôi bị chết một cách thảm hại nhất? Và
thế là tôi lại bắt đầu hi vọng, mặc dù trong hoàn cảnh tôi, hi vọng là điều
điên rồ vô ích. Tôi không nghĩ trời đã ban cho tôi cái hi vọng ấy, mà đơn giản
chỉ vì lúc đó tôi còn tràn đầy sức sống và không thể tin rằng chẳng bao lâu nữa
tôi sẽ chết.
Dần dần tôi tươi tỉnh trở
lại, đến mức thậm chí còn nhận thấy vẻ đẹp của đại dương ban đêm. Mặt nước đứng
yên và phẳng lặng như nước hồ, không một làn gió nào làm gợn. Trăng đã lên, bầu
trời chi chít hàng vạn ngôi sao sáng một cách kì lạ, mà ở nước Anh, tôi không
bao giờ nhìn thấy. Nhưng rồi cuối cùng chúng bắt đầu nhạt dần, chân trời phía
đông ửng đỏ, và một lát sau, những tia nắng đầu tiên xuất hiện. Lúc ấy, trên
mặt biển hình thành một đám sương mù dày đặc mà ở cách khoảng năm mươi mét
không thể nhìn thấy gì. Tôi cứ bơi mò mẫm suốt hơn một giờ liền. Chỉ khi mặt
trời lên cao, sương tan, tôi mới nhận thấy mình đã bị đẩy cách con tàu khá xa:
tôi thấy đỉnh cột buồm của nó mờ mờ tít chân trời, và rồi sau đấy nó cũng biến
mất. Đến lúc ấy, toàn bộ mặt đại dương đã được quét sạch khỏi sương mù, chỉ một
phía không hiểu sao ngay sát trên mặt nước còn sót lại một vết mờ sẫm, không
giống sương mù, cũng chẳng giống hơi nước.
Mặt trời chiếu mỗi lúc một
nóng hơn, gây cho tôi những đau đớn không sao chịu nổi. Trừ một vài ngụm nước
trong hầm tàu, đã hơn một ngày đêm tôi chẳng được uống giọt nước nào; nhưng tôi
sẽ không kể ở đây tất cả những gì bất hạnh mà tôi phải chịu đựng lúc ấy. Giờ
tiếp giờ trôi qua, tôi vẫn đứng trong chiếc thùng của mình, suýt ngất xỉu và
khát, với chiếc đầu trần phơi dưới những tia nóng bỏng của mặt trời nhiệt đới
đang phản chiếu trên đại dương phẳng lặng. Ai chưa từng trải qua những gì tương
tự, khó mà hình dung nổi điều này. Thỉnh thoảng tôi lại cảm thấy mệt mỏi tột
độ, và mấy lần tôi suýt rơi xuống nước. Cuối cùng tôi lịm đi, hay nói đúng hơn,
rơi vào trạng thái nửa mê nửa tỉnh, cho đến khi tiếng sóng vỗ và tiếng chim hót
làm tôi thức dậy.
Ngẩng đầu lên, hết sức
ngạc nhiên và sung sướng, tôi nhận ra cái vệt mờ sẫm kì lạ mà tôi tưởng là
sương mù lại chính là một dải đất liền, thấp. Thủy triều nhanh chóng đưa tôi
vào cửa một con sông lớn. Hàng vạn con hải âu vừa kêu vừa bay trên chỗ nước
sông và nước biển gặp nhau, là nơi thường có nhiều cá. Một con bắt được một con
cá nặng ít nhất cũng tới một cân rưỡi, định bay lên cao, nhưng con mồi nặng
quá. Nó liền lấy mỏ mổ vào đầu cá cho chết và bắt đầu xé nó ra thành nhiều
mảnh. Chiếc thùng của tôi đã tiến lại rất gần, tôi với tay nhanh chóng cướp
được con cá của nó. Một giây sau tôi đã nhai ngấu nghiến con cá còn sống. Có
thể cho thế là đáng sợ, nhưng chưa bao giờ trong đời tôi được ăn cái gì ngon
như vậy! Vì không có nước uống nên tôi cố ăn càng nhiều càng tốt, còn lại bao
nhiêu tôi giấu vào túi áo. Sau đó ý nghĩ của tôi hướng về phía bờ đất đang rầm
rì tiếng sóng. Chẳng bao lâu sau tôi nhận thấy không thể cứ tiếp tục đứng trong
thùng mà vượt các cơn sóng được nữa, vì vậy tôi nhảy ra khỏi thùng và ngồi lên
trên nó. Các ngọn sóng suýt hất tôi xuống, nhưng thủy triều nhanh chóng đẩy tôi
lên phía trước, và cuối cùng tôi đã ở trong cửa một con sông lớn.
Bây giờ lại một lần nữa số
phận mỉm cười với tôi: tôi bắt được một miếng gỗ đang chảy xuôi theo dòng. Dùng
nó làm chèo, tôi hướng chiếc thùng của tôi về phía một bụi rậm trên bờ. ƠŒ xa
đó một chút là một hàng các cây cao tuyệt đẹp, cành lá sum sê với những chùm
quả lớn.
Thế là sau hơn mười giờ ở
trên thùng, tôi đã giạt lên bờ một cách an toàn. Điều này cũng thật lạ, vì dòng
sông nơi ấy nhan nhản một loài bò sát gớm ghiếc mà ta vẫn gọi là cá sấu. Nhưng
lúc đó, thậm chí tôi không hề biết tới sự tồn tại của chúng.
Tôi lên bờ thật đúng lúc,
vì khi chân tôi chạm đất, cũng là khi nước rút, và tất nhiên sẽ kéo tôi trở lại
biển khơi. Chỉ cần chậm một chút nữa là tôi sẽ chẳng bao giờ thoát lên được.
Suốt mười phút, tôi đem hết sức mình bắt chiếc thùng nhích lên phía trước. Cuối
cùng tôi nhận thấy nước dưới chân chỉ sâu hơn một mét. Tôi nhảy khỏi thùng và
lội vào bờ. Tới nơi, tôi nằm úp mặt xuống cát, thầm cảm ơn Chúa đã cứu thoát.
Tuy nhiên, một lát sau cơn
khát lại ập đến giày vò tôi còn hơn trước, bắt tôi gượng đứng dậy. Tôi đi ngược
lên theo dòng sông cho đến khi gặp một vũng nước mưa. Nước nhạt và trong, tôi
cúi xuống, giàn giụa nước mắt vì sung sướng.
Tôi cứ uống, uống mãi cho
đến khi không còn uống được nữa. Chỉ những người từng lâm vào cảnh ngộ của tôi
mới biết nước lã trong và mát, ngon lành đến mức nào.
Uống xong, tôi rửa sạch
muối biển bám quanh người, rồi lấy trong túi ra phần cá còn lại, ăn hết không
sót ti gì. Bữa tiệc này làm tôi khỏe hơn nhiều, nhưng vì quá mệt nên tôi liền
nằm xuống bóng râm của một bụi rậm có những bông hoa trắng, và ngủ thiếp ngay
lập tức.
Khi tôi mở mắt, trời đã
tối hẳn. Có lẽ tôi còn ngủ thêm mấy giờ nữa, nếu không cảm thấy đau vì những
nốt châm khó hiểu khắp người. Cuối cùng, đau quá, tôi giận dữ chồm dậy, thầm
nguyền rủa đủ mọi thứ trên đời. Lúc đầu tôi không hiểu cái gì châm tôi đau đến
thế, nhưng sau tôi nhận ra những côn trùng bé nhỏ giống như muỗi vừa bay vừa kêu
vo vo. Bám vào da tôi, chúng châm vòi hút máu và đồng thời phóng chất độc vào
da. Người Tây Ban Nha gọi những con vật hút máu bẩn thỉu là muỗi kim. Nhưng còn
tồi tệ hơn, chúng là một loại côn trùng khác, lớn bằng đầu kim băng. Chúng bám
hàng trăm con và châm vòi vào người tôi, sau đó để lại những vết phồng mọng
nước. Chúng là một loại thuộc họ hàng nhà ve, người Tây Ban Nha gọi là Garrapatas. Ngoài chúng ra, còn có rất
nhiều loại khác mà tôi không sao đếm xuể, có kích thước và vẻ ngoài khác nhau,
nhưng cùng chung một đặc điểm là đều hút máu và có nọc độc.
Suốt đêm tôi phải vật lộn
với chúng, đến mức gần như phát điên. Tôi không được chúng cho yên một phút
nào! Gần sáng, tôi nhảy ùm xuống sông để chúng khỏi đốt, nhưng chưa đầy mười
phút sau, một con cá sấu khổng lồ ngoi lên từ vũng bùn bên cạnh. Tôi chưa bao
giờ tận mắt nhìn thấy một con quái vật khủng khiếp và ghê tởm như vậy, và tất
nhiên tôi đã hoảng sợ nhảy tót lên bờ. Lập tức hàng nghìn, hàng triệu con vật
hút máu nhỏ bé xông đến bám vào da thịt tôi.
Nhưng thôi, nói về chúng
như thế đã quá đủ.
XIII
CÁI THỚT CHÉM BẰNG ĐÁ
Cuối cùng, trời rạng sáng,
tôi đang ở trong một tình trạng tồi tệ nhất. Mặt tôi sưng húp như quả dưa vì
muỗi đốt, mà rồi khắp người tôi cũng thế. Chúng vẫn tiếp tục đốt tôi đau điếng,
làm tôi lúc chạy, lúc nhảy lò cò như thằng điên. Không biết mình đang chạy đi
đâu, tôi lách bừa qua các bụi rậm. Xung quanh là một vùng đầm lầy vô tận, không
hề có dấu hiệu có người đang sống. Tôi đi dọc theo bờ sông, thỉnh thoảng lại
vấp phải cá sấu hay những con rắn kinh tởm. Cảm thấy sức lực đang rời bỏ tôi và
chẳng còn chịu được sự tra tấn này bao lâu nữa, tôi quyết định cứ đi mãi về
phía trước, cho đến khi kiệt sức nằm xuống, để cái chết giải thoát tôi khỏi mọi
điều đau khổ.
Tôi cứ đi như thế suốt một
giờ liền, cuối cùng ra một quãng bờ vắng, nơi không có một cây sậy hay một bụi
rậm nào. Tôi vừa đi vừa nhảy, luôn vung tay, khua chân đuổi bầy muỗi hút máu
đáng nguyền rủa đang bâu đặc xung quanh. Cái chết đang chờ tôi rất gần. Sức lực
hoàn toàn rời bỏ tôi, và vất vả lắm tôi mới đứng vững được trên đôi chân của
mình. Đúng lúc ấy, tôi bỗng nhìn thấy trước mặt một toán người có nước da như
đồng hun, mặc quần áo màu trắng. Có lẽ trước đó họ đánh cá ở dưới sông, bây giờ
ngồi trên bờ ăn uống. Trên mặt nước phía sau họ có rất nhiều thuyền hình thoi
dài, chở đủ thứ.
Thấy tôi, những người thổ
dân kêu to điều gì đó bằng thứ tiếng mà tôi không hiểu. Mỗi người vớ vội lấy
thứ vũ khí bên cạnh, - cung tên hoặc những chiếc gậy gỗ, xung quanh có gắn
những mảnh đá nhọn do núi lửa phun ra, - và bắt đầu tiến lại gần, có lẽ với ý
định kết thúc đời tôi. Tôi giơ cao hai tay cầu xin tha chết. Khi thấy tôi không
có vũ khí và hoàn toàn bất lực, đám thổ dân bỏ cung tên và gậy xuống, rồi bắt
đầu nói với tôi bằng thứ ngôn ngữ của họ. Tôi lắc đầu ra hiệu không hiểu, sau
đó chỉ tay về phía biển rồi chỉ vào người và khuôn mặt sưng húp của tôi. Họ gật
gật đầu. Một người chạy về phía những chiếc thuyền rồi mang đến một thứ mỡ có
mùi hôi. Sau đó anh ta ra hiệu cho tôi cởi bỏ những mảnh giẻ rách trên người.
Khi tôi cởi xong, họ bôi lên người tôi thứ mỡ màu nâu ấy, và lập tức tôi thấy
dịu hẳn: không còn thấy đau và tê nữa, và điều quan trọng nhất là mùi của thứ
mỡ ấy đã đuổi hết bầy côn trùng kia. Bây giờ hầu như chúng không còn bâu vào
chích tôi nữa.
Sau đó đám người thổ dân
cho tôi ăn cá rán, bánh, và cho uống một thứ nước nóng phủ đầy bọt màu nâu. Sau
này tôi hiểu được đó là nước sôcôla. Khi tôi ăn, đám thổ dân khẽ bàn bạc với
nhau, rồi ra hiệu cho tôi đến một trong những con thuyền và nằm lên một tấm gỗ
dài được đặt sẵn trên đó. Theo sau tôi cùng lên con thuyền ấy còn ba người nữa,
vì thuyền khá rộng. Một trong ba người ấy có vẻ quan trọng, với khuôn mặt dễ
coi và dáng điệu đường bệ. Tôi đoán ngay ông ta là toán trưởng. Ông ta ngồi đối
diện với tôi, còn hai người kia thì ngồi ở mũi và đuôi thuyền, tay cầm chèo.
Thuyền chúng tôi bắt đầu đi, có ba chiếc khác đi kèm. Nhưng đi chưa được một
dặm, tôi đã ngủ thiếp vì quá mệt mỏi.
Tôi tỉnh dậy, thấy khỏe
hẳn, có lẽ do ngủ suốt nhiều giờ liền, vì lúc ấy mặt trời đã lặn. Tôi ngạc
nhiên nhận thấy người thổ dân quan trọng đang ngồi đối diện từ trước tới giờ đã
luôn tay xua muỗi bằng một cành cây rậm lá để tôi ngủ. Thấy ông ta tốt bụng,
tôi không còn lo sẽ bị đối xử tồi tệ. Cảm thấy yên tâm, tôi bắt đầu suy nghĩ
mình đã lạc vào đâu, và cái đất nước kì lạ này là gì, những con người này là
ai. Nhưng chỉ một lát sau, tôi không còn tự làm khổ mình bằng những câu hỏi ấy
nữa, và thay cho việc suy nghĩ vẩn vơ, tôi bắt đầu quan sát các bức tranh đang
hiện ra trước mặt.
Bây giờ chúng tôi đi ngược
một dòng sông hẹp hơn dòng sông mà tôi đã giạt lên bờ. Các bụi rậm biến mất, và
thay cho chúng là những cánh đồng bằng phẳng trải dài hai bên. Hai bờ sông gần
như trần trụi, nếu không có những thân cây khổng lồ còn to hơn cả những cây sồi
to nhất. Có những cây đẹp một cách lạ lùng! Các dây leo bám chặt vào cành của
chúng rồi buông thõng xuống. Mọc ngay trên thân cây là những bông hoa sặc sỡ
như rêu bám trên tường. Một loài chim có lông lấp lánh và giọng khàn khàn đang
nhảy nhót trên cành, còn bầy khỉ thì kêu chí chóe, tỏ vẻ lo sợ khi chúng tôi
đến gần.
Khi mặt trời chiếu những
tia nắng cuối cùng lên cái quang cảnh kì lạ chưa từng thấy ấy vừa lặn, thì
chúng tôi đến một cái bến có những bậc cầu bằng gỗ, rồi bước lên bờ. Trời tối
sẫm một cách nhanh chóng, tôi chỉ biết người ta đang dẫn tôi đi đâu đó theo một
con đường khá tốt. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi tới cổng thành, nơi tập trung
nhiều người và nghe có tiếng chó sủa. Qua cổng thành chúng tôi đi sâu vào một
đường phố dài có nhà hai bên. Đến ngưỡng cửa ngôi nhà cuối cùng, người cùng đi
với tôi dừng lại, cầm tay tôi dẫn vào một căn phòng thấp và hẹp được chiếu sáng
bằng những chiếc đèn đất sét. Có mấy người đàn bà đi tới hôn ông ta, còn những
người khác, có lẽ là đầy tớ gái, thì cúi xuống khẽ chạm một tay vào nền nhà.
Sau đó tất cả mọi cái nhìn đều hướng về tôi, và từ mọi phía người ta tới tấp
hỏi ông kia những câu hỏi mà tôi chỉ lờ mờ đoán biết nội dung.
Khi sự tò mò của mọi người
đã được thỏa mãn, đám phụ nữ mang đến nhiều đĩa thức ăn kì lạ, được đặt ngay
xuống nền đất. Chủ nhà mời tôi cùng ăn tối với ông. Tôi ngồi xuống một chiếc
ghế bên cạnh và bắt đầu ăn.
Phục vụ chúng tôi trong
bữa ăn là những người phụ nữ khá xinh đẹp, nhưng nổi hẳn trong số họ là một cô
gái người cao, cân đối, có khuôn mặt dịu dàng và hiền hậu, làm vẻ đẹp của cô ta
càng thêm hấp dẫn. Cô ta cũng có nước da ngăm ngăm như tất cả mọi người xung
quanh, nhưng các đường nét trên mặt cô ta rất thanh tú và cân đối, còn đôi mắt
thì tuyệt đẹp. Tôi nhắc tới cô ta ở đây vì hai nguyên nhân: thứ nhất là cô ta
đã hai lần cứu tôi thoát chết, - khỏi bị đem làm vật tế thần và khỏi bị tra tấn
dã man; thứ hai là cô ta không phải ai xa lạ, mà chính là Marina. Sau này cô ta
là người tình của Côrtex, và nếu không được cô ta giúp đỡ, hắn sẽ chẳng bao giờ
chiếm được Mêhicô. Nhưng lúc ấy, thậm chí cô ta không hề nghĩ rằng chính cô ta
là người sẽ đem đất nước Anahuac của mình trao cho bọn chủ nô Tây Ban Nha độc
ác. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, tôi nhận thấy Marina, - từ nay tôi sẽ gọi như
thế, vì tên người da đỏ gọi cô ta một cách đầy đủ thì quá dài, - rất xúc động
trước hoàn cảnh đáng buồn mà tôi đang lâm vào; cô ta đã cố tìm mọi cách để
chiều tôi và giải phóng tôi khỏi sự tò mò quá đáng của những người xung quanh.
Cô ta múc nước cho tôi rửa ráy, đưa tôi bộ quần áo sạch để thay những miếng giẻ
bẩn thỉu tôi đang mặc, và khoác lên vai tôi một chiếc áo khoác được đan khéo
léo bằng những chiếc lông chim sặc sỡ.
Sau bữa ăn tối, tôi được
dẫn vào một căn phòng nhỏ. Trong phòng, thay cho giường là một chiếc phản gỗ,
tôi liền nằm xuống và bắt đầu suy nghĩ về số phận đời mình. Cái thế giới trước
kia của tôi có lẽ thế là đã mất đi vĩnh viễn và bây giờ tôi đang ở giữa những
con người dễ chịu và tốt bụng, cứ theo bề ngoài mà xét thì không giống những
người hoang dã một chút nào. Kể ra cũng có một điều làm tôi lo lắng: tôi nhận
thấy mặc dù được đối xử tử tế, tôi vẫn bị xem như một tù nhân. Bên ngưỡng cửa
phòng tôi hiện có một người lính được trang bị một thanh giáo có mũi nhọn bịt
đồng, đang ngủ.
Trước khi thiếp đi, tôi
nhìn quanh cái lỗ hổng thay cho cửa sổ và thấy ngôi nhà tôi đang ở nằm trên rìa
một khu đất trống rất rộng. Chính giữa khu đất ấy, nổi lên một khối lớn màu sẫm
hình chóp cao khoảng ba mươi mét. Đúng như tôi đoán, trên đỉnh cái kim tự tháp
ấy là một ngôi đền có ngọn lửa đang cháy trước cửa ra vào. Vừa thiu thiu ngủ,
tôi vừa tiếp tục nghĩ không hiểu cái công trình đồ sộ ấy được dựng lên để làm
gì, và để thờ vị thần nào.
Sáng hôm sau, tôi sẽ được
biết điều đó.
Có lẽ ở đây tôi phải dừng
lại để nói những điều mà mãi tới sau này tôi mới biết. Lúc ấy tôi đã rơi vào
thành phố Tabaxcô, thủ phủ của một trong những tỉnh phía Nam của vương quốc
Anahuac, cách xa thành phố chính Tênôctitlan, nay là Mêhicô, khoảng mấy trăm
dặm. Con sông mà tôi giạt vào cửa gọi là Rix Tabaxcô. Chính đây là nơi năm sau
Côrtex đã đổ bộ lên. Còn ông chủ của tôi là người cầm đầu thành phố Tabaxcô,
sau này đã tặng Marina cho Côrtex. Nghĩa là tôi là người da trắng đầu tiên sống
giữa những người da đỏ, nếu không kể một anh chàng Aghila nào đó mà cách đấy
sáu năm đã bị bão vứt lên bờ Iucatan cùng một số bạn bè của mình.
Côrtex cứu sống được
Aghila, còn những người khác thì bị đem làm vật tế cho Uixilôpôctli, vị thần
chiến tranh độc ác. Nhưng người da đỏ đã được nghe nhiều về người Tây Ban Nha
và luôn nhìn họ với vẻ kinh sợ đầy mê tín. Cách đây gần một năm có một nhà quý
tộc tên là Ecmanđex đơ Côrđôva đã tới bờ biển Iucutan, nhiều lần đánh nhau với
thổ dân, và sau ông ta, không lâu trước khi tôi xuất hiện, các con tàu của Hoan
đơ Grihanva đã ghé vào cửa sông Tabaxcô này. Điều ấy có nghĩa rằng người ta xem
tôi là một đại diện của bộ lạc Teule
xa lạ, - người da đỏ gọi người Tây Ban Nha bằng cái tên ấy, - tức là một kẻ thù
mà các vị thần của họ đang cần được uống máu.
Nhờ ngủ một giấc say, mờ
sáng hôm sau tôi tỉnh dậy, người tỉnh táo hẳn. Tôi rửa ráy, mặc bộ quần áo vải
gai được chuẩn bị sẵn, rồi đi ra phòng lớn. Ngay lập tức người ta mang thức ăn
tới, và tôi mới kịp ăn xong thì ông chủ của tôi đi vào. Cùng đi với ông còn có
hai người với vẻ ngoài khiến tôi rùng mình vì sợ. Một thứ nhựa gì đấy dính chặt
những mớ tóc đen dài và thẳng đứng của họ, mặt họ lộ vẻ độc ác, không khoan
nhượng, còn những bộ quần áo đen họ mặc thì được may thêm những hình gì đó thần
bí, có màu đỏ như máu. Tất cả những người có mặt, kể cả chính ông chủ, đều có
vẻ kính trọng hai người đang nhìn tôi với sự sung sướng độc ác, làm tôi vô cùng
khiếp sợ. Một người trong số họ đi lại gần, phanh chiếc áo đang che ngực tôi
rồi đặt bàn tay bẩn thỉu gớm ghiếc lên trái tim tôi, và bắt đầu đếm to các mạch
đập của nó, vừa đếm vừa nói điều gì đấy. Sau này tôi biết được rằng ông
ta nói tôi là người rất khỏe mạnh. Trong suốt thời gian ấy, người thứ hai không
nói gì, chỉ gật đầu tán thưởng.
Để hiểu chuyện gì đang xẩy
ra, tôi bắt đầu quan sát các khuôn mặt xung quanh. Bỗng nhiên tôi gặp cái nhìn
của Marina. Điều tôi đọc thấy trong mắt cô không cho tôi nghi ngờ gì nữa: đôi
mắt cô đầy vẻ kinh sợ và thương hại. Tôi hiểu rằng một cái chết rùng rợn đang
chờ đợi tôi. Nhưng trước khi tôi kịp ý thức tất cả các việc ấy và định làm điều
gì đó, thì hai nhà tư tế kia, - người da đỏ gọi họ là Paba, liền túm lấy tôi, lôi ra khỏi nhà. Tất cả những người có mặt,
trừ ông chủ và Marina, đều đi theo.
Tôi đang đứng trên một
khoảng đất trống, rộng, giống như cái sân chợ, được bao bọc xung quanh bằng
những ngôi nhà đá xinh đẹp, thỉnh thoảng chen vào một vài túp lều trát đất nhỏ
bé. Khoảng đất trống nhanh chóng được lấp đầy người. Đàn ông, đàn bà và trẻ
con, ai cũng cố nhìn tôi đang được dẫn đến chiếc kim tự tháp đồ sộ, trên đỉnh
có lửa cháy.
Đến nơi, tôi bị đẩy vào
một chiếc phòng nhỏ lõm sâu trong chân kim tự tháp. ƠŒ đây mấy nhà tư tế khác
cởi bỏ tất cả quần áo của tôi trừ chiếc khố, rồi đặt lên đầu tôi một vòng hoa.
Trong phòng đã có hai người da đỏ khác. Nhìn khuôn mặt méo mó và kinh sợ của
họ, tôi biết họ cũng bị đem giết.
Cuối cùng, đâu đó ở cao
trên đầu chúng tôi có tiếng trống đánh to, dồn dập. Chúng tôi được dẫn ra khỏi
phòng và cho đứng chính giữa một đoàn rất đông các nhà tư tế. Tôi đứng trước
hai người da đỏ bất hạnh kia. Các nhà tư tế kéo dài giọng ca một bài hát man rợ
gì đó, và chúng tôi bắt đầu đi lên, hết bậc này đến bậc khác, cho đến khi tới
đỉnh kim tự tháp. Đó là một ô đất hình vuông bằng phẳng, mỗi cạnh khoảng hơn
mười mét. Từ đây toàn cảnh thành phố và những vùng lân cận hiện lên rất đẹp,
nhưng bây giờ, không phải là lúc nghĩ tới cảnh đẹp. Đứng đối diện với tôi là
hai ngôi đền bằng gỗ cao gần hai mươi mét, - đó là đền thờ thần chiến tranh
Uixilôpôctli và đền thờ thần không khí Kêxancôatli. Qua cánh cửa mở rộng dẫn
vào hai đền thờ, tôi nhìn thấy tượng của hai vị thần được đẽo bằng đá, xấu xí
một cách kinh tởm, còn trước tượng, trên hai chiếc bàn thờ thấp là trái tim của
những người bị giết làm vật tế hôm qua đang ngâm nước trong những chiếc bát to
bằng vàng. Trên các bức tường phía trong tháp có những hình vẽ rùng rợn. Đối
diện với hai ngôi đền là ngọn lửa không bao giờ tắt đang cháy trên một chiếc
bàn thờ lớn. Trước bàn thờ có một phiến đá cẩm thạch đen, hình vuông, cao như
chiếc bàn trong các tiệm ăn của chúng ta, còn bên cạnh là một phiến đá khác,
rất to, hình tròn giống chiếc cối xay đá, đường kính gần ba mét, chính giữa có
một vòng tròn bằng đồng.
Tôi nhớ tất cả những điều
này rất rõ, dù lúc ấy không có thời gian để quan sát chúng một cách kĩ lưỡng,
vì vừa đặt chân tới đỉnh kim tự tháp, tôi liền bị túm chặt và đặt lên tảng đá
hình tròn. Người ta buộc vào tôi một chiếc thắt lưng bằng da rồi lấy một đoạn
dây thừng buộc vào chiếc thắt lưng và chiếc vòng đồng. Đoạn dây đủ dài để tôi
có thể chạy từ bên này sang bên kia tảng đá, nhưng không thể xa hơn. Sau đó tôi
được ấn vào tay một ngọn giáo đầu bịt sắt nhọn. Hai người da đỏ sắp bị đem giết
đang đi sau tôi cũng được đưa những chiếc giáo tương tự. Sau đó người ta ra
hiệu bắt đầu trận đánh: hai người da đỏ kia sẽ phải tấn công, còn tôi thì tự
vệ.
Tôi nghĩ nếu giết được hai
con người bất hạnh này, có thể tôi sẽ được tha chết, vì vậy tôi chuẩn bị sẵn
sàng giết họ, những người không hề có lỗi, để cứu sống chính bản thân mình.
Viên đại tư tế ra hiệu bắt hai người da đỏ tấn công tôi, nhưng cả hai sợ đến
mức vẫn đứng yên không nhúc nhích. Thấy thế, viên tư tế khác lấy roi da đánh
họ, và cả hai vừa kêu lên vì đau, vừa lao vào tôi. Một người đến gần tảng đá.
Tôi đâm mũi giáo trúng tay anh ta. Để rơi vũ khí xuống, anh ta nhảy ra ngoài,
người da đỏ thứ hai cũng làm theo anh ta. Họ không muốn đánh nhau, và bây giờ
thì chẳng roi da nào có thể bắt được họ lao vào tôi nữa.
Thấy sự dũng cảm hoàn toàn
rời bỏ họ, các viên tư tế quyết định đã đến lúc giết họ. Giữa tiếng nhạc và
tiếng hát to, chúng kéo người da đỏ bị thương lại gần chiếc bàn đá cẩm thạch
màu đen, - bây giờ thì tôi hiểu rằng đó là cái thớt chém bằng đá, - rồi đặt họ
ngửa mặt lên trời. Năm viên tư tế bao quanh người da đỏ tội nghiệp: một tên giữ
đầu, hai tên giữ tay và hai tên giữ chân. Sau đó viên đại tư tế đến; hắn mặc
quần áo màu đỏ rực, và chính là tên nghe nhịp đập trái tim tôi. Lẩm bẩm đọc một
câu chú nào đó, hắn vung chiếc đao hình cong làm bằng thứ đá đặc biệt phun từ
núi lửa, và chỉ bằng một nhát, bổ đôi lồng ngực của nạn nhân. Hắn đang tiến
hành nghi lễ dâng lễ vật cho thần Mặt trời.
Đúng lúc ấy, cả đám đông
đang đứng phía dưới, tận mắt chứng kiến nghi lễ đẫm máu kia, liền vội vã nằm
dài xuống đất cho đến khi trái tim của nạn nhân được thả vào chiếc bát bằng
vàng đặt trước tượng thần Uixilôpôctli. Sau đó những tên tư tế gớm ghiếc kia
lại lao vào xác anh ta. Vừa kêu lên man rợ, chúng vừa lôi nó tới mép đỉnh kim
tự tháp rồi vứt xuống dưới theo bờ dốc đứng. Đến chân kim tự tháp, cái xác được
những người chờ sẵn dưới đó mang đi. Lúc ấy tôi còn chưa biết chúng cần xác anh
ta để làm gì.
Sau nạn nhân thứ nhất, lập
tức đến nạn nhân thứ hai, và cả đám đông lại cung kính nằm dài trên mặt đất.
Sau đó đến lượt tôi. Khi bị những viên tư tế túm chặt, tôi thấy tất cả quay
cuồng trước mắt, và chỉ tỉnh lại khi đã nằm trên cái thớt chém bằng đá đáng
nguyền rủa kia. Bị chúng giữ chặt hai tay, hai chân và đầu, tôi không sao cựa
quậy nổi. Ngay sát đầu tôi là con quỷ mang hình người với chiếc dao cầm tay
đang đứng. Sẽ không bao giờ tôi quên được cả khuôn mặt giận dữ, méo mó vì khát
máu lẫn đôi mắt nẩy lửa, ti hí dưới đôi lông mày nhờn bóng của hắn. Hất những
túm tóc đang treo trên trán về phía sau, hắn chần chừ trước khi hành động. Hắn
thong thả ước lượng, ướm thử dao lên người tôi, vào chỗ hắn sẽ chém. Tôi có cảm
giác như tôi đã nằm thế suốt hàng thế kỉ. Mỗi lần mũi dao khẽ chạm vào người,
tôi lại run lên, và cuối cùng hắn quyết định vung dao lên.
Như trong một giấc mơ, tôi
nhìn thấy mũi dao nhanh chóng hạ xuống. Thế là giờ phút cuối cùng của đời tôi
đã đến! Nhưng đúng lúc ấy có bàn tay ai đó bỗng giữa chừng nắm chặt cánh tay
tên đao phủ. Tôi nghe có giọng nói khe khẽ.
Hình như những điều người
ấy nói không làm viên tư tế thích lắm. Hắn hú lên, rồi xông vào định giết tôi,
những bàn tay kia lại túm lấy con dao khi nó đang bổ xuống. Viên tư tế bỏ đi
vào đền thờ thần Kêxancôatli. Còn tôi thì vẫn nằm dài trên cái thớt chém, để
một lúc phải chịu sự đau khổ của trăm nghìn cái chết. Tại sao tôi không bị giết
ngay! Không lẽ chúng còn định tra tấn tôi trước khi giết? Chỉ riêng ý nghĩ ấy
đủ làm tôi sợ hãi hơn tất cả những điều còn lại.
Tôi nằm trên tảng đá đen
đáng nguyền rủa, phơi bộ ngực để trần cho mặt trời thiêu đốt. Từ phía dưới vọng
lại tiếng ồn rầm rì của hàng vạn con người. Và trong khi tôi nằm như thế, cả
quãng đời đã sống lần lượt hiện lên trước mắt tôi. Tôi nhớ lại hàng trăm điều
vụn vặt bị lãng quên từ lâu, nhớ lại tuổi thiếu thời xa xôi, lời thề, cái hôn
vĩnh biệt và những lời nói cuối cùng của Lyly; nhớ lại khuôn mặt của Gacxia khi
hắn ra lệnh ném tôi xuống biển; nhớ lại cái chết của Ixaben đơ Xiguenxa, và tôi
ngạc nhiên tự hỏi: tại sao, tại sao những người phụng sự các thần của tất cả
các tôn giáo đều tàn ác như nhau?
Cuối cùng tôi lại nghe có
tiếng bước chân, và vội vàng nhắm mắt lại. Tôi không còn đủ sức để nhìn con dao
kinh khủng ấy nữa! Nhưng một phút trôi qua, rồi phút nữa, mà vẫn không thấy con
dao bổ xuống. Thay cho điều ấy, bỗng nhiên tôi được thả ra và cho đứng dậy, mặc
dù tôi nghĩ tôi sẽ chẳng bao giờ còn cần đến đôi chân nữa. Sau đó chúng dìu tôi
đến mép đỉnh kim tự tháp, vì tự tôi, tôi không đi được. ƠŒ đây, tên tư tế đao
phủ giết hụt tôi liền kêu to điều gì đó với những người đang đứng dưới chân kim
tự tháp, làm cả đám đông xao động như cơn gió mạnh thổi qua cánh rừng. Rồi hắn
dang hai cánh tay đẫm máu ôm tôi và hôn lên trán.
Chỉ bây giờ tôi mới nhận
thấy đang đứng cạnh tôi là người thủ lĩnh da đỏ đường bệ và điềm đạm với nụ
cười niềm nở trên môi. Chính ông ta là người đã gặp tôi ở cửa sông hôm nọ. Trước
đấy, với nụ cười, ông ta vừa trao tôi cho những viên tư tế, và bây giờ cũng với
nụ cười ấy, ông ta cứu tôi thoát khỏi tay chúng.
Người ta giúp tôi rửa ráy,
mặc quần áo rồi dẫn vào tháp thờ thần Kêxancôatli, và đặt tôi trước bức tượng
khủng khiếp của vị thần đó. Trong khi các viên tư tế lẩm bẩm đọc kinh, tôi đứng
yên bất động, không đủ sức rời mắt khỏi chiếc bát bằng vàng trong đó đáng lẽ
phải có trái tim tôi. Sau đó, có người đỡ hai bên, tôi đi xuống theo chiếc cầu
thang lượn quanh kim tự tháp. Tới mặt đất, ông thủ lĩnh cầm tay tôi dẫn đi qua
đám đông. Tôi nhận thấy bây giờ người da đỏ nhìn tôi với một vẻ sùng kính khó
hiểu. Người đầu tiên tôi gặp ở nhà ông thủ lĩnh là Marina. Cô nói với tôi những
lời dịu dàng nào đó nhưng tôi không hiểu. Người ta cho tôi được vào phòng mình,
và tôi đã ở đấy đến hết ngày, mệt mỏi đến tột độ vì những lo lắng mới trải qua.
Đúng là tôi đã rơi vào đất nước của quỷ xatăng!
Bây giờ là lúc tôi sẽ kể
về việc vừa rồi vì sao tôi thoát chết. Marina đã giúp tôi. Cô ta thích tôi và lấy
làm thương hại vì tôi phải gặp những điều bất hạnh như thế. Là người thông
minh, Marina cứu được tôi thoát khỏi lưỡi dao tế thần.
Khi tôi đã đi tới cái thớt
chém, cô ta nói với ông chủ của mình rằng vua Anahuac là Môntêzuma xưa nay vẫn
sợ những người Tây Ban Nha, hay còn gọi là Teule
xuất hiện, và rằng ai cũng biết vua muốn được tận mắt nhìn thấy một trong những
người Teule ấy. Marina nói rằng không
còn nghi ngờ gì nữa, tôi cũng là một Teule,
và chắc chắn vua Môntêzuma sẽ tức giận nếu tôi bị đem làm vật tế thần ở nơi xa
xôi này, thay cho việc phải đem tôi trình vua, còn sau đó nếu muốn; ngài có thể
giết tôi ở thủ đô cũng chưa muộn. Viên thủ lĩnh đáp rằng cô ta nói đúng. Tuy
nhiên bây giờ thì quá muộn, vì tôi đã ở trong tay các viên tư tế, mà giành lại
tôi là điều không thể được.
- Ồ không! - Marina nói. -
Chỉ cần nói với họ thế này là đủ: các ông đang đem một người Teule làm vật tế cho thần Kêxancôatli mà
Kêxancôatli lại là một vị thần da trắng. Sẽ thế nào nếu như Teule này là con cháu của Ngài? Ngài sẽ
tức giận nếu con Ngài được dâng làm vật tế cho chính Ngài. Mà nếu thậm chí Ngài
không tức giận, thì vua Môntêzuma nhất định sẽ không bằng lòng, và sẽ trả thù
cả thủ lĩnh và những viên tư tế.
Nghe xong, viên thủ lĩnh
hiểu Marina nói đúng, vội vàng leo lên kim tự tháp. Ông ta tới nơi thật đúng
lúc và đã kịp ngăn lưỡi dao đang bổ xuống người tôi. Lúc đầu viên đại tư tế
không chịu, nhưng khi người thủ lĩnh nói rõ hết mọi chuyện, hắn hiểu rằng tốt
hơn là nên nhân nhượng để khỏi chuốc vào thân cơn giận của Môntêzuma. Vì thế
tôi được thả ra, đưa vào đền thờ, được chỉ cho đám đông xem, và Paba tuyên bố rằng thần công nhận tôi là
một trong những đứa con của Ngài. Đó cũng là lí do từ nay người da đỏ nhìn tôi
bằng con mắt tôn kính.
XIV
CỨU GUATÊMÔC
Sau cái ngày kinh khủng
ấy, mọi người ở Tabaxcô, bắt đầu đối xử với tôi khác hẳn, và không còn nghĩ tới
việc đem một người Tây Ban Nha, hay Teule
như họ vẫn gọi tôi, làm vật tế cho các thần của họ nữa. Tất cả thay đổi ngay
lập tức. Bây giờ tôi được mặc đẹp, lúc nào cũng no và có thể đi dạo nơi nào tùy
thích, dù có lính đi kèm. Những người lính này phải đem đầu đền tội nếu để tôi
bỏ trốn. Tôi được biết, một ngày sau khi tôi thoát khỏi tay của những viên tư
tế, người ta cho người tới báo với Đức vua Môntêzuma vĩ đại về tôi, để Ngài cho
biết ý kiến của mình. Nhưng đường từ đây tới Tênôctitlan không gần, và phải mất
nhiều tuần nữa những người liên lạc mới trở lại.
Trong khi ấy hàng ngày tôi
chăm chỉ học tiếng Maia và tiếng của những người Aztec. Marina nhiệt tình giúp
tôi trong việc này. Bản thân cô ta không sinh ra ở Tabaxcô, mà ở Painala, phía
đông nam đất nước. Marina bị mẹ đem bán cho các nhà buôn, để tài sản của bà rơi
vào tay một đứa bé khác, là con chồng thứ hai, và bằng cách ấy, cuối cùng
Marina đã ở trong nhà thủ lĩnh Tabaxcô.
Ngoài ngôn ngữ, tôi cố
gắng hiểu biết càng nhiều càng tốt lịch sử và phong tục đất nước này, đồng thời
tôi cũng tìm cách đọc các tài liệu được viết bằng hình vẽ mà ở đây rất thông
dụng. Cũng trong thời gian này, nhờ có các kiến thức về nghề y, dần dần tôi nổi
tiếng là một người thầy thuốc vĩ đại, và điều này càng làm dân chúng Tabaxcô
tin chắc tôi đúng là con trai của thần Kêxancôatli tốt bụng.
Nhưng càng biết nhiều bao
nhiêu, tôi càng ít hiểu về dân tộc này bấy nhiêu. Trong nhiều lĩnh vực, người
da đỏ không hề thua kém các dân tộc châu Âu mà tôi biết. Họ là những người thợ
thủ công và thợ xây dựng thật khéo léo. Ít thành phố của chúng ta có thể sánh
nổi với các thành phố của họ về mặt kiến thức hoàn thiện, và ít đất nước nào có
những bộ luật công bằng như họ. Ngoài ra, dân tộc này rất kiên nhẫn và dũng
cảm. Nhưng sự mê tín đang đục khoét họ từ phía trong, như nấm làm hại phần ruột
một thân cây khỏe mạnh. Bản thân sự thờ cúng của người da đỏ rất cao thượng và
thậm chí có nhiều điều giống đạo Cơ Đốc, như lễ rửa tội chẳng hạn. Tuy nhiên,
trên thực tế, những việc ấy dẫn tới điều gì thì tôi đã nói.
Lúc này tôi tự hỏi mình;
suy cho cùng, cái gì xấu hơn, - đem người làm vật tế thần, hay tra tấn họ trong
nhà tù của tòa án dị giáo rồi chôn sống trong bức tường một tu viện? Có lẽ cái
thứ hai còn độc ác hơn!
Trong vòng một tháng ở
Tabaxcô, tôi đã học tiếng của người da đỏ tốt đến mức đã có thể nói chuyện với
Marina. Chúng tôi thành bạn với nhau, chỉ thế thôi. Từ Marina, tôi nắm được
phần lớn các tin tức của đất nước này, ngoài ra, cô còn dạy tôi cách xử sự để
khỏi rơi vào tai họa. Để bù lại, tôi kể cho cô nghe đôi điều về tôn giáo của
chúng ta và về phong tục của người châu Âu. Chính nhờ những kiến thức ấy mà sau
này Marina trở thành người không thể thay thế được đối với quân Tây Ban Nha. Cô
ta đã tiếp nhận tôn giáo mới và đi theo con đường của người da trắng. Cứ thế
tôi sống trong nhà của viên thủ lĩnh Tabaxcô hơn bốn tháng. Cuối cùng viên thủ
lĩnh rất ưu ái với tôi này thậm chí còn đề nghị tôi lấy em gái ông ta làm vợ.
Ông ta đã ngạc nhiên không ít khi thấy tôi từ chối một cách lịch sự, vì cô gái
ấy quả rất xinh đẹp. Mặc dù bị từ chối, người ta vẫn đối xử với tôi rất tốt, và
nếu trái tim tôi không hướng về nước Anh xa xôi, không lo sợ trước cái nghi lễ
đẫm máu đang xảy ra trước mắt tôi hầu như hàng ngày, có lẽ tôi đã tự nguyện
sống chung suốt đời với dân tộc tốt bụng, khéo tay và cần cù này.
Cuối cùng, sau đúng bốn
tháng, người của triều đình Môntêzuma tới, - họ bị kẹt lại dọc đường vì sông
ngập nước và vì các sự cố khác. Vua quan tâm tới tôi đến mức nghĩ cần thiết
phải cử chính người cháu ruột của mình là hoàng thân Guatêmôc đến đây cùng một
đám đông các chiến binh thiện xạ nhất để đưa tôi về Thủ đô.
Không bao giờ tôi quên
được cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa tôi với hoàng thân, - người sau này đã thành bạn
chí thiết của tôi, cả trong cuộc sống lẫn trong chiến đấu. Khi anh ta cùng đoàn
tùy tùng tới Tabaxcô, tôi đang săn hươu ở vùng lân cận và làm những người da đỏ
phải kinh ngạc vì tài nghệ bắn cung của tôi. Họ không biết tôi đạt tới sự điêu
luyện ấy khi còn ở nước Anh, - hai lần tôi giành giải nhất trong các cuộc thi
bắn cung ở Banghi. Khi người liên lạc đến, chúng tôi ngừng cuộc săn và vội vàng
trở về thành phố, không quên mang theo con hươu săn được. Đến gần nhà viên thủ
lĩnh, tôi thấy trong sân nhà ông ta đứng đầy các chiến binh ăn mặc sặc sỡ,
trong số họ đặc biệt nổi bật một người với vẻ ngoài đường bệ. Anh ta còn trẻ,
rất cao và rộng vai, có khuôn mặt dễ coi và cái nhìn của con đại bàng. Toàn bộ
vẻ ngoài đầy quyền lực của anh ta toát lên một sự cao thượng đáng kính. Người
anh ta được che bằng một chiếc áo giáp bằng vàng, vai khoác áo lông chim lấp
lánh. Các lông chim được khéo léo đan vào với nhau thành từng sọc có màu khác
nhau. Đầu anh ta đội mũ vàng, có biểu tượng nhà vua là hình một con đại bàng
đang xé xác một con rắn vàng, được trang điểm bằng những viên đá quý. ƠŒ dưới
đầu gối và cao hơn khuỷu tay một chút, anh ta mang những vành đai có đính những
viên ngọc, còn trong tay là một chiếc giáo dài đầu nhọn bịt đồng.
Xung quanh con người này
tụ tập rất nhiều các chiến binh sang trọng khác, ăn mặc không kém phần sặc sỡ,
chỉ khác nhau ở chỗ thay cho chiếc áo khoác bằng vàng, họ mang những chiếc áo
giáp bằng thứ vải đặc biệt được may thành nhiều lớp rất dày, gọi là Escanpili, còn trên mũ họ không phải
biểu tượng nhà vua, mà là một túm lông chim dài được gắn vào mũ bằng một thứ
keo và những viên đá quý. Đó là ấn tượng khi lần đầu tôi thấy hoàng thân
Guatêmôc, cháu vua Môntêzuma, và sau này là ông vua cuối cùng của đất nước
Anahuac. Thấy hoàng thân, tôi liền chào anh ta đúng theo phong tục người da đỏ,
- chạm bàn tay phải xuống đất, sau đó đưa lên trán. Guatêmôc chăm chú nhìn tôi
trong mấy giây. Tôi đứng trước anh ta trong bộ quần áo đơn giản của người đi
săn với chiếc cung cầm tay. Anh ta mỉm cười thân mật nói:
- Teule, nếu tôi hiểu được điều gì đó về con người thì quả anh và tôi
ngang nhau về dòng dõi và tuổi tác, vì vậy anh không phải cúi thấp chào tôi như
một nô lệ chào chủ!
Nói xong, anh ta chìa tay
cho tôi. Tôi cầm chặt bàn tay ấy, và với sự giúp đỡ của Marina, vẫn còn không
rời mắt nhìn anh ta một cách ngưỡng mộ, tôi đáp:
- Thưa hoàng thân, có thể
đúng như thế. ƠŒ đất nước của tôi, tôi cũng là người có tên tuổi và của cải,
nhưng ở đây tôi chỉ là một tên nô lệ đáng thương, được cứu thoát khỏi bàn thờ
tế thần.
- Tôi biết điều ấy, -
Guatêmôc nhíu mày nói. - Cũng may mà người ta kịp cứu anh. Nếu không, cơn giận
của Môntêzuma sẽ đổ xuống cả thành phố này, và lúc ấy...
Vừa nói những lời này, anh
ta vừa nhìn viên thủ lĩnh đang đứng run lẩy bẩy. Thời ấy cái tên Môntêzuma
thường làm người khác lo sợ như vậy.
Sau đó Guatêmôc hỏi có
đúng tôi là một Teule, nghĩa là một
người Tây Ban Nha hay không? Tôi đáp tôi là một người thuộc bộ lạc da trắng
khác, nhưng trong người tôi có một nửa dòng máu Tây Ban Nha. Điều này làm anh
ta ngạc nhiên, vì từ trước tới nay anh ta chưa hề nghe có các bộ lạc da trắng
khác ngoài Teule. Sau đó tôi kể cho
anh ta nghe đôi điều về bản thân, chủ yếu là về việc tôi đã rơi vào đây như thế
nào.
Nghe xong, Guatêmôc nói:
- Nếu tôi hiểu đúng lời
anh, Teule, thì anh không phải là
người Tây Ban Nha, dù trong anh có dòng máu của giống người ấy, và anh đã tới
đây trên một con tàu Tây Ban Nha. Tất cả những điều này thật khó hiểu. Tuy
nhiên, cứ để vua Môntêzuma phán xét, còn bây giờ chúng ta nói sang chuyện khác.
Anh hãy chỉ tôi xem cách anh sử dụng chiếc cung lớn ấy như thế nào. Anh mang đi
theo hay làm nó ở đây? Người ta nói với tôi rằng anh là tay cung thiện xạ nhất
giữa những người thổ dân nơi này!
Tôi chỉ cho Guatêmôc xem
chiếc cung tự tôi làm nên. Nó có thể bắn xa hơn sáu mươi bước so với bất kì
chiếc cung nào của người da đỏ. Sau đó, chúng tôi nói với nhau về các trận đánh
và về săn bắn. Marina giúp chúng tôi vượt qua các trở ngại về ngôn ngữ; tới
chiều, tôi và hoàng thân đã là bạn thân với nhau.
Guatêmôc và đoàn tuỳ tùng
của chàng nghỉ lại ở Tabaxcô một tuần. Trong suốt thời gian ấy chúng tôi thường
gặp và nói chuyện tay ba với nhau: hoàng thân, Marina và tôi. Chẳng bao lâu tôi
nhận thấy Marina bắt đầu nhìn vị khách quý bằng đôi mắt một người đang yêu.
Điều hấp dẫn cô ta không chỉ là của cải và danh tiếng của Guatêmôc. Là một
người nhiều tham vọng, Marina không muốn bị giam hãm suốt đời trong cảnh nô lệ
ở nhà viên thủ lĩnh, mà mơ ước được chia sẻ cùng Guatêmôc vinh quang và quyền
lực.
Cô ta tìm đủ mọi cách để
chinh phục trái tim hoàng thân, nhưng Guatêmôc không hề để ý. Cuối cùng cô ta
quyết định nói thẳng với Guatêmôc, và đã làm điều ấy trong khi tôi đang có mặt.
- Thưa hoàng thân, ngày
mai hoàng thân đã rời thành phố chúng tôi, - cô ta bắt đầu nói, giọng rụt rè. -
Nếu hoàng thân cho phép người nữ tì của ngài được nói, tôi muốn xin hoàng thân
một ân huệ.
- Cô cứ nói đi, - Guatêmôc
đáp.
- Tôi muốn yêu cầu hoàng
thân điều này: hãy mua tôi từ tay ông thủ lĩnh, hay nếu muốn hoàng thân có thể
bắt ông ta trao tôi cho hoàng thân. Tôi muốn được theo hoàng thân về
Tênôctitlan.
Guatêmôc phá lên cười:
- Cô nói rất thẳng thắn, -
chàng đáp. - Nhưng cô phải biết rằng ở thành phố Tênôctitlan, tôi đang có công
chúa em tôi và vợ là Têsuixpô, ngoài ra còn có ba phụ nữ quý phái khác, mà thật
tiếc là những người này rất hay ghen.
Mặc dù có nước da ngăm
đen, Marina cũng thẹn đỏ cả mặt, và đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối
cùng tôi thấy đôi mắt hiền hậu của cô ta ánh lên giận dữ.
- Thưa hoàng thân, - cô ta
nói - tôi yêu cầu hoàng thân cho tôi đi theo, chứ không yêu cầu lấy tôi làm vợ
hay làm nhân tình!
- Nhưng cô đã nghĩ về điều
ấy, - Guatêmôc cười đáp.
- Ta đừng vội nói tới
những điều tôi nghĩ, thưa hoàng thân. Tôi muốn được nhìn thấy thành phố vĩ đại
và đức vua vĩ đại, vì tôi đã quá mỏi mệt với cuộc sống nơi này, và cũng vì tôi
muốn được vươn cao lên nữa. Hoàng thân từ chối tôi, thưa hoàng thân, nhưng có
thể sẽ có lúc tôi tự vươn lên cao mà không cần hoàng thân giúp đỡ. Lúc ấy, tôi
sẽ nhớ việc hôm nay hoàng thân đã làm nhục tôi, và tôi sẽ trả thù cả hoàng thân
lẫn gia đình cao quý của hoàng thân!
Guatêmôc lại phá lên cười,
nhưng sau đó liền nghiêm mặt lại.
- Cô nô lệ kia, cô đi quá
xa rồi đấy! - Chàng nói. - Những điều cô vừa nói đủ để đưa lên thớt chém cả
mười người một lúc. Nhưng vì tính kiêu hãnh đàn bà của cô bị xúc phạm và bản
thân cô không biết mình đang nói gì, nên tôi không chấp. Cả anh, Teule, anh cũng đừng chấp những lời cô
ta vừa nói, nếu anh hiểu.
Marina quay người, đi ra
khỏi nhà. Ngực cô ta nhô lên hạ xuống dồn dập vì tức giận và vì tự ái, cũng có
thể vì cả tình yêu không được chấp nhận. Khi đi ngang qua tôi, tôi nghe cô ta
nói qua kẽ răng:
- Được lắm, có thể hoàng
thân sẽ quên, nhưng tôi thì không bao giờ!
Về sau tôi thường nghĩ vẩn
vơ khi nhớ lại ngày này.
Chuyện gì đã xảy ra? Ngẫu
nhiên vì tức giận, Marina nói thế, hay lúc ấy cô ta quả thật đã nhìn thấy trước
tương lai? Tôi còn tự hỏi một câu thế này: cuộc nói chuyện với Guatêmôc đóng
vai trò thế nào trong cuộc đời sau này của Marina? Có đúng cô ta bán rẻ Tổ quốc
mình để chuốc lấy sự nhục nhã và sự nguyền rủa của người khác chỉ vì tình yêu
đối với Côrtex như sau này cô ta nói với tôi hay không? Trả lời những câu hỏi
ấy thật khó, và có lẽ cũng chẳng cần thiết phải trả lời, vì chúng chẳng liên
quan tới những gì sẽ xảy ra chẳng bao lâu sau đó. Mỗi lần xảy ra một sự kiện
trọng đại nào đấy, chúng ta bắt đầu tìm kiếm nguyên nhân trong quá khứ, và
thường mắc sai lầm. Có lẽ đó đơn giản chỉ là cơn giận bình thường của đàn bà,
rồi cũng sẽ qua đi và bị lãng quên. Trong thực tế ít ai xây dựng ngôi nhà cuộc
đời mình trên nền tảng vững chắc của một thứ tình cảm nào đó, - căm thù hay hi
vọng, tuyệt vọng hay đam mê, - như đã xảy ra với tôi. Thông thường thì các
trường hợp ngẫu nhiên lại chi phối cả cuộc đời chúng ta. Tôi chỉ biết một điều
rằng quả thật Marina đã không quên cuộc nói chuyện ấy.
Trước khi nói về những
chuyện xảy ra với tôi ở Tênôctitlan, nơi con gái của vua Môntêzuma sẽ trở thành
vợ tôi và tôi sẽ gặp lại Gacxia một lần nữa, tôi muốn kể thêm ở đây một sự kiện
đã xảy ra trong thời gian tôi ở Tabaxcô.
Vào ngày chúng tôi lên
đường, để làm hài lòng các vị thần, và để các vị thần giúp đỡ chúng tôi trong
cuộc hành trình dài sắp tới, đồng thời nhân dịp một trong những ngày hội liên
tiếp của người da đỏ, một cuộc tế thần vĩ đại đã được tổ chức trên đỉnh kim tự
tháp. Tôi buộc phải chứng kiến những cảnh rùng rợn ấy hàng ngày, và hôm ấy cũng
như mọi người tôi cũng leo lên đỉnh kim tự tháp. Phía dưới tụ tập rất nhiều người.
Chúng tôi đứng quanh cái thớt chém bằng đá và chờ đợi. Tất cả đã sẵn sàng.
Và kia, tên Paba độc ác, tên đã đếm nhịp đập trái
tim tôi bước ra từ tháp thờ và ra hiệu cho những tên đầy tớ của hắn đặt con mồi
đầu tiên lên thớt chém. Đúng lúc ấy hoàng thân Guatêmôc đột nhiên bước lên phía
trước và vừa chỉ vào tên Paba, vừa ra
lệnh cho những tên tư tế.
- Bắt người này cho ta!
Những người kia do dự. Tất
nhiên Guatêmôc là hoàng thân, và dòng máu hoàng tộc đang chảy trong người
chàng, tuy thế, giết một viên đại tư tế vẫn được xem là điều không hợp ý thần!
Thấy thế, Guatêmôc vừa mỉm cười vừa cởi chiếc vòng đeo tay được trang điểm bằng
một hòn đá quý màu xanh thẫm, trên đó có khắc những hình thù kì lạ. Đồng thời
chàng còn rút ra một cuộn giấy có những dòng chữ tượng hình, và đưa nó cùng
chiếc vòng cho mọi người xem. Đó là chiếc vòng đeo tay của chính đức vua
Môntêzuma, và trên tờ giấy có chữ kí của quan đại tư tế thành Tênôctitlan. Ai
không làm theo lệnh của người có những thứ này, sẽ phải chết và bị làm nhục. Vì
vậy, không nói một lời nào, các viên tư tế liền túm chặt người cầm đầu của
chúng rồi đứng lặng chờ lệnh.
- Hãy đặt ông ta lên thớt
chém để làm vật tế thần Kêxancôatli, - Guatêmôc ra lệnh một cách ngắn gọn.
Bây giờ thì chính tên đao
phủ vẫn thường vui mừng một cách độc ác trước cái chết của người khác, phải run
lên vì sợ hãi, và hắn khóc to. Rõ ràng hắn không thích cái viên thuốc mà hắn
vẫn cho người khác uống.
- Thưa hoàng thân, tôi làm
gì để phải chết thế này? - Hắn kêu to. - Tôi là người phụng sự trung thành các
thần và các vua cơ mà!
- Ngươi phải chết, vì
ngươi đã dám đem Teule này làm vật tế
thần, - Guatêmôc vừa đáp vừa chỉ vào tôi. - Vì ngươi muốn bằng cách ấy làm trái
ý đức vua Môntêzuma, và vì các tội ác khác của ngươi đã được ghi trên tờ giấy
này. Teule là con trai thần
Kêxancôatli; chính người đã tuyên bố điều ấy. Thế thì hãy để thần Kêxancôatli
được nhận một người khác thay con trai của thần! Ta nói hết. Giết hắn đi!
Ngay lập tức các viên tư
tế khác, vốn từ trước tới nay chỉ làm theo lệnh của tên Paba này, liền ném hắn lên hòn đá chém. Một tên trong bọn khoác vào
người chiếc áo đỏ của hắn, và mặc dù hắn van khóc, đe dọa, anh ta đã tỏ rõ hết
tài nghệ của mình. Một giây sau, xác của tên khốn kiếp ấy đã bị vứt lăn xuống
theo bờ dốc kim tự tháp. Phải nói rằng tôi hoàn toàn không lấy làm buồn khi hắn
phải chết đúng như rất nhiều người tư tế khác bị hắn bắt chết. Trong việc này
có lẽ tôi chưa đủ nhân từ như đạo Cơ Đốc vẫn dạy. Khi mọi việc xong xuôi,
Guatêmôc quay sang phía tôi và nói:
- Tất cả các kẻ thù của
anh sẽ phải chết như thế, anh bạn Teule
ạ.
Sự kiện ấy cho tôi thấy
vua Môntêzuma có quyền lực lớn thế nào. Chỉ cần nhìn thấy chiếc vòng đeo tay
của ngài, là lập tức các viên tư tế giết ngay chính ông chủ của mình!
Khoảng một giờ sau chúng
tôi lên đường, bắt đầu một cuộc hành trình lâu dài. Trước đó tôi đã kịp chia
tay một cách thân thiết với viên thủ lĩnh chủ nhà và với Marina, là người khi
từ biệt đã không kìm nổi nước mắt. Tôi chẳng bao giờ gặp lại viên thủ lĩnh,
nhưng Marina thì sau này tôi còn được gặp.
Cuộc hành trình của chúng
tôi kéo dài suốt một tháng. Đường đi xa và rất khó khăn. Không ít khi chúng tôi
phải đốn cây mở đường, thỉnh thoảng lại bị kẹt không qua được sông. Trong thời
gian ấy tôi được chứng kiến nhiều điều kì lạ. Chúng tôi được đón tiếp một cách
hết sức trọng thể ở rất nhiều các điểm dân cư mà chúng tôi dừng lại, nhưng nếu
đem kể hết ra đây, e sẽ chiếm nhiều thời gian.
Nhưng dù sao tôi vẫn phải
kể về một sự kiện, vì nó là khởi điểm của tình bạn giữa tôi và hoàng thân
Guatêmôc. Tình bạn ấy chỉ bị cắt đứt bởi cái chết của hoàng thân, nhưng cho tới
tận bây giờ trái tim tôi vẫn giữ được nhiều kỉ niệm đẹp về nó.
Một lần do nước lũ, phải
dừng lại, chúng tôi quyết định tiêu phí thời gian bằng cách săn bắn. Chẳng bao
lâu ba con hươu đã bị bắn chết, nhưng lúc ấy Guatêmôc phát hiện một con hươu
đực trên đồi, chúng tôi liền rón rén đi tới. Nhưng con hươu lại đứng giữa chỗ
trống, quanh nó hàng trăm bước không có một thân cây hay bụi rậm nào, vì vậy
không thể lại gần nó được, Guatêmôc cười nói với tôi:
- Teule, người ta kể về anh đủ thứ chuyện, như thể đời này không ai
bắn cung giỏi bằng anh. Con hươu kia đang đứng cách xa ba lần cái khoảng cách
mà người Aztec chúng tôi có thể bắn trúng. Anh hãy thi thố tài nghệ của anh đi.
- Để tôi thử xem, - tôi
đáp, - kể con mồi cũng xa thật.
Chúng tôi đứng núp dưới
một thân cây xâyba, có lá tỏa xung
quanh hàng chục mét, tôi đặt mũi tên lên chiếc cung lớn tự tay làm, giống hệt
chiếc cung tôi có ở nước Anh, rồi nheo mắt ngắm bắn. Mũi tên bay vèo đi dưới tiếng
thì thầm tán thưởng của mọi người và đã cắm đúng vào tim con hươu kia.
Chúng tôi bước ra khỏi
bóng cây và đang định đi tới chỗ con hươu bị giết thì bỗng nhiên một con báo
đực, trước đó cũng rình con mồi này, nhảy lên vai Guatêmôc. Đó là một con vật khổng
lồ. Nó vật hoàng thân xuống đất, ngồi lên lưng và bắt đầu dùng móng cào cấu.
Nếu không có chiếc mũ che đầu và bộ áo giáp bằng vàng thì ngay lập tức con thú
ấy đã giết chết Guatêmôc và chàng sẽ chẳng bao giờ làm vua Anahuac. Tuy nhiên,
đối với Guatêmôc, rất có thể chết lúc ấy lại tốt hơn.
Thấy con báo cào cấu hoàng
thân, các chiến binh đi theo bảo vệ nghĩ chàng đã chết, và tuy là những người
dũng cảm, họ đã hoảng sợ bỏ chạy. Nhưng tôi thì không, mặc dù nên chạy theo họ
thì hơn. Bên hông tôi đang mang thứ vũ khí yêu thích của người da đỏ, thay cho
thanh kiếm, là một chiếc gậy dẹt, đầu nhọn, có cắm những mảnh đá ôpxiđian sắc như răng cá mập. Tháo dây
lưng rút nó ra, tôi lao vào tấn công con báo. Bị đánh cú đầu tiên vào đầu, con
báo quay tròn dưới đất, giàn giụa máu, nhưng giây sau nó gào lên giận dữ rồi
nhảy vào tôi. Cầm chiếc gậy bằng cả hai tay, tôi đem hết sức đánh một lần nữa
khi nó đang ở trên không. Cú đánh thứ hai này đúng vào mõm và sọ nó, mạnh đến
mức chiếc gậy gãy vụn thành nhiều mảnh, nhưng con báo không vì thế mà dừng lại.
Tôi bị hất ngã, con báo chồm tới, cắm phập răng và móng vào ngực tôi, may mà
hôm ấy tôi mặc chiếc áo giáp được may bằng thứ vải đặc biệt rất dày, nếu không
nó sẽ xé xác tôi. Nhưng thậm chí cả cái áo khoác ấy cũng không cứu cổ và gáy
tôi thoát khỏi những vết thương sâu. Móng con báo còn để lại dấu vết trên người
tôi cho đến tận bây giờ.
Lúc ấy tôi nghĩ thế là giờ
phút cuối cùng của đời tôi đã đến: tuy nhiên, cú đánh cuối cùng khủng khiếp của
tôi đã quyết định số phận con báo; một trong những mảnh ôpxiđian đã cắm phập vào não nó. Cấu cào cơ thể tôi, các móng vuốt
của nó run lên, nó ngẩng đầu lần cuối, rống to rồi ngã phịch xuống người tôi.
Bị đè dưới một trọng lượng
quá lớn, và vô cùng yếu ớt vì những vết thương đau, tôi cứ nằm thế cho đến khi
sự dũng cảm quay lại với các chiến binh kia.Cuối cùng họ đến gần, kéo xác con
báo khỏi người tôi. Đến lúc ấy hoàng thân Guatêmôc, người được chứng kiến tất
cả nhưng không cử động nổi, cũng nhổm dậy được.
- Teule, - chàng bảo tôi, - anh đúng là một người dũng cảm, và nếu
anh sống qua tai họa này, tôi thề tôi sẽ là bạn anh cho tới khi chết, cũng như
anh là bạn của tôi. Guatêmôc chỉ nói với tôi, như thể không nhìn thấy các chiến
binh đang đứng quanh. Chàng thậm chí không nghĩ cần thiết phải trách họ.
Nhưng lúc ấy tôi đã ngất
đi.
XVI
TRIỀU ĐÌNH VUA MÔNTÊZUMA
Tôi bị thương nặng đến mức
suốt một tuần sau đó phải nằm yên một chỗ, và cuối cùng người ta phải làm cáng
đưa tôi đi. Chỉ khi còn cách Tênôctitlan ba ngày đường, tôi mới có thể tự mình
đi được. Các con đường ở đây tốt hơn ở nước Anh rất nhiều, và chúng luôn được
chăm sóc cẩn thận. Tôi lấy làm mừng là tự đi được trên hai chân của mình, vì
tôi hoàn toàn không muốn ngồi trên vai người khác, điều người da đỏ xem là bình
thường. Đi lại kiểu ấy hợp với phụ nữ hơn. Vả lại, tôi không thấy cần thiết để
người ta cáng. Cái nóng dịu bớt, bây giờ chúng tôi đang đi qua một vùng cao
nguyên mát mẻ, thỉnh thoảng lại gặp những dãy núi.
Chưa bao giờ tôi thấy một
vùng đất ảm đạm như cao nguyên trần trụi vô tận này. ƠŒ đây chẳng có cây cối gì
ngoài các bụi gai alôe và các cây
xương rồng đủ hình thù kì dị nhất, vì chỉ chúng mới sống nổi ở một nơi đất có
nhiều cát và thiếu nước thế này. Đúng là một đất nước kì lạ! Một đất nước có ba
vùng khí hậu kề sát nhau, và cạnh những cánh rừng nhiệt đới lại là một cao
nguyên mênh mông cằn cỗi.
Chúng tôi ngủ đêm ở một
trong những ngôi nhà được xây dọc đường cho du khách. Ngôi nhà ấy không xa một
cái đèo vượt qua dãy núi bao quanh thung lũng Tênôctitlan. Rất lâu, trước khi
trời sáng chúng tôi lên đường đi tiếp, vì đang ở một độ cao lớn nên trời rất
lạnh, và cũng vì sau những ngày nóng bức vừa qua, bây giờ không ai ngủ được.
Ngoài ra Guatêmôc muốn ngay đêm ấy chúng tôi về tới thành phố.
Đi được mấy trăm bước, con
đường bắt đầu dẫn chúng tôi lên đèo. Vô tình tôi dừng lại, sững sờ vì ngạc
nhiên. Xa xa phía dưới, như trong lòng một chiếc bát khổng lồ, là những vùng
đất và hồ nước còn bị bóng đêm che phủ chưa nhìn thấy rõ, nhưng ngay trước mặt
tôi sừng sững hai đỉnh núi phủ tuyết có mây bao bọc. Những tia sáng của mặt
trời còn ẩn náu đâu đó chiếu lên chúng, nhuộm màu trắng của chúng thành màu máu
đỏ rực. Pôpôca- têpêcli, có nghĩa là ngọn
núi nhả khói và núi Ixatacxiacli - người
phụ nữ đang ngủ. Khó có thể hình dung cảnh nào hùng vĩ hơn hai ngọn núi này
vào lúc trời gần sáng.
Trên miệng núi lửa
Pôpôcatêpêcli, có một cột khói dày đang bay lên. Phía trong, nó được trộn lẫn
bởi các tàn lửa, phía ngoài được nhuốm đỏ bởi mặt trời đang lên, trông giống
một cột lửa tự quay xung quanh mình. Các sườn dốc phủ tuyết dưới chân nó dần
dần đổi màu, từ màu trắng lóa mắt sang màu đỏ sẫm, từ màu đỏ sang màu nâu. Miêu
tả lại cảnh này là việc không thể làm nổi; chỉ những ai từng tận mắt nhìn thấy
mới có thể hình dung được những cảnh tương tự.
Chiêm ngưỡng Pôpôcatêpêcli
xong, tôi quay sang Ixta- cxiactli. Ngọn núi này không cao như ngọn núi chồng - người Aztec xem hai núi lửa này
là một cặp vợ chồng. Lúc đầu tôi chỉ thấy đấy là hình một người phụ nữ khổng lồ
như được nặn từ tuyết. Người phụ nữ này như đang nằm yên trong chiếc quan tài
được nâng lên mây cao, để các suối tóc chảy theo sườn núi. Chẳng bao lâu sau,
những tia mặt trời xuất hiện, và bà ta thức giấc, đường bệ đứng lên từ những
đám mây hồng, tạo nên cảnh tượng hết sức kì diệu và ngoạn mục. Tuy nhiên, dù
buổi sáng người đàn bà đang ngủ đẹp
đến đâu, tôi vẫn yêu bà ta vào buổi chiều hơn, khi bà ta lộng lẫy và oai vệ nằm
xuống chiếc giường đệm của mình và từ từ chìm sâu trong bóng tối.
Khi tôi đứng ngắm hai đỉnh
núi, ánh bình minh dần dần chiếu sáng các sườn núi, để lộ những khu rừng bao
quanh chúng. Nhưng cả một vùng đồng bằng rộng lớn phía dưới vẫn bị mây mù che
kín. Mây mù chậm chạp quây tròn như mặt biển cuộn sóng, và như các hòn đảo,
ngọn đồi và mái nhà các cung điện lần lượt xuất hiện. Chúng tôi đang đi xuống
theo một con đường khá dốc, càng đi sương mù càng mỏng dần, cuối cùng chúng tôi
nhìn thấy phía dưới là các mặt hồ Sancô, Khôsimincô và Texcôcô đang phản chiếu
dưới ánh mặt trời như ba chiếc gương vĩ đại. Trên bờ của ba hồ ấy có nhiều
thành phố nhỏ và thành phố lớn nhất là Tênôctitlan, trông nó như đang bơi giữa
mặt nước phẳng lặng. Xung quanh thành phố là các cánh đồng ngô xanh tươi, các
rừng cây rậm rạp, và xa tít mãi phía sau là bức tường đen của dãy núi đá bao
quanh thung lũng.
Suốt ngày chúng tôi nhanh
chóng đi ngang qua đất nước kì diệu ấy, bỏ lại phía sau thành phố Amêcamêca và
Aiôxingô mà tôi sẽ không miêu tả ở đây, đồng thời qua rất nhiều làng xóm tuyệt
đẹp nằm rải rác trên bờ hồ Sancô. Sau đó chúng tôi leo lên một cái đập bằng đá
giống như một con đường rộng chạy ngang qua hồ; xế chiều chúng tôi đã tới thành
phố Tlauaca. Từ đây chúng tôi đi tới Ixtapalapana, nơi Guatêmôc muốn ngủ qua
đêm trong nhà ông bác mình là Cuitlahua. Nhưng tới nơi, được báo trước về việc
chúng tôi sắp về, vua Môntêzuma ra lệnh chúng tôi phải lên đường đi Tênôctitlan
ngay lập tức. Đồng thời vua gửi tới những chiếc kiệu để đón chúng tôi. Chúng
tôi buộc phải ngồi lên kiệu và rời thành phố của những vườn cây xanh tươi này.
Không dừng lại nghỉ nơi
nào nữa, những người khiêng kiệu khiêng chúng tôi đi theo bờ đê phía nam, tiến
vào Thủ đô. Chúng tôi đi ngang qua nhiều khu dân cư với những ngôi nhà được xây
trên cọc giữa mặt hồ, qua những vườn cây trồng trên các bè nổi giữa nước như
những con thuyền, qua rất nhiều các kim tự tháp nhỏ và các đền thờ lộng lẫy.
Trên mặt đê hàng nghìn người da đỏ đang bận rộn đi lại theo nhiều hướng khác
nhau. Cuối cùng, trước khi mặt trời lặn, chúng tôi đã tới Hôlôc, một vị trí
phòng thủ trên chỗ giao nối của hai con đê. Than ôi, như nhiều thành lũy tuyệt
vời khác mà tôi được nhìn thấy hôm đó, Hôlôc đã bị Côrter hủy diệt hoàn toàn.
Từ Hôlôc trở đi là địa
phận của Tênôctitlan, - bây giờ gọi là Mêhicô, - một trong những thành phố vĩ
đại và hùng mạnh nhất mà tôi đã gặp. ƠŒ ngoại ô, nhà cửa được xây bằng một thứ
gạch không nung, nhưng ở những khu phố trung tâm và giàu có nổi lên các tòa nhà
cao xây bằng đá đỏ. Chính giữa mỗi nhà có khu vườn bao quanh là một cái sân
nhỏ. Xen giữa các nhà là một hệ thống chi chít các con kênh có đường dành cho
người đi bộ hai bên. Trên các quảng trường có những kim tự tháp hình bậc thang,
các cung điện và đền thờ. Nhưng tất cả những cảnh ấy lập tức bỗng mờ nhạt khi
chúng tôi đi tới một quảng trường buôn bán rất rộng và tôi nhìn thấy một kim tự
tháp khổng lồ, bốn phía có bốn cầu thang bằng đá dẫn lên đỉnh; trên mỗi bậc
thang có rất nhiều sọ người trắng hếu. Còn trên đỉnh kim tự tháp là một ngôi
đền thờ lộng lẫy được xây bằng các tảng đá đẽo nhẵn, bốn bức tường chạm trổ các
hình rắn đủ loại. Tôi chỉ kịp nhìn thoáng qua ngôi đền thờ ấy, vì lúc đó trời
đã sập tối, và chúng tôi được dẫn đi tiếp, theo các đường phố sẩm tối.
Một lát sau tôi nhận thấy
các ngôi nhà của thành phố bị bỏ lại phía sau. Bây giờ chúng tôi đi lên một
ngọn đồi mọc đầy những cây thông hình chóp rất cao. Cuối cùng những người
khiêng kiệu dừng lại giữa một cái sân rộng và tôi được mời bước xuống.
Ngôi nhà mà hoàng thân
Guatêmôc dẫn tôi đi vào quả đúng rất khác thường! Các trần nhà được làm bằng
các tấm gỗ tuyết tùng, trên tường treo la liệt các loại vải quý đủ màu; còn
vàng ở đây có lẽ giống gạch và gỗ sồi trong một ngôi nhà người Anh. Sau đó
chúng tôi đi theo đám người hầu cầm những chiếc gậy bằng gỗ tuyết tùng qua rất
nhiều phòng, cho đến khi tới một gian lớn có những người đầy tớ khác đang đợi
sẵn. Họ tắm rửa cho chúng tôi bằng thứ nước thơm, cho mặc những bộ quần áo sang
trọng, rồi dẫn đến một cánh cửa, nơi chúng tôi phải cởi dép và khoác lên người
những chiếc áo khoác vải thô màu đen để che bộ quần áo lộng lẫy của mình. Sau
đó chúng tôi mới được phép bước qua ngưỡng cửa đi vào gian phòng lớn, nơi đã
tập trung sẵn rất nhiều những người đàn ông quý tộc và một số phụ nữ. Tất cả
đứng im và ai cũng khoác trên người một chiếc áo khoác vải thô tương tự. ƠŒ
cuối gian phòng có một chiếc bình phong bằng gỗ mạ vàng, từ phía ấy vang lên
những tiếng nhạc du dương. Chúng tôi dừng lại giữa gian phòng được những bó
đuốc tỏa mùi thơm chiếu sáng. Có mấy người lại gần chào hoàng thân Guatêmôc
nhưng tôi nhận thấy tất cả đều tò mò ngắm nhìn tôi. Cuối cùng một người phụ nữ cao,
cân đối và rất xinh đẹp xuất hiện. Cô ta mặc bộ quần áo sang trọng được trang
điểm bằng các viên đá quý lấp lánh trên nền áo màu sẫm. Từ trước tới giờ tôi
phải ngạc nhiên nhiều lần, tới mức mệt mỏi, tuy thế vẻ ngoài của người phụ nữ
này làm tôi sững sờ; chưa bao giờ tôi thấy một khuôn mặt xinh đẹp đến thế! Bao
quanh bởi những lọn tóc cong cong hình sóng đang chảy dài xuống vai, khuôn mặt
ấy được chiếu sáng bởi đôi mắt to và dịu dàng như mắt nai. Các đường nét trên
mặt thật hài hòa và đầy tình cảm. Nó có vẻ hơi buồn, nhưng vẫn cho ta cảm giác
rằng nếu cần nó có thể trở nên giận dữ hay độc ác. Người đàn bà quý phái này
chỉ mười tám tuổi là cùng, cô ta mới bước vào giai đoạn phát triển nhất, nhưng
đã có vẻ ngoài một phụ nữ chín chắn, với dáng điệu của một bậc vua chúa.
- Chào Guatêmôc, ông anh
của tôi! - Nàng dịu dàng nói. - Thế là cuối cùng anh về tới nhà! Đức vua chờ
anh đã lâu và anh sẽ phải giải thích cho ngài biết vì sao anh về chậm. Chị gái
tôi và là vợ anh cũng ngạc nhiên về sự chậm trễ này.
Trong khi cô gái nói, có
lẽ tôi cảm thấy nhiều hơn là tôi được nhìn tận mắt, rằng cô ta đang chăm chú
quan sát tôi.
- Chào Ôtômi, cô em của
tôi! - Guatêmôc đáp. - Tôi bị kẹt lại dọc đường. Đường từ Tabaxcô tới đây xa
xôi, vả lại dọc đường lại xảy ra chuyện không may với ông bạn Teule của tôi đây, - vừa nói, vừa gật
đầu chỉ về phía tôi.
- Chuyện không may nào?
- Anh ta đã liều mạng cứu
tôi khỏi móng vuốt của một con báo, trong khi những người khác bỏ chạy. Anh ta
đã bị thương. Chuyện xảy ra thế này..., - rồi chàng vắn tắt kể lại những gì đã
xảy ra.
Cô gái lắng nghe một cách
chăm chú, và tôi nhận thấy đôi mắt cô ta ánh lên long lanh. Khi Guatêmôc kể
xong, cô ta quay sang nói với tôi:
- Chào anh, Teule. Anh không phải là người thuộc bộ
lạc chúng tôi nhưng dù sao tôi vẫn thích anh.
Và rồi vẫn nụ cười trên
môi, cô ta đi ra.
- Người phụ nữ này là ai
vậy? - Tôi hỏi Guatêmôc.
- Đó là Ôtômi, cô em họ
của tôi, công chúa bộ lạc Ôtômi, con gái yêu của bác tôi là vua Môntêzuma, -
hoàng thân đáp. - Cô ấy thích anh, Teule,
và về nhiều mặt, như thế là tốt. Nhưng... xì!
Đúng lúc ấy tấm bình phong
cuối gian phòng bỗng mở, tôi nhận thấy một người cao lớn đang chìm trong các
cuộn khói thuốc lá. Ông ta ngồi trên những chiếc gối được thêu sặc sỡ, và theo
phong tục người da đỏ, đang hút một chiếc tẩu thuốc bằng gỗ mạ vàng. Đó chính
là vua Môntêzuma. So với những người da đỏ khác, khuôn mặt ông ta quá trắng,
được bao quanh bằng những lọn tóc màu đen và thưa, nên có vẻ hơi buồn và mệt
mỏi. Ông ta mặc bộ quần áo màu trắng vải bông tinh khiết, chiếc thắt lưng bằng
vàng và đôi dép có đính những viên ngọc trai. Đầu ông ta được trang điểm những
chiếc lông chim màu xanh lá cây. Phía sau vua có mấy cô gái xinh đẹp hầu như
trần truồng đang chơi các nhạc cụ dân tộc, còn đối diện là bốn vị cố vấn già,
đi chân trần và cũng khoác trên người những chiếc áo khoác màu sẫm.
Khi tấm bình phong được
mở, tất cả mọi người có mặt trong gian phòng quỳ xuống, tôi cũng vội vàng làm
theo. Rồi được vua giơ chiếc tẩu mạ vàng ra hiệu, chúng tôi lại đứng dậy. Tuy nhiên
tôi nhận thấy ai cũng đứng khoanh tay, và cúi nhìn xuống đất, không dám ngẩng
lên.
Môntêzuma ra hiệu một lần
nữa, ba người đàn ông đứng tuổi đi lại gần. Tôi đoán đó là các vị sứ thần. Họ
yêu cầu vua điều gì đấy và vua đã đáp lại bằng một cái gật đầu. Sau đó họ rút
lui, vừa không ngớt gật đầu chào, vừa lùi dần phía sau; cho đến khi hòa lẫn vào
đám đông. Môntêzuma nói điều gì đó với một trong các vị cố vấn của mình. Ông
này cúi đầu, chậm chạp đi về cuối gian phòng vừa đưa mắt nhìn quanh. Cuối cùng
đôi mắt ông ta dừng lại ở Guatêmôc. Thật ra tìm hoàng thân không khó, vì chàng
cao hơn hẳn một cái đầu so với những người khác.
- Xin chào hoàng thân, -
ông kia nói. - Đức vua Môntêzuma muốn nói chuyện với ông và với người bạn đường
Teule của ông.
- Anh hãy làm tất cả giống
như tôi, - Guatêmôc khẽ bảo tôi rồi đi về phía tấm bình phong bằng gỗ. Khi
chúng tôi bước vào, tấm bình phong khép lại, ngăn chúng tôi với những người
đang ở ngoài.
Chúng tôi đứng yên, khoanh
tay cúi nhìn xuống đất đến khi vua ra hiệu cho phép lại gần.
- Cháu kể đi, - Môntêzuma
nói, không to nhưng đầy quyền lực.
- Thưa Đức vua Môntêzuma
vĩ đại, cháu đã tới thành phố Tabaxcô, tìm thấy Teule ở đó và dẫn anh ta về đây. Đồng thời theo lệnh vua, cháu đã
đem tên đại tư tế làm vật tế thần, bây giờ, xin hoàn lại dấu hiệu quyền lực của
vua.
Nói đoạn, Guatêmôc trao
cho ông cố vấn chiếc vòng tay của Môntêzuma.
- Tại sao cháu về muộn
thế?
- Vì dọc đường xảy ra
chuyện không may, thưa Đức vua Môntêzuma vinh quang! Để cứu sống cháu, người
bạn đường Teule này đã bị thương nặng
vì móng vuốt một con báo. Bộ da của nó đã được mang về đây làm quà tặng vua.
Đến lúc này, ông vua Aztec
mới quay sang nhìn tôi. Một trong những viên cố vấn đưa tới một cuộn giấy, và
rồi Môntêzuma bắt đầu đọc, thỉnh thoảng lại ngước lên nhìn tôi.
- Các điều miêu tả đều
chính xác, - cuối cùng ông ta nói. - Trong này chỉ quên không nói một điều là
người Teule này xinh đẹp hơn bất kì
người đàn ông Anahuac nào khác. Teule,
hãy cho ta biết: vì sao những người bà con của ngươi lại tìm đến đất nước ta?
Tại sao họ giết các thần dân của ta!
- Thưa Đức vua, tôi không
biết gì về điều ấy, - tôi đáp, với sự giúp đỡ của Guatêmôc. - Những người ấy
không phải bà con của tôi.
- Trong này ghi rõ ngươi
mang trong người dòng máu Teule, và
rằng ngươi đổ bộ xuống bờ biển của ta từ một trong những chiếc tàu lớn của họ.
Chính ngươi đã công nhận điều ấy.
- Vâng, đúng thế, thưa Đức
vua, nhưng tôi thuộc một bộ lạc khác, và tôi bơi tới bờ biển của Đức vua trên
một chiếc thùng.
- Ta nghĩ ngươi đang nói
dối. - Môntêzuma chau mày nói. - Nếu thế cá sấu và cá mập sẽ ăn thịt ngươi ngay
lập tức. Hãy nói ta biết, Teule, -
ông ta hỏi tôi với vẻ lo lắng rõ rệt, - có đúng ngươi là con cháu của thần
Kêxancôatli không?
- Tôi không biết, thưa Đức
vua. Tôi là một đại diện của giống người da trắng, và ông tổ chúng tôi là Ađam.
- Có lẽ đó là một cái tên
khác của thần Kêxancôatli. Từ lâu có lời sấm rằng con cháu ngài sẽ trở về đây,
bây giờ có lẽ giờ phút ấy đã đến.
Môntêzuma thở dài lo lắng
rồi nói tiếp:
- Bây giờ thì ngươi hãy
rút lui, Teule, sáng mai ngươi kể ta
nghe về những người bà con của ngươi, sau đó hội đồng các quan tư tế sẽ quyết
định ngươi được sống hay phải chết.
Vừa nghe nhắc đến các viên
tư tế, tôi giật bắn người, rồi hoảng sợ nắm chặt hai tay kêu to:
- Thưa Đức vua, nếu muốn,
xin ngài cứ giết tôi, nhưng đừng trao tôi vào tay các quan tư tế một lần nữa.
- Tất cả chúng ta đều nằm
trong tay các quan tư tế, là những người đại diện các thần nơi hạ thế, -
Môntêzuma lạnh lùng đáp. - Ngoài ra, hôm nay ta nghĩ ngươi đã nói dối với ta.
Bây giờ thì đi đi!
Thế là tôi rút lui với tâm
trạng nặng nề vì lo sợ những điều sắp xảy ra. Guatêmôc cũng cúi đầu đi bên tôi.
Tôi thầm nguyền rủa cái giây phút ma quỷ xúi tôi tự công nhận có dòng máu Tây
Ban Nha trong tim, mặc dù tôi không là người Tây Ban Nha. Nếu biết cơ sự này,
thậm chí có bị tra tấn, tôi cũng không hé răng! Nhưng bây giờ thì hối tiếc quá
muộn.
Theo Guatêmôc, tôi đi tới
những gian phòng phía trong của lâu đài Sapantêpêc. ƠŒ đó, đang chờ chúng tôi
là cô vợ xinh đẹp của hoàng thân, công chúa Têsuixpô và một số đàn ông, đàn bà
quý phái khác. Trong số họ có cả Ôtômi, con gái của vua Môntêzuma.
Trong bữa ăn tối thịnh
soạn, tôi được ngồi bên Ôtômi. Nàng dịu dàng nói chuyện với tôi, hỏi han về đất
nước tôi và về giống người Teule. Từ
nàng tôi biết các Teule ấy, tức là
bọn Tây Ban Nha, đã gây nhiều phiền muộn cho Môntêzuma, người xem họ là con
cháu của thần Kêxancôatli. Môntêzuma rất tin vào lời tiên tri cổ xưa, nói rằng
chẳng bao lâu nữa thần Kêxancôatli sẽ trở lại, một lần nữa cai quản đất nước
mình.
Tối hôm ấy, Ôtômi thật hấp
dẫn và xinh đẹp, đến mức trái tim tôi phải xúc động. Đây là lần đầu tiên trong
suốt thời gian qua, một người đàn bà khác trong giây lát đã làm tôi tạm quên
nàng Lyly của tôi. Bây giờ nàng ở xa, đâu đó tận nước Anh, và tôi đã nghĩ có lẽ
chẳng bao giờ chúng tôi còn gặp lại! Nhưng, như sau này tôi được biết, đêm ấy
không chỉ riêng trái tim tôi xúc động.
Ngồi cách chúng tôi không
xa là Papanxin, em gái của vua Môntêzuma. Bà ta không còn trẻ và nói chung không
phải xinh đẹp, nhưng ít khi tôi được nhìn thấy một khuôn mặt vừa hấp dẫn vừa
buồn rầu đến thế, như thể nó đã in dấu ấn của thần chết. Mấy tuần sau Papanxin
chết thật, và thậm chí cả dưới mộ bà ta cũng không tìm thấy sự thư thả. Nhưng
thôi, tôi sẽ kể về chuyện này sau.
Ăn xong, chúng tôi uống
nước cacao, hay còn gọi là sôcôla, và mỗi người hút một tẩu thuốc. Cái tập quán
lạ lùng nhưng khá hấp dẫn ấy tôi đã học được khi còn ở Tabaxcô và cho đến tận
bây giờ vẫn không sao bỏ được, dù mang thuốc lá vào nước Anh không phải dễ.
Cuối cùng tôi được dẫn vào một phòng nhỏ, tường ốp gỗ tùng linh, giành làm
phòng ngủ cho tôi, tuy nhiên, tôi trằn trọc mãi không sao ngủ được. Đầu óc tôi
đầy các ấn tượng mới mẻ. Trước mắt tôi hiện lên các bức tranh lạ lùng của một
đất nước khác hẳn, rất văn minh mà cũng rất dã man. Tôi nghĩ về ông vua khá
buồn rầu của đất nước ấy, ông vua có tất cả những gì mà con người mong muốn: sự
giàu có vô tận, hàng trăm bà vợ xinh đẹp, những đứa con thương yêu, một đội
quân đông đảo và một nền nghệ thuật phát triển. Ông ta là ông chủ tuyệt đối của
hàng triệu người, điều khiển một đất nước kì diệu nhất trên thế giới, là người
có thể đạt được tất cả những niềm vui nơi hạ thế, được tôn thờ và có thể sánh
ngang với các vị thần về mọi mặt, trừ sự bất tử. Ấy thế mà con người ấy lại
đang bị sự sợ hãi và mê tín giày vò, và về mặt tinh thần còn bất hạnh hơn cả
tên nô lệ bất hạnh nhất trong các lâu đài của ông ta. Giống nhà tiên tri
Eccleziatstơ, Môntêzuma có thể kêu to một cách đau khổ:
“Ta đã giành được cho ta
vàng bạc và châu báu của các vua chúa từ khắp mọi miền; đã nuôi trong nhà các
ca sĩ đàn ông và đàn bà, đã tận hưởng mọi thú vui của con người... Ta chẳng bao
giờ từ chối điều mà đôi mắt ta mong muốn; không ngăn cấm trái tim ta bất cứ
niềm vui nào; vì trái tim sung sướng trong mọi công việc của ta... Nhưng bây
giờ nhìn lại tất cả những việc ta làm, tất cả những điều ta ham muốn, ta bỗng
thấy mọi điều chỉ là sự phù phiếm và sự mệt mỏi về tâm hồn. Chúng chẳng mang
lại ích lợi gì ở đời này!".
Môntêzuma có thể nói như
thế, và ông ta đã nói như thế, có điều bằng những lời lẽ khác. Điệu múa thần
chết được miêu tả trên các bức tường trong nhà thờ Đichchingham, nơi hài cốt
của ba thế hệ vua chúa được chôn cất, đủ nói lên một cách hùng hồn rằng cả các
bậc vua chúa cũng không tránh khỏi số phận chung của con người, và rằng cái
phần hạnh phúc họ được hưởng cũng không hơn những con người bình thường khác,
và thậm chí còn ngược lại, như một lần Anđrex đơ Fônxêca đã nói. Hạnh phúc thực
sự chỉ là giấc mơ mà hàng ngày chúng ta nằm mơ rồi tỉnh dậy, để bù đắp những
đau buồn mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời ngắn ngủi và gian khổ.
Sau đó ý nghĩ của tôi
hướng về nàng công chúa Ôtômi xinh đẹp, người đã nhìn tôi, như tôi nhận thấy,
với vẻ dịu dàng hiền hậu. Tôi thấy nàng thật hấp dẫn, vì tôi còn trẻ, và vì
người yêu duy nhất của tôi là Lyly đang ở chốn rất xa, xa đến mức tôi tưởng như
đã để mất vĩnh viễn. Có gì đáng ngạc nhiên nếu trái tim tôi bị chinh phục bởi
sắc đẹp và phẩm hạnh của một cô gái da đỏ? Có lẽ không một người đàn ông nào
không bị nàng thôi miên bởi sự dịu dàng, vẻ đẹp và sự kiều diễm rất cao thượng
mà chỉ các bậc vua chúa mới có. Từ nàng, cũng như từ trong trang phục của nàng,
toát lên vẻ hoang dại, nhưng lúc đó tôi chỉ thấy như thế là đáng quý. Chính
điều ấy hấp dẫn và làm xúc động trái tim tôi hơn cả. Vẻ nữ tính dịu dàng của
nàng được trang điểm thêm bởi một nét gì đó đặc biệt, khó hiểu và ảm đạm. Sự
lộng lẫy theo cách phương Đông của nàng, - cái mà các bà quý phái, được giáo
dục tốt nhất ở nước Anh chúng ta đang thiếu, - một lúc làm kích thích óc tưởng
tượng và tình cảm chúng ta, rồi đi thẳng vào trái tim.
Vâng, Ôtômi là một trong
những phụ nữ mà bất cứ người đàn ông nào cũng muốn yêu và được yêu, vì biết
trên đời này những người như thế rất hiếm, và điều kiện đặc biệt làm nảy sinh
các phẩm chất của họ lại càng hiếm hơn nữa. Thông minh và cuồng nhiệt, cao
thượng và đầy nữ tính, đồng thời dũng cảm như một chiến binh và xinh đẹp tuyệt
trần với đầu óc sinh động luôn mở rộng để đón kiến thức, và tâm hồn trong sáng,
bề ngoài có vẻ luôn thay đổi nhưng thực chất rất trung thành và biết nâng niu
danh dự như một người đàn ông, - Ôtômi, con gái vua Môntêzuma, công chúa của bộ
lạc Ôtômi là một người như thế! Có gì đáng ngạc nhiên nếu sắc đẹp của nàng làm
xúc động trái tim tôi, và sau này, khi số phận ban cho tôi tình yêu của Ôtômi,
tôi cũng đem lòng yêu nàng?
Đồng thời trong tính cách
Ôtômi có nhiều điểm mà nếu biết, tôi sẽ phải dè chừng. Dù có vẻ đẹp, sự hấp dẫn
và những phẩm hạnh cao quý như thế, sâu trong tâm hồn, Ôtômi vẫn là một cô gái
hoang dã, và dù được giấu kín, dòng máu da đỏ nhiều khi vẫn thắng thế trong
nàng.
Tôi vừa nằm trong một căn
phòng của lâu đài Sapuntêpêc, vừa suy nghĩ như vậy. Bên ngoài, những bước chân
nặng nề của người lính canh nhắc tôi biết tình yêu và những cái tốt đẹp tương
tự không phải dành cho tôi, vì số phận đời tôi đang nghìn cân treo sợi tóc.
Ngày mai các quan tư tế sẽ quyết định tôi được sống hay phải chết, mà những ai
đã rơi vào tay chúng thì chẳng khó gì không đoán được cái đang chờ đợi. Với
chúng, tôi là một người nước ngoài thuộc bộ lạc da trắng. Tất nhiên một con mồi
thế này sẽ nghìn lần hấp dẫn hơn cho các vị thần của chúng, so với trái tim một
người da đỏ bình thường. Cũng chỉ vì mục đích này mà tôi được cứu thoát khỏi
con dao tế thần ở Tabaxcô, để sau đó được đặt lên một bàn thờ cao hơn ở
Tênôctitlan, - chỉ thế thôi. Tôi sẽ phải chết một cái chết kinh khủng ở xa Tổ
quốc, thậm chí không người nào biết tới điều ấy. Tôi ngủ thiếp với những ý nghĩ
buồn rầu như vậy.
Tôi bị đánh thức bởi những
tia nắng buổi sáng. Ra khỏi giường, tôi đi tới ô cửa sổ có những chấn song bằng
gỗ, và nhìn ra ngoài.
Lâu đài nơi tôi đang ở
được xây trên đỉnh một ngọn đồi ở chỏm đá. Sóng hồ Texcôcô vỗ vào chân nó.
Chính giữa hồ, cách bờ khoảng một dặm, nổi lên trên mặt nước là các đỉnh tháp
của đền thờ Tênôctitlan. Trên các sườn đồi và xung quanh nó có những cây tùng
linh cổ thụ mọc thành từng nhóm riêng biệt, với những chùm dây leo như những bộ
râu màu xám huyền ảo. Chúng cao lớn đến mức cây sồi to nhất ở xứ đạo Đichchingham
của chúng tôi sẽ trở nên nhỏ bé và lùn tịt, nếu đứng cạnh cây bé nhất trong số
đó, còn cây lớn nhất thì có tán rộng đến hai mươi hai bước. Dưới bóng râm của
cây đại thụ ấy là các khu vườn của Môntêzuma với những chùm hoa sặc sỡ kì lạ,
với các đài phun nước bằng đá cẩm thạch, các vườn chim và các chuồng nuôi thú
dữ. Tôi nghĩ chưa bao giờ mình được nhìn thấy một cảnh đến thế.
“Thôi được, - tôi thầm
nghĩ. - Có chết cũng chẳng sao! Để bù lại, tôi đã được thấy đất nước Anahuac,
ông vua, các phong tục và thần dân của nó. Riêng việc ấy đã đủ nói lên một điều
gì đó!”
XVI
TÔMAX TRỞ THÀNH THẦN
Lẽ nào rạng sáng hôm ấy
tôi có thể nghĩ rằng trước khi mặt trời lặn, tôi, Tômax Uyngfin, một nhà quý
tộc khiêm tốn, có thể trở thành thần và là người được kính trọng nhất sau Đức
vua Môntêzuma, hay nói chính xác hơn, là vị thần của thành phố Tênôctitlan?
Chuyện xảy ra thế này. Sau
bữa ăn sáng với gia đình hoàng thân Guatêmôc, tôi được dẫn tới phòng xử của tòa
án, hay như ở đây người ta vẫn gọi Toà án
của Thần. ƠŒ đấy, Môntêzuma đã ngồi trên ngai vàng, xét xử với sự long
trọng và uy nghi mà tôi không đủ lời để đem kể ra đây. Xung quanh ông ta là các
quan cố vấn và các nhà đại quý tộc, còn phía trước là một chiếc sọ người có gắn
một viên kim cương và những viên đá quý to đến mức có thể toả sáng xung quanh.
Trong tay vua, thay cho quyền trượng là một mũi tên.
Trước Môntêzuma có mấy thủ
lĩnh bị bắt vì tội phản bội đang đứng chờ. Toà án xét xử họ một cách nhanh
chóng. Sau khi tuyên bố lời buộc tội, họ được hỏi xem có muốn nói đôi lời tự
bào chữa không, và mỗi người lần lượt trình bày một cách vắn tắt trường hợp của
mình. Sau đó Môntêzuma, nãy giờ vẫn ngồi yên, liền cầm tờ giấy trên đó có những
lời buộc tội, lặng lẽ lấy mũi tên chọc thủng hình mỗi bị cáo được vẽ lên giấy, và
bằng cách ấy đã kết án tử hình tất cả. Các nạn nhân được dẫn đi ngay, tôi vẫn
không biết họ sẽ bị giết bằng cách nào.
Khi vụ án xử những người
phản bội được giải quyết xong, mấy quan tư tế mặc áo đen ảm đạm, tóc dài để rối
sau lưng bước vào phòng. Tôi cảm thấy xương sống ớn lạnh khi nhìn những con
người độc ác, kiêu căng với những đôi mắt sắc lạnh ấy. Tôi nhận thấy thậm chí
đối với Đức vua, họ cũng không tỏ ra kính trọng lắm.
;NormSp=900Các quan cố vấn
và các chiến binh quý tộc bỏ ra ngoài, các quan tư tế nói chuyện với Môntêzuma.
Sau đó, hai người trong số họ lại gần, dắt tôi khỏi tên lính canh rồi đưa đến
ngai vàng. ƠŒ đây, một quan tư tế bỗng ra lệnh cho tôi cởi quần áo, và tuy xấu
hổ, nhưng tôi phải làm theo. Khi trên người chẳng còn mảnh vải nào, tôi trần
truồng đứng trước vua, các quan tư tế liền quây lại xung quanh, bắt đầu quan
sát người tôi một cách chăm chú. Trên tay tôi có vết sẹo do thanh kiếm Gacxia
để lại, những vết thương do răng và móng vuốt con báo cào cấu vừa kịp lành, còn
đỏ trên hai vai và lưng tôi. Các quan tư tế hỏi tôi vì sao có những vết sẹo ấy.
Nghe tôi trả lời xong, họ tránh sang bên để tôi không nghe thấy, rồi bắt đầu
cãi nhau kịch liệt, nhưng vẫn không đi tới một quyết định nào, cuối cùng phải
quay sang nhờ vua phán quyết. Suy nghĩ một lát, Môntêzuma nói, và tôi lại nghe
rõ từng lời ông ta:
- Các vết sẹo này không do
bẩm sinh, lúc mới ra đời chúng chưa có trên người anh. Đó là dấu vết do cơn
giận của người và thú dữ để lại.
Các quan tư tế còn thảo
luận với nhau một đôi điều gì đó, cuối cùng người cầm đầu khẽ nói thầm vào tai
Môntêzuma. Vua gật đầu đứng dậy khỏi ngai vàng và đi lại gần tôi. Tôi trần
truồng đứng trước ông ta, khẽ run lên vì lạnh, bởi lẽ không khí ở Tênôctitlan
không phải bao giờ cũng ấm nóng. Môntêzuma vừa đi vừa tháo khỏi cổ mình chiếc
dây chuyền bằng vàng và đá quý, cởi chiếc áo bào đang mặc rồi tự tay đeo dây
chuyền vào cổ và khoác áo lên vai tôi. Sau đó ông ta nhẫn nhục quỳ trước tôi,
giơ hai tay về phía trước và ôm tôi với vẻ van xin.
- Kính chào con trai của thần
Kêxancôatli! - Ông ta nói. - Xin ngài hãy nhân từ với chúng tôi! Ngài là tượng
trưng của thần Têcatlipôca, là linh hồn của Thế giới, là người sáng tạo muôn
loài! Chúng tôi đã làm điều gì để được Ngài hài lòng, ban cho hạnh phúc bằng sự
xuất hiện của Ngài vào năm này? Chúng tôi có thể làm được gì để đền đáp lại ân
nghĩa cao cả này? Ngài đã tạo ra chúng tôi và tất cả trái đất chúng tôi đang
sống. Xin ngài ra lệnh, tất cả chúng tôi là nô lệ của Ngài. Lệnh Ngài sẽ được
thực hiện ngay lập tức. Ngài muốn gì, xin cứ nói, và điều mong muốn ấy sẽ trở
thành sự thật trước khi Ngài kịp dứt lời. Hỡi Têcatlipôca, tôi, Môntêzuma, nô
lệ của Ngài, đang quỳ gối trước Ngài, và cùng với tôi là tất cả thần dân của
tôi đang chờ Ngài ra lệnh.
Một lần nữa ông ta lại sụp
lạy.
- Chúng tôi đang hướng tới
Ngài, - các quan tư tế họa theo. - Hỡi thần Têcatlipôca, chúng tôi quỳ gối
trước Ngài!
Tôi tiếp tục đứng im, sững
sờ vì vở kịch khó hiểu này, Môntêzuma vỗ tay ra hiệu, lập tức xuất hiện những
người đàn bà mang những bộ quần áo đẹp và các vòng hoa tới. Họ đem những bộ
quần áo ấy mặc vào người tôi, đeo các vòng hoa lên đầu tôi, không ngớt cầu
nguyện và nhắc đi nhắc lại:
- Thần Têcatlipôca mới
chết hôm qua bây giờ hiện lại. Xin hãy vui mừng! Thần Têcatlipôca hiện lại với
chúng ta dưới dạng một tù nhân Teule.
Chỉ lúc này tôi mới hiểu
rằng bây giờ tôi là một vị thần, không phải bình thường mà là vị thần vĩ đại
nhất. Chưa bao giờ trong đời, tôilại cảm thấy mình là một thằng ngốc đến thế.
Tiếp theo những người đàn
bà là những người đàn ông uy nghi và quan trọng, tay cầm nhạc cụ. Người ta nói
với tôi rằng từ nay họ sẽ dạy nhạc và các môn khác cho tôi, còn cả đội quân
người hầu đông đúc trong cung vua sẽ là nô lệ của tôi. Cùng tiếng nhạc, tôi
được dẫn ra khỏi phòng. Một người truyền lệnh đi trước kêu to rằng tôi, thần
Têcatlipôca, linh hồn của Thế giới, người sáng tạo muôn loài, một lần nữa lại
về thăm dân tộc của mình. Tôi được dẫn qua tất cả các sân và tất cả các phòng
trong cung điện. Và ở đâu đàn ông, đàn bà và trẻ con cũng nằm bẹp trước tôi để
cầu khấn, vâng, trước tôi, Tômax Uyngfin, từ xứ đạo Đichchingham, hạt Nôphôc.
Cuối cùng tôi có cảm giác rằng có lẽ tôi đã hóa điên thật.
Sau đó, tôi được đặt lên
kiệu và người ta khiêng tôi đi xuống từ ngọn đồi Sapuntêpêc dọc theo bờ đê, đi
tiếp khắp thành phố, qua tất cả các phố phường, rồi tới một quảng trường rộng
trước đền thờ. Đi trước tôi là người truyền lệnh và các quan tư tế, còn phía
sau là các chàng trai quý tộc và người hầu. Bất cứ nơi nào chúng tôi đi qua,
mọi người đều nằm rạp trước tôi. Dần dần tôi hiểu làm thần cũng khá cực nhọc.
Người ta cáng tôi đi qua
những dãy tường có chạm trổ các hình rắn, theo một chiếc cầu thang dốc đứng bị
gãy, lên tới đỉnh một chiếc kim tự tháp khổng lồ, nơi có đền thờ và các bức
tượng. ƠŒ đây, dưới tiếng đánh dồn dập của một cái trống rất lớn, các viên tư
tế bắt đầu dâng cho tôi hết người này đến người khác, và tôi buộc phải chứng
kiến những cảnh chém giết đẫm máu ấy, khó khăn lắm tôi mới giữ được để
không nôn ọe.
Cuối cùng, tôi xuống kiệu.
Mọi người trải thảm và quàng hoa dưới chân tôi. Nhưng tôi rùng mình vì kinh sợ
khi nghĩ có thể bây giờ người ta sẽ giết tôi để làm lễ vật cho chính tôi hay
một vị thần nào khác. Thật may điều ấy đã không xảy ra. ƠŒ mép đỉnh kim tự
tháp, - tôi từ chối không muốn đến gần vì sợ bất ngờ bị xô xuống, - đích danh
viên đại tư tế tuyên bố với đám đông hàng nghìn người về chức danh thần thánh
của tôi; lập tức mọi người trên quảng trường và các quan tư tế trên đỉnh kim tự
tháp liền vội vã quỳ gối. Các nghi lễ này kéo dài một cách kinh khủng. Đầu óc
tôi rối mù lên vì những lời cầu nguyện, những tiếng nhạc, tiếng thét và những
xác chết đẫm máu. Tôi thở dài nhẹ nhõm khi cuối cùng chúng tôi lên đường quay
lại Sapuntêpêc.
Tuy nhiên, ở đây các nghi
lễ long trọng mới lại chờ tôi. Tôi được dẫn qua một loạt các phòng rất đẹp kề
sát các phòng nghỉ của chính Đức vua, và người ta trịnh trọng tuyên bố với tôi
rằng từ nay tất cả mọi người trong cung vua Môntêzuma sẽ là người hầu của tôi,
ai dám trái lệnh tôi, sẽ phải chết!
Lúc ấy, lần đầu tiên tôi
lên tiếng nói, tôi tỏ ý muốn ở lại một mình để nghỉ ngơi chút ít. Tôi ra lệnh
cho người hầu trong lúc tôi nghỉ phải chuẩn bị một bữa tiệc lớn trong các phòng
của hoàng thân Guatêmôc, là nơi tôi hi vọng sẽ gặp công chúa Ôtômi.
Các cố vấn và các chiến binh
quý tộc trong đám tuỳ tùng của tôi định ngăn lại, nói đêm ấy vua Môntêzuma,
người hầu của tôi, muốn tổ chức lễ mừng tôi, nhưng tôi vẫn không thay đổi quyết
định. Cuối cùng họ rút lui, báo rằng một giờ nữa sẽ quay lại để cùng tôi đi dự
tiệc.
Cởi bỏ các thứ quần áo
thần thánh khỏi người, tôi khoan khoái nằm dài trên đống gối, bắt đầu suy nghĩ.
Tôi bỗng thấy xốn xang lạ lùng. Chẳng lẽ tôi là thần và quyền lực của tôi là vô
hạn hay sao? Tuy nhiên, đầu óc hay nghi ngờ của tôi lại đặt ra những câu hỏi
ngược lại. Người ta biến tôi thành thần để làm gì, và liệu tôi giữ được cái
quyền lực ấy trong bao lâu?
Chưa đầy một giờ sau, các
quan cố vấn và đám người hầu của tôi đã quay lại với những bộ quần áo mới và
những vòng hoa mới. Mặc quần áo và cài hoa cho tôi xong, họ theo tôi tới nhà
Guatêmôc. Những người phụ nữ xinh đẹp đi trước, vừa đi vừa chơi các nhạc cụ dân
tộc.
Hoàng thân Guatêmôc đang
đợi chúng tôi. Tôi được đón tiếp thật long trọng, như thể tôi không phải là
người tù hôm nào, mà chính là Đức vua vậy. Nhưng đồng thời tôi thấy Guatêmôc
đang có điều gì lúng túng, đôi mắt lộ vẻ thương hại. Tôi cúi xuống, khẽ hỏi:
- Thưa hoàng thân, tất cả
những điều này nghĩa là gì? Có đúng tôi là thần thật không, hay người ta đang
giễu tôi?
- Xì!... đối với anh, điều
này vừa tốt lại vừa không tốt, - chàng ghé sát tai tôi, nói khẽ đến mức vất vả
lắm mới nghe được. - Sau này tôi sẽ nói anh hiểu.
Rồi chàng cao giọng nói
thêm.
- Thưa thần Têcatlipôca,
thần của các vị thần, Ngài muốn ăn tiệc cùng chúng tôi hay thích ngồi một mình?
- Hoàng thân, các vị thần
thích ngồi giữa đám bạn bè vui vẻ, - tôi đáp.
Trong khi trò chuyện, tôi
nhìn thấy công chúa Ôtômi giữa đám đông đang bước vào phòng. Vì vậy, khi mọi
người bắt đầu ngồi xuống những chiếc gối sau những chiếc bàn thấp, tôi chần chừ
chờ nàng ngồi rồi lập tức đến ngồi bên cạnh. Điều này làm những người đang có
mặt rất bối rối, vì đã có một chỗ danh dự dành sẵn cho tôi ở đầu bàn, bên phải
là hoàng thân Guatêmôc, còn bên trái là Têsuixpô, vợ chàng.
- Thưa thần Têcatlipôca,
chỗ của thần không phải ở đây, - Ôtômi khẽ nói, khuôn mặt màu ô liu của nàng đỏ
ửng.
- Thưa công chúa Ôtômi,
tôi nghĩ một vị thần có thể ngồi bất cứ nơi nào tuỳ ý, - tôi đáp và hạ giọng
nói thêm: - Lẽ nào đối với thần còn có chỗ khác xứng đáng hơn được ngồi cạnh vị
nữ thần xinh đẹp nhất đời?
Nàng lại đỏ mặt, nói:
- Rất tiếc tôi không phải
là nữ thần, mà là một cô gái trần tục bình thường. Nhưng nếu muốn tôi ngồi cạnh
trong bữa tiệc hôm nay, thần phải đứng dậy nói to ý định của mình. Sẽ không ai
dám phản đối. Thậm chí cả bố tôi là vua Môntêzuma cũng vậy.
Tôi liền đứng dậy, và bằng
thứ tiếng Aztec rất lủng củng, tôi tuyên bố với tất cả những người đang có mặt.
- Từ nay chỗ ngồi của ta
trên các bàn tiệc sẽ là chỗ cạnh công chúa Ôtômi. Ta muốn thế!
Nghe những lời này, mặt
Ôtômi càng đỏ hơn. Khách khứa thì thầm với nhau. Guatêmôc lúc đầu khẽ chau mày,
nhưng sau lại mỉm cười. Các quan cố vấn của tôi cúi thấp đầu, còn những người
truyền lệnh thì dõng dạc hô to:
- Hãy làm theo ý thần
Têcatlipôca! Từ nay chỗ ngồi của công chúa Ôtômi sẽ ở cạnh thần Têcatlipôca, vì
thần yêu nàng!
Từ đêm ấy, Ôtômi bao giờ
cũng ngồi cạnh tôi, trừ những lần tôi phải dự tiệc riêng với vua Môntêzuma.
Khắp thành phố, nàng Ôtômi xinh đẹp đã được gọi là nàng “công chúa hạnh phúc,
người yêu của thần Têcatlipôca”. Tập quán và sự mê tín lớn tới mức người Aztec
tin một cách chân thành rằng kẻ được xem là linh hồn của Thế giới, dù chỉ trong
một thời gian ngắn, có thể biến một người đàn bà thành hạnh phúc và danh giá
tột độ bằng cách tỏ ý muốn cô ta ngồi cạnh mình trong những lần dự tiệc.
Khi bữa tiệc bắt đầu, tôi
khẽ hỏi Ôtômi tất cả những điều này nghĩa là gì?
- Than ôi, lẽ nào anh
chẳng biết? - Nàng thì thầm đáp lại. - Bây giờ không thể trả lời được, nhưng
tôi chỉ muốn nói điều này: chừng nào, đang là thần, anh có thể muốn ngồi đâu
tùy ý, nhưng sẽ có lúc người ta bắt anh nằm chỗ anh không muốn một chút nào.
Khi bữa tiệc kết thúc, anh hãy nói to rằng anh muốn dạo quanh vườn, và tôi sẽ
phải đi theo anh. Có thể lúc ấy tôi sẽ kể anh nghe mọi chuyện.
Tôi làm theo lời khuyên
của nàng, và khi tiệc vãn, tôi nói tôi muốn đi dạo với công chúa Ôtômi. Chúng
tôi bước ra khỏi lâu đài, đi dưới bóng những cây tùng linh đại thụ bám đầy
những đám dây leo màu xám. Như những bộ râu người già, chúng khẽ đung đưa trên
mỗi cành cây, dưới làn gió mát ban đêm. Nhưng, than ôi, chúng tôi không được ở
riêng một mình. Cách chúng tôi hai mươi bước về phía sau là cả đám tùy tùng
đông đúc của tôi cùng đám nhạc công luôn miệng thổi những chiếc sáo đáng nguyền
rủa, và những cô vũ nữ xinh đẹp nhảy múa dưới thứ âm nhạc hỗn độn ấy. Tôi ra
lệnh cho họ im lặng, nói rằng từ xưa tới nay sau giờ múa nhạc là giờ nghỉ ngơi,
nhưng họ cương quyết không nghe, và đó là lệnh duy nhất của tôi không được chấp
hành. Đám tùy tùng, các nhạc công và vũ nữ luôn bám theo tôi khắp nơi. Chỉ
trong những ngày ấy tôi mới hiểu rằng đôi khi sự cô đơn là cái quý giá nhất mà
ta mong muốn.
Chẳng biết làm gì hơn,
chúng tôi dạo tiếp dưới bóng cây, và một lát sau, dù phải nghe tiếng nhạc đang
dai dẳng bám theo, chúng tôi say sưa nói chuyện, và tôi đã được biết một số
phận kinh khủng thế nào đang chờ tôi phía trước.
- Anh hãy lắng nghe tôi, Teule, - Ôtômi nói. Nàng bao giờ cũng
gọi tôi như thế khi không ai nghe chúng tôi nói chuyện. - Đất nước chúng tôi có
lệ hàng năm chọn một người tù binh trẻ tuổi để tôn anh ta thành người đại diện
trần gian của thần Têcatlipôca, người sáng tạo Thế giới. Để được chọn, người tù
chỉ cần có hai ưu điểm là xuất thân từ dòng dõi cao quý và không có tội lỗi hay
khuyết tật nào. Anh tới đây đúng vào ngày phải chọn một người tù mới để làm
thần Têcatlipôca, và các quan tư tế đã chọn anh, vì anh là một nhà quý tộc và
xinh đẹp hơn bất kì người đàn ông Anahuac nào khác. Ngoài ra anh thuộc giống
người Teule, là con cái của thần
Kêxancôatli mà từ lâu chúng tôi đã được nghe tiếng. Vua Môntêzuma, bố tôi, sợ
sự xuất hiện của họ hơn mọi thứ trên đời, và vì vậy các quan tư tế cho rằng anh
có thể cứu chúng tôi thoát khỏi cơn giận của giống người Teule và làm các thần hài lòng.
Ôtômi ngừng lời, như đang
vất vả tìm lời để nói những gì nàng sắp nói, nhưng tôi đã không chú ý tới điều
đó. Những lời vừa rồi của nàng làm tôi hài lòng; nó phù hợp với ý thức về sự vĩ
đại của tôi mà tôi đang cảm thấy, và nâng tôi lên trong chính mắt của mình. Một
nàng công chúa xinh đẹp công nhận tôi hơn hẳn bất kì người đàn ông nào ở
Anahuac! Tới lúc ấy tôi chỉ cho mình là một chàng trai có vẻ ngoài không đến
nỗi, và tất nhiên chưa có người nào, cả đàn ông, đàn bà lẫn trẻ con, xem tôi là
“tuyệt vời”. Tuy nhiên, như ta biết, leo cao lắm, càng ngã đau. Trường hợp của
tôi cũng vậy.
- Teule, tôi nói thật với anh điều này, - Ôtômi nói, - dù tôi lấy làm
buồn rằng anh phải nghe nó từ miệng tôi. Trong một năm anh sẽ là vị thần của
thành Tênôctitlan và sẽ chẳng gặp điều gì phiền muộn. Anh chỉ phải có mặt trong
các dịp hội hè khác nhau, người ta sẽ dạy anh đôi chút về nghi lễ. Bất kì điều
gì anh muốn sẽ trở thành pháp luật bắt buộc cho tất cả. Nếu anh mỉm cười với ai
đó, thì nụ cười của anh sẽ được xem như ân huệ của thánh thần, và mọi người sẽ
cầu nguyện, tôn thờ anh. Cả vua Môntêzuma, bố tôi, cũng đối xử với anh kính
trọng như người ngang hàng hay thậm chí còn hơn. Cánh cửa dẫn tới mọi niềm vui
sẽ mở rộng trước anh, trừ việc lấy vợ. Chỉ khi bắt đầu bước vào tháng cuối cùng
trong năm, người ta sẽ chọn cho anh bốn cô gái xinh đẹp nhất trong nước để làm
vợ.
- Ai sẽ chọn? - Tôi hỏi.
- Tôi không biết, Teule, - Ôtômi đáp. - Tôi không biết
điều bí mật. Có khi chính thần tự chọn, cũng có khi do các quan tư tế. Lúc thế
này, lúc thế nọ. Nhưng hãy nghe tôi nói hết, lúc ấy có lẽ anh sẽ quên tất cả.
Trong một tháng anh sẽ sống với các bà vợ của mình, tham gia tiệc tùng và hội
hè trong tất cả các gia đình danh giá nhất thành phố. Nhưng vào ngày cuối cùng
của tháng ấy người ta sẽ đặt anh lên kiệu vua, và cùng với các bà vợ, anh sẽ
được dẫn tới chỗ gọi là “luyện kim loại”. Sau đó người ta đưa anh lên đỉnh
chiếc kim tự tháp mà chúng tôi gọi là Nhà
vũ khí, ở đó các bà vợ sẽ chia tay anh mãi mãi. Còn sau đấy thì, - than ôi,
Teule, tôi thật khó nói với anh điều
này! - Sau đó anh sẽ được đem làm vật tế chính vị thần mà anh đang mang tên,
tức thần Têcatlipôca vĩ đại. Trái tim anh sẽ được dứt khỏi lồng ngực, đầu anh
sẽ bị chặt khỏi người, cắm lên chiếc cọc gọi là cọc cắm đầu...
Nghe một lời tuyên án
khủng khiếp như thế, tôi nấc lên khóc to, hai chân lảo đảo làm tôi suýt ngã
xuống đất. Nhưng sau đó tôi bỗng bừng bừng nổi giận và quên hẳn lời dặn của bố
tôi. Tôi bắt đầu nguyền rủa tất cả các vị thần độc ác ở Anahuac và cái dân tộc
đã tôn thờ những vị thần ấy, lúc đầu bằng các thứ tiếng Aztec và Maia, khi cạn
từ tôi tiếp tục nguyền rủa họ bằng tiếng Tây Ban Nha và bằng cái tiếng Anh cổ
xưa, tốt đẹp của chúng ta.
Hiểu tôi một phần, phần
khác do tự đoán, Ôtômi liền kinh sợ chìa hai tay về phía tôi, năn nỉ:
- Teule, tôi xin anh không được nguyền rủa các vị thần đáng sợ ấy,
nếu không, anh sẽ bị trừng phạt một cách dã man! Nếu nghe được những lời anh
vừa nói, mọi người sẽ nghĩ trong anh không phải linh hồn tốt mà là linh hồn
xấu, và anh sẽ phải chết một cái chết vô cùng đau đớn. Còn nếu thậm chí mọi
người không nghe thấy, thì các vị thần sẽ nghe, vì các vị thần luôn có mặt khắp
nơi!
- Cứ để họ nghe! - Tôi
đáp. - Đó là các ông thần giả dối, và đất nước này là một đất nước đáng
nguyền rủa vì nó tôn thờ các vị thần ấy. Các vị thần này sẽ chết, tất cả những
người tôn thờ họ cũng chết theo. Tôi nói thẳng với cô điều ấy. Cứ để tất cả
nghe rõ những điều tôi đang nói! Thà bị tra tấn chết bây giờ còn hơn suốt cả
năm phải chịu một sự tra tấn khác là chờ đợi cái chết đến gần! Nhưng tôi sẽ không
chết một mình. Cả biển máu do bàn tay các quan tư tế ở đất nước này gây nên
đang kêu gọi vị thần chân chính trả thù, và vị thần ấy sẽ trả thù chúng!
Điên lên vì kinh sợ và
giận dữ một cách bất lực, tôi tiếp tục tuôn ra không nghỉ. Vô cùng ngạc nhiên
và lo lắng, Ôtômi nghe những lời nguyền rủa cay độc, trong khi sau lưng chúng
tôi, sáo vẫn kêu réo rắt, và các vũ nữ vẫn nhảy múa.
Bỗng nhiên tôi thấy Ôtômi
như thôi không nghe tôi nữa. Đôi mắt nàng hướng về phương đông, như vừa nhìn
thấy bóng ma. Tôi ngoái lại. Cả bầu trời sau tôi đỏ hồng. Từ chân trời cho đến
đỉnh đầu một luồng ánh sáng trắng nhợt tỏa theo hình chiếc quạt, xen lẫn những
tia lửa đỏ. Cán chiếc quạt kì dị ấy cắm đầu xuống đất, còn các nan quạt che kín
cả nửa bầu trời phía đông. Vô tình, tôi chợt im lặng, sững sờ vì cảnh tượng lạ
lùng này. Đúng lúc ấy những tiếng kêu kinh sợ vang lên từ các lâu đài. Mọi
người chạy ùa ra ngoài để nhìn về ngọn lửa hồng đang cháy rực phía đông.
Và kia, chính Đức vua
Môntêzuma cùng đám quan lại quý tộc đang bước ra; trong ánh sáng mờ ảo tôi thấy
môi ông ta mấp máy, còn đôi tay thì run lên thảm hại. Lúc ấy lại xảy ra một
điều kì lạ nữa. Từ bầu trời không mây bỗng rơi xuống thành phố một quả cầu bằng
lửa. Trong giây lát nó dừng lại trên đỉnh ngôi đền thờ cao nhất rồi bùng cháy,
chiếu sáng rực rỡ kim tự tháp và khu quảng trường nằm cạnh, rồi tắt hẳn. Nhưng
trên chỗ của nó liền xuất hiện một ngọn lửa mới, - đền thờ thần Kêxancôatli bốc
cháy!
Tất cả những người được
chứng kiến cảnh tượng ấy từ đồi Sapuntêpêc và từ khắp nơi trong thành phố đều
kêu lên tuyệt vọng, và rên rỉ đau xót. Thậm chí cả tôi cũng phải hoảng sợ, dù
hiểu ánh sáng đang tỏa khắp bầu trời đêm ấy và những đêm sau có lẽ chỉ là một
ngôi sao chổi bình thường, còn đám cháy ở đền thờ thì do một tia chớp tròn gây
nên. Tuy nhiên những người Aztec và đặc biệt là vua Môntêzuma, người luôn bị ám
ảnh về sự xuất hiện của một giống người da trắng mà theo lời tiên tri sẽ đánh
bại và tiêu diệt toàn bộ vương quốc của ông ta, thì lại cho đó là những điềm gở
nhất.
Đúng lúc mọi người đang
đứng lặng sững sờ vì kinh ngạc thì một người đưa tin vẻ mỏi mệt, khắp người bụi
phủ từ xa tới lách qua đám đông đến cúi rạp trước vua. Ông ta rút ra từ cái nếp
gấp chiếc áo của mình một cuộn giấy, đưa cho một quan đại thần đứng cạnh. Tuy
nhiên, do quá sốt ruột, vua Môntêzuma đã phá vỡ nghi lễ, vội giành lấy cuộn
giấy từ tay ông kia, giở ra và bắt đầu đọc dưới ánh sáng của bầu trời sáng rực
và ngọn lửa của đền thờ đang cháy. Tất cả nín thở nhìn vua. Bỗng Môntêzuma kêu
to lên, vứt cuộn giấy và giơ hai tay ôm mặt. Ngẫu nhiên cuộn giấy rơi gần tôi,
tôi nhìn thấy trên đó những hình vẽ thô kệch các con tàu Tây Ban Nha và những
hình người mang trang phục nước ấy. Sự tuyệt vọng của Môntêzuma không có gì khó
hiểu: quân Tây Ban Nha đã đổ bộ lên đất nước của ông ta!
Mấy quan cố vấn đi lại
định lựa lời an ủi, nhưng ông ta gạt đi.
- Hãy để ta yên! - Ông ta
rên rỉ. - Đừng ngăn cản ta khóc thương dân tộc Anahuac! Điều tiên tri đã thành
sự thật, và thế là Anahuac sẽ bị tiêu diệt. Con cái của thần Kêxancôatli sẽ
thống trị trên mảnh đất này và sẽ giết chết con cái của ta. Hãy để cho ta được
khóc!
Đúng lúc ấy lại một người
liên lạc nữa từ lâu đài đi tới. Mặt anh ta lộ vẻ đau buồn.
- Nói đi! - Môntêzuma ra
lệnh:
- Thưa Đức vua, xin hãy
tha thứ cho đôi môi mang lại tin buồn này. Bà Papanxin, em gái vua sắp chết, vì
những điềm báo kinh khủng kia, - anh ta đưa tay chỉ lên bầu trời đỏ rực.
Nghe tin cô em gái yêu quý
của mình đang hấp hối, Môntêzuma lặng lẽ che mặt bằng vạt áo rồi chậm chạp đi
vào lâu đài.
Vầng sáng màu hồng vẫn
tiếp tục phát ra muôn nghìn tia lửa hừng hực phía đông như bầu trời giữa cảnh
hoàng hôn, còn phía dưới, ngọn lửa tham lam không ngừng thiêu hủy đền thờ thần
Kêxancôatli.
Tôi quay sang Ôtômi. Nàng
đứng cạnh, ngơ ngác run lẩy bẩy.
- Có đúng tôi đã nói với
công chúa rằng đất nước này là đáng nguyền rủa không?
- Vâng, Teule, anh có nói thế, - nàng đáp. - Đất
nước của chúng tôi đáng bị nguyền rủa!
Sau đó chúng tôi đi vào
lâu đài. Thậm chí cả vào cái giờ kinh khủng ấy, các nhạc công và đám vũ nữ vẫn
bám theo chúng tôi.
XVII
ĐIỀU TIÊN TRI CỦA PAPANXIN
Sáng hôm sau, Papanxin
chết, đến chiều, bà ta được chôn ở nghĩa địa Sapuntêpêc cạnh tổ tiên của nhà
vua, với sự long trọng hiếm thấy. Nhưng như sau này chúng ta sẽ thấy, được chôn
ở đấy bà ta cũng không lấy gì làm thích lắm.
Ngày hôm ấy tôi hiểu được
rằng làm thần không phải là điều đơn giản. Tôi bị yêu cầu phải học hết tất cả
các môn nghệ thuật, cụ thể là phải học biểu diễn cái thứ nhạc hoang dã của
người da đỏ, mà năng khiếu về nhạc thì tôi chẳng có một tí gì. Thế nhưng chẳng
ai thèm hỏi tôi về việc này. Các ông cố vấn kiêm thầy dạy học của tôi là những
người có tuổi đáng kính, đáng lẽ phải làm những việc xứng đáng hơn, thế mà hàng
ngày vẫn mang đàn đến bắt tôi học. Một số người khác thì dạy tôi văn phạm tiếng
Aztec, thơ ca và các nghệ thuật khác theo trình độ hiểu biết của họ, nhưng đây
là những môn tôi học một cách thích thú. Tuy nhiên tôi vẫn không quên câu châm
ngôn dân gian, là càng hiểu biết nhiều càng thêm đau khổ. Mà quả thật tôi cần
gì những thứ kiến thức ấy, khi chẳng bao lâu nữa chúng sẽ phải chết với tôi
trên cái thớt chém bằng đá!
Ý nghĩ về việc sẽ bị đem
làm vật tế thần lúc đầu làm tôi rất tuyệt vọng. Nhưng sau đó tôi lại nghĩ cái
chết đã kề sát tôi nhiều lần, thế mà cuối cùng tôi vẫn thoát được, có thể cả
lần này tôi cũng gặp may chăng? Ít ra thì từ nay cho tới khi phải chết còn lâu.
Chừng nào còn được làm thần, bất kể sẽ phải chết hay không, tôi muốn sống như
thần quãng thời gian mình được sống và tận hưởng mọi thú vui trên trái đất. Và
tôi đã sống thoải mái. Chắc xưa nay hiếm ai có các khả năng và điều kiện lớn
như tôi, lại khác thường đến thế, mà rồi nếu có, cũng chẳng ai bằng tôi trong
việc khai thác chúng một cách triệt để như vậy. Phải thú nhận rằng tôi cảm thấy
gần như hạnh phúc, nếu không bị ám ảnh bởi nỗi buồn nhớ nhà và nhớ người yêu
đôi lúc ập đến bất ngờ và rất mãnh liệt. Quyền lực của tôi vô tận, mà tất cả
những gì bao quanh thì thật kì diệu và khác lạ. Nhưng thôi, tôi xin kể tiếp.
Suốt mấy ngày sau cái chết
của Papanxin, triều đình và cả thành phố chìm ngập trong cảnh tang lễ. Đủ các
thứ tin đồn kì lạ làm ai cũng phải bối rối. Đêm nào nửa trời phía đông cũng đỏ
bừng, và ngày nào cũng có các điềm lạ hay các tin tức khủng khiếp về bọn Tây
Ban Nha. Phần lớn người da đỏ xem chúng là các vị thần da trắng, con cháu của
Kêxancôatli, nay quay lại với mảnh đất mà có thời tổ tiên chúng ta đã từng làm
chủ.
Giữa sự hỗn loạn ấy, chính
Môntêzuma là người cảm thấy bất hạnh nhất. Những tuần gần đây hầu như ông ta
chẳng ăn uống gì và hoàn toàn không ngủ. Trong trạng thái ấy, ông ta đã cho
người tới gặp tình địch cũ của mình là Nêxananpili, người cầm đầu nghiêm khắc
và thông minh của đất nước Texcôcô. Môntêzuma yêu cầu Nêxananpili đến gặp mình,
và ông kia đã đến.
Đó là một ông già có đôi
mắt sắc sảo và giận dữ. Vô tình tôi được chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa ông và
Môntêzuma, vì với tư cách là thần, tôi có thể đi dạo bất kì nơi nào tôi muốn,
thậm chí có quyền có mặt cả khi vua hội họp với các cố vấn cao cấp nhất của
mình.
Gặp Nêxananpili, chào hỏi
nhau xong, Môntêzuma kể cho ông ta nghe về các điềm gở, về sự xuất hiện của
người Tây Ban Nha và yêu cầu ông đem sự thông minh của mình ra xua tan hộ bóng
tối. Nêxananpili vừa vuốt bộ râu bạc dài, vừa đáp rằng trái tim Môntêzuma bây
giờ đã nặng, nhưng sắp tới sẽ còn nặng hơn.
- Ông hãy nghe tôi nói
đây, - Nêxananpili nói. - Tôi biết đã đến ngày quyền lực của chúng ta kết thúc.
Tôi tin chắc vào điều ấy đến mức sẵn sàng chơi với ông một ván Tlastli(Tlastli: một
kiểu chơi ném vòng của người da đỏ. Ván chơi này là có thật được ghi trong lịch
sử của người Aztec, tác giả chỉ nhầm một chỗ: thay cho ba con gà chọi là ba con
gà tây mà thời ấy ở châu Âu chưa có.), nếu thua, tôi sẽ mất cho ông toàn bộ vương quốc
của tôi, cái mà ông cũng như tổ tiên ông từ lâu đã muốn chinh phục.
- Nếu tôi thua, tôi sẽ mất
gì? - Môntêzuma hỏi.
- Chúng ta sẽ chơi thế
này. Ông đặt cọc ba con gà chọi, nếu tôi thắng, ông phải đưa móng cựa chúng cho
tôi. Còn tôi sẽ đặt cọc cả quốc gia Texcôcô của tôi.
- Như thế không ngang
nhau, - Môntêzuma nói. - Gà chọi thì nhiều mà quốc gia thì ít.
- Thì đã sao? - Ông kia
đáp. - Chúng ta đang chống lại số phận. Cuộc chơi này sẽ quyết định tất cả. Nếu
ông thắng và lấy được đất nước tôi, thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp, còn nếu tôi
thắng thì hãy vĩnh biệt mãi mãi sự vinh quang của Anahuac, vì dân tộc chúng ta
sẽ bị tiêu diệt, đất đai chúng ta sẽ bị những kẻ mới tới xâm chiếm.
- Thôi được, ta cứ chơi
rồi xem, - Môntêzuma đồng ý, và họ bắt đầu đi tới sân chơi.
Lúc đầu Môntêzuma thắng và
ông ta bắt đầu lớn tiếng khoe khoang rằng chẳng bao lâu nữa sẽ là ông chủ của
Texcôcô.
- Nếu thế thì tốt lắm! -
Ông già Nêxananpili thông minh nói, nhưng cũng từ đó ông vua Aztec bắt đầu
thua. Dù cố gắng đến đâu, không lần nào ông ta ném nổi quả cầu vào chiếc vòng;
cuối cùng Nêxananpili thắng và nhận được ba con gà chọi. Nhạc nổi lên, các nhà
quý tộc đến vây quanh và chúc mừng ông vua già. Nhưng đáp lại, ông ta chỉ thở
dài nói:
- Tôi thà bị thua mất quốc
gia của tôi còn hơn thắng để lấy mấy con gà này, vì nếu thua, đất nước của tôi
sẽ được chuyển vào tay một người khác cùng chung dân tộc với tôi. Nhưng than
ôi, toàn bộ đất đai của tôi và của ông ta sẽ lọt vào tay người ngoại bang.
Chúng sẽ loại bỏ các vị thần da đỏ và xóa sạch mọi vinh quang của chúng ta!
Nói xong những lời ấy,
Nêxananpili đứng dậy chia tay với Môntêzuma rồi lên đường trở về nước mình. May
mà chẳng bao lâu sau ông chết, không phải tận mắt nhìn thấy những điều tiên tri
đáng sợ của ông trở thành sự thật.
Nêxananpili đi được một
ngày lại có tin mới về bọn người Tây Ban Nha. Tin này còn làm Môntêzuma lo lắng
hơn trước. Quá lo sợ, ông ta cho mời một nhà chiêm tinh học nổi tiếng khắp nước
vì đã nhìn thấy trước nhiều điều rất hiệu nghiệm. Khi nhà chiêm tinh này tới,
Môntêzuma khóa chặt cửa ngồi riêng với ông ta. Tôi không biết ông này nói gì
với Môntêzuma, nhưng có lẽ không phải những điều tốt lành, vì ngay đêm ấy
Môntêzuma đã cho lính xô đổ ngôi nhà của nhà chiêm tinh, và ông ta đã chết. Hai
ngày sau cái chết của nhà chiêm tinh, Môntêzuma nghĩ tôi có thể cho ông ta những
tin tức cần thiết, vì ông ta vẫn tiếp tục xem tôi là một Teule. Khi hoàng hôn sắp tắt, ông ta cho người tới mời tôi cùng đi
dạo với ông ta trong vườn. Tôi tới gặp ông ta với sự tháp tùng của đám nhạc
công vẫn không chịu để tôi yên dù chỉ một phút. Thấy thế, Môntêzuma nói rằng
muốn nói chuyện riêng với tôi và đã ra lệnh bắt tất cả rút lui. Chúng tôi cùng
đi dưới tán lá sum sê những cây tùng linh đại thụ, Môntêzuma đi trước, tôi theo
sau, cách nhau một bước.
- Teule, hãy kể tôi nghe về những người bà con của anh, - cuối cùng
Môntêzuma lên tiếng nói. - Tại sao họ đổ bộ lên bờ biển của chúng tôi? Xem
chừng không được nói dối đâu đấy!
- Thưa Đức vua Môntêzuma,
họ không phải là bà con của tôi! - Tôi đáp. - Chỉ mẹ tôi là người cùng bộ lạc
với họ.
- Ta ra lệnh cho anh chỉ
được nói sự thật, anh nghe rõ chứ? Nếu mẹ anh là người cùng bộ lạc với chúng,
lẽ nào anh không là một Teule, lẽ nào
anh không cùng máu thịt với mẹ anh!
- Tùy Đức vua muốn nghĩ
thế nào thì nghĩ, - tôi cúi đầu nói, rồi bắt đầu kể về người Tây Ban Nha, về
đất nước vĩ đại, về sự tàn ác và về lòng tham đối với vàng bạc của họ.
Môntêzuma chăm chú lắng nghe, nhưng hình như không tin, dù chỉ một nửa những gì
tôi nói, vì sự sợ hãi khiến ông ta nghi ngờ người khác. Khi tôi im lặng, ông ta
lại hỏi:
- Chúng tới Anahuac để làm
gì?
- Thưa Đức vua, tôi nghĩ
chúng tới để chiếm vùng đất này, để cướp phá tất cả các kho báu của vua và lật
đổ các vị thần của người Aztec.
- Thế thì anh khuyên ta
nên làm gì, Teule? Làm sao ta chống
nổi chúng, những chiến binh khỏe mạnh, mặc áo sắt và ngồi trên lưng những con
thú hoang dại độc ác? Chúng có những cái ống gì đó kêu to như sấm, làm hàng
trăm người ngã xuống, còn tay chúng cầm một cái que dài, lấp lánh như bạc. Làm
sao ta có thể đánh lại chúng? Than ôi, đó là điều không thể làm nổi, vì chúng
là con cháu thần Kêxancôatli đang trở lại để làm chủ vùng đất này. Từ bé ta
được nghe nói về chúng, suốt đời ta lo sợ vì chúng, còn hôm nay chúng đã tới
gần trước cửa nhà ta.
- Tôi chỉ là một vị thần,
- tôi đáp. - Nhưng nếu được một ông vua trần gian cho phép, tôi xin có một vài
lời khuyên đơn giản. Phải dùng sức mạnh để chống lại sức mạnh! Chúng không
đông, và vua có đủ một nghìn binh lính của vua để chống lại một đứa trong bọn
chúng. Hãy chủ động tấn công, giết chúng ngay lập tức, đừng chờ khi chúng tìm
được đồng minh!
- Và đấy là lời khuyên của
một kẻ mà mẹ cũng là Teule! -
Môntêzuma nhếch mép cười mỉa mai. - Nào, ông cố vấn, hãy nói tôi nghe: làm sao
tôi biết được tôi đang đánh nhau với người mà không phải với các thần? Làm sao tôi
biết được các mong muốn thật sự và các ý nghĩ của những con người hay những vị
thần ấy, khi họ không nói tiếng của tôi, và tôi không hiểu tiếng họ?
- Điều này không khó lắm,
thưa Đức vua, - tôi nói. - Tôi biết tiếng nói của chúng. Hãy cử tôi đi, tôi sẽ
tìm cách biết hết mọi điều cho vua.
Vừa nói những lời này, tôi
vừa cảm thấy trong tim lóe lên đôi tia hi vọng. Nếu tôi tìm đến được những
người Tây Ban Nha, tôi sẽ thoát khỏi bàn thờ tế thần, thậm chí có khả năng trở
lại nước Anh, vì chúng tới đây bằng tàu, mà có tàu tới đây nghĩa là có tàu quay
lại. Tạm thời, tôi chưa có điều gì phải phàn nàn về số phận của mình, nhưng
đương nhiên tôi vẫn muốn trở lại sống giữa những người theo đạo Thiên Chúa.
Môntêzuma lặng lẽ nhìn tôi
một lúc, rồi đáp:
- Teule, chắc anh đang xem tôi là một thằng ngốc. Không lẽ anh nghĩ
tôi có thể cho anh tới gặp chúng để anh kể chúng biết về nỗi sợ và sự mềm yếu
của tôi, và chỉ cho chúng tất cả những điểm yếu của đất nước Anahuac? Không lẽ
anh nghĩ tôi không biết anh tới đây để làm gì? Anh ngốc lắm. Tôi biết anh là
thám báo của bọn người Teule! Anh tới
đây để do thám đất nước chúng tôi! Ngay từ hôm đầu tiên tôi đã biết được điều
ấy, và xin thề trước thần Uixilôpôctli, rằng nếu anh không được chọn làm thần
Têcatlipôca, thì ngày mai trái tim anh đã nằm trên bàn thờ! Hãy cẩn thận và
đừng khuyên tôi những lời khuyên ngu ngốc nữa, nếu không, anh sẽ phải chết sớm
hơn anh tưởng. Hãy biết rằng không ngẫu nhiên tôi hỏi anh hôm nay, mà chính các
vị thần sai tôi làm điều ấy. Tôi đã đọc được ý các thần trên những trái tim
được đem làm vật tế hôm nay, và tôi nói chuyện với anh để anh bộc lộ hết các ý
nghĩ bí mật của anh, và để bắt chúng quay lại chống chính bản thân anh. Anh
khuyên tôi đánh nhau với người Teule?
Thế thì tôi sẽ không đánh nhau với họ. Tôi sẽ đón họ bằng những lời nói dịu
dàng và bằng quà cáp, vì biết những điều anh khuyên chỉ làm hại tôi!
Môntêzuma nói tất cả những
lời này bằng giọng không to lắm, nhưng đầy vẻ giận dữ. Ông ta đứng trước tôi,
hai tay khoanh trước ngực, đầu cúi thấp, người run lên lẩy bẩy. Tôi được một
phen hoảng sợ thật sự. Dù là thần, nhưng tôi biết chỉ cần một cái gật đầu của
ông vua trần gian này là lập tức tôi sẽ phải chết một cách đau đớn. Tuy thế,
điều làm tôi ngạc nhiên nhất lúc ấy là sự ngu dốt của ông ta, một người thông
minh và tỉnh táo trong những việc khác. Ông ta không tin tôi mà chỉ tin một
cách mù quáng vào các vị thần đang đẩy ông ta tới chỗ chết. Nhưng vì sao? Chỉ
hôm nay tôi mới tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi ấy.
Bản thân Môntêzuma không
có lỗi. Định mệnh hướng dẫn mọi bước đi của ông ta. Các vị thần của Anahuac đều
giả dối. Bây giờ tôi biết đằng sau các bức tượng bằng đá thô thiển và xấu xí ấy
là các viên tư tế còn sống và độc ác như chính quỷ dữ. Không ngẫu nhiên chúng
nói các thần thích máu đỏ của những người bị đem làm vật tế. Nhưng sự nguyền
rủa đang treo ngay trên đầu chúng. Khi qua chúng, Môntêzuma hỏi ý kiến các vị
thần, chúng đã khuyên ông ta những lời khuyên có hại, mang lại cái chết cho
chính bản thân chúng và tất cả những người tôn thờ chúng.
Trong khi chúng tôi nói
chuyện, mặt trời tắt một cách nhanh chóng, làm tất cả chìm trong bóng tối. Chỉ
những đỉnh núi lửa Pôpôcatêpêcli và Ixatacxinacli phủ tuyết vẫn còn được chiếu
sáng bởi cái ráng màu đỏ như máu.
Chưa bao giờ hình người
phụ nữ nằm trong chiếc quan tài vĩnh cửu trên đỉnh Ixatacxinacli nổi lên rõ nét
và trọn vẹn như đêm ấy. Có thể đó chỉ là trò chơi của óc tưởng tượng, nhưng rõ
ràng tôi đã nhìn thấy hình một người phụ nữ khổng lồ thấm đầy máu.
Nhưng có lẽ nó không phải
là óc tưởng tượng của riêng tôi, vì khi vừa ngừng lời, đôi mắt Môntêzuma ngẫu
nhiên nhìn lên đỉnh núi lửa, và ông ta cũng sững sờ đứng lặng, không đủ sức
nhìn đi chỗ khác.
- Teule, hãy nhìn kia! - Cuối cùng ông ta nói với nụ cười cay đắng. -
Hãy nhìn kia! Linh hồn của dân tộc Anahuac đang nằm ở đấy. Nó thấm đầy máu và
sắp bị đem chôn xuống đất. Anh cũng thấy rằng cả khi chết, nó cũng đáng sợ chứ?
Khi ông ta vừa nói xong và
đang định quay đi, thì từ phía núi vọng lại những tiếng kêu hoang dại, khác
thường và đầy đau đớn, làm máu trong người tôi đông cứng lại vì sợ. Môntêzuma
hoảng hốt túm chặt tay tôi, và cả hai chúng tôi nhìn như dán mắt về phía núi
Ixatacxinacli, nơi có những tiếng kêu rên khủng khiếp. Chúng tôi có cảm giác
như người phụ nữ đầy máu và ngập trong ráng đỏ ấy đang đứng dậy từ chiếc quan
tài bằng đá của mình. Bà ta đứng dậy từ từ như còn ngái ngủ, và cuối cùng đã
đứng thẳng thành một hình người khổng lồ trên đỉnh núi. Run lên vì sợ, chúng
tôi ngước mắt nhìn người phụ nữ khổng lồ đang choàng chiếc áo trắng có những
vết máu thấm ấy. Trong mấy giây, bà ta đứng yên nhìn xuống Tênôctitlan. Sau đó
bà ta chìa tay về phía thành phố với vẻ đầy thông cảm, nhưng chính lúc ấy, bóng
đêm đã nuốt chửng bà ta, và tiếng kêu khủng khiếp tắt dần.
- Này, Teule, - Môntêzuma thì thầm nói, - phải
anh thấy những điềm gở thế này hàng ngày không đáng sợ lắm sao? Tôi sợ lắm, hãy
lắng nghe những tiếng rên khóc trong thành phố! ƠŒ đấy người ta cũng nhìn thấy.
Anh có nghe người ta đang kêu rên vì sợ hãi không? Anh có nghe các quan tư tế đang
đánh trống để xua sự nguyền rủa các của các thần khỏi chúng ta không? Khóc đi,
khóc đi, hỡi đồng bào của ta! Hãy cầu nguyện đi, hỡi các quan tư tế, và hãy
tăng thêm số người bị dâng làm tế vật, vì ngày chết của chúng ta đang đến gần!
Hỡi Tênôctitlan, vua của tất cả các thành phố, ta đã thấy ngươi sụp đổ và bị
chà đạp. Ta đã thấy các cung điện của ngươi xạm đen vì lửa cháy, các đền thờ
của ngươi bị vấy bẩn, và các khu vườn xinh đẹp trở thành hoang dại. Ta đã thấy
những người phụ nữ xinh đẹp của ngươi bị bắt làm nô lệ cho người ngoại tộc, và
các hoàng tử con vua trở thành kẻ hầu cho chúng. Các dòng kênh của ngươi đỏ
ngầu vì máu các con ngươi, và trên mặt đê đầy xương của họ. Cái chết đang hoành
hành khắp nơi, miếng bánh mì ngươi ăn trở thành ô nhục, số phận của ngươi là sự
tuyệt vọng. Ngươi đã nuôi ta lớn, ngươi là cái nôi che chở tổ tiên ta, hỡi
Tênôctitlan, vua của tất cả các thành phố. Thế mà bây giờ ta phải nói với
ngươi: vĩnh biệt, vĩnh biệt mãi mãi!
Giữa đêm tối, Môntêzuma đã
đau đớn kêu to lên như thế. Cuối cùng mặt trăng tròn nhô lên sau dãy núi, ánh
sáng mờ đục của nó chiếu qua các cành tùng linh treo đầy những đám dây leo như
những bộ râu huyền bí. Trăng chiếu sáng thân hình cao dong dỏng của Môntêzuma,
khuôn mặt méo mó vì đau khổ, và đôi tay gầy gò của ông ta, lúc đưa lên, lúc hạ
xuống trong cơn tột đỉnh của tình cảm. Trăng cũng chiếu sáng các đồ trang sức
trên người tôi và các nhà quý tộc, các nhạc công đang nằm yên bất động vì sợ
hãi. Chỉ lần này họ mới tạm quên những chiếc sáo dai dẳng của họ. Một làn gió
nhẹ thổi qua, làm lung lay tán lá.
Nhưng những điều kì lạ của
đêm ấy chưa kết thúc.
Khi Môntêzuma nói xong
những lời tiên tri của mình, tôi thận trọng hỏi ông ta có phải gọi các quan cận
thần đến không, - những người này thường vẫn đi theo ông ta nhưng bây giờ đang
ở xa đâu đó.
- Không, - Môntêzuma đáp.
- Tôi không muốn họ thấy sự đau khổ và nỗi lo sợ của tôi. Họ có thể run sợ,
nhưng tôi, phải tỏ ra bao giờ cũng dũng cảm. Hãy đi thêm với tôi một lát, Teule, và nếu anh có ý định giết tôi thì
hãy giết đi, tôi sẽ không lấy thế làm tiếc.
Tôi không đáp gì, chỉ lặng
lẽ đi theo. Ông ta đi xuống phía dưới theo một trong những con đường nhỏ rậm
rạp nhất, ngoằn ngoèo qua các thân cây lớn. Nếu muốn, tôi có thể dễ dàng giết
chết ông ta ở đây. Nhưng để làm gì? Vả lại dù tôi biết Môntêzuma là kẻ thù của
tôi, tôi vẫn thấy ghê tởm khi nghĩ đến sự giết chóc.
Ông ta đi tiếp hơn một
dặm, nhưng không nói lời nào. Chúng tôi lặng lẽ đi, lúc dưới bóng cây, lúc
trong các khu vườn mọc đầy hoa kì lạ, cho tới khi gặp một chiếc cổng lớn, phía
sau là nơi chôn giữ hài cốt của gia đình vua. Ngay trước cổng là một con đường
rộng được ánh trăng chiếu sáng. Chính giữa đường có một vật gì đó trăng trắng
đang nằm, trông xa như thân hình một người phụ nữ, nhưng chỉ một mình tôi nhìn
thấy. Không thấy gì xung quanh, Môntêzuma chăm chú nhìn lên cánh cổng, cuối
cùng ông ta nói:
- Cách đây bốn ngày cánh
cổng này đã mở để đón em gái tôi là Papanxin. Tôi nghĩ chỉ ít ngày nữa nó sẽ mở
cho tôi.
Trong lúc ông ta nói, hình
người trên cỏ động đậy như thể vừa tỉnh dậy khỏi giấc ngủ. Rồi giống người phụ
nữ bằng tuyết trên núi, nó cũng đứng thẳng toàn thân, và cũng chìa hai tay về
phía trước. Lúc này Môntêzuma đã nhìn thấy và run bắn lên. Tôi cũng thấy khắp
người ớn lạnh.
Người phụ nữ, - vâng, đó
chính là một người phụ nữ, - từ từ tiến lại, và chúng tôi đã có thể nhìn thấy
bà ta đang mặc bộ quần áo người chết. Bà ta ngẩng đầu, để ánh trăng soi vào
mặt. Môntêzuma kêu thét lên kinh hãi, tôi cũng kêu to theo ông: đó là khuôn mặt
nhợt nhạt của Papanxin, người đã bị chôn ở đây bốn ngày trước đó.
Bước từng bước nhẹ nhàng
và lặng lẽ như trong giấc mơ, bà ta đi lại gần và dừng lại trước bụi cây có
bóng đang che khuất chúng tôi. Sau đó Papanxin, - hay là linh hồn của bà ta, -
nhìn thẳng vào chúng tôi bằng đôi mắt mở to, rồi nói:
- Môntêzuma, anh đấy à?
Tôi biết anh đang ở gần, nhưng không nhìn thấy.
Môntêzuma liền bước ra
khỏi bóng cây, mặt đối mặt với bà ta.
- Ngươi là ai? - Ông ta
hỏi. - Ngươi là ai mà mang quần áo người chết thế này?
- Tôi là Papanxin. Tôi về
đây từ thế giới của người chết để mang đến cho ông một vài tin tức.
- Cô mang đến cho tôi tin
gì?
- Tin về cái chết,
Môntêzuma. Vương quốc của ông sẽ sụp đổ, chẳng bao lâu nữa ông sẽ chết, và cùng
chết với ông là hàng trăm nghìn người khác dưới quyền ông cai trị. Tôi đã ở thế
giới những người chết bốn ngày, và ở đấy tôi đã thấy các vị thần giả dối của
chúng ta. Đó không phải là thần mà là những con quỷ! Dưới ấy tôi cũng gặp những
người tôn thờ các vị thần giả dối đó. Gặp các nhà tư tế phụng sự chúng. Tất cả
những người này đều phải chịu những sự đau đớn không sao chịu nổi. Dân tộc
Anahuac sẽ phải chết, vì nó đã tôn thờ quỷ dữ làm thần!
- Papanxin, em gái của
tôi, lẽ nào cô không có một tin gì an ủi cho tôi sao?
- Không, - Papanxin đáp. -
Nếu từ bỏ các vị thần giả dối của anh, có thể anh sẽ cứu được linh hồn mình,
nhưng cuộc đời anh và cuộc đời dân tộc anh thì không cách nào cứu được.
Sau đó Papanxin quay đi,
đứng lẫn trong bóng cây. Tôi nghe tiếng bộ quần áo chết chóc của bà ta sột soạt
trên cỏ.
Một cơn giận điên khùng
bỗng ập đến với Môntêzuma.
- Thế thì mày cũng đáng
nguyền rủa, em gái Papanxin của ta ạ! - Ông ta quát to. - Mày trở về từ cõi
chết để làm gì? Không lẽ chỉ để mang lại những tin tức đau buồn ấy cho ta? Nếu
mày mang lại hi vọng hay chỉ cho ta đường thoát, ta sẽ vui mừng chào đón mày.
Còn bây giờ thì hãy quay về với bóng tối, và cầu mong toàn bộ sức nặng của trái
đất sẽ đè lên trái tim mày vĩnh viễn! Còn các vị thần của ta thì... tổ tiên ta
thờ họ, ta sẽ thờ họ đến cùng. Cả khi họ ruồng bỏ ta, ta cũng không bỏ họ! Các
vị thần đang giận dữ vì trên bàn thờ có ít vật tế. Từ nay ta sẽ tăng gấp đôi!
Ta sẽ ra lệnh đặt lên bàn thờ trái tim tất cả những người làm nghề tư tế, vì họ
không làm các thần hài lòng!
Môntêzuma giận dữ khôn
cùng, như một người yếu đuối đang điên lên vì kinh sợ. Đám người hầu và các
quan cận thần đang ở xa, bây giờ kéo đến đứng quanh, ngạc nhiên và khiếp sợ.
Cuối cùng, Môntêzuma cởi
bỏ quần áo đang mặc, và vừa nhổ tóc, nhổ râu, vừa co quắp lăn trên mặt đất. Đám
người hầu ôm lấy ông ta, mang vào lâu đài.
Ba ngày ba đêm liền không
ai nhìn thấy vua. Tuy nhiên, những gì ông ta nói về việc tế thần không phải là
lời nói suông, vì từ sáng hôm sau số lượng những người bị giết để tế thần tăng
gấp đôi trong cả nước. Bóng chiếc thánh giá của người Tây Ban Nha đã rơi lên
bàn thờ Anahuac, nhưng ngọn khói tế thần vẫn nghi ngút bay cao, và từ các đỉnh
kim tự tháp vẫn vọng lại tiếng thét thê thảm của những tù nhân bị giết. Giờ
phút cuối cùng của các vị thần quỷ dữ đã điểm, chúng vẫn tiếp tục gặt hái vụ
mùa đẫm máu của chúng.
Tôi, Tômax Uyngfin, tôi đã
được tận mắt nhìn thấy những điềm báo trước ấy, nhưng đó là điềm báo trước của
thần thánh, hay chỉ là các hiện tượng thiên nhiên bình thường, - tôi không dám
nói. Những ngày ấy toàn đất nước Anahuac chìm ngập trong không khí kinh hoàng,
và dễ hiểu khi đầu óc đã cuồng loạn, con người sẽ cho là điềm gở những cái mà
vào những thời điểm bình thường khác, họ hoàn toàn không chú ý.
Còn về sự sống lại của
Papanxin thì đúng là có thật. Có thể trước đó bà ta chưa chết, mà bị đem chôn
khi chỉ ngất đi. Sau đêm ấy bà ta không xuất hiện nữa, bản thân tôi cũng chẳng
thấy lại lần nào. Tuy nhiên, người ta có nói với tôi rằng sau này Papanxin đã
nhập đạo Giatô, và thường kể về những điều kì lạ bà ta được nhìn thấy ở thế
giới của người chết (Câu chuyện về sự sống lại của Papanxin được ghi trong cuốn sử
của Becnađinô đơ Xaagun, một trong những nhà viết sử đầu tiên của Tây Ban Nha ở
Nam Mỹ.)
XVIII
CHỌN VỢ
Từ ngày tôi thành thần
Têcatlipôca cho đến khi người Tây Ban Nha đặt chân tới Tênôctitlan là một quãng
thời gian mấy tháng, và trong quãng thời gian ấy, toàn thành phố đầy rẫy các sự
cố lo lắng. Môntêzuma liên tiếp cho người mang quà, vàng bạc và đá quý tới gặp
Côrtex, yêu cầu hắn rút lui. Ông vua đã hóa điên này không hiểu một điều đơn
giản rằng càng tỏ ra giàu có bao nhiêu, chỉ càng kích thích và lôi kéo kẻ cướp
vào nhà mình bấy nhiêu.
Côrtex khôn khéo tiếp các
sứ thần của ông ta bằng những lời hứa suông lịch sự, và tặng lại những đồ chơi
vặt vãnh. Chỉ thế thôi.
Người Tây Ban Nha ngày một
tiến sâu vào nội địa đất nước, và Môntêzuma đã thất kinh khi nghe tin bộ lạc
Tlatxcalan hiếu chiến bị đánh bại. Tlatxcalan là kẻ thù cố hữu của Môntêzuma,
nhưng cho đến lúc ấy nó là vật ngăn cách giữa người Aztec và người da trắng xâm
lược. Sau đó có tin những người Tlatxcalan bị đánh bại ấy thành đồng minh và
chư hầu của người Tây Ban Nha, và bây giờ hàng nghìn chiến binh Tlatxcalan hùng
mạnh đang cùng với quan thầy của chúng tấn công thành Sôlulu thiêng liêng. Một
thời gian sau lại có tin đồn khắp nơi về sự chém giết đẫm máu ở Sôlulu và rằng
những người chiến thắng đã xô đổ tất cả các thần của thành phố ấy.
Người ta kể cho nhau nghe
đủ các điều kì diệu về người Tây Ban Nha, về sức mạnh và sự dũng cảm của họ, về
những chiếc áo đâm không thủng, về cái thứ vũ khí thét ra lửa và kêu to như
sấm, và về những con thú khủng khiếp mà họ cưỡi. Một hôm có người mang đến cho
Môntêzuma đầu hai người da trắng bị giết trong một trận đánh. Đó là hai chiếc
đầu to lớn, tóc xù một cách đáng sợ, và cùng với chúng là đầu một con ngựa. Vừa
nhìn thấy, Môntêzuma suýt ngất vì sợ, nhưng vẫn ra lệnh đưa chúng đặt trong
ngôi đền thờ lớn cho mọi người xem, và tuyên bố kẻ nào dám đặt chân tới Anahuac
sẽ phải chịu một số phận tương tự.
Trong khi đấy, công việc
của quốc gia thì hỗn độn và rối mù lên. Hàng ngày diễn ra các cuộc họp của các
hội đồng quý tộc, đại tư tế và thủ lĩnh các bộ lạc láng giềng thân thiện. Người
nói thế này, kẻ nói thế khác, cuối cùng chỉ còn lại sự thiếu tự tin và sự do dự
tội lỗi. Nếu lúc ấy Môntêzuma nghe theo lời khuyên của Guatêmôc, một vị tướng
vĩ đại, thì Anahuac đã không lọt vào tay người Tây Ban Nha, vì Guatêmôc đã
nhiều lần thuyết phục Môntê- zuma gạt bỏ mọi sự sợ hãi để chủ động tấn công
chúng, chừng nào chưa muộn. Trao đổi sứ thần và quà cáp như thế đã quá đủ! Cần
tập hợp đội quân đông đảo của người Aztec lại và tiêu diệt quân thù trong các
hẻm núi!
Nhưng than ôi, đáp lại mọi
lời khuyên của Guatêmôc bao giờ Môntêzuma cũng nói:
- Tất cả những điều ấy
cũng vô ích thôi, cháu ạ. Làm sao có thể chống lại những con người ấy, khi họ
được chính các thần ủng hộ? Nếu muốn, các thần sẽ giúp ta, còn nếu không thì ta
sẽ chết! Ta không nghĩ về bản thân ta, nhưng đồng bào ta sẽ thế nào? Chuyện gì
sẽ xảy ra với phụ nữ và trẻ em, chuyện gì sẽ xảy ra với người ốm yếu và già cả?
Tai họa, tai họa đang đến với ta! - Rồi ông đưa hai tay ôm mặt, bắt đầu than
khóc như đứa trẻ. Guatêmôc bỏ đi, không nói được lời nào vì tức giận khi thấy
một ông vua vĩ đại mà ngu ngốc như thế. Nhưng chàng có thể làm gì hơn? Như tôi,
Guatêmôc cho rằng chính trời bắt Môntêzuma hóa điên để trừng phạt Anahuac.
ƠŒ đây cần nói thêm rằng
cái địa vị thần thánh quả có cho phép tôi biết và nhìn thấy tất cả mọi điều,
nhưng dù sao, tôi, Tômax Uyngfin, vẫn chỉ là một con rối đáng thương bị lôi
cuốn vào dòng chảy của các sự kiện vĩ đại mà trong vòng hai thế hệ tiếp theo đã
xóa khỏi mặt đất quốc gia vĩ đại của người Aztec. Vâng, tôi chỉ là thứ đồ chơi
được đẩy lên đỉnh ngọn sóng ấy, và quyền lực của tôi cũng chỉ là cái quyền lực
của bọt sóng. Môntêzuma xem tôi là một tên thám báo và không tin bất kì điều gì
tôi nói. Các quan tư tế thì một lúc nhìn tôi như nhìn một vị thần và là một vật
tế tương lai. Chỉ Guatêmôc, bạn tôi và Ôtômi, người đang thầm yêu tôi vẫn tin
tôi, và với họ, tôi thường nói chuyện về nhiều điều, giải thích cho họ biết bản
chất những gì đang xảy ra trước mắt. Nhưng cả hai người này cũng bất lực.
Để mất trí khôn, Môntêzuma
vẫn nắm giữ quyền lực của mình, và bằng cánh tay run rẩy, ông ta lái con tàu
quốc gia lúc nghiêng bên này, lúc nghiêng bên nọ. Tôi có cảm giác như tất
cả các thủy thủ đã rời bỏ con tàu ấy, để nó tự nhiên lao thẳng vào cái chết.
Nỗi kinh sợ những gì sắp
xảy ra bao trùm lên tất cả, không trừ một ai. Tuy vậy, - mà cũng có thể chính
vì thế, - mọi người tìm đủ cách hưởng thụ càng nhiều càng tốt, chỉ trừ những
lúc phải tạm nghỉ để tiến hành các nghi lễ tôn giáo. Vào thời gian này không ai
bỏ qua một ngày lễ nào, không một bàn thờ nào trống rỗng. Như dòng sông chảy
nhanh khi gần tới thác, thấy trước cái chết sắp đến, người dân Aztec như chợt
tỉnh dậy sau giấc ngủ, đang cố sống gấp một cuộc sống căng thẳng, dồn dập. Từ
sáng đến tối trên đỉnh các kim tự tháp vang lên tiếng kêu của những người bị
giết, và từ chập tối đến sáng, các đường phố ngập trong tiếng nhạc chói tai,
hoang dã. “Các vị thần ngoại bang đang tấn công chúng ta, - người ta nói với
nhau như thế. - Hãy uống đi, ăn đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết!”. Và thế là
những người đàn bà chính chuyên nhất bắt đầu lao vào con đường trụy lạc, những
người đàn ông trang nghiêm nhất, vẫn quý trọng danh dự bộ lạc mình bỗng trở
thành những kẻ đểu giả, và thậm chí trẻ con những ngày ấy cũng say rượu đi lang
thang giữa phố, dù trước đó điều này đối với người Aztec là một tội lỗi không
tha thứ được!
Môntêzuma rời bỏ ngọn đồi
Sapuntêpêc, để cùng tất cả triều đình dọn đến ở trong một lâu đài trên quảng
trường rộng đối diện với kim tự tháp lớn nhất. Có thể gọi lâu đài này là thành
phố trong lòng một thành phố khác. Dưới các mái nhà của nó đêm đêm tập trung
hơn một nghìn người, đấy là chưa kể các loại người lùn và tàn tật, hàng trăm
loại chim quý trong các lồng nuôi chim và rất nhiều thú dữ được nhốt trong
chuồng. ƠŒ đây, ở lâu đài này, tôi tiệc tùng hàng ngày với bất kì ai tôi muốn,
và khi chán tiệc tùng, tôi lại khoác lên người bộ quần áo lấp lánh. Với sự tháp
tùng của một đám đông người hầu trẻ tuổi và các nhà quý tộc danh giá, tôi đi ra
phố, vừa đi vừa chơi chiếc đàn thụ cầm của người Aztec (trong một chừng mực nào
đó tôi đã biết chơi thứ đàn đáng ghét này). Dân chúng vừa kêu vừa chạy ra khỏi
nhà, cúi rạp trước tôi, trẻ con ném hoa xuống chân tôi, các cô gái vừa nhảy múa
xung quanh, vừa hôn tay chân tôi, và rồi một lát sau đi theo tôi là cả đám đông
hàng nghìn người. Cả tôi cũng nhảy múa và kêu thét như một thằng điên, vì vào
những ngày ấy, giữa không khí cuồng loạn chung, tôi cảm thấy như tôi bị điên
thật sự. Tôi cố xua tan nỗi sợ, tôi muốn quên đi việc tôi sẽ bị đem làm vật tế
thần, và rằng hàng ngày mũi dao đẫm máu đang xích lại gần trái tim tôi.
Tôi muốn quên đi tất cả,
nhưng than ôi, đó là điều không thể làm nổi. Uống rượu mêxcali và punkê nhiều
đến đâu, đầu tôi vẫn tỉnh táo. Các vòng hoa, các cô gái xinh đẹp, và sự tôn
sùng của dân chúng chẳng còn làm tôi quan tâm. Ý nghĩ về cái chết cứ dai dẳng
bám theo tôi, tôi buồn rầu nhớ lại ngôi nhà tổ tiên và cô gái tôi yêu quý.
Những lúc ấy tôi tưởng trái tim tôi sẽ không chịu thêm được nữa, và nếu không
có lòng tốt của nàng Ôtômi, có lẽ tôi đã tìm cách tự sát. Người con gái xinh
đẹp và cao quý của vua Môntêzuma bao giờ cũng ở cạnh tôi. Nàng tìm trăm nghìn
cách khác nhau để làm tôi vui, và thỉnh thoảng từ đôi môi nàng, tôi nghe những
lời không rõ về cuộc sống, và hi vọng, làm máu trong người tôi lại chảy mạnh.
Tôi muốn nhắc lại rằng lần
đầu gặp Ôtômi trong cung vua Môntêzuma, tôi thấy nàng đẹp và rất hấp dẫn. Nhưng
bây giờ, dù vẫn thấy nàng xinh đẹp như thế, trong trái tim khô cứng vì sợ hãi
của tôi không còn chỗ cho những tình cảm âu yếm đối với Ôtômi hay bất cứ người
đàn bà nào khác. Khi tôi không bị say vì rượu hay vì sự sùng bái của đám đông,
tất cả các ý nghĩ của tôi đều hướng lên trời cao: tôi muốn làm dịu bớt tâm hồn
tôi, là điều hóa ra không phải dễ.
Tôi thường nói chuyện với
Ôtômi, kể cho nàng nghe về tôn giáo của chúng ta và về nhiều chuyện khác như có
thời tôi từng kể cho Marina, nghe nói bây giờ cô ta là tình nhân và là phiên
dịch của Côrtêx, người cầm đầu bọn Tây Ban Nha. Ôtômi chăm chú lắng nghe, không
rời đôi mắt dịu dàng của nàng khỏi tôi, nhưng không hơn, vì ngoài xinh đẹp và
dũng cảm, nàng còn là một trong những người phụ nữ khiêm tốn và ý tứ nhất.
Cảnh sống ấy kéo dài cho
đến lúc người Tây Ban Nha từ Sôlulu kéo quân tới Tênôctitlan.
Một buổi sáng nọ, tôi ngồi
trong vườn, chiếc đàn cầm tay. Trong đám tuỳ tùng của tôi, các nhà quý tộc và
các thầy dạy học đang trò chuyện điều gì rất sôi nổi, cách xa tôi một quãng. Từ
chỗ đang ngồi, tôi nhìn thấy chiếc sân nơi hàng ngày vua họp hội đồng cố vấn.
Đồng thời tôi cũng nhận thấy khi các thủ lĩnh rút lui, các quan tư tế bắt đầu
kéo vào sân, sau đó xuất hiện một tốp các cô gái xinh đẹp có một vài bà lớn
tuổi đi theo.
Hoàng thân Guatêmôc xuất
hiện và đi lại gần tôi. Thời gian gần đây chàng ít cười, nhưng hôm nay Guatêmôc
đã cười và hỏi tôi có biết điều gì đang xảy ra không. Tôi đáp tôi không biết và
không muốn biết, chắc Môntêzuma đang chuẩn bị “quà” mới cho các ông chủ Tây Ban
Nha của mình.
- Hãy suy nghĩ kĩ những
điều anh đang nói, Teule! - Guatêmôc
bực mình nói. - Thậm chí anh nói đúng, tôi cũng bắt anh phải nuốt lại lời nói
của anh và không được quên rằng anh là thần Têcatlipôca. Chỉ tình yêu của tôi
mới cứu nổi anh.
Sau đó, nguôi nguôi một
chút, chàng nói tiếp:
- Than ôi, sự điên rồ của
ông bác tôi đã dẫn tới việc người ta có thể nói những câu như thế. Chao, giá
tôi là vua của đất nước Anahuac! Chưa đầy một tuần, đầu của tất cả những tên Teule ở Sôlulu sẽ được trang điểm cho
mái nhà của đền thờ kia!
- Hãy suy nghĩ kĩ những
điều anh đang nói, - thưa hoàng thân, - tôi giễu cợt đáp lại. - Nếu có ai nghe
những lời anh nói, thì anh sẽ buộc phải nuốt lại chúng. Sẽ có lúc anh là vua,
để lúc ấy xem anh đánh nhau với bọn Teule
thế nào. Ít ra người khác sẽ được chứng kiến điều ấy, còn tôi thì sắp chết.
Nhưng chuyện gì xảy ra đằng kia thế? Hay Môntêzuma đang chọn vợ mới cho ông ta?
- Vâng, ông ta chọn vợ,
nhưng không phải cho ông ta. Teule,
đừng quên rằng anh không được sống bao lâu nữa. Vì vậy Môntêzuma cùng các quan
tư tế đang chọn xem ai sẽ là vợ của anh.
- Vợ của tôi? - Tôi kêu
lên kinh ngạc. - Vợ của người sắp chết? Bây giờ tôi cần gì đến tình yêu và vợ
con! Một vài tuần nữa bàn thờ tế thần sẽ là giường cưới của tôi. Ôi, Guatêmôc,
anh nói anh yêu tôi. Tôi đã cứu anh sống. Nếu yêu tôi, anh hãy cứu tôi đi. Anh
đã thề sẽ làm điều đó.
- Tôi đã thề sẽ làm tất cả
những gì tôi có thể làm, và sẵn sàng hi sinh vì anh, Teule. Tôi sẽ giữ đúng lời thề đó, vì không phải ai cũng đánh giá
cao cuộc sống như anh, anh bạn ạ. Nhưng dù sao tôi vẫn bất lực không giúp anh
được. Anh sẽ phải làm vật tế cho các thần, và dù tôi có chết một nghìn lần,
cũng chẳng thay đổi được điều đó. Chỉ có trời mới cứu nổi anh, nếu muốn, vì vậy
hãy tự an ủi mình, Teule, và đến giờ
phải chết hãy chết một cách dũng cảm. Số phận anh chẳng thua kém gì số phận
tôi, vì chúng ta ai cũng phải chết. Còn bây giờ thì tạm biệt!
Khi Guatêmôc đi khỏi, tôi
rời khu vườn trở về phòng mình, nơi tôi thường tiếp những người tới khấn thần
Têcatlipôca, tức là tôi. Tôi ngồi xuống ngai vàng của tôi và chìm ngập trong
khói thuốc lá. Thật may tôi được ở một mình. Nếu không được tôi cho phép, chẳng
ai dám vào đây.
Viên phụ trách đám người
hầu của tôi đến báo có người muốn nói chuyện với tôi. Tôi đang quá mệt mỏi vì
suy nghĩ nhiều và đang muốn được khuây khỏa bằng cách nào đó, nên đã gật đầu ra
hiệu đồng ý. Người hầu đi ra, và trước tôi xuất hiện một người đàn bà quàng
khăn kín người. Tôi ngạc nhiên nhìn cô ta, ra lệnh cởi khăn che mặt. Cô ta làm
theo, và tôi đã nhận ra đó là công chúa Ôtômi.
Không hiểu chuyện gì đã
xảy ra, tôi đứng dậy đi về phía nàng. Thông thường nàng chẳng bao giờ đến tìm
tôi một mình, nhưng lúc ấy, tôi nghĩ có thể nàng có việc cần gặp tôi, hay đang
thực hiện một nghi lễ nào đó mà tôi không biết.
- Mời anh cứ ngồi, - Ôtômi
lúng túng nói. - Với tư cách anh, anh không được đứng trước mặt tôi.
- Vì sao? - Tôi hỏi. -
Thậm chí nếu không kính trọng cô với tư cách là công chúa, tôi vẫn phải nghiêng
mình trước vẻ đẹp của cô.
- Nói thế đủ rồi, - Ôtômi
ngắt lời tôi bằng cái phẩy tay mềm mại. - Theo một phong tục cổ xưa, tôi đi tới
đây vì có tin tức cho anh. Người ta đã chọn xong ai sẽ là vợ của anh. Tôi sẽ
đọc tên từng người cho anh biết.
- Đọc đi, Ôtômi!
- Những người này là... -
rồi nàng nói tên ba cô gái. Tôi biết họ là những cô gái xinh đẹp nhất trong
nước.
- Tôi tưởng bốn người cơ
mà? - Tôi hỏi với nụ cười cay đắng. - Hay người ta tước bà vợ thứ tư rồi?
- Vâng, bốn người, - Ôtômi
đáp và lại im lặng.
- Thế thì nói đi! - Tôi
kêu lên. - Hãy nói đi, người ta chọn một cô gái bất hạnh nào nữa để làm vợ tôi,
người sắp sửa bị đem làm vật tế thần?
- Đó là một cô gái thuộc
dòng dõi cao quý, có những tước vị còn cao hơn những tước vị anh có thể cho cô
ta.
Tôi nhìn nàng vẻ dò hỏi,
Ôtômi lại nói:
- Người thứ tư và cũng là
người đầu tiên trong số họ là tôi, Ôtômi, con gái của vua Môntêzuma, công chúa
của bộ lạc Ôtômi.
- Cô à? - Tôi ngạc nhiên
kêu lên rồi ngã người xuống đống gối. - Không lẽ lại chính là cô?
- Vâng, tôi. Anh hãy nghe
tôi nói! Các quan tư tế đã chọn tôi như cô gái xinh đẹp nhất Anahuac, mặc dù
tôi chưa xứng đáng được gọi là thế. Bố tôi vô cùng tức giận, nói không có gì
trên đời có thể bắt được con gái ông thành vợ một tù nhân sắp phải chết trên
bàn thờ tế thần. Nhưng các quan tư tế đáp lại rằng lúc này, khi các thần đang
tức giận, vua không được đòi ngoại lệ cho con gái mình. “Lẽ nào người đàn bà
danh giá nhất nước không xứng đáng làm vợ một vị thần?” - họ hỏi thế. Bố tôi
đành đồng ý, và nói tùy tôi quyết định. Theo các quan tư tế, tôi đáp rằng trong
những ngày đau buồn này cả người đàn bà kiêu hãnh nhất cũng phải nhẫn nhục để
thành vợ một tù nhân nô lệ được gọi là thần và sắp bị đem làm vật tế. Thế là
tôi, công chúa Ôtômi, đồng ý làm vợ anh!
Nhưng nếu lúc ấy tôi biết
được những gì tôi đọc thấy trong mắt anh bây giờ, có lẽ tôi đã không đồng ý.
Trong cái nhục của mình, tôi hi vọng kiếm được tình yêu, dù trong chốc lát, để
sau đó được chết cùng anh trên bàn thờ, và theo phong tục chúng tôi, nếu muốn,
tôi có quyền làm thế. Tuy nhiên, hình như anh không lấy thế làm vui. Bây giờ mà
rút lui thì đã muộn, nhưng anh đừng lo. Anh còn có các bà vợ khác, tôi sẽ không
quấy rầy anh. Tôi đã nói hết tất cả những gì phải nói. Bây giờ tôi có thể lui
ra được chứ? Thưa thần Têcatlipôca, mười hai ngày nữa lễ cưới sẽ được tiến hành
trọng thể!
Ngồi dậy khỏi đống gối,
tôi cầm tay Ôtômi và nói:
- Cảm ơn cô, cô Ôtômi cao
thượng. Nếu không có cô và Guatêmôc, nếu không có lòng nhân từ và sự chăm sóc của
cô và hoàng thân, chắc chắn tôi đã chết từ lâu. Cô còn muốn an ủi tôi cho tới
phút cuối cùng, và nếu tôi hiểu đúng, thậm chí cô quyết định sẽ chết cùng tôi.
Nhưng hãy nói tôi biết, Ôtômi, vì sao cô làm thế? ƠŒ đất nước chúng tôi, chỉ
khi yêu người đàn ông hết sức say đắm, người đàn bà mới quyết định chia sẻ với
anh ta cái số phận như số phận đang chờ tôi trên bàn thờ tế thần. Tôi không
hiểu vì sao một người như cô, xứng đáng làm vợ bất kì bậc vua chúa nào, lại có
thể đem trái tim mình trao cho một tên nô lệ đáng thương. Tôi phải hiểu những
lời cô nói thế nào, Ôtômi?
- Hãy tìm câu trả lời
trong trái tim anh, - Ôtômi khẽ nói, tay nàng run run trong tay tôi.
Tôi nhìn nàng: nàng thật
xinh đẹp! Tôi chợt nghĩ về sự chung thủy của nàng, về lòng dũng cảm không chịu
lùi bước trước cái chết kinh khủng nhất, và hơi thở của sự dịu dàng ấy đã chạm
vào tâm hồn tôi. Nhưng thậm chí cả vào giây phút ấy, trước mặt tôi vẫn hiện lên
một khu vườn ở nước Anh, hình bóng một cô gái Anh mà tôi chia tay dưới gốc sồi
ở Đichchingham, và tôi lại nhớ tới những gì chúng tôi đã thề với nhau. Tôi biết
cô gái ấy còn sống, đang chờ tôi, và tôi nghĩ chừng nào chưa chết, tôi cũng
phải trung thành với cô gái ấy. Tôi buộc phải cưới những cô gái da đỏ này làm
vợ, nhưng nếu dù chỉ một lần tôi nói với Ôtômi rằng tôi yêu nàng, nghĩa là tôi
đã phản bội lời thề. Mà Ôtômi thì chỉ cần tình yêu chứ không cần gì khác. Mặc
dù miếng mồi hấp dẫn đến đâu, và tôi có xúc động bao nhiêu chăng nữa, tôi vẫn
không nói với nàng những lời nàng chờ đợi.
- Ngồi xuống, Ôtômi, - tôi
nói. - Hãy ngồi xuống và lắng nghe tôi nói. Cô nhìn thấy cái nhẫn vàng này chứ?
Tôi tháo chiếc nhẫn của
Lyly khỏi ngón tay và đưa cho nàng xem:
- Cô có nhìn thấy những
dòng chữ khắc phía trong không? Ôtômi gật đầu, nhưng không nói lời nào. Tôi
thấy đôi mắt nàng lộ vẻ sợ hãi.
- Để tôi đọc cô nghe,
Ôtômi, - rồi tôi dịch sang tiếng Aztec hai câu thơ cảm động:
Dù chúng ta ở đâu,
Trái tim vẫn
bên nhau.
Chỉ lúc ấy Ôtômi mới lên
tiếng, nói:
- Những dòng chữ này nghĩa
là gì? Tôi chỉ hiểu các chữ tượng hình của chúng tôi thôi.
- Ôtômi, nó có nghĩa là ở
một đất nước xa xôi nơi tôi ra đi để tới đây, có một cô gái. Cô ta yêu tôi và
tôi yêu cô ta.
- Nghĩa là cô ta là vợ của
anh.
- Không, Ôtômi, cô ta chưa
là vợ của tôi, nhưng đã hứa sẽ lấy tôi làm chồng.
- Cô ta hứa sẽ là vợ của
anh, - Ôtômi buồn bã nhắc lại. - Nghĩa là cũng giống như tôi bây giờ. Trong
việc này tôi và cô ta như nhau, Teule.
Khác chăng chỉ ở chỗ anh yêu cô ta mà không yêu tôi. Anh muốn nói thế chứ gì?
Nếu vậy, đừng nói nữa vô ích, - tôi đã hiểu tất cả. Nhưng nếu tôi đã để mất
anh, thì cô ta cũng để mất anh. Giữa cô ta và anh là đại dương mênh mông, là
bàn thờ tế thần và cái chết đau đớn. Còn bây giờ thì hãy để tôi đi, Teule. Tôi sẽ phải thành vợ anh, điều ấy
không thể tránh khỏi, nhưng tôi không quấy rầy anh đâu, vả lại chẳng bao lâu
nữa tất cả sẽ kết thúc. Anh sẽ làm đường đi tới Ngôi nhà của Mặt trời. Còn tôi sẽ cầu nguyện để anh gặp được trên
ấy những gì anh muốn gặp. Những tháng qua tôi đã cố nhen lên trong anh tia hi
vọng, cố tìm lối thoát cho anh, và tôi nghĩ hình như tôi đã tìm thấy. Nhưng hóa
ra tôi nhầm, và bây giờ tất cả đều kết thúc. Nếu anh chân thành nói rằng anh
yêu tôi, điều đó sẽ tốt hơn cho cả hai ta; và nếu anh nói lời ấy vào giờ phút
cuối cùng, có thể vẫn còn tốt cho ta, nhưng tôi không yêu cầu anh làm thế, tôi
không cần sự giả dối! Bây giờ tôi đi, Teule,
nhưng trước khi đi, tôi muốn nói rằng lúc này tôi còn kính trọng anh hơn trước
vì anh đã dũng cảm nói thẳng tất cả sự thật với tôi, con gái của vua Môntêzuma,
khi anh có thể dễ dàng nói dối và anh sẽ được an toàn hơn. Cô gái bên kia đại
dương chắc rất biết ơn anh. Tôi không mong cho cô ta điều gì xấu, nhưng từ nay
giữa cô ta và tôi là một sự thù địch suốt đời. Tôi và cô ta là những người xa
lạ và sẽ mãi mãi là người xa lạ, nhưng cô ta đã chạm vào tay anh như bây giờ
tôi đang chạm tay anh. Anh đã nối liền chúng tôi với nhau và biến chúng tôi
thành những kẻ tử thù. Tạm biệt người chồng chưa cưới của tôi! Chúng ta sẽ
không gặp nhau cho tới khi “cô gái tội nghiệp” bị bắt làm vợ “một tên nô lệ
đáng thương”: tự anh nói như thế, Teule!
Nói rồi Ôtômi đứng dậy,
quấn khăn kín người và mặt, rồi thong thả bước ra khỏi phòng, để tôi ở lại một
mình trong trạng thái vô cùng bối rối. Chỉ những thằng ngốc mới từ chối tình
yêu của một cô gái như Ôtômi và bây giờ tôi đang bị giày vò vì hối hận. Tôi tự
hỏi mình: liệu Lyly có thể hạ mình từ độ cao của sự vĩ đại như thế, có thể vứt
bỏ bộ quần áo vua chúa để nằmcạnh tôi trên cái thớt chém tế thần hay không? Có
lẽ không, vì không thể có một sự tự hi sinh man dại như thế ở những người phụ
nữ của thế giới chúng ta. Chỉ những người con gái của Mặt trời mới có thể yêu
mãnh liệt và cũng căm ghét mãnh liệt nhường ấy. Khát vọng và tình cảm là điều
duy nhất thiêng liêng mà họ tin theo một cách mù quáng. Để thỏa mãn tình cảm
của mình, họ sẵn sàng hi sinh thân mình, sẵn sàng đi tới cái chết.
XIX
BỐN NỮ THẦN
Một thời gian nữa trôi
qua, cuối cùng đã đến ngày Côrtex cùng đoàn quân xâm lược của hắn đặt chân lên
đất Tênôctitlan. Tôi sẽ không kể ở đây tất cả những gì người Tây Ban Nha đã gây
nên ở thành phố ấy, vì đó là việc của nhà viết sử, mà tôi thì chỉ muốn nói về
câu chuyện của chính bản thân tôi.
Tôi không được tận mắt
thấy Côrtex và Môntêzuma gặp nhau thế nào. Tôi chỉ thấy ông ta mặc bộ quần áo sang
trọng nhất và ra đi cùng với đám cận thần quý tộc, chẳng khác gì vua Xôlômông
đang ở lúc vinh quang tột độ. Tuy thế, tôi nghĩ không một người nô lệ nào bị
dẫn đến bàn thờ tế thần lại có thể buồn bã như Môntêzuma vào cái ngày bất hạnh
ấy. Sự quẫn trí đã làm hại ông ta, có lẽ ông ta cũng tự hiểu ông ta đang đi tới
cái chết.
Sau đó, vào buổi chiều,
tôi lại nhìn thấy Môntêzuma. Người ta khiêng ông ta trên chiếc kiệu bằng vàng
đi về phía cung điện do bố ông ta là Ahaiacatli dựng nên cách cung điện của
Môntêzuma khoảng năm trăm bước. Tiếp sau đó tôi nghe có tiếng kêu của đám đông,
tiếng ngựa hí, tiếng nói của những tên lính vũ trang, và từ phòng mình tôi đã
nhìn thấy những người Tây Ban Nha đang đi dọc theo phố chính. Trái tim tôi đập
rộn lên sung sướng, vì dù sao đó cũng là những người theo đạo Thiên chúa!
Cưỡi ngựa đi đầu là
Côrtex, thủ lĩnh đội quân Tây Ban Nha. Hắn mang áo giáp và khí giới sang trọng,
người tầm thước, vẻ quý phái, đôi mắt trầm tư nhưng vẫn có vẻ láu lỉnh. Theo
sau hắn còn có mấy người cưỡi ngựa, nhưng phần lớn binh lính của đội quân ít ỏi
của hắn đều đi bộ. Chúng vừa ngơ ngác nhìn xung quanh, vừa nói chuyện với nhau
bằng tiếng Tây Ban Nha. Đứa nào mặt cũng rám nắng, phần lớn bị thương trong các
trận đánh và hầu như tất cả ăn mặc đều rách rưới. Nhìn những con người được
trang bị đơn sơ này, tôi khâm phục sự dũng cảm của họ, vì họ đã dám bất chấp
bệnh tật và các cuộc giao tranh liên tiếp mở đường xuyên qua cả đội quân hàng
nghìn người của kẻ thù để tới tận trái tim của vương quốc Anahuac này.
Đi cạnh Côrtex, một tay
cầm cương ngựa cho hắn là một cô gái da đỏ xinh đẹp, mặc áo trắng, đầu đội một
vòng hoa. Khi đi ngang qua lâu đài, cô ta ngoái lại nhìn, lập tức tôi nhận ra
đó là Marina, người bạn cũ của tôi. Cô ta đã mang lại cho đất nước mình muôn
nghìn tai họa, nhưng hình như cô ta vẫn cảm thấy hạnh phúc vì được sưởi ấm bằng
vinh quang và tình yêu của Côrtex.
Khi bọn người Tây Ban Nha
đi ngang, tôi chăm chú quan sát khuôn mặt chúng với một hi vọng mơ hồ và độc
ác. Tất nhiên có thể bị cái chết cản trở, nhưng tôi hầu như vẫn tin một cách
chắc chắn rằng tôi sẽ nhìn thấy kẻ thù của tôi trong số chúng. Bản năng thầm
nhắc tôi rằng hắn còn sống, và tôi biết hễ có điều kiện là Gacxia sẽ tham gia
cuộc viễn chinh này, vì mùi máu, vàng và cướp bóc nhất định sẽ lôi cuốn trái
tim độc ác của hắn. Tuy nhiên trong số những người Tây Ban Nha đã tới
Tênôctitlan hôm ấy, tôi không thấy hắn.
Đêm đến, tôi gặp Guatêmôc
để hỏi chàng sự thể thế nào.
- Mọi chuyện đang thuận
lợi cho một con diều hâu chui vào tổ chim câu, - chàng mỉm cười cay đắng đáp, -
nhưng chim câu thì chẳng vui vẻ một chút nào. Bây giờ ông bác của tôi cùng tên
cầm đầu người Tây Ban Nha đang trò chuyện thân mật với nhau ở đằng kia, - chàng
chỉ về phía lâu đài Ahaiacatli.- Nhưng trong tiếng gù gù như tiếng chim câu của
hắn, tôi nghe có tiếng rít chim ưng. Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ được nhìn
thấy ở Tênôctitlan những cảnh rùng rợn!
Và chàng đã nói đúng. Một
tuần sau bọn Tây Ban Nha phản bội và bắt vua Môntêzuma làm con tin. Chúng giữ
ông ta trong lâu đài Ahaiacatli được dành riêng cho chúng, binh lính canh phòng
ông ta suốt ngày đêm.
Sau đó các sự kiện cứ nối
tiếp nhau xảy ra. Thủ lĩnh các bộ lạc dọc bờ biển nổi loạn, giết chết mấy người
Tây Ban Nha. Theo lệnh Côrtex, Môntêzuma cho gọi họ về Tênôctitlan, và khi họ
tới nơi, bọn Tây Ban Nha đã thiêu sống những người không chịu khuất phục này
trên quảng trường trước lâu đài. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Chúng còn bắt cả
Môntêzuma, tay mang xích, phải chứng kiến sự trừng phạt ấy. Ông vua của người
Aztec đã hạ thấp mình đến mức bị xích lại như một tên trộm bình thường. Ngay
sau việc làm nhục nhã ấy, Môntêzuma thề sẽ trung thành một đời với vua Tây Ban
Nha, tiếp theo, ông ta đã lừa bắt và trao vào tay quân Tây Ban Nha Côcamaxin,
người cầm đầu Texcôcô, vì ông ta dám nghĩ tới việc tấn công bọn xâm lược. Sau
đó Môntêzuma trao cho chúng tất cả số vàng xưa nay tích góp được và tất cả các
kho báu của quốc gia trị giá tới hàng trăm, trăm nghìn đồng bảng Anh. Thế mà
dân chúng vẫn cam chịu điều ấy, vì ngay từ đầu họ đã mất hết nhuệ khí, và theo
thói quen, vẫn tiếp tục làm theo lệnh của ông vua bị cầm tù.
Nhưng khi Môntêzuma cho
phép người Tây Ban Nha tổ chức một buổi lễ thờ Chúa Giêsu trong đền thờ lớn
nhất của người Aztec, thì hàng nghìn người da đỏ rất giận dữ, tuy bề ngoài vẫn
im lặng. Sự tức giận ấy treo lửng lơ trong không khí, có thể nghe thấy nó trong
mỗi lời nói, và nó cứ ầm ỳ, vang dội như tiếng sóng vọng lại từ đại dương đang
nổi giận. Mây đen kéo lại dần. Cơn bão có thể ập đến bất cứ lúc nào.
Tuy thế, cuộc sống của tôi
vẫn diễn ra như cũ, ngoại trừ một việc là từ nay tôi không được phép bước ra
khỏi lâu đài, vì người ta sợ tôi tìm cách liên lạc với người Tây Ban Nha, dù
chúng không hề nghĩ người Aztec đã bắt làm tù binh và sắp sửa đem giết để tế
thần một người da trắng. Ngoài ra, những ngày ấy tôi hầu như không gặp lại công
chúa Ôtômi. Sau cuộc tỏ tình kì lạ vừa rồi, người vợ chưa cưới đầu tiên ấy của
tôi đã tìm cách lảng tránh tôi. Khi ngẫu nhiên gặp nhau trong bữa tiệc hay
ngoài vườn, nàng chỉ nói với tôi về những việc chung chung hay về những việc
quốc gia. Mọi chuyện kéo dài cho đến khi lễ cưới được tổ chức. Tôi nhớ việc đó
xảy ra một ngày trước cái chết khủng khiếp của sáu trăm nhà quý tộc Aztec được
tập trung lại nhân một ngày lễ thờ thần Uixilôpôctli.
Vào ngày tổ chức lễ cưới,
người ta dành cho tôi các nghi lễ và vinh dự thật lớn, như thể tôi là một vị
thần thực sự. Những người danh giá nhất thành phố kéo đến chào lạy, đốt hương
thơm cho tôi, đến mức tôi cảm thấy buồn nôn và chóng mặt.
Mặc dù cả đất nước đang
chìm ngập trong đau buồn, các quan tư tế vẫn thực hiện các nghi lễ một cách chu
đáo như cũ, sự độc ác của họ cũng không giảm bớt chút nào. Người ta đặt nhiều
hi vọng vào tôi. Họ tin rằng đem tôi làm vật tế, họ sẽ thoát được cơn giận của
các thần, vì họ vẫn xem tôi là một trong những Teule.
Khi trời sắp tối, một bữa
tiệc linh đình kéo dài hơn hai giờ đã được bày ra để mừng tôi. Tiệc xong, tất
cả đứng dậy và cùng đồng thanh ca ngợi tôi:
- Vinh quang thay thần
Têcatlipôca! Cầu mong thần được hạnh phúc ở đây, trên trái đất, và hạnh phúc ở
kia, trên Ngôi nhà Mặt trời! Lên trên
ấy, thần hãy nhớ đến chúng tôi! Nhớ rằng chúng tôi đã tôn thờ thần, đã dành cho
thần những gì tốt nhất, và hãy tha thứ cho tội lỗi của chúng tôi. Lạy thần
Têcatlipôca vinh quang.
Sau đó hai nhà quý tộc
bước lên phía trước, lấy đuốc soi đường dẫn tôi vào một căn phòng lộng lẫy, nơi
tôi chưa đặt chân tới bao giờ. ƠŒ đây họ mặc cho tôi bộ quần áo lộng lẫy bằng
thứ vải bông mịn nhất có thêu những chiếc lông chim côlibli lấp lánh. Trên đầu tôi là một vòng hoa, còn trên cổ và hai
cổ tay là các dây chuyền và các vòng đeo gắn những viên đá quý rất lớn. Trong
bộ trang phục ấy, - nó hợp với một cô gái xinh đẹp hơn, - tôi thấy mình
đúng là một tay ăn diện kiểu cách vào bậc nhất...
Khi trang điểm xong, bỗng
nhiên tất cả các bó đuốc đều phụt tắt, trong chốc lát bóng tối bao trùm xung
quanh. Sau đó từ xa có tiếng hát vọng lại: đó là tiếng các cô gái hát bài hát
hôn lễ, theo tôi là rất hay, nhưng khó có thể miêu tả được.
Bài hát kết thúc. Bây giờ
trong bóng tối tôi chỉ nghe tiếng quần áo sột soạt và tiếng người thì thầm nói
chuyện. Rồi một giọng đàn ông vang lên:
- Hỡi những người đã được
Trời chọn, các cô ở đâu?
- Chúng tôi đang ở đây, -
một giọng phụ nữ đáp lại. Hình như đó là Ôtômi.
- Hỡi các cô gái của
Anahuac! - Lại lần nữa vang lên trong bóng tối tiếng nói của con người vô hình
kia. - Hỡi Têcatlipôca, thần của các vị thần, xin hãy lắng nghe tôi! Các cô đã
được nhận một vinh dự vĩ đại. Trời ban cho các cô danh giá, phẩm hạnh và sắc
đẹp của bốn nữ thần. Trời chọn các cô làm bạn đường của thần Têcatlipôca anh
linh, người sáng tạo và là ông chủ của các cô. Thần xuống thăm chúng ta trong
một thời gian ngắn để sau đó trở lại Ngôi
nhà Mặt trời của mình. Hãy xứng đáng với vinh dự ấy! Hãy quý mến và chiều
chuộng thần để thần cũng tiếp nhận sự chiều chuộng ấy và có ý nghĩ tốt đẹp về
thành phố chúng ta. ƠŒ trái đất này các cô không sống lâu với thần, vì như con
chim trong lồng, linh hồn thần đã vươn cánh và chẳng bao lâu nữa sẽ bay ra khỏi
ngục tối thể xác và rời bỏ chúng ta. Sắp đến ngày thần sẽ lại tự do! Nếu muốn,
một trong số các cô sẽ được phép đi theo thần lên Ngôi nhà Mặt trời rực rỡ và sống cùng thần trong đó. Nhưng như ta
đã nói, dù đi theo hay ở lại đây để khóc thần cho tới ngày cuối cùng, các cô
phải chiều chuộng thần, phải dịu dàng và vui vẻ, nếu không, các cô sẽ bị trừng
phạt ở đời này và cả sau khi chết; nếu không, cơn giận của trời đất sẽ đổ lên
đầu các cô và tất cả chúng ta. Còn thần, thưa thần Têcatlipôca, chúng tôi xin
thần hãy nhận các cô gái này, các cô gái danh giá và cao quý như những nữ thần
che chở họ, vì họ là những người phụ nữ xinh đẹp và quý phái nhất Anahuac, một
cô trong họ là con gái Đức vua Môntêzuma. Tất nhiên, họ chưa phải là những
người hoàn hảo tuyệt đối, vì sự hoàn hảo tuyệt đối chỉ có được ở thế giới các
thần. ƠŒ đây không có những người đàn bà hoàn hảo, và họ chỉ là cái bóng, là
hiện
thân của các nữ thần bất
tử, các người vợ thực sự của thần. Nhưng than ôi, đó là cái tốt nhất chúng tôi
có thể có để trao cho thần. Và chúng tìi hi vọng khi từ bỏ đất nước này ra đi,
thần sẽ không nghĩ xấu về phụ nữ chúng tôi, và sẽ ban ơn cho họ từ trên cao, vì
còn tiếp tục ở lại với thần là những hồi tưởng tốt đẹp về những người được gọi
là vợ thần trên trái đất.
Giọng nói im lặng, một lúc
sau lại tiếp tục:
- Hỡi những người phụ nữ,
nhân danh tên của tất cả các vị thần và tên của các thần phù hộ cho các cô
Hôxi, Hilô, Atla và Clitctô, ta tuyên bố gắn đời các cô với vị thần sáng thế
Têcatlipôca trong thời gian thần ở lại với chúng ta trên trái đất! Vị thần này
đã tạo ra các cô và bây giờ lấy các cô làm vợ! Nghi lễ đã kết thúc, ta cầu mong
cuộc hôn nhân của các cô với thần sẽ được hạnh phúc. Nhưng hãy nhớ rằng niềm
vui của các cô không bền vững suốt đời! Còn bây giờ các cô hãy nhìn cái sẽ xảy
ra trong tương lai!
Khi những lời này vừa dứt,
ở cuối gian phòng bỗng sáng bừng lên với nhiều bó đuốc, soi rõ một cảnh rùng
rợn. ƠŒ đấy, trên hòn đá chém có một người đang nằm. Đến tận bây giờ tôi vẫn
không biết chính xác đó là người thật hay chỉ là hình người bằng sáp, vì nó
được trang điểm đủ các màu, và vì da cũng trắng nhợt như da của tôi. Năm quan
tư tế giữ chặt tay, chân và đầu anh ta, còn người thứ sáu thì đứng bên cạnh,
hai tay giơ cao con dao sắc. Người này vung dao, và khi lưỡi dao hạ xuống, lấp
lánh, thì tất cả các bó đuốc bỗng tắt. Nghe có tiếng đâm sắc gọn và một tiếng
rên kéo dài vọng ra từ bóng tối, rồi tất cả lại im lặng.
Các cô dâu lại hát bài hát
hôn lễ của mình, tuy nhiên sau cái cảnh tôi vừa được thấy và được nghe, thậm
chí cả tiếng hát kì lạ, hoang dã và dịu dàng ấy cũng không làm tôi quan tâm
nữa.
Trong bóng tối, họ hát mỗi
lúc một to hơn, cho đến khi ở cuối phòng loé lên một bó đuốc, rồi bó thứ hai,
thứ ba... nhưng tôi vẫn không biết ai thắp chúng. Cuối cùng cả gian phòng rực
rỡ ánh sáng. Bàn thờ, thớt chém và các quan tư tế đều biến mất. Chỉ còn lại một
mình chúng tôi, - tôi và bốn bà vợ mới cưới.
Đó là những người đàn bà
cao, đẹp, mặc quần áo trắng của cô dâu, mang hoa và các vòng đá quý. Trên trán
mỗi cô có biểu tượng của một trong bốn vị nữ thần, và đúng Ôtômi, cô gái đường
bệ và xinh đẹp nhất trong số họ trông chẳng khác gì một vị nữ thần thực sự. Các
cô gái lần lượt đi lại gần tôi, mỉm cười quỳ gối, rồi vừa nói vừa hôn tay tôi:
- Hỡi thần Têcatlipôca,
tôi được chọn làm vợ của thần trong một thời gian. Tôi là người hạnh phúc nhất
trong tất cả các bà vợ. Cầu mong các vị thần tốt bụng phù hộ để thần thích tôi
và yêu tôi say đắm như tôi yêu thần!
Nói xong những lời này,
mỗi cô đứng sang bên để không nghe những gì cô tiếp theo đang nói.
Người cuối cùng đến gần
tôi là Ôtômi. Nàng quỳ gối, nói lên những lời thiêng liêng bắt buộc phải nói,
sau đó nàng hạ giọng nói thêm:
- Tôi đã nói với anh như
cô dâu và nữ thần phải nói với chồng và thần Têcatlipôca. Còn bây giờ, Teule, tôi nói với anh như một người đàn
bà nói với một người đàn ông. Anh không yêu tôi, và nếu anh muốn, chúng ta sẽ
không là vợ chồng với nhau, vì theo ý người khác mà chúng ta ở vào tình thế
này. Bằng cách ấy, anh sẽ giải phóng cho tôi khỏi sự nhục nhã. Anh không phải
lo về họ, - nàng hất đầu chỉ ba cô kia, - đó là các bạn gái của tôi, và họ sẽ
không phản bội tôi.
- Tùy cô, Ôtômi, - tôi đáp
một cách ngắn gọn.
- Cảm ơn vì sự tốt bụng
của anh, Teule, - nàng vừa mỉm cười
buồn bã vừa khẽ nói, rồi một lần nữa cúi trước tôi và ra đi, - đường bệ và xinh
đẹp đến mức trái tim tôi lại thổn thức, như thể vì tình yêu. Từ đêm ấy cho đến
cái giờ phút khủng khiếp khi tôi bị đem làm vật tế thần, tôi và công chúa Ôtômi
không hôn nhau lần nào và cũng không nói với nhau một lời âu yếm nào.
Tuy thế, càng ngày chúng
tôi càng thân thiết và quyến luyến nhau hơn. Chúng tôi thường nói chuyện với
nhau, và tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được để hướng trái tim nàng tới
một niềm tin chân chính. Nhưng hóa ra, đó không là việc đơn giản. Như bố mình
là Môntêzuma, Ôtômi tôn thờ các vị thần của dân tộc nàng, mặc dù nàng căm ghét
bọn người tư tế. Nàng lấy làm tức giận khi người bị đem tế thần không phải là
kẻ thù. Nàng nói rằng tất cả những điều này đều do các quan tư tế nghĩ ra, và
rằng trước kia trên bàn thờ các thần không phải tim người mà là hoa.
Cứ thế, ngày tiếp ngày
trôi qua. Tình cảm của tôi trở nên sâu nặng, một cách từ từ và khó nhận thấy,
cuối cùng bản thân tôi cũng không biết vì sao, nhưng tôi đã yêu Ôtômi hơn tất
cả những người khác trên đời, trừ Lyly.
Về ba người vợ còn lại,
thì mặc dù tốt bụng và hấp dẫn, chẳng bao lâu họ làm tôi thấy chán ghét. Nhưng
tôi vẫn tiếp tục tiệc tùng với họ suốt đêm, vì nếu người khác biết họ không làm
tôi vừa lòng, họ sẽ phải chịu một cái chết nhục nhã. Vả lại, tôi muốn xua tan
nỗi sợ bằng cách uống rượu và vui chơi, vì cuộc đời tôi đang được đếm từng
ngày, và cái chết kinh khủng đang đến gần không sao cưỡng lại.
Một ngày sau lễ cưới của
tôi đã xảy ra vụ thảm sát nhục nhã sáu trăm nhà quý tộc Aztec, theo lệnh
Anvarađô, người chỉ huy bọn Tây Ban Nha trong khi Côrtex vắng mặt. Lúc ấy
Côrtex đang ở trên bờ biển, bận đánh nhau với Narvaex, người được kẻ thù cũ của
Côrtex là quan toàn quyền Cuba Vêlaskex phái đến để chống lại hắn.
Hôm ấy là ngày có hội thờ
thần Uixilôpôctli với các nghi lễ tế thần, hát hò và nhảy múa trên cái sân lớn
của đền thờ được bao bọc xung quanh bằng một bức tường cao có chạm trổ các hình
rắn. Một sự may mắn ngẫu nhiên, hôm ấy, trước khi đến đền thờ, hoàng thân
Guatêmôc quyết định trước hết tới thăm tôi vào buổi sáng.
Nhìn bộ quần áo lộng lẫy
của chàng, tôi hỏi có phải chàng định tham gia ngày hội không.
- Vâng, - Guatêmôc đáp. -
Tại sao anh hỏi thế?
- Vì nếu là anh, tôi sẽ
không tới đó. Xin hỏi anh: những người nhảy múa có mang vũ khí không?
- Không, vì tục lệ không
cho phép.
- Nghĩa là họ tay không,
Guatêmôc, mà những chàng trai quý tộc ấy lại là lực lượng đáng quý nhất của
Anahuac. Họ sẽ tay không nhảy múa trong một khu sân bị bọc kín xung quanh, còn
những tên Tây Ban Nha có vũ trang thì đứng xem. Anh hãy nói tôi biết điều gì sẽ
xảy ra với họ, nếu người Tây Ban Nha tìm cách gây sự?
- Tôi không hiểu vì sao
anh nói như vậy? Tôi tin chắc người da trắng sẽ không làm cái điều hèn hạ bẩn
thỉu ấy. Tuy nhiên, tôi vẫn nghe theo lời khuyên của anh. Dù sao hội vui đã bắt
đầu, - anh thấy đấy, mọi người đã tập trung đông đủ, - nhưng tôi sẽ không tham
dự.
- Thế là anh thông minh, -
tôi nói. - Guatêmôc, tôi biết anh bao giờ cũng là người thông minh!
Một lát sau, Ôtômi,
Guatêmôc và tôi đi ra vườn và leo lên đỉnh một chiếc kim tự tháp nhỏ được
Môntêzuma cho xây để làm chỗ quan sát khu chợ và các sân đền thờ. Từ đây có thể
nhìn rõ những người quý tộc Aztec đang nhảy múa theo tiếng hát và tiếng nhạc.
Dưới ánh mặt trời rực rỡ, những chiếc áo choàng được làm bằng lông chim của họ
lấp lánh như muôn nghìn viên đá quý. Thật là một cảnh tượng vui vẻ! Lẽ nào họ
có thể hình dung nổi sắp tới chuyện gì sẽ xảy ra?
Xen giữa những người đang
nhảy múa, bọn Tây Ban Nha đứng thành từng túm, người mặc áo giáp tay cầm kiếm
và súng. Chẳng bao lâu sau tôi nhận thấy dần dần chúng đi ra khỏi đám đông
người da đỏ, và như đàn ong trong tổ, chúng bắt đầu tụ tập quanh các cửa ra vào
và các chỗ khác dưới sự che chở của bức tường có các hình rắn chạm trổ.
- Như thế nghĩa là gì? -
Guatêmôc hỏi, và đúng lúc ấy tôi thấy một tên Tây Ban Nha phất cao một mảnh vải
trắng.
Chiếc khăn trắng vừa buông
xuống, lập tức cả sân đền thờ nghi ngút khói, và từ đấy vọng lại phía chúng tôi
từng tràng tiếng đạn nổ. Những người chết và bị thương nằm ngổn ngang trên sân,
nhưng phần lớn những người tay không vẫn tiếp tục tụ lại giữa sân, như một đàn
cừu ngơ ngác vì hoảng sợ. Lúc ấy bọn Tây Ban Nha liền rút kiếm, và vừa kêu to
tên các vị thánh che chở cho chúng như chúng vẫn thường làm khi định tiến hành
một tội lỗi nào đấy, chúng vừa lao vào chém giết những người Aztec tội nghiệp.
Một số bị chúng giết tại chỗ, số khác vừa khóc vừa tìm đường chạy trốn, nhưng
không ai trốn thoát được vì các cửa ra vào đã bị canh giữ, mà tường thì quá cao
không leo qua nổi. Bọn người Tây Ban Nha, - cầu Chúa hãy trừng phạt chúng, - đã
chém giết không chừa một người nào. Chúng thực hiện âm mưu của mình một cách
nhanh chóng! Chưa đầy mười phút từ khi chiếc khăn trắng được vung lên, sáu trăm
người Aztec đã bị chết hoặc đang hấp hối, nằm ngổn ngang trên các viên đá lát
sân, còn bọn Tây Ban Nha thì vừa kêu lên sung sướng, vừa giật khỏi những người
đã chết các đồ trang sức quý giá.
Tôi quay sang nói với
Guatêmôc:
- Hình như anh không đi dự
cuộc vui này là đúng, có phải thế không, anh bạn của tôi?
Guatêmôc không nói gì.
Chàng đứng lặng nhìn đăm đăm về phía những người bị giết và những kẻ giết
người. Chỉ Ôtômi mỉm cười cay đắng nói:
- Các ông là những người
theo đạo Thiên chúa tốt bụng! Các ông đã đáp lại sự hiếu khách của chúng tôi
thế đấy! Tôi nghĩ bây giờ bố tôi đã có thể hoàn toàn hài lòng với các vị khách
của ông. Nếu là ông, từ lâu tôi đã cho bọn người này lên nằm trên bàn thờ tế
thần! Anh nói các thần của chúng tôi là những con quỷ, thế thì những tên giết
người này là ai, vì chúng cũng thờ thần của anh?
Cuối cùng Guatêmôc lên
tiếng:
- Chúng ta chỉ còn lại một
cách là trả thù. Môntêzuma đã bị biến thành một người đàn bà hèn nhát. Đối với
tôi, ông ta đã chết, và nếu cần tôi sẽ tự tay giết chết ông ấy! Nhưng ở Anahuac
còn có hai người đàn ông nữa, đó là Cuitlahua, - bác tôi và tôi. Chừng ấy cũng
đủ! Bây giờ tôi đi thu thập binh sĩ!
Rồi chàng bỏ đi.
Suốt đêm cả thành phố nhộn
nhạo như tổ ong, đến sáng, sân chợ và tất cả các phố đều tràn ngập hàng nghìn,
hàng vạn binh sĩ có mang vũ khí. Họ ào ạt đi về phía lâu đài Ahaiacatli, và như
những đợt sóng va vào núi đá, họ bị lửa đạn Tây Ban Nha xô bật trở lại. Người
Aztec ba lần tiến sát cổng thành, nhưng cả ba lần đều phải rút lui. Trước lần
tấn công thứ tư, trên thành bỗng xuất hiện ông vua hèn nhát Môntêzuma. Ông ta
van nài mọi người rút lui, nếu không, tính mạng ông ta sẽ bị đe dọa. Sự sùng
bái của người Aztec đối với ông ta còn lớn đến mức nghe thế, các binh sĩ dừng
lại không tấn công nữa.
Tuy nhiên, không ai có ý
định bỏ về nhà. Bị Môntê- zuma cấm không được chém giết người Tây Ban Nha, họ
quyết định bắt chúng phải chết đói, và từ giờ phút ấy họ bắt đầu bao vây cung điện
Ahaiacatli. Trong trận đánh đầu tiên này đã có hàng trăm người Aztec bị giết,
nhưng bọn xâm lược bị bao vây còn bị tổn thất nặng nề hơn. Người Aztec đã bắt
được mấy tên Tây Ban Nha và rất nhiều tên Tlatxcalan tay sai của chúng. Các tù
binh lập tức bị kéo lên đỉnh kim tự tháp và bị giết để làm vật tế thần ngay
trước con mắt của đồng bọn.
Mấy ngày sau, toán quân
của Côrtex trở về Tênôc- titlan. Hắn đã chiến thắng đối thủ, và nhiều binh lính
của Narvaex bây giờ đi theo hắn. Trong số đó có một người tôi biết rất rõ, là
Gacxia.
Không hiểu vì sao Côrtex
dễ dàng được nhập với đồng bọn hắn ở lâu đài Ahaiacatli mà không gặp một cản
trở nào. Ngày hôm sau hắn ra lệnh thả em vua Môntêzuma là Cuitlahua, thủ lĩnh
Palanipan, hi vọng điều này sẽ làm dân chúng lắng xuống. Tuy nhiên Cuitlahua
không là người hèn nhát. Vừa ra khỏi nơi giam giữ, ông ta liền cho họp hội đồng
cố vấn mà trong lúc ông ta vắng mặt, Guatêmôc cầm đầu. Hội đồng họp quyết định
chiến đấu đến cùng. Môntêzuma bị tuyên bố là kẻ phản bội, và bằng sự hèn nhát
của mình đã mang tai họa lại cho đất nước. Thế là các trận đánh lại được khôi
phục.
Nếu quyết định này được
chấp nhận cách đây hai tháng, chắc bây giờ ở Tênôctitlan không còn một tên Tây
Ban Nha nào sống sót. Tất nhiên Marina là kẻ đã giúp Côrtex giành được thắng
lợi, nhưng dù sao Môntêzuma vẫn là người chủ yếu dẫn tới sự sụp đổ, diệt vong
của vương quốc Anahuac.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét