Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2020

Công Chúa Ô-tô-mi



Công Chúa Ô-tô-mi - 3

XX
CÁI CHẾT CỦA CÁC THẦN
Otômi, - tôi nói sau một lúc im lặng. - Khi nào chúng ta bị giết?
- Khi tia nắng mặt trời chiếu vào cái vòng được vẽ trên trái tim anh, - Ôtômi đáp.
Tôi liếc nhìn dòng ánh sáng đang xuyên qua tấm vải che chúng tôi như một mũi tên vàng. Bây giờ nó ở cách hông tôi sáu tấc. Tôi nhẩm tính còn khoảng mười lăm phút nữa nó sẽ rơi đúng vào chiếc vòng màu đỏ trên ngực tôi.
Trong lúc đó tiếng động của trận đánh mỗi lúc một đến gần và trở nên to hơn. Tôi duỗi người trong khuôn khổ dây thừng cho phép, ngẩng đầu lên và thấy quân Tây
Ban Nha đã tiến tới đỉnh kim tự tháp. Bây giờ cuộc chiến đấu diễn ra ở ngay mép của nó.
Chưa bao giờ tôi được nhìn thấy một trận huyết chiến dữ dội như vậy! Người Aztec chiến đấu với sự giận dữ tuyệt vọng. Họ đã không còn nghĩ tới việc tự cứu lấy mình, mà chỉ cố giết càng nhiều quân Tây Ban Nha càng tốt, dù phải trả bằng giá mạng sống của chính họ. Nhiều khi vũ khí thô sơ của họ trở nên vô ích trước những bộ áo giáp bằng thép, nhưng họ còn một lối thoát cuối cùng là xô kẻ địch ngã xuống từ đỉnh kim tự tháp để chúng va vào nền đá vỡ tan như vỏ trứng. Và họ làm thế thật.
Quân hai bên được chia thành các nhóm độc lập. Kẻ địch liên tiếp tấn công nhưng đều buộc phải rút lui, lăn từ trên cao xuống có khi một lúc cả toán quân mười đến hai mươi người. Một số quan tư tế bất chấp nguy hiểm cũng lao vào đánh lại bọn xúc phạm thánh thần của họ. Tôi thấy một người trong số họ, đó là một anh chàng rất cao lớn, đã ôm lưng một tên Tây Ban Nha, rồi cả hai cùng lăn xuống phía dưới. Dần dần, hết bước này đến bước khác, quân Tây Ban Nha và bọn tay sai Tlatxcalan dồn người Aztec tới chính giữa đỉnh kim tự tháp. Cuối cùng trận đánh đã diễn ra ngay bên cạnh cái thớt chém bằng đá.
Tất cả những chiến binh Aztec còn sống sót, - độ khoảng hai trăm năm mươi người, không kể các quan tư tế, - đứng bao quanh chúng tôi thành một bức tường vững chắc. Đến lúc ấy luồng ánh sáng mặt trời tàn nhẫn chui qua cái phễu vàng đã bắt đầu chạm lên cơ thể tôi, và sự đụng chạm ấy đốt nóng tôi như thanh sắt nung đỏ. Nhưng tôi không thể bắt mặt trời dừng lại cho đến khi trận đánh kết thúc, như có thời Dêsux Navin từng làm ở thung lũng Aiakô  Một truyền thuyết trong Kinh thánh, kể rằng Navin có lần ra lệnh cho mặt trời dừng lại, và mặt trời đã dừng lại thật.
Luồng ánh sáng mặt trời vừa chạm vào ngực tôi, lập tức năm tên tư tế túm lấy hai tay hai chân và đầu tôi, còn viên đại tư tế, - là tên đã dẫn tôi từ lâu đài tới đây, - thì bằng cả hai tay giơ cao con dao sắc của hắn. Một sự mệt mỏi kinh khủng bỗng bao trùm lên tôi, tôi nhắm mắt và nghĩ thế là tất cả kết thúc. Nhưng đúng lúc ấy, nhà chiêm tinh học lớn nhất nước có cái nhìn rất man dại đang đứng cạnh liền ngăn hắn lại:
- Thưa quan tư tế của thần Têcatlipôca, hẵng gượm đã, chưa đến lúc! Nếu ông chém trước khi mặt trời chiếu thẳng xuống tim nạn nhân, các thần của Anahuac sẽ chết và đất nước Anahuac sẽ bị tiêu diệt!
Nghiến răng kèn kẹt vì tức giận, viên đại tư tế khó chịu nhìn vệt nắng đang chạy lại một cách chậm chạp, rồi hắn ngoái nhìn những người đang đánh nhau. Vòng người đứng quanh tôi từ từ thu hẹp, và luồng ánh sáng vàng từ từ di động trên ngực tôi. Kia, mép ngoài của nó đã chạm vào đường vòng vẽ trên tim tôi. Một lần nữa viên đại tư tế lại giơ con dao kinh khủng của hắn, một lần nữa tôi nhắm mắt và lại nghe tiếng kêu to của nhà chiêm tinh kia.
- Chưa đến lúc! Gượm đã, nếu không, các vị thần của ngươi sẽ chết!
Bỗng nhiên tôi nghe có một giọng nói khác, - đó là tiếng của Ôtômi kêu gọi giúp đỡ.
- Teule, hãy lại đây cứu chúng tôi! - Nàng thét lên, to đến mức bọn Tây Ban Nha đã nghe thấy. - Lại đây, người ta đang giết chúng tôi!
- Nào các bạn, lại đây với tôi! - Tôi nghe có giọng Caxtli đáp lại. - Tiến lên! Bọn chó này đang giết ai đấy trên bàn thờ!
Tiếp đến là một đợt tấn công rất mạnh, đẩy lui các chiến binh Aztec và xô viên đại tư tế ngã vắt qua người tôi. Đợt tấn công này còn lặp lại hai lần nữa như những cơn sóng biển dồn dập lao vào bờ khi thủy triều lên, và sau mỗi lần, hàng ngũ những người bảo vệ bàn thờ lại thưa dần. Cuối cùng vòng người bảo vệ ấy bị đánh tan và lưỡi kiếm của quân Tây Ban Nha đã lấp lánh từ bốn phía. Nhưng lúc ấy luồng sáng mặt trời đã bò tới chính giữa vòng tròn trên tim tôi.
- Chém đi quan tư tế của thần Têcatlipôca! - Nhà chiêm tinh kêu to. - Vì các vị thần vinh quang, hãy chém đi!
Tên quan tư tế kêu lên một tiếng rùng rợn rồi vung dao. Tôi nhìn thấy lưỡi dao hắn lóe lên dưới mặt trời ngay trên tim tôi và lao mạnh xuống. Nhưng cũng liền lúc ấy mặt trời lóe lên lần nữa trên một lưỡi kiếm cắt ngang con dao và đâm vào ngực tên đao phủ. Con dao to sắc nhọn bay khỏi tay hắn. Nó đâm trúng đích tuy không giết chết con mồi. Va vào bàn thờ giữa tôi và Ôtômi, con dao gãy đôi, nhưng vẫn làm tôi và nàng bị thương. Máu chúng tôi hòa lẫn nhau trên thớt chém, nối hai chúng tôi thành một khối thống nhất, còn nằm vắt ngang chúng tôi là cái xác đang co giật của tên đã định giết chúng tôi làm vật tế.
Như trong mơ, tôi nghe tiếng kêu thảm thiết của nhà chiêm tinh đang than khóc các vị thần Anahuac.
- Quan đại tư tế bị giết rồi, và thế là tất cả các vị thần của chúng ta sẽ bị hủy diệt! Têcatlipôca từ chối không nhận đồ tế! Các vị thần Anahuac đã chết, cây thập ác của bọn người mới đến đã thắng!
Một mũi kiếm cắt đứt tiếng kêu khóc thảm thiết của hắn; tôi hiểu tên thầy bói này đã chết.
Bàn tay khỏe mạnh của ai đó kéo khỏi người chúng tôi xác một tên tư tế đang hấp hối. Hắn bị ném về phía bàn thờ, nơi đang có ngọn lửa vĩnh cửu, máu hắn chảy nhiều đến mức đã làm tắt ngọn lửa được đốt cháy liên tục trong suốt nhiều thế hệ. Sau đó có người lấy dao cắt các dây trói cho chúng tôi. Ngơ ngác nhìn xung quanh, tôi lổm ngổm bò dậy khỏi hòn đá chém và nghe một tên Tây Ban Nha đang nói với đồng bọn.
- Chỉ chút nữa là hai đứa tội nghiệp này đi đời nhà ma! Không có tớ, cái lão man dại kia sẽ chọc cho thằng cha này một lỗ vào ngực to bằng đầu tớ. Còn con bé thì kể ra cũng không xấu xí lắm, tất nhiên nếu được cọ rửa sạch sẽ. Thề có Chúa rằng tớ sẽ xin Côrtex cho tớ con bé này. Nó là con mồi của tớ!
Tôi nghe giọng nói và nhận ra ngay hắn là ai. Trên đời chỉ một người có giọng nói rõ ràng và lạnh lùng như hắn. Cả lúc này đang nằm trên thớt chém tôi vẫn nhận ra nó. Và khi tuột xuống, tôi ngước nhìn và thấy đúng hắn thật.  Đứng trước tôi là Hoan đơ Gacxia, đang mặc áo giáp, kẻ thù không đội trời chung với tôi. Theo ý muốn của thần số mệnh, chính lưỡi gươm hắn đã giết chết viên quan đại tư tế. Chính hắn cứu tôi sống! Nếu biết đang cứu ai, chắc hắn sẽ tự đâm vào trái tim hắn còn hơn đâm vào trái tim tên kia.
“Không lẽ mình đang mơ?” - Tôi tự hỏi và buột miệng kêu lên:
- Đơ Gacxia!
Nghe tiếng tôi, hắn rùng mình, ngơ ngác quay lại và đưa tay dụi mắt. Cuối cùng hắn nhận ra tôi, mặc dù mặt tôi bị vẽ đầy các hình quái dị.
- Lạy Đức Mẹ! - Hắn khẽ rít lên. - Lại thằng Tômax Uyngfin đáng nguyền rủa! Và tôi cứu hắn thoát chết!
Lúc này tôi đã tỉnh hoàn toàn, và hiểu mình vừa phạm một sai lầm chết người, tôi vội bỏ chạy. Nhưng Gacxia không có ý định để xổng con mồi của hắn. Hắn lại rút kiếm chạy bổ theo tôi, vừa chạy vừa tức giận kêu lên như con thú. Nhanh hơn cả ý nghĩ, tôi chạy vòng quanh hòn đá chém, hòng trốn thoát lưỡi kiếm tuốt trần của hắn. Nhưng Gacxia không phải đuổi lâu, vì tôi đã quá yếu sau những điều kinh hoàng vừa qua, thêm vào đó, đôi chân bị buộc dây thừng lại đang rớm máu. Cũng may mà đúng vào giây phút cuối cùng, một viên sĩ quan nào đó (theo trang phục và giọng nói đầy uy lực, tôi đoán đó không phải ai khác mà chính là Côrtex) đã kịp gạt thanh kiếm của Gacxia.
- Có chuyện gì thế, Xacxêđa? - Côrtex hỏi. - Ông thấy nhiều máu quá, phát điên và muốn tế thần như một quan tư tế da đỏ? Để con người tội nghiệp ấy yên!
- Hắn không phải dân da đỏ, mà là một tên thám báo người Anh! - Gacxia vừa kêu to, vừa định chém tôi.
- Đúng là ông ta điên thật, - Côrtex nói và liếc nhìn tôi. - Thử nghĩ xem, con vật kì quái này mà bỗng chốc lại là người Anh ư? Ê! Cả hai người lại đây! Cứ nhầm lẫn kiểu này thì chết! Lại đây! - Hắn ra lệnh rồi vẫy kiếm làm hiệu, vì nghĩ tôi không hiểu lời hắn.Vẫn điên khùng vì tức giận, Gacxia định giết tôi lần nữa, nhưng Côrtex đã bực mình quát:
- Thôi đi! Hãy vì Chúa mà thôi đi! Ta sẽ không tha thứ điều này đâu! Với tư cách những người Giatô giáo, chúng ta tới đây để cứu các nạn nhân chứ không phải giết họ. Bọn mày đâu, giữ thằng ngốc kia lại, nếu không, hắn sẽ làm bẩn tâm hồn hắn bằng một cái chết nữa!
Mấy tên Tây Ban Nha túm chặt Gacxia làm hắn vừa vùng vằng vừa tuôn ra những tràng chửi tục tĩu, vì như tôi đã nói, lúc giận dữ hắn giống một con thú hoang dại hơn giống người. Còn tôi thì lúc ấy đứng trước hắn, lúng túng không biết chạy đi đâu. May Ôtômi đang đứng cạnh. Dù không hiểu tiếng Tây Ban Nha, nhưng nàng nhanh trí hơn tôi rất nhiều.
- Chạy đi, chạy nhanh lên! - Nàng khẽ nói và túm tay tôi kéo khỏi hòn đá chém.
- Chạy đâu? - Tôi hỏi. - Hãy ở lại trông chờ lòng nhân từ của người Tây Ban Nha!
- Lòng nhân từ của con quỷ cầm kiếm kia à? - Ôtômi kêu to. - Ồ không! Hãy im lặng và đi theo em nhanh lên!
Rồi nàng lôi tôi đi. Quân Tây Ban Nha cho chúng tôi đi một cách dễ dàng thậm chí còn tỏ ý thương hại vì biết suýt nữa chúng tôi bị giết để tế thần, và khi một tên Tlatxcalan nào đó nhảy ra định giết chúng tôi, một người lính Tây Ban Nha đứng cạnh đã đâm thủng vai hắn, và cái thằng khốn nạn ấy ngã vật xuống nền đá, máu chảy lênh láng.
Đến mép đỉnh kim tự tháp, chúng tôi quay lại, thấy Gacxia không còn ở cạnh bàn thờ: hắn đã thoát khỏi vòng tay đồng bọn hay có thể đã kịp giải thích cho chúng biết mọi chuyện, và bây giờ hắn đang cầm kiếm chạy sau chúng tôi khoảng năm mươi mét. Tôi và Ôtômi chạy xuống nhảy một lúc hai bậc, qua xác những người đã chết và đang hấp hối, chỉ thỉnh thoảng mới dừng lại để tránh bị xác các viên tư tế do quân Tây Ban Nha ném xuống đè bẹp. Cuối cùng, ngoái lại, tôi thấy Gacxia bị tụt lại khá xa, và rồi hắn bỏ cuộc. Có thể vì hắn quá mệt, nhưng chắc hắn sợ rớt vào tay các chiến binh Aztec lúc này vẫn tụ tập rất đông xung quanh kim tự tháp.
Ngày hôm ấy, tôi và công chúa Ôtômi đã vượt qua nhiều nguy hiểm, tuy nhiên trước khi được tạm yên, chúng tôi còn phải trải qua một thử thách nữa. Khi chúng tôi xuống tới chân kim tự tháp và đang muốn hòa mình vào đám đông sợ hãi nhốn nháo xô đẩy nhau chuyển đi những người đã chết hoặc bị thương, như các đợt sóng biển cuốn theo rác bẩn, thì từ phía trên bỗng dội xuống một tiếng động nghe to như tiếng sấm. Tôi ngước nhìn lên và thấy một tảng đá khổng lồ đang lao xuống theo các bậc kim tự tháp. Đó là tượng thần Têcatlipôca bị quân Tây Ban Nha xô đổ. Thậm chí cả lúc ấy tôi cũng nhận ra nó. Như để trả thù, nó lăn thẳng vào tôi! Chỉ một vài giây nữa là bức tượng bằng đá ấy sẽ đè chúng tôi bẹp gí. Không còn kịp chạy trốn! Cái chết đang đến gần không sao tránh khỏi! Chúng tôi thoát không bị giết làm mồi cho linh hồn thần, thì bây giờ lại bị đè bẹp dưới sức nặng của bức tượng tượng trưng cho thể xác ông ta!
Tảng đá cứ lăn xuống, mỗi lúc một gần hơn trong tiếng hò reo của quân Tây Ban Nha. Nó va vào bệ đá kim tự tháp cao trên đầu chúng tôi hơn mười lăm mét, nảy lên thành một hình cung, rồi rơi xuống cách chúng tôi chưa đầy ba bước, mạnh đến mức tôi thấy chiếc kim tự tháp khổng lồ như rung lên, và lập tức cả bầu trời như tối xạm lại vì trận mưa đá. Các mảnh đá lớn bay vèo vèo khắp mọi phía, như thể ngay dưới chân tôi một quả mìn lớn bị chôn sâu trong núi vừa nổ tung. Tượng Têcatlipôca bị vỡ làm trăm mảnh, bay rào rào quanh chúng tôi, thế mà thật kì lạ, cả tôi lẫn Ôtômi đều không xây xát gì. Đầu bức tượng suýt chạm đầu tôi, còn một chân của thần thì rơi sát chân tôi, nhưng tôi vẫn không sao. Nghĩa là vị thần giả dối này đã bất lực không làm gì nổi các nạn nhân vừa thoát khỏi ông ta!
Còn những gì xảy ra sau đó thì tôi không nhớ. Tỉnh lại, tôi thấy tôi đang ở trong lâu đài Môntêzuma, chỗ mà tôi tưởng sẽ không bao giờ được nhìn lại. Ôtômi đang ở cạnh, nàng mang nước đến lau sạch các hình vẽ và máu trên người tôi. Con dao của viên tư tế đã để lại một vết cứa khá sâu, làm máu chảy rất nhiều. Không hề nghĩ tới bản thân, trước hết Ôtômi khéo léo băng các vết thương cho tôi. Sau đó nàng thay quần áo và khoác lên người một bộ đồ trắng sạch sẽ. Nàng cũng tìm được quần áo cho tôi, cả thức ăn và nước uống nữa. Tôi bắt nàng cùng ngồi ăn; khi nàng ăn xong, tôi cố tập trung suy nghĩ, hỏi:
- Bây giờ ta làm gì tiếp? Bọn người tư tế sẽ lại dẫn ta lên thớt chém. ƠŒ đây chúng ta chẳng còn gì để hy vọng. Chỉ còn cách trông chờ vào lòng thương của người Tây Ban Nha, và chạy đến với họ.
- Anh tin vào lòng thương của con người cầm kiếm ấy à? Anh biết hắn à? Hắn là ai, Teule?
- Hắn chính là tên Tây Ban Nha mà anh đã kể em nghe. Hắn là kẻ tử thù của anh, Ôtômi. Anh đã vượt đại dương để tới đây tìm hắn.
- Thế mà anh định trông chờ vào lòng nhân từ của hắn? Anh thật chẳng thông minh một tí nào!
- Thà rơi vào tay những người theo đạo Giatô, hơn là phải làm nạn nhân của các quan tư tế da đỏ.
- Đừng lo, - Ôtômi an ủi tôi, - bây giờ chúng không còn đáng sợ. Nếu một lần thoát khỏi tay chúng, chúng sẽ không động đến anh nữa. Có điều từ trước tới giờ hầu như không người nào rơi vào tay chúng mà còn sống sót, - chỉ phép thần mới làm được điều ấy! Có lẽ thần của anh mạnh hơn thần của người da đỏ. Ôi, anh xem, anh đã làm em thay đổi nhường nào! Em đã đi xa đến mức bắt đầu nghi ngờ cả các vị thần của em, và cầu cứu kẻ thù của đất nước mình giúp đỡ! Hãy tin rằng em sẽ không bao giờ làm điều ấy vì bản thân em. Em thà chết với cái hôn của anh trên môi cho đến khi tiếng vọng những lời anh nói tắt hẳn trong lòng em. Còn bây giờ em buộc phải sống để biết hạnh phúc ấy đã không còn nữa!
- Vì sao? - Tôi nói. - Ôtômi, lúc ấy anh đã nói chân thành với em. Em tình nguyện hy sinh cùng anh, em gọi người Tây Ban Nha đến cứu anh. Từ nay đời anh sẽ thuộc về em. Vì em là người phụ nữ dịu dàng và dũng cảm nhất trên thế gian này. Anh yêu em, Ôtômi, người vợ yêu quý của anh! Máu của ta đã hòa lẫn nhau, môi của ta đã nhập làm một trên thớt chém. Hãy xem đó là lễ cưới của chúng ta. Có thể anh không được sống lâu, nhưng chừng nào còn sống, anh là của em!
Tôi đã nói thế với tất cả sự chân thành của mình, vì sức lực và sự dũng cảm đã rời bỏ tôi, nỗi sợ và sự cô đơn đang xâu xé tôi, và tôi chỉ còn lại một điều duy nhất là niềm tin vào Chúa và tình yêu của Ôtômi. Thế là quên lời thề cũ, tôi ôm chặt nàng như đứa bé ôm chặt người mẹ. Tất nhiên đáng lẽ tôi không nên làm thế, nhưng thử hỏi người đàn ông nào ở địa vị tôi lúc ấy có thể làm khác? Vả lại tôi không thể lấy lại những lời mà tôi đã nói khi nằm trên thớt chém. Lúc ấy tôi nghĩ đó là những lời cuối cùng của tôi, bây giờ, khi cái chết không còn đe dọa tôi nữa, rút lại những lời ấy nghĩa là tự thú mình hèn nhát. Không hiểu nên hay không, nhưng tôi đã trao trái tim tôi cho con gái Môtêzuma, và sẽ phải trung thành suốt đời với nàng, hoặc sẽ tự chuốc lấy một sự nhục nhã đáng ghê tởm.
Tuy nhiên cô gái da đỏ ấy có một tấm lòng cao thượng thật vĩ đại, đến mức cả lúc này nàng cũng không muốn vin vào lời nói ấy để ép tôi. Với nụ cười buồn rầu, nàng đưa tay vuốt tóc mình, rồi nói:
- Teule, bây giờ anh không còn là anh nữa, và chỉ có ngốc tôi mới quyết định gắn bó đời tôi một cách long trọng với người không biết mình đang nói gì. Khi nằm chờ chết trên bàn thờ, anh đã thật lòng khi nói anh yêu tôi. Nhưng bây giờ, khi trở lại với cuộc sống, anh hãy cho tôi biết ai đã đeo vào tay anh chiếc nhẫn vàng kia, và dòng chữ gì được khắc trên nhẫn? Thậm chí nếu anh không lừa dối tôi, thậm chí nếu anh yêu tôi một ít, thì ở bên kia bờ đại dương vẫn có một người đàn bà khác mà anh yêu hơn tôi. Nhưng tôi có thể bằng lòng với điều ấy. Trong tất cả những người đàn ông, trái tim tôi chỉ chọn mình anh, và dù anh chỉ có lòng tốt với tôi, tôi cũng thấy được sưởi ấm bằng những tia sáng của lòng tốt ấy. Nhưng một lần đã được thấy ánh sáng, tôi sẽ chẳng bao giờ muốn bị lạc trong bóng tối nữa. Anh không hiểu tôi ư? Được, tôi sẽ nói anh biết cái gì làm tôi sợ hãi. Tôi sợ khi... khi chúng ta thành vợ thành chồng, chẳng bao lâu anh sẽ chán tôi như vẫn thường xảy ra với đàn ông, và dần dần anh lại quay về với quá khứ. Lúc ấy, sớm hoặc muộn anh cũng sẽ vượt biển trở về nước gặp người yêu anh. Lúc ấy anh sẽ bỏ rơi tôi Teule, đó là điều tôi không vượt qua nổi. Vì vậy tốt hơn chúng ta chỉ nên là bạn của nhau. Hãy nhớ rằng với tôi, con gái vua Môntêzuma, không ai được đùa chơi như đùa chơi với một cô vũ nữ nào đó mà người ta chỉ kết bạn một đêm! Nếu anh cưới tôi làm vợ, có nghĩa điều ấy sẽ kéo dài suốt  đời. Chắc anh không nghĩ tới một quãng thời gian dài như thế? Vâng, anh không nghĩ... chỉ đơn giản là anh hôn tôi trên bàn thờ, mặc dù máu chúng ta đã hòa với nhau làm một.
Ôtômi nhìn lên vết thương còn rỉ máu trên áo mình, nói tiếp:
- Còn bây giờ, Teule, tôi phải ra đi. Tôi cần tìm Guatêmôc, nếu anh ta còn sống, và những người thân thiết khác của tôi. Lúc này, khi quyền lực của các quan tư tế không còn nữa, họ có thể bảo vệ và đề cao anh. Hãy suy nghĩ kĩ những điều tôi nói, và đừng quyết định vội. Hay anh muốn nhanh chóng kết thúc việc này để chạy sang với người da trắng? Tôi sẽ tìm cách giúp anh!
- Tôi chán chạy lắm rồi, - tôi đáp. - Vả lại, đừng quên rằng trong bọn Tây Ban Nha đang có kẻ tử thù của tôi mà tôi thề sẽ giết chết bằng được. Ôtômi, tôi không muốn chạy đâu cả!
- Bây giờ anh nói thế rất đúng, - nàng đáp. - Nếu quay lại với người da trắng, con người ấy sẽ giết anh. Hoặc công khai, hoặc giấu giếm, nhưng nhất định hắn sẽ giết anh, - tôi đã đọc thấy điều ấy trong mắt hắn. Bây giờ thì anh hãy nghỉ ngơi, tôi sẽ chăm lo về sự an toàn của anh, nếu còn sự an toàn ấy ở cái đất nước thấm đầy máu này.
XXIII
TÔMAX LẤY VỢ
Otômi quay người đi ra. Chiếc rèm che bằng vải thêu chỉ vàng khép lại sau lưng nàng. Tôi ngả người xuống gối và ngủ thiếp ngay lập tức.
Hôm ấy tôi cảm thấy yếu đuối, mệt mỏi và đau đớn đến mức hầu như không nhìn thấy và không hiểu bất cứ điều gì. Chỉ sau này tôi mới nhớ lại được những gì tôi vừa kể.
Có lẽ tôi đã ngủ rất lâu vì khi mở mắt, tôi thấy đêm đã khuya. Mặc dù đêm, trong phòng vẫn sáng. Qua những ô cửa sổ có chấn song, từ bên ngoài lọt vào ánh sáng đỏ rực như máu của các đám cháy và tiếng động hỗn độn của trận đánh đang tiếp diễn.
Một trong những cửa sổ ở ngay trên đầu tôi. Tôi đứng dậy bám tay vào các chấn song, cố nén đau ở vết thương và khó nhọc đu lên. Qua cửa sổ tôi nhìn thấy quân Tây Ban Nha không tự hài lòng với việc đã chiếm được kim tự tháp, mà còn quyết định mở các cuộc tấn công ban đêm. Chúng đốt cháy hàng trăm ngôi nhà, ánh lửa bốc cao trên thành phố đỏ rực như mặt trời sắp mọc. Dưới thứ ánh sáng ấy, tôi thấy quân da trắng bị dồn ép tới các điểm cố thủ của chúng từ mọi phía bởi hàng nghìn người Aztec đang dội xuống đầu kẻ thù những trận mưa tên và đá.
Tụt xuống, tôi lại nằm xuống giường và bắt đầu suy nghĩ. Một lần nữa sự nghi ngờ lại kéo đến xâm chiếm tôi. Biết làm gì bây giờ? Bỏ rơi Ôtômi và hễ có điều kiện lại chạy sang với quân Tây Ban Nha? Nhưng ở đấy nhất định Gacxia sẽ giết tôi. Hay ở lại với những người da đỏ, nếu họ cho phép? Nhưng thế thì tôi sẽ phải thành chồng Ôtômi. Còn một giải pháp thứ ba, - ở lại với người Aztec và hy sinh tất cả, thậm chí cả danh dự, để không lấy vợ. Một điều rõ ràng là nếu lấy Ôtômi, tôi sẽ phải thành người da đỏ, quên hẳn nước Anh cùng người yêu của tôi bên ấy. Tôi hầu như không còn chút hy vọng nào được trở về đất nước, nhưng chừng nào còn sống và tự do, tôi vẫn có thể chờ đợi một điều gì đấy. Nhưng nếu tôi bị ràng buộc bởi việc lấy vợ thì lại là chuyện khác. Lúc ấy, chừng nào Ôtômi còn sống, tôi không được suy nghĩ tới điều gì khác, còn đối với Lyly Bôza thì có nghĩa là tôi vĩnh viễn không còn nữa. Tôi đã phản bội lòng tin của nàng và lời hứa của chính tôi. Nhưng liệu tôi có đủ sức từ chối Ôtômi hay không, khi nàng đã trao cho tôi tất cả? Phải công nhận rằng đối với tôi, nàng cũng trở nên yêu quý không kém. Chắc các thiên thần hay các bậc anh hùng sẽ tìm được lối thoát danh dự khỏi tình huống này, nhưng than ôi, tôi không là thiên thần, cũng không phải anh hùng, mà chỉ là một con người bình thường với đủ mọi sự yếu đuối của kẻ trần tục. Với tôi, Ôtômi là người phụ nữ xinh đẹp, dịu dàng nhất, và nàng đang ở bên tôi.
Tuy thế, tôi vẫn quyết định lợi dụng lòng cao thượng của nàng. Tôi sẽ rút lại lời nói của mình, yêu cầu nàng để tôi yên và không bao giờ gặp tôi nữa, để tôi không phản bội lời thề xưa ở Đichchingham, nếu không, tôi sẽ phải thề chung thủy suốt đời với Ôtômi, mà tôi thì lại rất sợ một lời thề như thế.
Tôi ngẫm nghĩ điều ấy khi tâm hồn đang ở trạng thái thảm hại nhất, thực ra tôi không còn sự lựa chọn nào khác, tôi chỉ còn một con đường duy nhất mà tôi phải đi theo, hoặc sẽ chết. Nhưng dù sao những suy nghĩ ấy cũng là bằng chứng chứng tỏ sự chân thật của tôi. Nếu muốn giấu sự thật, tôi đã không đem viết ra đây các do dự, các tình cảm yếu đuối và sự dằn vặt lương tâm của mình. Để tự bào chữa, chỉ cần nói thế này là đủ: không kể đến Ôtômi, người ta chỉ cho tôi một sự lựa chọn, hoặc lấy nàng làm vợ, hoặc sẽ chết, lúc ấy chắc không ai chê trách, nếu tôi chọn cái thứ nhất mà không phải cái thứ hai.
Phải thừa nhận rằng mặc dù tôi tự ý lấy Ôtômi làm vợ, nhưng thực ra tôi chỉ là con rối trong bàn tay số phận, mà số phận lại không cho tôi lối thoát nào khác. Tuy nhiên, nói thế nghĩa là mới nói một nửa sự thật. Tâm hồn tôi thực sự bị xé ra làm nhiều mảnh, và nếu mọi chuyện không được quyết định trước bất chấp ý muốn của tôi, tôi cũng chẳng biết rồi cuộc đấu tranh nội tâm ấy của tôi sẽ kết thúc ra sao.
Hôm nay, như quan tòa vô tư nhất, nhìn lại quá khứ xa xôi để nhận xét thêm một lần nữa bản chất và việc làm của mình, tôi có thể nói rằng nếu lúc ấy có thêm thời gian để suy nghĩ, chắc chắn tôi sẽ tìm thêm được một bằng chứng có lợi cho Ôtômi. Gacxia đang ở trong hàng ngũ quân Tây Ban Nha, mà tôi căm thù hắn thế nào thì ai cũng biết. Thậm chí sự căm thù ấy còn mạnh hơn cả tình yêu đối với hai người phụ nữ tôi yêu. Cho đến bây giờ, khi Gacxia đã chết từ lâu, tôi vẫn căm thù hắn như trước, và dù đó là tình cảm tội lỗi, thậm chí cả lúc già nua thế này, tôi vẫn lấy làm tiếc không thể trả thù hắn thêm được nữa. Mà lúc đó thì... Ngày ấy, sống giữa những người Aztec thù địch với quân Tây Ban Nha và với Gacxia, tôi có thể gặp hắn trong trận đánh và giết chết hắn. Ngược lại, cả khi trốn được tới trại Tây Ban Nha, chắc chắn tôi cũng bị giết ngay lập tức. Tất nhiên Gacxia đã phịa ra một câu chuyện rùng rợn về tôi, và ở đấy chúng sẽ nhanh chóng treo cổ tôi như treo cổ một tên thám báo người Anh, hoặc kết thúc đời tôi bằng cách nào đó.
Nhưng thôi, dài dòng như thế quá đủ. Tôi nói tất cả những điều ấy chỉ vì một mục đích duy nhất là cho mọi người thấy tôi đã tự dằn vặt mình một cách lâu dài và đau khổ như thế nào để lựa chọn giữa một bên là tình yêu xa,  và một bên là tình yêu gần. Đã đến lúc quay lại nói về những sự kiện xảy ra sau đó, những sự kiện lập tức chấm dứt các do dự của tôi.
Cứ thế tôi ngồi yên trên giường suy nghĩ mông lung cho đến khi tấm rèm che cửa hé mở, và một người đàn ông cầm đuốc bước vào phòng. Đó là Guatêmôc. Trận đánh ban đêm kết thúc, để lại phía sau các đống đổ nát đang bốc cháy, và chàng đã từ bãi chiến trường đi thẳng tới gặp tôi. Túm lông chim trên mũ chàng đã rụng, chiếc áo giáp bằng vàng bị nhăn nhúm vì các lưỡi kiếm Tây Ban Nha, còn vết thương do mũi tên bắn trúng trên cổ đang chảy máu.
- Chào anh, Teule, - chàng nói. - Tôi không dám nghĩ còn gặp anh sống sót đêm nay. Bản thân tôi cũng may lắm mới thoát chết. Nói chung, bây giờ là lúc không thể hiểu nổi. Khắp Tênôctitlan đang xảy ra những việc mà trước kia đến nghĩ cũng chẳng ai nghĩ tới. Nhưng thôi, chúng ta sẽ không để phí thời gian vô ích. Tôi tới đây để đưa anh tới gặp hội đồng.
- Người ta sẽ làm gì với tôi? - Tôi hỏi. - Không lẽ tôi sẽ bị lôi ra thớt chém một lần nữa?
- Không, đừng sợ, tôi cũng chẳng biết người ta sẽ làm gì với anh. Một giờ nữa hoặc là anh sẽ chết, hoặc sẽ được tôn lên rất cao, nếu người ta có thể tôn lên cao ai đó vào những ngày nhục nhã và thấp hèn này. Ôtômi đang hoạt động một cách tích cực. Cô ấy nói cô ấy đã rỉ tai các thủ lĩnh và các quan cố vấn để họ bênh anh. Nếu trái tim còn đập, anh phải cảm ơn cô ấy. Phụ nữ ít người có thể yêu như thế, còn tôi thì đang bận những việc khác, - chàng nói rồi nhìn vào bộ giáp trụ nhàu nát của mình, - nhưng tôi cũng sẽ nói lời của tôi. Bây giờ thì đi thôi, anh bạn, đuốc cháy sắp hết! Hôm nay tôi và anh đã vượt qua mười cái chết: có cái chết khủng khiếp nhiều, có cái khủng khiếp ít, nhưng thử hỏi có gì khác nhau?
Tôi đứng dậy, đi theo Guatêmôc vào chính gian phòng lớn nhất được ốp bằng các tấm gỗ tùng linh, nơi mới sáng hôm nay mọi người còn quỳ lạy tôi như quỳ lạy một vị thần. Bây giờ tôi không là thần mà đơn giản là một tù nhân bình thường, đang chưa biết sẽ được sống hay phải chết.
Trên bệ cao cách đấy không lâu tôi đã đứng trong bộ quần áo thần Têcatlipôca, bây giờ các thủ lĩnh và các quan cố vấn còn sống sót đang ngồi thành một hình vòng cung. Một số mặc áo giáp thấm máu như Guatêmôc, một số ăn mặc bình thường, và chỉ một người khoác y phục quan tư tế. Nhưng tất cả đều có chung hai đặc điểm là cùng xuất thân từ dòng dõi cao quý và cùng có vẻ mặt ảm đạm. Họ tập trung ở đây đêm nay không để quyết định đời tôi, - với họ, đây chỉ là vấn đề có tầm quan trọng loại ba, - mà để họp hội đồng tìm cách đánh đuổi bọn Tây Ban Nha, trước khi chúng hủy diệt hoàn toàn Tênôctitlan.
Chính giữa những người đang ngồi thành hình vòng cung, trên bệ cao là một người mặc áo giáp. Tôi nhận ra đó là Cuitlahua, là người sau Môntêzuma sẽ thành vua Anahuac. Khi tôi bước vào, ông ta nhanh chóng liếc nhìn tôi và nói:
- Anh dẫn ai tới đây thế, Guatêmôc? À, tôi nhớ ra rồi: đó là Teule, người được chọn làm thần Têcatlipôca và hôm nay được cứu khỏi bàn thờ tế lễ. Nào các thủ lĩnh, chúng ta phải làm gì với con người này? Đem đặt anh ta lên bàn thờ lần nữa có hợp pháp không?
- Không, - quan tư tế đáp. - Rất tiếc làm thế sẽ trái với phong tục đất nước chúng ta. Anh ta đã nằm trên thớt chém, thậm chí còn bị dao thiêng làm bị thương, nhưng thần không tiếp nhận anh ta. Nếu muốn, có thể giết anh ta, nhưng không phải trên bàn thờ tế thần.
- Thế ta quyết định thế nào? - Cuitlahua lại hỏi. - Anh ta mang dòng máu Teule trong người, nghĩa là kẻ thù của chúng ta! Và điều quan trọng nhất là để anh ta không tới được với bọn quỷ da trắng và báo chúng biết các thiệt hại của chúng ta. Hay tốt nhất ta giết cho xong chuyện?
Nhiều người gật đầu đồng ý, nhưng một số vẫn ngồi bất động.
- Các ông quyết định đi! - Cuitlahua nói. - Chúng ta không có nhiều thời gian cho anh ta, khi công việc đang liên quan tới mạng sống của hàng nghìn người khác. Tôi hỏi lại một lần nữa: anh ta có phải chết hay không?
Lúc ấy Guatêmôc đứng dậy nói:
- Hãy tha thứ cho tôi, Cuitlahua, theo tôi cho người này sống thì tốt hơn. Tôi biết rõ anh ta. Anh ta dũng cảm và trung thực, vả lại anh ta chỉ là Teule một nửa. Trong người anh ta có dòng máu của một bộ lạc da trắng cũng căm thù bọn Teule như chúng ta. Và cuối cùng là anh ta biết phong tục của chúng, biết chúng đánh nhau như thế nào, đó là những kiến thức chúng ta đang thiếu, và tôi tin anh ta có thể cho những lời khuyên tốt khi chúng ta gặp nạn.
- Như chó sói khuyên con hươu để cuối cùng ăn thịt nó chỉ chừa lại đôi sừng chứ gì? - Cuitlahua lạnh lùng đáp. - Lời khuyên của anh ta sẽ dẫn chúng ta vào nanh vuốt bọn Teule! Ai dám đứng ra bảo đảm rằng con người ngoại tộc này sẽ không phản bội chúng ta, nếu được chúng ta tin dùng?
- Tôi! Tôi sẽ đem tính mạng bảo đảm cho anh ta, - Guatêmôc đáp.
- Để tham gia một trò chơi thế này mà cần đến tính mạng anh thì quá lớn đấy,  anh cháu của tôi ạ. Tất cả bọn người da trắng đều giả dối. Thậm chí anh ta có thề, thì lời thề ấy cũng chẳng giá trị chút nào. Tôi nghĩ tốt nhất cứ giết anh ta để chẳng còn phải nghi ngờ gì nữa.
- Con người này là chồng Ôtômi, công chúa thuộc bộ lạc Ôtômi, con gái Môntêzuma và là cháu của bác, - Guatêmôc lại nói. - Ôtômi yêu anh ta đến mức đã dám chết cùng anh ta trên bàn thờ tế thần. Tôi tin Ôtômi cũng đứng ra bảo đảm cho anh ta. Hãy cho tôi gọi Ôtômi tới để tự cô ta phát biểu ý kiến của mình.
- Tùy cháu. Khi yêu, người đàn bà nào chẳng mù quáng, vả lại chắc hắn đã kịp lừa dối cô ấy. Mà rồi cô ấy trở thành vợ hắn cũng chỉ để thực hiện một nghi lễ thiêng liêng. Thôi, tùy hội đồng quyết định. Chúng ta có định nghe công chúa Ôtômi nói không?
Một vài người đáp “không”, nhưng phần lớn, - đó là những người được Ôtômi vận động trước, - lại đồng ý, và một trong các thành viên hội đồng liền chạy đi gọi nàng.
Ôtômi bước vào phòng trong bộ áo công chúa của mình, mặt nhợt nhạt nhưng vẫn giữ được vẻ ngoài bình tĩnh. Nàng cúi chào tất cả.
- Chúng tôi muốn hỏi công chúa một điều, - Cuitlahua nói với nàng. - Theo cô, nên làm gì với Teule? Giết chết anh ta hay để anh ta thành một người như chúng ta, nếu anh ta chịu thề không bao giờ phản bội? Hoàng thân Guatêmôc đứng ra bảo đảm cho anh ta, và nói cô cũng sẵn sàng làm thế. Nhưng phụ nữ chỉ được bảo đảm cho một người với điều kiện sẽ lấy người ấy làm chồng. Theo nghi lễ thiêng liêng, cô đã được xem là vợ của người ngoại tộc này, bây giờ cô có đồng ý trở thành vợ anh ta theo phong tục đất nước Anahuac và gắn bó với anh ta suốt đời hay không?
- Đồng ý, - Ôtômi bình tĩnh đáp, - nếu anh ta không phản đối.
- Liệu thế có quá nhiều vinh dự cho con chó da trắng này không? - Cuitlahua giận dữ hỏi. - Hãy suy nghĩ kĩ càng! Cô là công chúa bộ lạc Ôtômi và là một trong những người con của Đức vua chúng ta. Chúng tôi hy vọng cô sẽ lôi kéo về phía chúng ta bộ lạc Ôtômi ở vùng núi hiện đang cùng phe với bọn Tlatxcalan đáng nguyền rủa, tay sai của quân Teule. Cuộc đời cô rất đáng quý, nên không thể trao cho một kẻ ngoại tộc được. Vả lại, Ôtômi, đừng quên rằng nếu hắn phản bội, thậm chí cả dòng dõi cao quý của cô cũng không cứu nổi cô thoát khỏi cái chết!
- Tôi biết rõ điều ấy, - Ôtômi đáp, vẫn bình tĩnh như trước. - Ngoại tộc hay không, tôi vẫn yêu con người này, và sẽ đem máu của tôi bảo đảm cho anh ta. Tôi định cùng anh tới gặp bộ lạc của tôi để nhắc họ đừng quên trách nhiệm chân chính của họ. Nhưng trước hết hãy cho anh ta nói đã. Biết đâu anh ta không muốn lấy tôi làm vợ?
Cuitlahua nhếch mép cười ảm đạm, và nói:
- Khi phải lựa chọn giữa một bên là cánh tay của thần chết và một bên là đôi tay tuyệt đẹp của cô, thì câu trả lời không khó đoán lắm. Thôi được, nói đi, Teule, có điều phải nhanh lên!
- Thưa ông, tôi không có gì phải do dự, - tôi đáp. - Nếu công chúa Ôtômi đồng ý làm vợ tôi, tôi đồng ý làm chồng nàng.
Và thế là lập tức chấm dứt mọi sự nghi ngờ và lo lắng của tôi. Cuitlahua đã đúng, khi nói lựa chọn giữa Ôtômi và cái chết không phải là điều khó lắm.
Nghe thế, Ôtômi chăm chú nhìn tôi, khẽ hỏi:
- Anh còn nhớ những điều ta nói với nhau chứ, Teule? Cuộc hôn nhân này sẽ ngăn cách anh với quá khứ và trao toàn bộ tương lai của anh cho tôi.
- Tôi nhớ, - tôi đáp, và đúng lúc ấy trước tôi hiện lên khuôn mặt của Lyly như tôi thấy nàng lần cuối cùng khi chia tay. Tôi đã phản bội lời thề của tôi thế đấy!
Cuitlahua nhìn tôi như muốn đọc các ý nghĩ của tôi, rồi nói:
- Tôi đã nghe anh nói, Teule. Anh, một người da trắng từ xa tới đây, đồng ý lấy công chúa Ôtômi làm vợ, và nhờ nàng sẽ trở thành một trong những thủ lĩnh danh giá nhất đất nước chúng tôi. Nhưng xin cho biết, liệu chúng tôi có thể tin anh được không? Nếu anh lừa dối chúng tôi, vợ của anh sẽ chết! Hay anh hoàn toàn không quan tâm tới điều đó?
- Tôi sẵn sàng thề không bao giờ phản bội, - tôi đáp. - Tôi căm ghét bọn Tây Ban Nha, vì trong bọn chúng có một đứa là kẻ tử thù của tôi, - hôm qua hắn tìm cách giết tôi. Để giết hắn, tôi đã vượt đại dương tới đây. Tôi chẳng còn gì để nói thêm. Nếu không tin, thà các ông cứ giết tôi còn hơn. Tôi đã phải chịu quá nhiều đau khổ vì dân tộc các ông, nên bây giờ sống hay chết, đối với tôi không quan trọng.
- Teule, anh nói dũng cảm lắm! Bây giờ mời các thủ lĩnh quyết định: cho anh ta lấy Ôtômi làm vợ và thề trở thành một người như chúng ta, hay giết ngay tại chỗ? Các ông biết cả rồi đấy: Nếu tin được anh ta như Guatêmôc và Ôtômi nói, thì một mình anh ta đáng giá cả đoàn quân, vì anh ta biết ngôn ngữ, phong tục, vũ khí và các mưu mô quân sự của những con quỷ da trắng mà các thần đã gửi đến để làm khổ chúng ta. Nhưng nếu ngược lại, - thật khó tin người của bộ lạc này, - anh ta có thể mang lại cho chúng ta những điều bất hạnh chưa lường trước được! Sớm hay muộn anh ta sẽ chạy sang với bọn Teule và báo cho chúng biết tất cả các điều bí mật của hội đồng chúng ta, các mặt mạnh và mặt yếu của chúng ta. Các thủ lĩnh quyết định đi!
Các thành viên hội đồng bắt đầu hội ý và tranh cãi. Người nghĩ thế này, người nghĩ thế khác, thoáng nhìn đã biết khó mà thống nhất với nhau được. Cuối cùng, chán chờ đợi, Cuitlahua đề nghị giơ tay lấy số đông. Lúc đầu giơ tay là những người muốn tôi phải chết, sau đó là những người cho tôi sống. Tất cả hai mươi sáu người, không kể Cuitlahua, được chia thành hai nhóm đều nhau, - mười ba người bắt chết và mười ba người cho sống.
- Thế thì chắc ý kiến của ta sẽ quyết định, - cuối cùng Cuitlahua nói. Nghe thế, máu trong người tôi như đông lại vì sợ hãi: tôi biết trước Cuitlahua sẽ không tha chết cho tôi. Nhưng ngay lúc ấy Ôtômi lại lên tiếng nói:
- Thưa chú, xin chú tha lỗi cho cháu, - nàng nói. - Trước khi quyết định xin chú nghe cháu nói. Cháu cần cho chú, đúng thế không? Nhân dân Ôtômi chỉ tin mỗi mình cháu và chỉ cháu mới có thể lôi kéo họ về phía ta. Mẹ cháu là người cuối cùng trong dòng họ quý tộc Ôtômi, cháu là con gái duy nhất của bà, còn bố cháu là vua Anahuac. Có thể bản thân đời cháu chẳng có gì quan trọng, nhưng giữa lúc loạn lạc này, tên của cháu vẫn có chút ý nghĩa nào đó, vì chỉ mình cháu mới thu hút được ba mươi nghìn binh sĩ chiến đấu dưới lá cờ của chú. Các quan tư tế ở kim tự tháp lớn cũng biết rõ điều đó. Cái họ mong muốn nhất trên đời là dòng máu hoàng tộc, nhưng khi cháu, theo quyền được trao, đòi nằm chết cạnh người Teule này trên thớt chém, họ đã kịch liệt phản đối, cho đến khi cháu phải nhân danh các thần nguyền rủa họ. Bây giờ xin chú hãy nghe tiếp, cả các ông, các thủ lĩnh cũng vậy. Nếu chú giết con người này, lập tức cháu sẽ kết thúc cái việc hôm qua cháu mới bắt đầu, để theo anh ta xuống lòng đất, còn chú và các ông sẽ phải tìm một người nào đó để thu phục cái bộ lạc Ôtômi bướng bỉnh về phe mình!
Ôtômi ngừng lời. Những người có mặt trong phòng ngạc nhiên thì thầm với nhau; không ai nghĩ trong trái tim người đàn bà có thể có chừng ấy tình yêu dũng cảm. Còn Cuitlahua thì bừng bừng tức giận.
- Đồ phản bội, - ông ta kêu lên. - Mày dám xem tình nhân của mày cao hơn đất nước à? Mày, đứa con gái không biết xấu hổ của vua Môntêzuma, mày đáng phải chịu nhục nhã! Đúng là bố nào con ấy! Chẳng phải Môntêzuma đã bỏ rơi dân tộc mình để ở lại với bọn Teule, những người con giả vờ của thần Kêxancôatli đó sao? Còn bây giờ thì con gái ông ta đi theo đường ấy! Hãy thú nhận đi, làm sao mày và tình nhân của mày sống sót khi tất cả những người còn lại phải chết trên đỉnh kim tự tháp? Biết đâu mày và bọn Teule có âm mưu với nhau từ trước? Nếu không, mày đã chết cạnh thằng này rồi! Mày muốn như thế mà, đúng không?...
Cuitlahua nghẹt thở vì tức giận, đôi mắt ông ta lóe lên những tia chớp. Nhưng Ôtômi không hề sợ hãi. Nhợt nhạt và bình tĩnh, nàng đứng trước ông ta, nắm chặt hai tay và không ngước nhìn lên.
- Chú đừng trách cháu vì sức mạnh tình yêu, - nàng đáp. - Mà rồi trách hay không tùy chú, cháu vẫn nói lời cuối cùng của cháu. Chú có thể giết con người này, nhưng thưa chú, sau đó chú phải tìm người khác để bắt người Ôtômi chiến đấu vì Anahuac!
Cuitlahua do dự, vừa buồn bã nhìn khoảng không trước mặt, vừa đưa tay nhổ râu. Xung quanh là một sự im lặng chết chóc. Không ai biết ông ta sẽ quyết định thế nào.
Cuối cùng Cuitlahua lên tiếng:
- Thôi được! Chúng ta cần có công chúa Ôtômi này, vả lại, làm trái tình yêu đàn bà là điều không nên. Teule, chúng tôi tha cho anh được sống, và cùng với sự sống là sự giàu có, danh dự, người đàn bà cao quý nhất nước, ruộng đất và chỗ ngồi trong hội đồng của chúng tôi. Hãy nhận lấy tất cả những thứ đó, nhưng phải suy nghĩ kĩ, - ta nói điều này với cả hai người! - Hãy suy nghĩ kĩ về việc sử dụng chúng như thế nào. Nếu anh phản bội chúng tôi, hoặc thậm chí mới có ý nghĩ ấy, ta thề anh sẽ phải chết một cái chết từ từ và vô cùng đau đớn, đến mức vừa mới nghĩ tới, trái tim anh đã đông cứng lại vì sợ! Và cùng với anh sẽ phải chết tất cả, - vợ, con cái, người hầu... anh hiểu rồi chứ? Chuyện này đến đây kết thúc. Bây giờ đến lượt anh phải thề.
Nghe ông ta nói thế, trái tim tôi lịm đi. Lại một lần nữa tôi thoát khỏi một cái chết tưởng không sao tránh được!
Mắt tôi và mắt người phụ nữ cứu tôi đã gặp nhau. Ôtômi, vợ tôi, đang nhìn tôi với nụ cười buồn bã.
Viên quan tư tế đến gần. Trong tay ông ta là một chiếc bát bằng gỗ có chạm trổ những hình thù kì dị, và một con dao găm. Ông ta bắt tôi xắn tay áo, lấy dao rạch một đường, làm máu chảy vào bát. Sau đó ông ta đổ mấy giọt xuống đất, miệng lẩm bẩm những câu thần chú. Rồi ông ta nhìn Cuitlahua, chờ đợi. Cuitlahua nhếch mép đáp:
- Hãy bôi máu Ôtômi lên người anh ta, vì cô ấy là người đứng ra bảo lãnh!
- Không, thưa chú! - Guatêmôc nói. - Máu của hai người đã hòa lẫn vào nhau khi nằm trên thớt chém, vả lại bây giờ họ đã là vợ chồng. Tôi cũng là người bảo lãnh của anh ta, và tôi sẽ cho máu để lấy cuộc đời tôi làm tin.
- Anh chàng Teule này có những người bạn thật tốt, - Cuitlahua nói. - Guatêmôc, anh làm thế là cho anh ta quá nhiều vinh dự đấy. Thôi được, tuỳ anh!
Guatêmôc bước ra phía trước. Viên quan tư tế định lấy dao đâm vào tay chàng, nhưng chàng ngăn lại, rồi vừa chỉ lên vết thương trên cổ, vừa cười nói:
- Cất dao đi! Đây, vết thương này do bọn Teule gây ra, như cố tình chuẩn bị sẵn cho dịp này!
Kéo tụt cuộn băng, viên tư tế lấy ít máu Guatêmôc cho vào một chiếc bát nhỏ hơn, sau đó nhúng ngón tay vào máu rồi vẽ lên trán tôi một hình chữ thập, như ông linh mục đạo Thiên chúa vẽ lên trán một đứa bé mới sinh.
- Nhân danh vị thần của chúng ta, người có mặt khắp nơi và thấy tất cả mọi điều, ta lấy máu này đánh dấu lên người anh, và nó sẽ là máu của anh! - Ông ta thong thả nói. - Nhân danh vị thần của chúng ta, người có mặt khắp nơi và thấy tất cả mọi điều, ta đổ máu của anh xuống đất.
Rồi ông ta đổ một phần máu của tôi và nói tiếp:
- Như những giọt máu này đã chui xuống lòng đất, quãng đời trước đây của anh sẽ bị lãng quên và biến mất, vì bây giờ anh được tái sinh giữa những người Aztec. Nhân danh vị thần của chúng ta, người có mặt khắp nơi và thấy hết mọi điều, ta trộn lẫn máu với nhau, - ông ta đổ máu trong hai chiếc bát làm một, - và để đầu lưỡi anh chạm vào thứ máu trộn lẫn ấy, - ông ta cho ngón tay vào bát máu rồi đặt lên đầu lưỡi tôi, - để anh có thể nhắc lại lời thề sau đây:
- Cứ để tất cả mọi đau khổ và bệnh tật giày vò tôi; cứ để tôi sống suốt đời trong cảnh nghèo đói và chết trong sự đau đớn của một cái chết rùng rợn; cứ để linh hồn tôi bị xua khỏi Ngôi nhà Mặt trời, cứ để nó không ngớt lang thang trong bóng đêm vô tận đang nằm sau các vì sao, nếu tôi không giữ đúng lời thề này:
Tôi, Teule, xin thề sẽ trung thành với đất nước Anahuac và những người cầm quyền hợp pháp của nó. Tôi thề sẽ chiến đấu chống lại các kẻ thù của nó cho tới khi chết, đặc biệt là với bọn Teule, chừng nào chúng chưa bị ném xuống biển. Tôi thề sẽ không làm các vị thần Anahuac tức giận. Tôi thề sẽ là người chồng chung thủy của Ôtômi, công chúa của bộ lạc Ôtômi, con gái Môntêzuma, cho đến ngày cuối cùng của đời nàng, tôi thề không tìm cách chạy trốn khỏi đất nước này. Tôi thề sẽ quên bố mẹ tôi và quên mảnh đất nơi tôi sinh ra, để yêu mảnh đất bây giờ là quê hương mới của tôi. Lời thề này của tôi sẽ bền vững mãi mãi, chừng nào từ miệng núi Pôpôcatêpêcli khói và lửa vẫn phun ra, chừng nào các thủ lĩnh Aztec vẫn trị vì Tênôctitlan, chừng nào các quan tư tế chúng ta vẫn có vật tế dâng lên bàn thờ, và chừng nào dân tộc Anahuac còn tồn tại...
- Anh có thề tất cả những điều này không? - Ông ta hỏi tôi.
Và buộc tôi phải trả lời.
- Tôi thề!
Có nhiều điều trong lời thề này tôi không thích một chút nào, tuy nhiên không còn lối thoát nào khác. Nhưng cũng thật kì lạ! Chưa đầy mười lăm năm sau kể từ đêm ấy, ngọn núi Pôpôcatêpêcli không còn phun khói và lửa nữa, ở Têcatlipôca không còn một thủ lĩnh người Aztec nào, các quan tư tế thôi không giết người đem lên bàn thờ thờ thần, và dân tộc Anahuac không tồn tại với tư cách là một dân tộc, nghĩa là lời thề của tôi không còn chút giá trị gì nữa. Mà lúc ấy viên quan tư tế kia kể ra tất cả những điều này như một cái gì đấy vững bền mãi mãi!
Khi tôi thề xong, Guatêmôc bước tới ôm tôi và nói:
- Teule, chúc mừng anh, người anh em thân thiết của tôi, cả về tình cảm lẫn họ hàng! Bây giờ anh là một người như tất cả chúng tôi. Chúng tôi chờ ở anh lời khuyên và sự giúp đỡ. Hãy ngồi xuống cạnh tôi.
Tôi do dự nhìn về phía Cuitlahua, nhưng ông ta đã đáp lại tôi bằng nụ cười thân thiện:
- Teule, số phận anh đã được định đoạt. Chúng tôi chấp nhận anh, và anh đã thề một lời thề vĩ đại về tình anh em và lòng chung thủy. Phản bội lời thề ấy, nghĩa là sẽ phải chết một cái chết rùng rợn, phải chuốc lấy mọi sự đau đớn ở thế giới bên kia. Chừng nào anh không tạo cho chúng tôi lý do để nghi ngờ anh, anh có thể yên tâm không nghi ngờ chúng tôi. Từ nay, với tư cách là chồng Ôtômi, anh là một thủ lĩnh ngang hàng với các thủ lĩnh khác, anh được trao của cải, quyền lực và được ngồi cạnh Guatêmôc khi hội đồng nhóm họp.
Tôi bắt đầu ngồi vào chỗ được dành cho tôi, còn Ôtômi thì rút lui. Với tôi như thế là xong. Cuitlahua quay sang bàn các vấn đề đại sự quốc gia.
Ông ta nói một cách chậm chạp, vất vả, một lúc lại phải ngừng lời vì đau buồn. Ông ta nói về những tai họa khủng khiếp đang đổ lên đầu đất nước, về cái chết của hàng trăm người con Aztec dũng cảm, về sự đánh đập đối với các quan tư tế và các chiến binh trên đỉnh chiếc kim tự tháp, và về sự lăng nhục đối với các vị thần Anahuac. Nói chung tình hình đầy tuyệt vọng.
- Biết làm gì bây giờ? - Cuitlahua hỏi. - Môntêzuma bị giam chết trong doanh trại quân thù, và ngọn lửa do chính ông ta nhóm lên đang thiêu cháy đất nước. Mọi cố gắng của chúng ta đều bất lực trước sức mạnh sắt thép của những con quỷ da trắng được trang bị bằng thứ vũ khí lạ lùng và đáng sợ. Mỗi ngày một thất bại mới. Còn gì nữa để hy vọng khi các vị thần bị lật đổ, khi bàn thờ thấm máu quan tư tế, và khi các nhà tiên tri chỉ im lặng hay báo trước những điều bất hạnh?
Hết người này đến người khác, các thủ lĩnh và các tướng chỉ huy đứng lên trình bày ý kiến của mình. Cuối cùng Cuitlahua vừa nhìn tôi vừa nói:
- Hôm nay, hội đồng có một thành viên mới có kinh nghiệm chiến đấu và hiểu biết các phong tục của người da trắng. Cách đây một giờ, ông ta còn là một trong những người da trắng đó. Có thể ông ta có được ý kiến gì hay hơn chăng? Nói đi, ông bạn!
Lúc ấy, tôi mới lên tiếng, nói:
- Thưa Cuitlahua cao quý, thưa các thủ lĩnh và các hoàng thân! Bằng cách hỏi ý kiến tôi, các ông đã trao cho tôi một vinh dự lớn. Tôi sẽ trả lời ngắn gọn. Các ông phí sức một cách vô ích khi tung các đội quân của mình chống lại các bức tường đá và vũ khí của quân Teule để giành thắng lợi, phải hành động theo cách khác. Quân Tây Ban Nha không phải là thần như những người ít hiểu biết vẫn nghĩ. Chúng là người bình thường như chúng ta, và không phải cưỡi những con quỷ, mà là những con vật cũng bình thường. ƠŒ đất nước nơi tôi sinh ra, những con vật ấy được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau. Như tôi đã nói, quân Tây Ban Nha cũng là những con người bình thường như chúng ta. Mà đã là người thì lẽ nào chúng không khát và đói? Lẽ nào chúng không cần ngủ? Lẽ nào không thể giết chúng bằng nhiều cách? Và lẽ nào các ông không nhìn thấy chúng đang hết sức mỏi mệt? Đấy là điều có thể khích lệ chúng ta. Hãy ngừng các cuộc tấn công, hãy bao vây quân Tây Ban Nha thật chặt, để không một mẩu thức ăn nào có thể lọt tới chúng hay bọn Tlatxcalan, tay sai của chúng. Chưa đầy mười ngày sau, hoặc chúng sẽ phải đầu hàng, hoặc sẽ phải phá vây đi về phía biển. Nhưng để làm được điều ấy, trước hết chúng phải vượt ra khỏi thành phố. Nếu chúng ta cắt đứt các con đê bằng những đoạn hào lớn, chúng sẽ nguy to! Còn khi chúng định rút lui, mang theo gánh nặng vàng bạc mà chúng rất ham muốn và tới đây cũng chỉ vì thế, tôi nhắc lại, khi ấy là lúc chúng ta sẽ lao ra tấn công và tiêu diệt chúng không sót một tên nào!
Tiếng thì thầm tán thưởng nổi lên.
- Hình như ta tha chết cho người này không phải là điều vô ích, - Cuitlahua nói. - Anh ta nói có lý lắm, và tôi lấy làm tiếc rằng từ đầu chúng ta không hành động theo cách ấy. Tôi sẵn sàng nghe theo lời khuyên này. Ý các thủ lĩnh thế nào?
- Chúng tôi cũng đồng ý như thế: lời khuyên của anh ta rất thông minh! - Guatêmôc đáp. - Phải lập tức làm theo nó.
Chẳng bao lâu sau, phiên họp hội đồng kết thúc, và khi trời gần sáng, tôi trở về phòng mình, chết dở sống dở vì mỏi mệt và lo lắng sau một ngày đêm đầy các sự kiện to lớn như vậy. Phương đông bình minh đã ửng. Trong ánh sáng mờ mờ, tôi nhận ra đường đi giữa các lối đi vắng người trong tòa lâu đài, và cuối cùng đã tìm thấy bức rèm che quen thuộc. Tôi vén rèm bước vào. Cuối phòng có một người đàn bà đang nằm. Ánh sáng yếu ớt chiếu lên bộ đồ sáng như tuyết, lên mái tóc đen nhánh để xõa và các đồ trang sức bằng vàng của nàng. Đó là Ôtômi, vợ tôi.
Tôi bước lại gần. Nàng giơ hai tay lao về phía tôi. Đôi tay ấy ôm chặt cổ tôi, và môi nàng in lên trán tôi một cái hôn nồng cháy.
- Thế là tất cả kết thúc, - nàng khẽ nói. - Ôi, anh là chồng em, ông chủ của em! Không biết nên hay không, nhưng bây giờ chúng ta là một cho tới khi chết, vì lời thề sẽ mãi mãi trói buộc chúng ta.
- Đúng, tất cả đã xong, Ôtômi, - tôi đáp, - lời thề sẽ gắn chặt chúng ta suốt đời, và vì nó, anh đã phản bội một lời thề khác.
Thế là tôi, Tômax Uyngfin trở thành chồng Ôtômi, công chúa bộ lạc Ôtômi, con gái của Môntêzuma.
XXIV
ĐÊM BUỒN
Sáng hôm sau, khi tôi tỉnh dậy, quyết định của hội đồng đã được thực hiện. Tất cả các cầu nối các con đê với nhau đã bị phá hủy, bản thân các con đê chạy qua hồ trước những con đường rộng nổi lên trên mặt nước, bị cắt ngang bởi những con hào rộng.
Đến chiều, tôi mặc quần áo người da đỏ, cùng với Guatêmôc và các tướng chỉ huy khác đi tới thương lượng với Côrtex đứng nói từ các tháp chuông nơi Môntêzuma bị mũi tên của Guatêmôc bắn chết. Cuộc thương lượng không mang lại kết quả gì, và tôi nhớ lại nó chỉ vì một lý do đơn giản, là lần đầu tiên kể từ khi đến Tabaxcô tới nay, tôi được nhìn thấy Marina ở khoảng cách gần, và nghe giọng nói du dương, dịu dàng của cô ta. Cô ta đứng cạnh Côrtex như thường lệ và dịch cho người Aztec nghe các điều kiện hòa bình của hắn. Một trong những điều kiện ấy cho tôi thấy rằng Gacxia đã không để thời gian trôi qua vô ích. Côrtex hứa sẽ thả mấy người quý tộc Aztec để đổi lấy một người da trắng đã chạy thoát từ bàn thờ tế thần, và người Tây Ban Nha muốn treo cổ hắn như treo cổ một tên thám báo đã phản bội Đức vua Tây Ban Nha.
"Không hiểu Marina có biết người da trắng ấy là bạn cũ của cô ta ở Tabaxcô không?" - Tôi nghĩ.
- Anh thấy chưa, Teule, - Guatêmôc vừa cười vừa nói với tôi. - Anh đã gặp may. Nếu không ở lại để thành một người như chúng tôi, chắc chắn đồng bào của anh đã đón tiếp anh bằng chiếc thòng lọng treo cổ!
Sau đó chàng trả lời Côrtex, nhưng không nói lời nào về tôi. Chàng khuyên bọn Tây Ban Nha hãy chuẩn bị chờ đón cái chết.
- Nhiều người trong số chúng tôi đã chết, - Guatêmôc nói, - nhưng rồi chúng mày cũng chết. Teule, chúng mày sẽ chết vì đói và khát, hay bị chết trên bàn thờ tế thần của chúng tao. Không có gì cứu nổi chúng mày đâu, Teule, vì các cầu đã bị phá hủy!
Rồi cả đám đông hàng nghìn người nói to theo chàng:
- Chúng mày không thoát khỏi nơi này đâu! Các cầu đã bị phá hủy.
Sau đó các mũi tên bay đi vèo vèo, còn tôi thì trở về lâu đài để nói lại với Ôtômi tất cả những điều tôi biết được về hai em gái và bố nàng đang bị cầm tù. Theo lời quân Tây Ban Nha thì Môntêzuma đang hấp hối.
Tôi cũng kể cho Ôtômi nghe về âm mưu của Gacxia. Nàng hôn tôi và mỉm cười nói rằng mặc dù từ nay tôi phải gắn bó suốt đời với nàng, nhưng dù sao thà chịu thế còn hơn rơi vào tay quân Tây Ban Nha.
Hai ngày sau, khắp thành phố, có tin đồn về cái chết của Môntêzuma, sau đó quân Tây Ban Nha trao cho người Aztec xác ông ta được bọc trong những bộ quần áo lộng lẫy để chôn cất. Môntêzuma được đưa vào phòng khách của lâu đài, rồi đêm đến được mang tới Sapuntêpêc và chôn ở đó, không một nghi lễ nào, vì sợ dân chúng đang tức giận có thể xé xác ông ta thành nhiều mảnh.
Đứng cạnh nàng Ôtômi đang khóc, lần cuối cùng tôi nhìn khuôn mặt của một trong những ông vua bất hạnh nhất, người khởi đầu sự trị vì của mình một cách thật vinh quang, nhưng kết thúc lại rất bi đát.
“Có ai đau khổ bằng ông ta? - Tôi vừa nhìn thi hài ông vua đã chết, vừa nghĩ. - Ông ta chết không chút quyền lực trong tay và bị nguyền rủa bởi dân tộc mà ông ta đã phản bội. Ông ta chết như một tù nhân của bọn xâm lược nước ngoài dã man đang giày xéo Anahuac. Dễ hiểu vì sao Môntêzuma vứt bỏ các tấm băng che các vết thương trên người. Vết thương sâu nhất nằm trong tâm hồn ông ta, và chữa nó chỉ có một thứ thuốc duy nhất là cái chết. Suy cho cùng lỗi ông ta không lớn lắm! Cái làm ông ta trở nên mê tín và hèn nhát là các bức tượng được tôn thờ như các vị thần mà bây giờ đã bị lật nhào cùng bọn người tư tế của chúng. Nếu chúng không nhét vào đầu ông ta một sự sợ hãi có tính chất định mệnh, khiến ông ta cho phép quân Tây Ban Nha vào Tênôctitlan, thì dân tộc Aztec sẽ còn được tự do một thời gian rất lâu. Tiếc là thần số mệnh đã quyết định theo cách khác: ông vua nhục nhã này chỉ là một công cụ trong tay thần!”.
Tôi đã suy nghĩ như thế bên thi hài Môntêzuma vĩ đại, khi Ôtômi lau nước mắt hôn ông ta và kêu lên:
- Thật may bố đã chết, vì tất cả những người yêu quý bố không muốn nhìn thấy bố trong sự nô lệ và nhục nhã. Cầu mong các vị thần của bố cho con sức mạnh để trả thù! Nếu họ không phải là thần thì con sẽ tìm sức mạnh ấy trong bản thân con. Con xin thề chừng nào đang còn dù chỉ một người lính, con sẽ chiến đấu để trả thù cho bố!
Không nói thêm lời nào nữa, Ôtômi cầm tay tôi, và chúng tôi đi ra.
Nàng đã trung thành với lời thề ấy cho đến phút cuối cùng của đời nàng.
Hôm ấy và những ngày tiếp theo, quân Tây Ban Nha mấy lần phá vây để lấp lại các đoạn đê bị cắt đứt. Chúng đã làm được điều ấy, kể ra không phải không bị tổn thương, nhưng chúng vừa rút lui, lập tức chúng tôi lại đào phá, còn sâu hơn trước, thành ra mọi cố gắng của chúng không mang lại kết quả gì.
Những ngày ấy, lần đầu tiên tôi tham gia các trận đánh. Bộ cung tên được làm từ nước Anh mà tôi mang theo đã giúp tôi khá nhiều và ngẫu nhiên lần ngắm bắn đầu tiên của tôi lại nhằm vào Gacxia. Nhưng cả lần này tôi lại không gặp may, mặc dù cái đích nằm ở vị trí rất dễ bắn. Có thể do quá hồi hộp, cũng có thể do lâu ngày không bắn nên tôi lấy tầm ngắm hơi cao, và mũi tên nhọn xuyên qua đỉnh chóp của chiếc mũ sắt, không gây cho hắn một sự tổn thương nào. Hắn chỉ hơi lảo đảo một chút trên yên ngựa. Nhưng cả cái thành tích không lấy gì làm to lớn ấy cũng nâng tôi lên rất cao trước con mắt của người da đỏ. Họ là những người bắn cung rất tồi, vả lại chưa ai lần nào được thấy mũi tên cắm vào áo giáp quân Tây Ban Nha. Có lẽ cả tôi cũng không làm nổi điều ấy, nếu không chọn được những mũi tên mang kiểu Tây Ban Nha và không bọc sắt ở đầu mũi. Nếu khoảng cách không xa lắm và đích dễ bắn, thì không một loại áo giáp nào có thể chống đỡ nổi những mũi tên như thế.
Sau ngày đánh nhau đầu tiên, tôi được cử làm thủ lĩnh một toán quân gồm ba nghìn tay cung. Từ nay, đi trước tôi bao giờ cũng có ngọn cờ hiệu của riêng tôi, còn tôi thì đi sau, người khoác bộ quần áo thủ lĩnh sặc sỡ, tuy tôi thích mặc chiếc áo giáp lấy được của một tên kỵ binh Tây Ban Nha bị giết hơn. Trong suốt nhiều năm tôi luôn mặc nó phía dưới chiếc áo khoác bằng vải bông đặc biệt, và nó đã nhiều lần cứu tôi thoát chết, vì thậm chí đạn cũng không xuyên qua nổi hai lớp thép của nó. Tôi chỉ được huấn luyện cho đội quân của tôi trong hai ngày đêm,- đó là một thời gian quá ngắn để dạy họ kỷ luật chiến đấu, cái mà họ hiểu rất lơ mơ mặc dù riêng từng người họ là những chiến binh dũng cảm. Sau đó tôi đã phải ném họ vào trận đánh. Trận đánh xảy ra vào một đêm mà cho tận đến nay quân Tây Ban Nha vẫn gọi là woche treiste, tức là Đêm buồn Trong đêm rút lui khỏi Tênôctitlan, quân Tây Ban Nha và tay sai của chúng đã bị quân Aztec đánh bại, gây thiệt hại rất nặng. ).
Buổi chiều hôm đó, hội đồng cố vấn họp trong lâu đài. Khi phát biểu, tôi nói quân Teule nhất định sẽ tìm cách rút khỏi thành phố, và có lẽ vào ban đêm, vì nếu không, chúng đã không cố đắp lại các con đê. Cuitlahua, - lúc này đã trở thành vua Anahuac sau cái chết của Môntêzuma, mặc dù chưa làm lễ lên ngôi trọng thể, - đáp rằng tất nhiên quân Teule sẽ tìm cách chạy trốn, nhưng không dám làm điều đó vào ban đêm, vì trời tối chúng sợ có thể bị lạc giữa các đường phố và các bờ đập ngoằn ngoèo chi chít.
Tôi không đồng ý với ông ta:
- Người Aztec không quen đánh nhau và hành quân ban đêm, nhưng đối với người da trắng, đó là việc bình thường. Chính các ông thấy rõ điều ấy. Quân Tây Ban Nha biết người Aztec không đánh nhau ban đêm, vì thế chúng sẽ tìm cách thoát khỏi đây dưới sự che chở của bóng tối, hy vọng lúc ấy kẻ thù của chúng còn ngủ. Tôi đề nghị cho đặt các trạm gác ở đầu mỗi bờ đập.
Cuitlahua đồng ý. Ông ta giao cho Guatêmôc và tôi nhiệm vụ canh giữ bờ đập dẫn tới Tlapôpan.
Tối đến, tôi và Guatêmôc cùng mấy chiến binh nữa đi kiểm tra các trạm gác do chúng tôi đặt trên bờ đập. Sắp đến nửa đêm, trời tối như mực, lại mưa phùn lất phất, nhìn xung quanh không thấy gì, giống như ở Nôphôc của chúng ta vào mùa thu, khi ban đêm sương mù phủ kín mặt đất. Phải vất vả lắm chúng tôi mới tìm thấy các trạm gác và cho đổi phiên gác. Chúng tôi được báo lại tất cả đều yên tĩnh. Chỉ khi quay về trên con đường dẫn tới quảng trường lớn, tôi bỗng nghe có tiếng động lạ lùng nào đó, như tiếng của hàng trăm bàn chân đang bước.
- Chú ý! - Tôi khẽ nói.
- Bọn Teule, - Guatêmôc cũng thì thầm đáp lại. - Chúng đang rút lui!
Chúng tôi bỏ chạy tới đường phố bắt đầu từ quảng trường lớn kéo dài tới bờ đập, và ở đây, thậm chí trong bóng tối và mưa gió, chúng tôi đã nhìn thấy ánh sáng lấp lánh của những bộ áo giáp.
- Chuẩn bị chiến đấu! - Tôi thét to bằng một giọng đáng sợ, - chuẩn bị chiến đấu! Bọn Teule đang rút lui theo bờ đập dẫn tới Tlapôpan!
Những người lính canh lập tức truyền lệnh của tôi từ trạm gác này đến trạm gác khác và chẳng bao lâu toàn thành phố đã được báo động. Người ta thét to nhắc lại lệnh của tôi trên các đường phố và các con mương, trên các mái nhà bằng phẳng, trên đỉnh hàng trăm ngôi đền. Cả thành phố náo nức bừng tỉnh dậy. Mặt nước hồ như sôi lên dưới hàng nghìn vạn mái chèo, rào rào như tiếng hàng đàn vịt trời cùng một lúc bay lên từ bãi sậy. Khắp nơi, lúc chỗ này, lúc chỗ khác, các vì sao đổi ngôi lóe lên rồi lại tắt như những bó đuốc, đâu đâu cũng nghe tiếng kèn thổi to một cách man dại, cùng những tiếng tù và được làm bằng các vỏ sò nghe rất chói tai. Nhưng bao trùm lên tất cả là tiếng trống dồn dập mà các quan tư tế đang dang tay liên tục nện xuống mặt chiếc trống da rắn được đặt trên đỉnh kim tự tháp. Một lát sau tiếng động ầm ì biến thành tiếng gầm rú hỗn độn, và từng toán quân Aztec được vũ trang ào ào lao về phía bờ đập Tlapôpan. Một số chạy bộ, nhưng phần lớn bơi trên những con thuyền nhỏ, che kín cả mặt hồ rộng lớn.
Kia, quân Tây Ban Nha đã xuất hiện. Chúng có một nghìn năm trăm tên cộng với sáu đến tám nghìn tên Tlatxcalan tay sai. Chúng đang đi trên bờ đập thành một vệt dài và mỏng.
Thu hút các chiến binh dọc đường đi, tôi và Guatêmôc lao tới đón đầu địch ở kênh đào thứ nhất cắt ngang bờ đập; ở đây đã có hàng chục chiếc thuyền của chúng tôi đang đợi. Toán quân Tây Ban Nha đầu tiên lúc ấy đã tới bờ bên kia của con kênh và trận đánh bắt đầu.
Người Aztec chiến đấu một cách lộn xộn, không theo kế hoạch nào cụ thể. Trong bóng tối, chỉ huy không nhìn rõ binh lính của mình, còn binh lính thì không nghe rõ lời chỉ huy. Nhưng người Aztec lại hơn hẳn về số lượng và ai cũng nung nấu một mong muốn duy nhất là tiêu diệt quân Tây Ban Nha.
Đạn đại bác nổ vang, đất và đá bay như mưa xuống đầu chúng tôi; trong ánh lửa đạn chúng tôi thấy quân Tây Ban Nha đang bắc qua kênh một chiếc cầu di động đã được làm sẵn. Chúng tôi lao vào tấn công. Hai bên hòa vào làm một. Bây giờ người nào cũng phải tự chiến đấu để bảo vệ mình.
Đợt tấn công đầu tiên của quân Tây Ban Nha đã tách tôi và Guatêmôc xa nhau, và mặc dù cả hai còn sống sót, đêm ấy chúng tôi không gặp nhau lần nào nữa. Quân Tây Ban Nha và quân Tlatxcalan ào ào tiến theo bờ đập, trong khi quân Aztec chọc sâu vào sườn chúng như đàn kiến tấn công một con sâu bị thương.
Biết kể thế nào về những gì xảy ra đêm ấy? Tôi không làm nổi điều này vì đêm ấy, bản thân tôi được chứng kiến không nhiều. Chỉ biết trong suốt hai tiếng đồng hồ, tôi đã chiến đấu như một thằng điên thật sự.
Quân địch vượt qua kênh đào đầu tiên, nhưng dưới sức nặng của chúng, chiếc cầu di động oằn xuống, lún sâu dưới đất bùn nên không thể kéo lên được nữa. Mà cách khoảng năm trăm mét phía trước là một con đê đào cắt ngang bờ đập, còn rộng và sâu hơn kênh đào thứ nhất. Để vượt qua nó, quân Tây Ban Nha chỉ còn một cách là giẫm lên xác nhau mà đi.
Tôi có cảm giác như tất cả quỷ dữ trên đời đã sổ lồng kéo về đánh nhau ở dải đất bé nhỏ này. Tiếng đại bác, tiếng súng thần công, tiếng rên hấp hối và tiếng thét kinh sợ, tiếng hô xung trận của người Aztec, tiếng hí của những con ngựa bị thương, tiếng khóc của đàn bà, tiếng lao vun vút của các mũi giáo, tiếng bay vèo vèo của các mũi tên và trăm ngàn các thứ tiếng khác hòa lẫn vào nhau thành một thứ tiếng động hỗn độn, man dại, chói tai và làm rung chuyển đất trời.
Như đàn súc vật hóa điên, quân Tây Ban Nha vật vã hết bên này sang bên kia. nhiều tên lăn từ bờ đập xuống hồ, và ở đấy, ở dưới mặt nước, hoặc chúng bị giết, hoặc bị kéo lên thuyền chở đi để sau này làm vật tế cho thần. Một số khác chết chìm, nhưng phần lớn bị sa lầy và chết khi vượt qua các con kênh.
Trong trận đánh này quân Aztec cũng hy sinh hàng trăm người, nhưng chủ yếu do đồng đội mình giết nhầm. Họ đánh nhau mò mẫm trong bóng tối, không biết đang đâm giáo vào ai và mũi tên của mình đã làm ai ngã gục.
Tôi chiến đấu cùng một toán nhỏ các chiến binh luôn ở quanh tôi, cho đến tận rạng sáng, khi những tia nắng mặt trời đầu tiên xuất hiện, làm lộ rõ bức tranh khủng khiếp của bãi chiến trường. Những tên Tây Ban Nha và tay sai sống sót đã vượt qua kênh đào thứ hai lúc này đã lấp đầy bởi các xác chết của chúng, các khẩu đại bác, một phần đạn dược và các cỗ xe chở đầy châu báu. Bây giờ trận đánh diễn ra bên kia bờ kênh. Thêm một toán quân Tây Ban Nha và Tlatxcalan tụ thành từng tốp vượt qua được con kênh. Chính chúng là đối thủ mà tôi và các chiến binh của tôi lao vào tấn công.
Tôi xông thẳng vào đám đông quân giặc. Bỗng trước tôi hiện lên khuôn mặt Gacxia. Tôi kêu lên một tiếng rồi nhảy xổ vào hắn, hắn cũng nhận ra tôi. Vừa chửi rủa, hắn vừa nện thanh kiếm nặng nề của hắn xuống đầu tôi, chém đứt một phần cái mũ bằng gỗ tôi đang đội, và làm tôi bị thương. Nhưng trước khi ngã, tôi cũng kịp đâm hắn một nhát đúng vào ngực làm hắn ngã ngựa. Choáng váng vì cú đòn bất ngờ, đầu óc quay cuồng, tôi bò qua đám đông lại gần hắn. Tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài cái áo giáp của hắn đang ngập trong bùn. Túm lấy cổ tên Tây Ban Nha, tôi lôi hắn tới mép đập, rồi cả hai cùng lăn xuống hồ. Nước ở chân đập không sâu. Cưỡi lên người hắn, tôi sung sướng lau máu khỏi mặt để nhìn hắn rõ hơn. Toàn bộ người hắn chìm dưới nước, chỉ có cái đầu gối lên chân đập. Tôi đã để mất vũ khí, và chỉ còn lại một cách duy nhất là nhấn chìm hắn xuống nước cho đến khi chết ngạt.
- Thế là mày rơi vào tay tao rồi nhé, Gacxia! - Vừa kêu lên bằng tiếng Tây Ban Nha, tôi vừa thít chặt tay, bóp cổ hắn.
- Hãy vì Chúa mà thả tao ra! - Một giọng nói thô lỗ rít lên. - Đồ ngốc, sao mày tưởng tao là con chó da đỏ nào đó?
Tôi ngạc nhiên nhìn hắn. Tôi tóm đúng Gacxia, sao giọng nói và khuôn mặt này lại không phải của hắn? Trước tôi là một tên lính viễn chinh Tây Ban Nha bình thường, với khuôn mặt dạn dày vì chinh chiến.
- Mày là ai? - Tôi vừa hỏi, vừa nới tay ra. - Thằng Gacxia hay Xacxêđa như chúng mày vẫn gọi, đâu rồi?
- Xacxêđa à? Làm sao tôi biết được! Một phút trước đây hắn vừa ngã sấp trên mặt đập, và rồi cái thằng ngốc ấy lăn xuống chân tôi làm tôi ngã. Thả tôi ra! Tôi không phải Xacxêđa, và nếu có phải thì bây giờ cũng không là lúc thanh toán thù riêng với nhau! Tôi là Becnan Điax, bạn của anh. Lạy chúa tôi! Anh là ai? Một người Aztec nói tiếng Tây Ban Nha?
- Tôi không phải là người Aztec, - tôi đáp. - Tôi là một người Anh đang chiến đấu vì người Aztec, và muốn giết cái thằng mà các anh gọi là Xacxêđa ấy. Tôi không thù hằn gì anh. Dậy đi, Becnan Điax, dậy và chạy đi, nếu có thể. Không, thanh gươm của anh thì tôi phải giữ lại.
- Người Anh, người Tây Ban Nha, người Aztec hay chính là quỷ dữ, - thật chẳng biết tin thế nào, - Điax vừa bò từ hồ lên, vừa nói. - Nhưng dù ai chăng nữa, thì anh cũng là một người tốt bụng, tôi thề nếu sống qua được ngày hôm nay, và có lúc nào đó ngẫu nhiên tóm được anh, nhất định tôi sẽ nhớ tới việc anh cứu tôi. Vĩnh biệt!
Không nói thêm một lời nào nữa, anh ta lổm ngổm bò lên theo dốc bờ đập rồi biến mất trong đoàn quân rút lui, để lại trong tay tôi thanh kiếm quý. Tôi muốn đi theo để tìm Gacxia, kẻ lại một lần nữa thoát khỏi sự trả thù, nhưng lúc này sức lực tôi đã cạn. Vết thương sâu trên người tôi vẫn tiếp tục chảy máu, tôi ngồi chờ dưới nước cho tới khi một chiếc thuyền đi tới và chở tôi về với Ôtômi. Nàng phải chăm sóc suốt mười ngày, tôi mới bình phục trở lại.
Tôi đã tham gia các sự kiện của Đêm buồn như vậy. Than ôi, thắng lợi của chúng tôi không mang lại kết quả mong muốn, mặc dù đêm ấy hơn năm trăm tên Tây Ban Nha và một nghìn tên tay sai của chúng đã bị giết chết. Người Aztec không có một chút khái niệm nào về nghệ thuật quân sự, cũng như về kỷ luật chiến đấu, và không biết lợi dụng ưu thế của họ. Đáng lẽ phải truy kích bọn Tây Ban Nha và tiêu diệt chúng cho đến tên cuối cùng, thì họ lại xông vào cướp bóc những tên đã chết và vớt những tên đang sống từ dưới hồ lên để làm vật tế cho các vị thần của họ.
;NormSp=500Đêm ấy, Ôtômi cũng phải chịu thêm nhiều đau khổ. Hai anh nàng, con trai Môntêzuma, trước đó bị quân Tây Ban Nha bắt làm con tin, đã hy sinh trong khi chúng tháo chạy.
Tôi cũng không biết hôm ấy Gacxia sống chết thế nào.

XXV
KHO BÁU CỦA VUA MÔNTÊZUMA
Trong khi tôi bị thương phải nằm một chỗ, Cuitlahua đã được chính thức tôn lên làm vua thay cho ông anh của mình đã chết là Môntêzuma. Tôi phải nằm liệt giường vì hai vết thương: vết thứ nhất do thanh kiếm của Gacxia, thứ hai do nhát dao đâm của viên đại tư tế. Vết thương này chưa lành hẳn, trong trận đánh Đêm buồn dữ dội, nó đau lại, và bắt đầu chảy máu. Trong suốt nhiều năm dài sau đó, nó đã gây cho tôi khá nhiều phiền toái, thậm chí cả bây giờ, hễ mùa thu đến là tôi lại thấy đau.
Ôtômi chăm sóc tôi một cách rất tận tình. Trái tim phụ nữ thật lạ lùng và khó hiểu. Vì tôi không chết mà thậm chí còn nổi danh sau trận đánh, nàng hầu như quên nỗi buồn riêng, quên cái chết của bố và hai anh trai, nàng say sưa kể tôi nghe về ngày lễ đăng quang lộng lẫy.
Quả thật người Aztec như phát điên lên vì sung sướng. Thế là cuối cùng bọn Teule đã chạy trốn!
Tất cả quên hay làm ra vẻ đã quên cái chết của hàng nghìn binh sĩ và các nhà quý tộc trụ cột đất nước; hình như ai cũng chỉ nghĩ về tương lai. Từ nhà này sang nhà khác, từ phố này sang phố khác, từng tốp các chàng trai và các cô gái đầu đội vòng hoa, vừa đi vừa kêu to:
- Không còn bọn Teule nữa! Hãy vui lên cùng chúng tôi! Bọn Teule cút rồi, hãy vui lên!
Ai không cười vui với họ, lập tức sẽ bị họ kiếm cớ gây sự, dù nhiều gia đình đang có người mới bị giết.
Trên đỉnh kim tự tháp, các ngôi đền đã được sửa chữa, tượng các thần được đặt đúng vị trí cũ, còn cây thánh giá quân Tây Ban Nha dựng lên thì bị họ xử sự đúng như trước đó quân Tây Ban Nha đã xử sự với tượng các thần Uixilôpôctli và Têcatlipôca, tức là bị quẳng từ trên cao xuống, sau khi đặt lên bàn thờ một số tù binh Tây Ban Nha. Tôi đã được Guatêmôc báo lại điều này, tuy không thật hào hứng lắm. Trước đây tôi có kể chàng nghe một đôi điều về tôn giáo của chúng ta, và nói chung, dù là một người rất tin tưởng vào đa thần giáo và khó từ bỏ nổi các vị thần của mình, sâu trong lòng Guatêmôc tin rằng Đức Chúa của người Giatô là vị thần toàn năng và chân chính nhất. Vả lại, cũng như Ôtômi, Guatêmôc không bao giờ tán thành việc giết người để tế thần, tuy nhiên chàng phải giấu điều này vì sợ các quan tư tế đang có quyền lực rất lớn
Nghe chàng kể xong, tôi tức giận đến mức quên cả việc phải cẩn thận, và kêu to:
- Guatêmôc, người anh em của tôi, hãy nghe tôi nói đây! Tôi đã thề sẽ trung thành với sự nghiệp và dân tộc các anh. Nhưng hôm nay tôi muốn nói với anh thế này: từ nay sự nghiệp của các anh sẽ bị nguyền rủa! Các vị thần khát máu và các quan tư tế của Anahuac đã tự chuốc cái chết vào mình. Chẳng bao lâu nữa những người thờ vị thần chân chính sẽ quay lại đây còn đông hơn trước. Cây chữ thập vừa bị làm nhục kia sẽ lại được dựng lên trên nền tượng thần của các anh, và sẽ chẳng bao giờ có ai xô đổ được nữa!
Tôi đã nói với Guatêmôc như thế, tôi nói đơn giản trong cơn tức giận, và mặc dù không ai bắt tôi phải nói, những lời này về sau đã thành sự thật. Hiện giờ ở chỗ bàn thờ tế thần ở Mêhicô đang sừng sững một nhà thờ Thiên chúa.
- Anh phải cẩn thận, người anh em ạ, - Guatêmôc đáp. Chàng tỏ ra bình tĩnh, nhưng hình như những lời tiên tri ảm đạm của tôi đã làm chàng lo lắng. - Tôi nhắc lại: anh nên cẩn thận khi nói. Nếu có người nào đấy nghe được những lời kia của anh, anh sẽ bị rắc rối lần nữa với các quan tư tế mà anh vừa xúc phạm, và lần này thì không còn gì có thể cứu anh được nữa, - kể cả địa vị, uy tín và công lao chiến đấu của anh trước hội đồng. Mà rồi thử hỏi: chúng tôi đã làm gì với vị thần da trắng của anh? Các tín đồ Giatô giáo các anh đã và đang xúc phạm các thần của chúng tôi, đúng như thế! Nhưng thôi, chúng ta không nói chuyện này nữa. Để không chuốc vạ vào thân, tôi yêu cầu anh, nếu anh còn coi trọng tình bạn của tôi, đừng bao giờ nhắc lại những lời như thế. Bây giờ tốt hơn anh hãy nói tôi biết: không lẽ anh nghĩ bọn Teule sẽ còn quay lại?
- Ôi, Guatêmôc, điều này rõ ràng như mặt trời đang chiếu kia. Các anh bắt được Côrtex trong tay mà còn thả đi. Sau trận này, hắn đã khôn khéo đánh thắng trận Ôtumbê Trận này xảy ra vào ngày 14 tháng 7 năm 1520 gần làng Ôtumbê. Nhờ hai mươi kị sĩ dẫn đường, bày mưu, toán quân vừa bại trận của Côrtex đã đại thắng đội quân đông đúc của người Aztec. ). Anh nghĩ là một người như hắn mà chịu xếp vũ khí, hèn nhát lẩn trốn trong bóng tối của sự vô danh và nhục nhã được chăng? Chưa đầy một năm nữa quân Tây Ban Nha sẽ lại kéo đến đây, đứng trước cổng thành Tênôctitlan cho anh xem!
- Thế là đêm nay anh chẳng có gì an ủi tôi được, - Guatêmôc nói. - Nhưng tôi e rằng anh nói đúng. Ít ra bây giờ không còn Môntêzuma nữa, và sẽ chẳng có ai nuôi rắn trong ngực để chờ nó cắn.
Guatêmôc đứng dậy đi ra, không nói thêm một lời nào. Tôi thấy chàng đang buồn.
Một ngày sau buổi nói chuyện ấy, tôi đã có thể đứng dậy khỏi giường. Và một tuần sau thì khỏe mạnh hoàn toàn. Guatêmôc lại tới thăm tôi, báo tin vua Cuitlahua muốn giao cho tôi và chàng một việc rất quan trọng, đòi hỏi phải hết sức bí mật. Vừa biết được việc ấy là gì, tôi hiểu ngay rằng các thủ lĩnh Aztec rất tin tôi, vì đây là vấn đề liên quan đến số vàng bạc châu báu cướp lại được của quân Tây Ban Nha trong Đêm buồn và rất nhiều của cải khác lấy từ các kho bí mật của Môntêzuma. Tôi và Guatêmôc được giao nhiệm vụ cất giấu an toàn số tài sản đó.
Vừa chập tối, Guatêmôc, tôi và một số nhà quý tộc Aztec khác liền đi tới bến, nơi có mười chiếc thuyền lớn chở một thứ hàng gì đó được đắp các tấm vải bóng che kín đang đợi sẵn. Tất cả chúng tôi gồm ba mươi người, do Guatêmôc chỉ huy. Hy vọng không bị ai nhìn thấy, chúng tôi xuống thuyền, ba người ngồi một thuyền, và hơn hai giờ liền chèo qua mặt hồ Texcôcô, cho tới khi cập bến bờ hồ đối diện, nơi bắt đầu những vùng đất rộng lớn của Guatêmôc. Chúng tôi bước lên bờ và cởi bỏ các tấm vải che thứ hàng bí mật kia.
Trên thuyền là những chiếc hũ to bằng đất sét, những chiếc túi lớn đựng đầy vàng, đá quý và các đồ trang sức, ngoài ra còn có các đồ vật quý giá, trong đó có chiếc đầu của Môntêzuma được đúc bằng vàng khối, nặng đến mức phải vất vả lắm tôi và Guatêmôc mới bê nổi. Còn hũ sành thì, - theo tôi nhớ, tất cả có mười bảy chiếc, - mỗi chiếc phải sáu người khiêng một cách nặng nhọc, trên những chiếc cáng làm tạm bằng các mái chèo.
Số tài sản quý giá ấy được chúng tôi đưa từ từ lên đỉnh một ngọn đồi cách hồ khoảng vài trăm mét, và đặt ở cửa ra vào một chiếc hang sâu dựng đứng. Khi trên thuyền không còn gì nữa, Guatêmôc khẽ chạm vào vai tôi và một người Aztec quý tộc khác có mẹ là người Tlatxcalan. Chàng hỏi chúng tôi có muốn cùng chàng xuống hang giúp xếp số của cải này không.
- Sẵn sàng! - Tôi đáp ngay vì muốn được nhìn thấy lòng hang. Còn người Aztec kia thì tỏ ý do dự, và chỉ sau một lúc đấu tranh nội tâm, ông ta mới đồng ý.  
Guatêmôc cầm đuốc và được thòng dây thả xuống. Sau đó đến lượt tôi. Như con nhện treo trên mạng nhện, tôi treo trên dây thừng và từ từ được dòng xuống mỗi lúc một thấp hơn: hóa ra chiếc hang này rất sâu. Cuối cùng tôi xuống tới đáy hang và đứng cạnh Guatêmôc. Dưới ánh sáng bó đuốc chàng đang cầm trong tay, tôi nhìn thấy một đường gờ được xây bằng gạch dọc theo các bức tường cao bằng chiều cao con người. Trên thành gờ có một phiến đá lớn để tựa vào tường, trên đó có khắc những dòng chữ tượng hình Aztec mà bây giờ tôi đọc hiểu không khó lắm. Những dòng chữ ấy nói rằng vào năm trị vì đầu tiên của Cuitlahua, Đức vua Anahuac, ở hang này có chôn cất tất cả của cải đất nước. Tiếp theo là những lời nguyền rủa rùng rợn cho kẻ nào dám xâm phạm tới nó. Phía sau chúng tôi, ở góc phải là một đường hầm dài khoảng sáu mươi bước và khá cao, có thể đi lại qua đó mà không cần cúi lưng. Cuối đường hầm ấy là một cái hang lớn chỉ bằng căn phòng tôi đang ngồi viết hôm nay. Ngay trước cửa hang này có sẵn vôi vữa và các phiến đá đục nhẵn, làm tôi nhớ tới tầng ngầm một tu viện ở thành Xêvin, nơi Ixaben đơ Xiguenxa bị chôn sống.
- Ai đã đào cái hang này? - Tôi hỏi.
- Tôi không biết, - Guatêmôc đáp. - À, ông bạn thứ ba của chúng ta đây rồi! Teule, tôi yêu cầu anh đừng ngạc nhiên và nhớ rằng tôi có làm gì, thì nghĩa là tôi có lý do để làm điều ấy...
Trước khi tôi kịp hỏi lại, người Aztec kia đã xuống đứng cạnh chúng tôi. Sau đó những người ở phía trên bắt đầu dòng xuống các lọ sành và các túi lớn. Guatêmôc cởi nút thắt dây thừng, còn tôi và ông kia thì lăn từng chiếc hũ vào hang nhỏ như ở nước Anh chúng ta vẫn lăn các thùng đựng bia. Cứ thế chúng tôi làm việc hơn hai giờ liền cho đến khi cất giấu xong toàn bộ kho báu. Chiếc bao tải cuối cùng tuột đứt khi được dòng xuống dưới, và thế là cả một trận mưa vàng bạc và đá quý rơi trên đầu chúng tôi. Một chiếc dây chuyền được làm bằng những viên ngọc bích cực lớn rơi xuống và mắc vào vai tôi.
- Cầm lấy người anh em, để kỷ niệm cái đêm này! - Guatêmôc phá lên cười, còn tôi thì sung sướng giấu món quà vô giá ấy vào ngực. Chuỗi vòng ấy đến nay tôi vẫn còn giữ được. Chính từ nó, tôi đã gỡ viên bé nhất tặng nữ hoàng Êlizabet đáng kính của chúng ta. Trong suốt nhiều năm liền, Ôtômi đã đeo chiếc dây chuyền ấy, nên tôi muốn lúc chết người ta chôn tôi cạnh nó. Các nhà chuyên môn nói rằng không ai đủ tiền để mua nó, nhưng điều này không liên quan gì tới tôi! Dù quý và đắt đến đâu, nó cũng sẽ được chôn trong mộ tôi ở nghĩa trang Đichchingham, và tôi nguyền rủa kẻ nào dám tước của xác chết vật kỷ niệm ấy! Cầu mong hắn cũng bị đe dọa bởi các lời nguyền rủa được khắc trên tảng đá đang che kín dưới mình cả kho báu của người Aztec.
Xong việc, chúng tôi đi ra khỏi hang và bắt đầu lấy đá xây kín miệng hang lại. Khi tường xây cao gần một mét, Guatêmôc đứng thẳng lưng, yêu cầu tôi giơ cao bó đuốc. Tôi làm theo, nghĩ chàng còn muốn nhìn cái gì đó. Guatêmôc lùi lại ba bước về phía đường hầm rồi gọi người Aztec kia lại.
- Ông có biết những người phản bội sẽ bị trừng trị thế nào không? - Guatêmôc hỏi và tháo khỏi thắt lưng chiếc gậy có đính những mảnh ôpxilian rất sắc. Giọng chàng vang lên bình tĩnh, chính vì thế, nghe lại càng dễ sợ.
Tôi nhìn thấy ông kia tái mặt, mặc dù da ông ta ngăm ngăm đen, và run lên vì sợ.
- Hoàng thân nói thế nghĩa là gì ạ?
- Chính ông biết rõ điều ấy, - Guatêmôc đáp cũng bằng cái giọng bình tĩnh đáng sợ kia, rồi chàng giơ chiếc gậy. Ông kia liền quỳ xuống van xin tha chết. Tiếng kêu van của ông ta nghe thật rùng rợn ở lòng sâu chiếc hang vắng vẻ, và vì sợ, tôi suýt để rơi bó đuốc.
- Ta có thể tha chết cho quân thù, nhưng với những kẻ phản bội thì không, - Guatêmôc đáp, rồi vung tay đánh một nhát, ông kia chết ngay. Sau đó, bằng đôi tay khỏe mạnh của mình, chàng nhấc xác chết lên, ném vào chiếc hang nhỏ đang chôn cất vàng bạc. Cho đến bây giờ ông ta vẫn nằm ở đấy, như một người canh giữ đáng sợ đang xoải hai tay như muốn kéo về phía mình hai hũ vàng lớn.
Tôi lướt nhìn Guatêmôc, thầm nghĩ bây giờ có lẽ đến lượt tôi. Khi các bậc vua chúa cất giấu của cải của mình, họ thường thủ tiêu các nhân chứng thừa, - tôi biết rõ điều này. Nhưng Guatêmôc nói:
- Đừng sợ, người anh em ạ. Hắn là một kẻ phản bội, tên hèn nhát và thằng ăn trộm. Chúng tôi biết đã hai lần hắn định bán chúng tôi cho bọn Teule. Hơn thế, hắn còn muốn biết nơi chôn cất kho báu này để khi kẻ thù quay lại, hắn báo cho chúng để cùng chia những gì cướp được. Chúng tôi biết được tất cả những điều này nhờ một người phụ nữ mà hắn cho là tình nhân nhưng thật ra là người do chúng tôi đặt bẫy để khám phá các ý nghĩ bí mật trong tâm hồn đen tối của hắn. Và thế là bây giờ hắn đã nhận được phần của hắn trong cái kho báu này! Anh hãy nhìn điệu bộ hắn kìa! Thậm chí cả người da trắng cũng không bám chắc vào vàng như hắn. Vâng, nếu mảnh đất Anahuac này không mang lại gì hơn ngoài ngô để làm thức ăn, đồng và thủy tinh để làm mũi tên, thì chắc chẳng có ai đến đây quấy phá chúng tôi. Quỷ tha ma bắt các kho báu này đi! Chính vì nó mà đàn cá mập ngoại bang muốn cắn cổ chúng tôi. Quỷ tha ma bắt cả chúng nữa! Mong sao tất cả cái kho báu này sẽ biến đi mãi mãi và chẳng bao giờ còn long lanh dưới ánh mặt trời.
Rồi Guatêmôc lại tiếp tục làm việc một cách hăng hái để nhanh chóng bịt kín cửa hang.
Một lúc sau, bức tường đã xây gần xong. Chỉ việc xây nốt mấy hòn đá hình vuông giống những viên gạch ở Nôphôc chúng ta vẫn dùng để xây kho chứa hay các căn nhà nông dân. Tôi thò đuốc vào lỗ hổng, lần cuối cùng nhìn lại chiếc hang bây giờ là chỗ cất giấu kho báu và đồng thời cũng là ngôi mộ chôn một người đã chết. Vàng bạc và đá quý để ngổn ngang trong hang, lấp lánh dưới ánh lửa. Trên một trong những chiếc hũ sành là chiếc đầu bằng vàng của vua Môntêzuma với đôi mắt là hai viên ngọc bích lớn. Hình như đôi mắt ấy đang nhìn thẳng vào tôi. Còn phía dưới là tên phản bội đã bị giết nằm tựa lưng vào chiếc hũ ấy, giơ tay định ôm hai chiếc hũ khác. Tôi có cảm giác như hắn chưa chết, có thể vì tôi chợt thấy đôi mắt hắn đang mở và nhìn tôi như đôi mắt bằng ngọc bích của Môntêzuma, có điều cái nhìn của hắn còn đáng sợ hơn nhiều.
Tôi vội vàng rút bó đuốc ra khỏi lỗ hổng, và chúng tôi lặng lẽ làm nốt công việc. Khi tất cả xong xuôi, chúng tôi đi theo đường hầm ra ngoài, và tôi thở phào nhẹ nhõm khi lại nhìn thấy ở cao trên đầu là các vì sao nhấp nhánh.
Cột hai vòng dây thừng vào tay, chúng tôi ra hiệu và rồi được kéo lên đứng trên một phiến đá cẩm thạch màu đen khổng lồ từ nay sẽ là cánh cửa che kín kho báu của vua Môntêzuma.
Phiến đá nặng không chịu nhúc nhích, chúng tôi tìm mọi cách xê dịch cho đến khi nó rơi thẳng xuống miệng hang đã được xây sẵn từ trước có viền xung quanh bằng gạch. Từ nay muốn vào hang chỉ còn cách phá tung tảng đá khổng lồ này thành nhiều mảnh.
Dây thừng lại tiếp tục dòng xuống, và một lát sau, chúng tôi đã lên tới mặt đất an toàn.
Có người nào đó hỏi về người Aztec đã theo chúng tôi xuống hang bây giờ không quay lại.
- Đó là một người rất đáng kính và trung thành, ông ta tình nguyện ở lại canh giữ kho báu cho vua, - Guatêmôc ảm đạm đáp.
Không cần giải thích gì thêm, mọi người cúi đầu ra ý hiểu. Sau đó chúng tôi bắt đầu lấp miệng hang hẹp bằng đất có sẵn bên cạnh. Chúng tôi làm việc liên tục không nghỉ và đã kết thúc trước khi trời rạng sáng. Khi cửa hang chẳng còn lại dấu vết gì, một người Aztec lấy hạt giống từ chiếc túi gieo lên mặt đất xốp. Sau đó ông ta còn trồng lên trên hai cây nhỏ mang theo từ trước, có lẽ để đánh dấu vị trí kho báu. Cuối cùng, thu dọn xong dây thừng và cuốc xẻng, tất cả lại ngồi vào thuyền, trở về Tênôctitlan. Để thuyền ở bến, chúng tôi đi vào thành, từng người hay hai người một, hy vọng sẽ không ai nhìn thấy.
Tôi tham gia chôn cất kho báu của vua Môntêzuma như thế đấy; vì việc này, về sau tôi đã bị tra tấn dã man. Bây giờ khó ai có thể tìm thấy nó! Đến lúc tôi rời Anahuac trở về nước Anh vẫn chưa ai tìm được dấu vết kho báu ấy. - Tôi nghĩ trong số những người tham gia chôn giấu hiện nay chỉ còn mình tôi sống sót. Tôi đã nhìn lại chỗ ấy lần cuối cùng trước khi theo những tên lính Tây Ban Nha đi vào thành Mêhicô. Hai cây non năm nào bây giờ đã cao to sum sê. Tôi nhận ra chúng và tự thề nhất định không để quân Tây Ban Nha chiếm được kho báu đang bị chôn dưới ấy. Cả lúc này tôi cũng không muốn miêu tả chính xác chỗ đó, vì sợ những dòng này có thể rơi vào tay ai đó trong bọn người Tây Ban Nha tham lam. Còn bây giờ, trước khi kể về cuộc vây hãm thành Tênôctitlan tôi phải kể qua về việc tôi và vợ tôi là Ôtômi đi tới bộ lạc Ôtômi và đã thuyết phục được nhiều người trong số họ trở thành đồng minh của người Aztec.
Nếu ở những phần trước chưa kịp nói, thì có lẽ tôi phải nói thêm rằng vương quốc Anahuac bao gồm nhiều dân tộc và bộ lạc khác nhau. Một số phụ thuộc trực tiếp vào người Aztec, số khác là đồng minh, số còn lại là kẻ thù! Thí dụ ở vào số cuối cùng này là bộ lạc Tlatxcalan mà Côrtex đã lôi kéo làm tay sai và cuối cùng đánh thắng Môntêzuma và Guatêmôc. Đó là một bộ lạc ít người nhưng hiếu chiến, sống ở vùng đất giữa Tênôctitlan và bờ biển. Phía tây bộ lạc Tlatxcalan, ở sâu trong núi, đã hoặc có thể hiện giờ đang sinh sống một dân tộc đông người gọi là Ôtômi, được chia thành nhiều bộ lạc nhỏ. Người Ôtômi miền núi dũng cảm hơn người Aztec và khác họ về ngôn ngữ và nguồn gốc. Có lúc họ là một bộ phận của vương quốc Aztec hùng mạnh, có lúc chỉ là đồng minh với nhau, nhưng không ít khi họ đứng về phía người Tlatxcalan công khai chống lại Anahuac. Nói chung, đối với người Anahuac, người Ôtômi cũng gần giống như người Xcôtlen đối với người Anh chúng ta.
Để củng cố mối quan hệ thân thiện giữa người Aztec và người Ôtômi, Môntêzuma đã cưới làm vợ người con gái thừa kế hợp pháp duy nhất của vua Ôtômi. Bà này chết trong khi sinh nở, và con gái bà, Ôtômi, là công chúa thừa kế của dân tộc Ôtômi, đã thành vợ tôi như ta biết. Mặc dù có địa vị lớn như vậy đối với đồng bào mình, từ trước tới nay Ôtômi mới về thăm quê hương hai lần, mà lại vào khi còn nhỏ. Tuy nhiên, nàng biết thành thạo tiếng và phong tục dân tộc nàng, nhờ sự dạy dỗ của các vú nuôi và các thầy học người Ôtômi. Ôtômi đã nhận được một số tiền hồi môn rất lớn và có quyền lực đáng kể đối với người Ôtômi.
Như đã nói, một vài bộ lạc Ôtômi nhỏ đã cùng người Tlatxcalan đứng về phe Tây Ban Nha tham gia chiến tranh. Vì vậy hội đồng Anahuac quyết định cử Ôtômi và tôi tới thành Xôxen, lúc ấy là thủ đô của tất cả các bộ lạc Ôtômi. Chúng tôi được giao một nhiệm vụ quan trọng là lôi kéo những người Ôtômi kia về với Anahuac.
Theo phong tục, các người đưa tin đi trước, sau đó mới đến lượt chúng tôi lên đường. Đối với chúng tôi, cuộc hành trình này có thể kết thúc nhiều cách khó lường trước nổi. Chúng tôi đi thành một đoàn đông và khá ồn ĩ. Càng ngày đoàn hộ tống danh dự càng đông hơn, vì nghe tin nàng công chúa của mình cùng với chồng là một Teule đã thành người Aztec đang tới gần, từng đám đông người Ôtômi vội vàng tìm tới xin đi cùng. Cuối cùng, khi bước sang ngày thứ tám, chúng tôi đã tới thành Xôxen. Theo sau chúng tôi cùng với tiếng nhạc man dại là cả một đoàn quân ít ra cũng đến mười nghìn người lực lưỡng và dữ tợn. Tuy nhiên, suốt dọc đường đi, Ôtômi không nói chuyện lần nào với các chiến binh cũng như các thủ lĩnh của họ, mà chỉ hạn chế bằng những lời chào hỏi bình thường, mặc dù mỗi buổi sáng, khi lên đường, - tôi cưỡi con ngựa cướp được của quân Tây Ban Nha, còn vợ tôi thì ngồi trên kiệu, những người Ôtômi đi theo lại kêu to chào đón, gây nên một sự ồn ĩ kinh khủng.
Càng đi, tôi thấy đất nước và con người Ôtômi càng có vẻ hoang dã và xinh đẹp. Bây giờ chúng tôi đang đi qua những rừng thông cao, thi thoảng mới gặp một rừng sồi nhỏ, qua các bãi rộng mọc đầy những bụi cây thấp rất đẹp. Thỉnh thoảng chúng tôi lại phải vượt các dòng sông miền núi đầy nước, hay lách qua các khe núi đá, mỗi lúc một đi lên cao hơn.
Cuối cùng, sang ngày thứ tám chúng tôi đi sâu vào khe núi hai bên có những vách đá màu đỏ. Khe núi kéo dài gần một dặm, có chỗ hẹp vừa đủ cho ba người cưỡi ngựa đi qua. Các vách núi dựng đứng hai bên cao tới gần sáu trăm mét. Đó là con đường duy nhất dẫn tới thành Xôxen, nếu không kể một vài đường hẻm nhỏ bí mật xuyên qua núi.
- Hãy nhìn kìa, - tôi nói với Ôtômi, - ở đây có một tốp người có thể chặn chân cả một đoàn quân lớn!
Lúc ấy nói thế, tôi không hề nghĩ sau này chính tôi đã phải làm điều ấy. Cuối cùng hẻm núi rẽ ngang, và tôi ngạc nhiên dừng ngựa: trước mặt tôi là thành Xôxen đang trải ra với tất cả sự lộng lẫy của mình. Nó nằm ở giữa một thung lũng hình tròn, đường kính khoảng mười hai dặm, có núi bao bọc xung quanh, trên sườn núi là các rừng sồi và rừng tùng linh. Chỉ một đỉnh núi phía sau thành phố, chính giữa cái vòng bao quanh ấy là không phủ cây xanh, mà được phủ một lớp nham thạch màu đen do núi lửa phun ra. Trên đỉnh phủ tuyết của nó luôn có một cột khói lớn, ban đêm được chiếu sáng bằng những ngọn lửa đang sôi sục. Đó là núi lửa Haca, hay còn gọi là Hoàng hậu. Nó không cao như các núi lửa Ôrixaba, Pôpôcatêpêcli và Ixatacxinacli, nhưng tôi thấy nó hơn hẳn về hình thức và vẻ đẹp của ngọn lửa lúc màu xanh, lúc đỏ rực đang phun ra đêm đêm. Các bộ lạc Ôtômi thờ cúng ngọn núi lửa này như thờ cúng một vị thần, và cũng giết người tế nó. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, vì có lần nham thạch phun ra đã chảy thành một đường xuyên qua thành phố. Họ cho rằng trên đỉnh núi thiêng ấy có các thần đang sống, và vì thế không ai dám đặt chân tới. Thế mà sau này tôi đã phải làm điều ấy, tôi và một người nữa.
ƠŒ chính giữa vòng núi bao quanh, ngay dưới chân ngọn núi lửa Haca hùng vĩ với đỉnh núi phủ tuyết và cột khói vĩnh cửu là thành Xôxen. Chính xác hơn là có thời thành phố Xôxen từng tồn tại ở đó, và khi tôi ra đi, nó chỉ còn là một đống gạch vụn. Nó từng là một thành phố thực sự, tuy không lớn như các thành phố Anahuac khác mà tôi được nhìn thấy. Nó chỉ có khoảng ba mươi lăm nghìn dân, vì người Ôtômi miền núi không thích sống chật chội trong các phố. Dù không lớn, nhưng nó đẹp hơn tất cả các thành phố khác của người da đỏ. Các đường phố thẳng dẫn về quảng trường trung tâm. Ngập trong cây xanh, hai bên phố là các ngôi nhà được xây bằng nham thạch có mái quét vôi trắng. Chính giữa quảng trường là chiếc kim tự tháp thiêng liêng cùng các đền thờ được trang điểm bằng nhiều dãy dài sọ người. Phía đối diện là lâu đài của tổ tiên người Ôtômi. Đó là một ngôi nhà dài, thấp và rất cổ, có vô số các ô sân nhỏ và những bức tường chạm trổ đủ loại hình rắn và thần. Chiếc kim tự tháp và lâu đài được ốp ngoài bằng những tảng đá trắng lấp lánh dưới mặt trời, làm chúng nổi bật trên nền sẫm của các ngôi nhà khác được xây bằng nham thạch.
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy thành Xôxen như thế. Lần cuối cùng nhìn nó, tôi chỉ thấy một đống đổ vụn đang bốc khói: bây giờ những đống đổ vụn ấy chỉ là chỗ trú cho bầy dơi và cáo...
Vượt ra khỏi khe núi, chúng tôi còn đi thêm gần một dặm nữa theo thung lũng, nơi mỗi tấc đất đều được trồng ngô và các loại cây khác. Cuối cùng, chúng tôi đến trước một trong bốn cổng thành. Đi trên phố, tôi thấy các mái nhà hai bên đầy trẻ con và phụ nữ. Họ ném hoa xuống chân chúng tôi và kêu to:
- Chào công chúa Ôtômi! Chào công chúa Ôtômi!
Cuối cùng chúng tôi tới quảng trường trung tâm. Tôi có cảm giác như tất cả đàn ông Ôtômi đang tụ tập tại đây. Mọi người chào đón Ôtômi bằng những tiếng kêu vui mừng rất to, tưởng có thể làm rung núi đá. Người ta cũng chào đón tôi bằng cách chạm tay phải xuống đất sau đó đưa lên trán, nhưng tôi cho rằng cái danh dự ấy không dành riêng cho tôi, mà cho con ngựa của tôi nhiều hơn. Hầu như chưa người Ôtômi nào được nhìn con ngựa mà họ cho là quỷ sứ hay một loại quái vật nào đó.
Cứ thế, chúng tôi đi qua các đám đông hàng nghìn chiến binh bao quanh đang luôn miệng kêu thét. Những người trong số họ mặc những bộ quần áo lông chim lấp lánh và mang cờ hiệu chiến đấu. Các chiến binh dọn đường và theo chúng tôi cho đến khi đoàn người đi hết quảng trường, đến trước kim tự tháp, nơi các quan tư tế vừa làm lễ tế thần đẫm máu xong. Chúng tôi bước vào lâu đài. Chỉ ở đây, trong một căn phòng lạ lùng trên tường có chạm trổ các hình quỷ sứ đang cười, cuối cùng chúng tôi mới được nghỉ ngơi.
Hôm sau, trong phòng lớn của lâu đài đã diễn ra cuộc họp hội đồng thủ lĩnh và tù trưởng các bộ lạc, với hơn một trăm người tham dự. Khi mọi người tập hợp đông đủ, tôi xuất hiện trước họ trong bộ quần áo một nhà quý tộc Aztec thuộc dòng dõi cao quý nhất. Ôtômi cùng đi theo tôi. Trong bộ quần áo công chúa của mình, hôm ấy trông nàng hết sức xinh đẹp.
Các thành viên hội đồng đứng dậy chào chúng tôi, Ôtômi yêu cầu tất cả ngồi xuống và nói:
- Xin hãy lắng nghe tôi, hỡi các thủ lĩnh và các nhà chỉ huy quân sự của dân tộc mẹ tôi! Đang nói với các ông là tôi, công chúa Ôtômi theo quyền bẩm sinh, đại diện cuối cùng dòng họ các Đức vua Ôtômi vĩ đại, con gái của Môntêzuma, vua Anahuac, hiện nay đã chết nhưng sẽ sống muôn đời trong Ngôi nhà Mặt trời. Đây là chồng tôi, một Teule! Tôi được trao làm vợ chàng khi chàng thành thần Têcatlipôca, và sau đó làm lễ cưới theo đúng phong tục trần gian của chúng ta, khi chàng thoát chết bước từ bàn thờ xuống, gia nhập dân tộc chúng tôi để giúp chúng tôi chống lại quân thù. Đó là ý nguyện của trời và của những người thân thích trong hoàng tộc. Thưa các thủ lĩnh và những người cầm đầu quân sự, chàng không phải là người Aztec, nhưng cũng không hoàn toàn là người Teule mà chúng tôi đang thù ghét. Chàng là một trong những người con chân chính của thần Kêxancôatli đang sống ở bờ biển phía bắc. Con cái của thần Kêxancôatli là kẻ thù của bọn người Teule, vì vậy chồng tôi cũng căm thù chúng. Chắc các ông nghe nói chàng là người đầu tiên biết tin về cuộc chạy trốn của bọn Teule, và là chiến binh nổi tiếng nhất trong đêm trả thù ấy.
Thưa các thủ lĩnh và những người cầm đầu quân sự của dân tộc Ôtômi lâu đời và vĩ đại! Tôi, công chúa của các ông tới đây cùng chồng tôi theo lệnh Cuitlahua, vua của chúng tôi và của các ông. Ngài yêu cầu tôi bàn với các ông một chuyện quan trọng. Ngài nghe nói, - cả tôi cũng xấu hổ khi nghe nói thế, - rằng nhiều chiến binh của dân tộc chúng ta đã về hùa với người Tlatxcalan để thành đồng minh nhục nhã với bọn Teule, kẻ thù của người Aztec. Hiện nay, bọn người da trắng ấy bị đánh tan và xua khỏi đây, nhưng chúng đã kịp ngửi thấy mùi của vàng, và vì vậy chúng sẽ còn quay lại, như bầy ong quay lại với bông hoa chưa kịp hút hết mật. Tự bản thân mình, bọn Teule sẽ không bao giờ chiếm được thành Tênôctitlan vững mạnh. Nhưng sẽ thế nào nếu hàng nghìn, hàng chục nghìn chiến binh của ta giúp chúng? Tôi biết trong buổi loạn lạc này, khi đất nước lâm nguy, khi trời đất đầy những điềm dữ và khi các thần tỏ ra bất lực, nhiều người muốn lợi dụng hoàn cảnh đó để kiếm lợi cho mình. Nhiều người và nhiều bộ lạc bỗng nhớ lại các hận thù xưa và bắt đầu kêu lên: “Đã đến giờ báo thù! Bây giờ là lúc ta sẽ bắt người Aztec đền lại tất cả những gì ta để mất, - nước mắt của những người đàn bà góa chồng, các tù binh bị giết để tế thần, sưu thuế và cống vật mà người nghèo phải nộp!"...
Không đúng thế ư? Đúng thế, tôi biết và không hề ngạc nhiên. Nhưng tôi yêu cầu các ông nghĩ về một điều khác. Nếu các ông giúp bọn Teule mang gông vào cổ Tênôctitlan, vua của tất cả các thành phố, thì chiếc gông đó cũng sẽ nằm trên cổ các ông. Thật điên rồ! Không lẽ các ông nghĩ nếu phá huỷ được Tênôctitlan và tiêu diệt hết người Aztec, chúng sẽ thương mà cho các ông yên? Không, không bao giờ! Tôi có thể nói chắc với các ông điều ấy. Chúng sẽ bẻ dần từng chiếc một những mũi tên mà các bộ lạc thù địch ngắm vào ngực Tênôctitlan, rồi đốt cháy trong ngọn lửa của chúng. Nếu dân tộc Aztec bị tiêu diệt, tất cả các bộ lạc khác trên mảnh đất của chúng ta sớm hay muộn sẽ bị tiêu diệt theo. Người Anahuac sẽ bị giết chết, các thành phố sẽ bị san bằng, của cải bị cướp bóc, con cháu họ sẽ phải ăn bánh mì nô lệ và uống nước nhục hèn. Hãy chọn đi, hỡi dân tộc Ôtômi! Các ông sẽ ủng hộ ai:  kẻ tình địch cũ của mình nhưng là người cùng dòng máu và phong tục, hay những kẻ ngoại bang đáng nguyền rủa? Hãy chọn đi và hãy nhớ rằng số phận toàn bộ đất đai của chúng ta phụ thuộc vào sự lựa chọn của các ông và của các bộ lạc khác. Tôi là công chúa của các ông, các ông phải nghe theo lời tôi, tuy nhiên hôm nay tôi không muốn ra lệnh. Tôi cho các ông quyền được lựa chọn giữa một bên là liên minh với người Aztec và bên kia là làm nô lệ cho bọn Teule. Hãy chọn đi, cứ để thần của các vị thần giúp các ông lựa chọn đúng đắn.
Ôtômi ngừng lời. Tiếng thì thầm tán thưởng nổi lên khắp phòng. Tiếc là tôi bất lực không miêu tả hết sự hào hứng, sôi nổi của những lời nàng nói, và bằng cách ấy không chỉ rõ sự cao thượng và vẻ đẹp của nàng. Tôi chỉ muốn nói một điều rằng: lời nàng đã đến được với trái tim khắc khổ của các thủ lĩnh. Nhiều người trong họ đã từng khinh bỉ người Aztec, xem họ hèn yếu như đàn bà, là những người thích buôn bán, chỉ biết náu mình bên các hồ yên tĩnh; nhiều người suốt nhiều thế hệ luôn tìm cách thanh toán nợ máu với họ, nhưng bây giờ tất cả hiểu công chúa Ôtômi nói đúng. Nếu bọn Teule chiếm được Tênôctitlan nghĩa là chúng sẽ chiếm được tất cả các thành phố khác của Anahuac. Và biết rõ điều ấy, họ đã lựa chọn ngay mà không cần do dự, tuy sau này, khi gặp thất bại, nhiều người đã không giữ đúng lời hứa. Tuy nhiên, đó cũng là chuyện thường tình của người đời.
- Ôtômi! - Người truyền lệnh của hội đồng kêu to khi mọi người phát biểu xong ý kiến của mình.
- Ôtômi, chúng tôi đã lựa chọn! Lời lẽ của công chúa đã thuyết phục được chúng tôi. Chúng tôi quyết định đứng về phía những người Aztec để chống lại bọn Teule và sẽ chiến đấu đến người cuối cùng vì tự do của dân tộc chúng tôi!
- Bây giờ tôi thấy các ông đúng là thần dân của tôi, và tôi là công chúa người cầm đầu các ông, - Ôtômi đáp. - Các thủ lĩnh vĩ đại ngày xưa, tổ tiên tôi và tổ tiên các ông chắc cũng khuyên các ông như thế. Đó là những lời hôm nay tôi muốn nói với các ông! Hỡi những người anh em của tôi, hỡi dân chúng Ôtômi, tôi tin các ông sẽ không bao giờ phải hối hận vì sự lựa chọn này!
Thế là từ thành Xôxen quay về, chúng tôi đã mang theo được lời hứa: chỉ cần lên tiếng gọi, lập tức sẽ có một đội quân hai mươi nghìn chiến binh tới giúp Cuitlahua, và sẽ chiến đấu đến cùng để chống lại bọn Tây Ban Nha xâm lược!
XXVI
GUATÊMÔC LÀM VUA
Thuyết phục xong dân tộc Ôtômi, chúng tôi lên đường quay lại và đã an toàn về tới Tênôctitlan. Chỉ mất một tháng để làm xong việc này, tuy nhiên, khoảng thời gian ngắn ngủi ấy cũng đủ để kịp có thêm một tai họa mới đổ lên đầu thành phố đau buồn này của chúng tôi. Nếu trước đó các thanh kiếm của người da trắng gieo rắc cái chết ở đây, thì bây giờ chính bản thân thần chết đã tới. Người Tây Ban Nha mang từ châu Âu sang một thứ bệnh khủng khiếp từ trước tới nay chưa hề thấy: bệnh đậu mùa đang hoành hành khắp Anahuac!
Mỗi ngày có hàng nghìn người chết. Không biết đó là bệnh gì, người da đỏ chữa nó bằng cách đổ nước lạnh lên người bệnh nhân, nhưng làm thế chỉ giúp căn bệnh đột nhập vào các cơ quan quan trọng bên trong và sang ngày thứ hai hầu như tất cả những người bị bệnh đều chết. Thật kinh khủng khi nhìn các bệnh nhân phát điên lên vì đau đớn, đang đi lại vật vờ trên phố và truyền bệnh hết người này đến người khác. Nhà nào cũng có người chết. Hàng trăm xác chết nằm chất đống giữa chợ chờ được đem đi chôn. Thậm chí trong các đền thờ, các quan tư tế cũng ngã gục trước bàn thờ trong khi giết trẻ em để cầu xin các thần tha tội. Nhưng điều kinh khủng nhất là việc chính vua Cuitlahua cũng mắc bệnh. Khi chúng tôi về, ông đang hấp hối, nhưng nghe tin, liền cho gọi chúng tôi tới. Tôi van nài Ôtômi đừng đi, nhưng nàng không nghe.
- Chồng của em nói thế nghĩa là gì? - Nàng vừa cười vừa kêu lên.- Lẽ nào em phải sợ những điều anh không sợ! Ta cùng đến báo kết quả chuyến đi. Nếu em bị bệnh và chết thì nghĩa là số em phải chết.
Và thế là chúng tôi cùng đi.
Chúng tôi được dẫn vào căn phòng, nơi Cuitlahua đang nằm, trên người che tấm vải liệm như đã chết. Các bát vàng đựng hương đang bốc khói xung quanh ông. Khi chúng tôi bước vào, người bệnh đang mê man, nhưng một lúc sau đã tỉnh và được báo về sự có mặt của chúng tôi.
- Chào cháu, - Cuitlahua thều thào nói. - Cháu thấy đấy, tình hình thật bi thảm. Ta chẳng còn sống mấy ngày nữa. Căn bệnh này của bọn Teule sẽ giết nốt những người mà thanh kiếm của chúng còn để sót. Chẳng bao lâu một người khác sẽ thay thế ta như ta đã thay thế cha cháu, nhưng ta không lấy thế làm tiếc, vì người ấy sẽ phải bảo vệ sự vinh quang và chịu đựng toàn bộ gánh nặng cuộc chiến đấu cuối cùng của người Aztec. Cháu nói đi, đừng để mất thời gian vô ích. Người Ôtômi của cháu đã đáp lại thế nào?
- Thưa chú,- vẫn không ngẩng đầu, Ôtômi khiêm tốn đáp. - Cầu mong chú vượt qua được cơn bệnh này để trị vì đất nước Anahuac mãi mãi! Cháu và chồng cháu đã kéo được về phe chúng ta phần lớn các bộ lạc Ôtômi. Một đội quân hai mươi nghìn người đang chờ lệnh chú, và nếu họ hy sinh, sẽ có người khác lên thay.
- Đó là một tin mừng mà cháu, con gái của Môntêzuma và ngươi, một người da trắng đã mang lại cho ta! - Ông vua đang hấp hối lại nói. - Các vị thần thông minh đã không tiếp nhận ngươi như vật tế khi ngươi nằm trên bàn thờ, còn ta là một thằng ngốc vì có lúc đã muốn giết ngươi, Teule. Ta muốn nói với tất cả mọi người là hãy dũng cảm, và nếu phải chết hãy chết trong danh dự. Trận đánh đang đến gần... nhưng ta chẳng còn được tham dự nữa... Ai biết trước nó sẽ kết thúc thế nào?...
Cuitlahua im lặng một lát rồi bỗng nhiên ngồi dậy, hất bỏ tấm vải che người và lại lên tiếng nói, như thể đột nhiên được thánh thần ban cho cái khả năng ấy. Căn bệnh đã hủy hoại cơ thể ông, trông thật đáng sợ.
- Than ôi, ta đã nhìn thấy các đường phố của Tênôctitlan đang chìm trong lửa và máu! - Cuitlahua rền rỉ. Ta nhìn thấy ngựa của quân Teule giẫm lên xác hàng trăm chiến binh! Ta thấy linh hồn dân tộc ta đang đeo gông trên cổ với tiếng khóc thảm thiết. Con cháu đang bị trừng phạt vì các tội lỗi của cha ông. Dân tộc mà ta chăm lo, nuôi dưỡng như đại bàng chăm lo những đứa con của mình, đang sắp bị tiêu diệt. Trái đất đang quay cuồng dưới chân những người Aztec, và họ sẽ rơi vào chốn vô cùng vô tận vì các điều ác chúng ta gây ra, còn những người sống sót sẽ phải thành nô lệ hết đời này đến đời khác, cho đến khi sự báo thù xuất hiện!
Nói xong những lời này, Cuitlahua ngã xuống đống gối, và trước khi ông thầy thuốc có nhiệm vụ chăm sóc hoảng sợ chạy tới nâng đầu ông, thì ông vua của đất nước Anahuac đã chết, thoát khỏi mọi đau đớn nơi trần tục. Nhưng những lời cuối cùng ấy của ông đã đến được và nằm sâu trong trái tim những người đã nghe chúng. Nhưng số người ấy không nhiều, - ngoài chúng tôi còn một người nữa, là Guatêmôc.
Thế là tôi và Ôtômi đã được tận mắt chứng kiến cái chết của Cuitlahua, ông vua trị vì đất nước Anahuac trong vòng bốn tháng Từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 10-1520.). Lại một lần nữa dân chúng khóc tiễn ông vua của mình, người bố tinh thần của hàng nghìn vạn người, ông vua đã bị bệnh đậu mùa được đưa lên Ngôi nhà Mặt trời, và có thể còn tới cả khoảng không bao la đen sẫm phía sau các vì sao.
Nhưng tang lễ không kéo dài lâu, thời gian không chờ đợi. Phải nhanh chóng chọn vua mới để cầm đầu quân đội và dân chúng. Vì vậy, một ngày sau khi chôn cất Cuitlahua, hội đồng các hoàng thân và các nhà quý tộc lớn đã nhóm họp, gồm hơn ba trăm người tham dự.
Tôi cũng có mặt, với tư cách là một chỉ huy quân sự và chồng của công chúa Ôtômi.
Nói chung hội đồng không phải tranh cãi nhiều. Dù nhiều tên tuổi khác nhau được nêu ra, mọi người biết trước ngai vàng Anahuac sẽ rơi vào tay một người có đủ quyền thừa kế theo dòng họ, có bộ óc thông minh, trái tim dũng cảm, và có khả năng vượt qua mọi khó khăn thử thách. Người ấy là Guatêmôc, bạn thân và là người anh em của tôi, cháu của hai ông vua cuối cùng, chồng của Têsuixpô, con gái Môntêzuma và là chị của Ôtômi. Tôi nhắc lại: tất cả mọi người đều hiểu rõ như thế trừ chính bản thân Guatêmôc. khi chúng tôi cùng đi ra hội đồng, chàng nêu tên hai hoàng thân khác, và nói chắc chắn một trong hai người này sẽ được chọn làm vua.
Phiên họp của hội đồng thật long trọng và lộng lẫy. Bốn thủ lĩnh cao cấp nhất ngồi chính giữa gian phòng, còn xung quanh, ở một quãng xa đủ để nghe và nhìn là chỗ ngồi của ba trăm thủ lĩnh và các hoàng thân, là những người sẽ phải công nhận quyết định của hội đồng. Viên quan đại tư tế trên người mặc bộ quần áo đặc biệt nổi lên giữa những bộ quần áo lộng lẫy khác, như một mẩu than đen giữa đống vàng, bắt đầu đọc lời cầu long trọng:
- Hỡi vị thần có mặt khắp nơi và nhìn thấy mọi điều! Đức vua Cuitlahua đã bỏ về với thần. Bây giờ Ngài là đám bụi dưới ngai vàng của thần và sẽ yên nghỉ ở đó mãi mãi. Ngài đã đi hết con đường mà tất cả chúng tôi phải đi, Ngài đã tới được vương quốc của người chết và các bóng đen bất tử. Ngài đã rơi vào giấc ngủ không ai quấy nhiễu được. Công cuộc trị nước ngắn ngủi của Ngài đã kết thúc, và bây giờ Ngài quay về với thần cùng tất cả các đau khổ và tội lỗi của mình. Thần đã cho Ngài nếm cốc niềm vui, nhưng không cho uống cạn, quyền lực vĩ đại chỉ thoáng qua trước mắt Ngài như bóng ma. Với lời cầu hướng tới thần và với những dòng nước mắt, Ngài để lên vai gánh nặng ấy, và Ngài đã vứt bỏ nó khỏi người với niềm vui và hy vọng. Ngài đã đi đến với các tổ tiên của Ngài và sẽ chẳng bao giờ quay lại. Đống lửa đã thành tro, ánh sáng thành bóng tối. Những người trước Ngài khoác chiếc áo bào màu đỏ đã trao nó lại cho Ngài cùng tất cả gánh nặng của quyền lực, và bây giờ Ngài lại trao nó cho người khác. Ngài đội ơn lớn trước thần, thủ lĩnh của các thủ lĩnh, thần của các ngôi sao, vì thần đã nhấc khỏi vai Ngài gánh nặng quá sức, vì thần đã giải phóng Ngài khỏi bao điều lo lắng, vì thay cho chiến tranh, thần cho Ngài hòa bình, và thay cho lao động vất vả là sự nghỉ ngơi vĩnh cửu.
Hỡi thần, chúng tôi đang hy vọng cầu thần! Hãy chọn người thay thế kẻ ra đi! Hãy chọn theo ý thần người không biết sợ hãi hay do dự là gì, hãy chọn người biết lao động và không biết mệt mỏi để dẫn dắt dân tộc chúng tôi như bà mẹ dẫn dắt bầy con. Hỡi thủ lĩnh của muôn vàn thủ lĩnh, hãy rộng lòng ban ơn cho con trai của thần là Guatêmôc, người được chúng tôi lựa chọn. Hãy cho Ngài thực hiện những chiến công chúng tôi đang mong đợi, hãy cho Ngài theo ý chúng tôi được ngồi vững trên ngai cho đến ngày cuối cùng của đời mình. Hãy để quân thù biến thành tro bụi dưới chân Ngài, hãy để vinh quang của Ngài bay lên cao, hãy để Ngài vững tin vào các vị thần và vào sự hùng mạnh của đất nước Ngài! Thay mặt dân tộc chúng tôi, tôi cầu thần điều ấy. Tùy ý thần quyết định!
Khi quan đại tư tế ngừng lời, một trong bốn quan đại thần đứng dậy nói:
- Nhân danh thánh thần và ý nguyện của nhân dân Anahuac, chúng tôi tuyên bố, Ngài, Guatêmôc là vua của đất nước Anahuac! Cầu mong Ngài sống lâu trị vì đất nước một cách công bằng và chiến thắng vẻ vang quân thù đang định tiêu diệt chúng ta. Ngài hãy xua chúng xuống biển! Guatêmôc, vua của người Aztec và tất cả các bộ lạc phụ thuộc người Aztec vinh quang!
Và rồi cả ba trăm người tham dự đại hội cùng hô to như sấm, khẳng định lại sự lựa chọn ấy:
- Vinh quang Đức vua Guatêmôc vinh quang!
Lúc ấy Guatêmôc bước lên phía trước, và nói:
- Hãy lắng nghe tôi, hỡi các quan đại thần, các hoàng thân, các tướng chỉ huy, các thủ lĩnh và các thành viên tham dự đại hội đồng. Có thần chứng giám, trên đường từ nhà tới đây tôi không biết và không hề nghĩ các ông sẽ trao cho tôi một vinh dự và trọng trách lớn như thế. Có Trời chứng giám, nếu cuộc đời tôi chỉ phụ thuộc một mình tôi chứ không phải toàn dân tộc, thì tôi sẽ trả lời các ông thế này: “Hãy chọn một người nào đấy xứng đáng với ngai vàng hơn tôi!”. Nhưng tôi không có quyền với chính bản thân tôi. Đất nước Anahuac ra lệnh, tôi phải tuân theo. Đất nước đang phải đương đầu với một cuộc chiến tranh sống mái. Lẽ nào tôi có thể rút lui khi tay tôi đầy sức mạnh để tấn công và đầu tôi đầy mưu lược chiến đấu? Không, không bao giờ! Từ nay và mãi mãi sau này, tôi sẽ hiến trọn đời tôi cho cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, chống lại bọn Teule, tôi sẽ không hòa hoãn với chúng, không chịu yên chừng nào chưa xua chúng xuống biển hay tôi chưa ngã gục dưới lưỡi gươm của chúng. Không ai biết các thần sẽ cho ta cái gì, - thắng lợi hay thất bại? Nhưng bất chấp sống chết, chúng ta hãy cùng nhau thề câu thề vĩ đại! Hỡi những người anh em của tôi, hỡi nhân dân của tôi, chúng ta thề sẽ chiến đấu chống bọn Teule và tay sai của chúng để bảo vệ các thành phố, các gia đình và bàn thờ chúng ta cho đến khi trái tim ngừng đập vì cái chết, các thành phố của chúng ta bốc cháy, đổ vụn và các bàn thờ thấm đỏ máu của chúng ta. Nếu các thần cho chúng ta chiến thắng, chúng ta sẽ chiến thắng, còn nếu không, con cháu sẽ nhớ mãi về chúng ta! Hỡi nhân dân của tôi, hỡi những người anh em của tôi, chúng ta có thề không?
- Xin thề! - Mọi người đồng thanh kêu to.
- Tốt lắm! - Guatêmôc nói. - Kẻ nào phản bội lời thề vĩ đại này sẽ phải chịu nhục suốt đời!
Và thế là Guatêmôc, ông vua cuối cùng và là ông vua vĩ đại nhất của đất nước Anahuac đã được đưa lên ngai vàng tổ tiên. Thật may lúc ấy chàng không biết rằng sau này, vào một ngày khủng khiếp, chàng đã phải chết một cái chết rùng rợn bởi bàn tay của bọn Teule. Nhưng từ nay số phận chàng gắn liền với số phận đất nước Anahuac bất hạnh. Con người đứng càng cao, càng khó lòng tránh khỏi cái chết.
Khi nghi lễ kết thúc, tôi vội vàng quay về lâu đài để nói lại với Ôtômi mọi chuyện. Tôi thấy nàng trong căn phòng nơi chúng tôi thường ngủ. Nàng không đứng dậy đón tôi.
- Có chuyện gì thế, Ôtômi? - Tôi hỏi.
- Chồng của em ơi, - nàng đáp, - em đã bị lây bệnh. Đừng lại gần em, em van anh, đừng lại gần! Cứ để các cô hầu chăm sóc em. Anh không được chuốc vào mình sự mạo hiểm có thể lây bệnh.
- Hãy bình tĩnh, - tôi buồn rầu đáp và đi lại gần nàng. Vâng, thật tiếc là nàng đã không nhầm. Là bác sĩ, tôi nhận ra các dấu hiệu quen thuộc của căn bệnh.
Để cứu Ôtômi, tôi phải huy động hết mọi sự hiểu biết của tôi. Suốt ba tuần liền, tôi không rời nàng một bước để giành giật với thần chết, cuối cùng tôi đã thắng. Cơn sốt hạ xuống, và nhờ được tôi chạy chữa, trên khuôn mặt tuyệt vời của Ôtômi không sót lại dấu vết gì của bệnh đậu mùa. Tám ngày liền nàng nằm trong cơn mê sảng. Những ngày ấy tôi đã hiểu được tình yêu của nàng cao thượng và sâu sắc thế nào. Bao giờ nàng cũng nhắc tới tôi, và trong cơn mê sảng của mình, nàng đã để lộ những lo lắng thầm kín nhất về tôi. Nàng sợ làm tôi buồn, tình yêu và sắc đẹp của nàng sẽ làm tôi chán và tôi ruồng bỏ nàng. Nàng cũng sợ “Cô gái - bông hoa” bên kia bờ đại dương, - nàng gọi Lyly như vậy, - có bùa thiêng lôi kéo tôi trở về.
Cuối cùng, Ôtômi tỉnh dậy và hỏi:
- Em ốm có lâu không?
Tôi trả lời câu hỏi của nàng.
- Và trong suốt thời gian ấy anh không rời khỏi em!
- Đúng, anh chữa bệnh cho em, Ôtômi.
- Em đã làm gì để được anh đối xử tốt như thế? - Nàng khẽ hỏi. Sau đó một ý nghĩ kinh khủng nào đấy bỗng đến với nàng. Nàng đau khổ kêu lên:
- Gương đâu? Hãy đưa gương cho tôi, nhanh lên!
Tôi mang gương lại. Vồ lấy từ tay tôi, Ôtômi nhìn như dán mắt vào gương để cố nhìn thật rõ khuôn mặt nàng trong ánh sáng mờ tối của căn phòng. Rồi nàng bỏ tấm kim loại mạ vàng lấp lánh xuống, ngã người xuống gối và sung sướng nói:
- Ôi, em sợ quá, em sợ mặt mình xấu xí như tất cả những người mắc căn bệnh này! Em sợ anh sẽ thôi không yêu em nữa. Lúc ấy thà chết còn hơn!
- Em nói thế mà không xấu hổ à? - Tôi trách Ôtômi. - Không lẽ em nghĩ một vài vết đậu mùa nào đó có thể giết chết tình yêu của anh?
- Vâng, - Ôtômi đáp.- Tình yêu của đàn ông là thế. Em yêu anh theo cách khác, nhưng nếu nhỡ có chuyện gì xảy ra với em, - ôi, nghĩ thế em đã run lên, - thì chỉ một năm sau anh sẽ chán em. Em không biết anh có quay lại với cô gái xa xôi kia không, nhưng lúc ấy chắc anh sẽ chán ghét em. Vâng, vâng, em biết điều ấy cũng chắc chắn như em biết em sẽ không chịu nổi việc bị anh chán ghét! Ôi, em thật biết ơn anh!
Tôi để nàng ở lại một mình trong chốc lát, thầm ngạc nhiên trước sức mạnh tình yêu của nàng. “Không lẽ nàng đúng, và trái tim đàn ông đểu cáng, vô ơn như vậy? - Tôi nghĩ. - Sẽ thế nào nếu quả thật Ôtômi trở thành một trong những người phụ nữ bất hạnh bây giờ đang đi trên đường phố Tênôctitlan, mặt đầy các nốt rỗ khủng khiếp, đầu trọc và mắt mù? Không lẽ tôi sẽ bỏ rơi nàng?".
Tôi không trả lời được câu hỏi ấy, và ơn Chúa tôi không phải gặp một câu hỏi như thế, nhưng tôi biết chắc Ôtômi sẽ không rời bỏ tôi, thậm chí khi tôi là một thằng hủi.
Chẳng bao lâu Ôtômi đã bình phục hoàn toàn, và một thời gian sau nữa bệnh đậu mùa cũng rời bỏ Tênôctitlan.
Bây giờ tôi rất bận. Việc Guatêmôc, bạn thân và là anh em kết nghĩa của tôi được tôn làm vua đã lập tức nâng địa vị tôi lên theo. Tôi trở thành một trong những người chỉ huy quân sự cao nhất và là cố vấn chính của chàng. Tôi làm việc không tiếc sức để giúp chàng mọi mặt trong việc chuẩn bị bảo vệ thành phố. Công việc diễn ra cả ngày lẫn đêm. Tôi huấn luyện quân đội, đặc biệt là đội quân Ôtômi, mà theo lời hứa, đã kéo đến đúng hai mươi nghìn người. Đây đúng là một việc làm mệt mỏi quá sức!
Các chiến binh miền núi này không có chút khái niệm nào về kỷ luật chiến đấu và tinh thần đồng đội, mà thiếu những điều ấy, đội quân đông đảo của họ sẽ chẳng có ích gì trong cuộc chiến tranh với người da trắng.
Sự kình địch và lòng ghen tị lẫn nhau đã chia rẽ thủ lĩnh các bộ lạc. Tôi phải đấu tranh với điều ấy hàng ngày, hàng giờ, đó là chưa kể việc tất cả bọn họ đều ghen tị với tôi. Ngoài ra, nhiều bộ lạc vốn là đồng minh hay phụ thuộc người Aztec nhân dịp này đã phản bội chúng tôi, hoặc theo quân Tây Ban Nha, hoặc đứng bên ngoài chờ thắng lợi rồi mới hành động.
Mặc dù thế, chúng tôi vẫn tiếp tục công việc của mình. Quân đội được chia thành các trung đoàn theo kiểu châu Âu, và mỗi trung đoàn có doanh trại riêng của mình. Chúng tôi bắt các binh sĩ luyện tập sử dụng vũ khí, tích trữ lương thực trong thành phố để đề phòng trường hợp bị bao vây, và cố giảm bớt càng nhiều càng tốt số miệng ăn vô ích. Trong thành Tênôctitlan chỉ có một người làm việc nhiều hơn tôi, là vua Guatêmôc, - làm liên tục ngày đêm không nghỉ. Thậm chí, tôi còn định chế tạo thuốc súng bằng cách sử dụng các chất do núi lửa Pôpôcatêpêcli phun ra, nhưng do không nắm vững các thành phần của nó, nên tôi đã thất bại. Vả lại, nếu thành công, chắc nó cũng chẳng giúp được gì nhiều, vì chúng tôi không có súng thần công, đại bác, và cũng chẳng biết cách chế tạo chúng. Giỏi lắm, chúng tôi chỉ biết dùng thuốc nổ để làm mìn chôn giữa đường đi và để đập, hoặc chế tạo lựu đạn ném tay có dây đốt.
Cứ thế, hết tháng này đến tháng khác trôi qua. Cuối cùng có tin báo một đội quân Tây Ban Nha đông đảo cùng rất nhiều quân tay sai đang kéo tới gần Tênôctitlan. Tôi định cho Ôtômi trở về với dân tộc của nàng, tránh được hiểm họa, nhưng Ôtômi chỉ phá lên cười và nói:
- Em sẽ ở nơi nào chồng em có mặt. Anh sẽ chiến đấu trực diện với cái chết và có thể hy sinh. Vì thế em phải ở bên anh để cùng chết với anh. Nếu phụ nữ da trắng làm khác, thì đó là việc của họ. Còn em, em ở lại với chồng.
XXVII
THÀNH TÊNÔCTITLAN THẤT THỦ
Chẳng bao lâu sau lễ Giáng sinh, Côrtex cùng đội quân đông đảo của hắn hạ trại ở Texcôcô trong thung lũng Mêhicô. nhiều kẻ ưa phiêu lưu đã vượt biển tới đây chiến đấu dưới cờ của hắn, ngoài ra còn có hàng chục nghìn quân thổ dân tay sai giúp đỡ.
Thành Texcôcô ở không xa một cái hồ cùng tên cách Tênôctitlan hai mươi dặm về phía đông bắc. Đóng quân trên đất của người Tlatxcalan, Côrtex có một hậu phương rất thuận tiện. Từ đây đã bắt đầu một trong những cuộc chiến tranh kinh khủng nhất mà lịch sử thế giới được biết đến. Nó kéo dài tám tháng, và khi kết thúc, Tênôctitlan và rất nhiều thành phố đông đúc, xanh tươi khác đã biến thành những đống gạch vụn đen xạm vì lửa cháy. Phần lớn người Aztec đã bị tiêu diệt hay chết đói, và với tư cách một dân tộc, họ không tồn tại nữa.
Tôi không có ý định miêu tả hết ở đây tất cả các chi tiết của cuộc chiến tranh ấy, vì nếu làm thế, tôi sẽ không bao giờ viết xong cuốn sách này, mà tôi thì còn phải kể nốt câu chuyện của đời mình. Vả lại đấy không là việc của tôi, - tôi phải nhường cho các nhà viết sử. Tôi chỉ muốn nói rằng kế hoạch của Côrtex là lúc đầu sẽ lần lượt tiêu diệt các thành phố nhỏ đồng minh hoặc phụ thuộc của người Aztec, rồi mới tấn công Tênôctitlan, viên ngọc của cả thung lũng Mêhicô. Và cuối cùng, hắn đã thực hiện được âm mưu của hắn với một sự kiên trì, cương quyết và khéo léo đến mức từ thời Xêda vĩ đại tới nay ít ai có được.
Thành phố đầu tiên bị tiêu diệt là Ixtapalalan. Mười nghìn người dân của nó gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con bị quân Tây Ban Nha giết chết hay bị thiêu sống. Sau đó đến lượt các thành phố khác. Côrtex lần lượt chiếm chúng cho đến khi tất cả lọt vào tay hắn. Bây giờ duy nhất chỉ còn lại một mình Tênôctitlan. Nhiều thành phố chưa đánh đã đầu hàng, vì vương quốc của người Aztec gồm các bộ lạc khác nhau, giống một bó các cành riêng lẻ hơn là một cây to thống nhất. Khi quân Tây Ban Nha chặt đứt dây bó, các cành rơi, rũ ra khắp nơi. Vừa thấy thành Tênôctitlan đang gặp nạn, lập tức các bộ lạc khác nhớ tới những mối bất hòa xưa kia, máu ghen tị và lòng thù địch nổi lên, rồi họ lao vào tấn công ông chủ cũ của họ, như bầy sói thuần phục chưa xong lao vào cắn xé người thợ săn đã cướp mồi của chúng. Đó là lý do đất nước Anahuac bị tiêu diệt. Nếu tất cả các bộ lạc biết đoàn kết, quên các hận thù xưa và cùng chung sức chống lại quân Tây Ban Nha, thành Tênôctitlan sẽ không bao giờ thất thủ, còn Côrtex cùng những tên Teule khác của hắn chắc từ lâu đã bị ném lên bàn thờ tế thần.
ƠŒ ngay phần đầu cuốn sách này tôi đã viết rằng tất cả mọi việc ác đều sẽ bị trả thù, dù tạo ra chúng là một người hay cả một dân tộc. Sự thật đã xảy ra đúng như thế. Thành Tênôctitlan bị hủy diệt cũng vì cái nghi lễ tế thần đáng sợ của người Aztec. Cái phong tục ghê tởm giết người để tế thần ấy đã làm nảy sinh sự hằn thù giữa các bộ lạc. Trước đấy không lâu, người Aztec đã bắt tù binh của các thành phố bị họ chinh phục đưa lên bàn thờ Tênôctitlan cho các thần của họ, còn xác thì quẳng cho các tên cuồng tín ăn thịt. Bây giờ những tội ác ấy đã được nhớ lại. Khi sức mạnh của Tênôctitlan không còn nữa, con cháu những người đã bị nó giết lại lao vào tấn công, nhằm xóa thành Tênôctitlan khỏi mặt đất và bắt con cháu nó đặt lên bàn thờ tế thần của mình.
Tới tháng 5, dù rất cố gắng và tinh thần các chiến binh dũng cảm, nhưng các đồng minh cuối cùng của chúng tôi đã bị đánh bại, một số khác phản bội, thế là cuộc vây hãm thành Tênôctitlan bắt đầu.
Cuộc vây hãm ấy được tiến hành một lúc cả trên bộ lẫn dưới nước, vì vốn thông minh, Côrtex đã khéo léo xây dựng ở Tlatxcalan một đội thuyền chiến gồm mười ba chiếc. Những chiếc thuyền ấy được tháo rời thành nhiều bộ phận để vận chuyển qua một quãng đường rừng gần một trăm kilômet, sau đó được đóng lại trong doanh trại Côrtex và thả xuống một con kênh được hàng chục nghìn người da đỏ đào liên tục trong hai tháng. Khi vận chuyển thuyền có một đội quân gồm hai mươi nghìn người Tlatxcalan đi theo bảo vệ. Nếu có thể, tôi đã cho tấn công chúng trong các con đường hẹp xuyên qua núi. Guatêmôc cũng chung ý kiến như tôi, tuy nhiên lúc ấy lực lượng của chúng tôi quá mỏng, vì chúng tôi phải phái phần lớn số quân của mình đánh nhau với quân của thành phố Sancô
đã phản bội chúng tôi một cách nhục nhã, dù về dòng giống, họ rất gần với người Aztec. Tuy vậy, tôi vẫn đề nghị đưa hai mươi nghìn chiến binh Ôtômi của tôi phục kích bọn Tlatxcalan. Hội đồng quân sự nhóm họp, tranh cãi rất gay gắt, nhưng cuối cùng phần đông đã phản đối, vì sợ phải đánh nhau với quân Tây Ban Nha hay tay sai của chúng ở xa Tênôctitlan như vậy. Thế là bỏ lỡ một cơ hội hiếm có, và đó cũng là một trong rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thành Tênôctitlan thất thủ, vì sau này những con thuyền đó đã giữ một vai trò rất tai hại: chính nhờ chúng, quân Tây Ban Nha chặn được đường tiếp tế lương thực của chúng tôi vốn vận chuyển bằng thuyền nhỏ trên hồ. Than ôi, trước cái đói, thậm chí cả những người dũng cảm nhất cũng phải rút lui! Như người da đỏ vẫn nói “cái đói là một chiến binh khổng lồ!”.
Thế là cuối cùng người Aztec chỉ còn lại một chọi một với kẻ thù, và trận đánh bắt đầu. Trước hết quân Tây Ban Nha phá huỷ hệ thống dẫn nước từ các mạch suối trong khu vườn nhà vua ở Sapunpêtêc, - nơi tôi được dẫn tới khi lần đầu đặt chân lên đất Tênôctitlan, - vào thành phố. Từ hôm ấy cho tới ngày cuối cùng của cuộc phong tỏa, chúng tôi phải dùng thứ nước mằn mặn và bẩn lấy từ hồ và các giếng mới đào.
Thứ nước ấy có thể uống được, nếu đem đun sôi để khử muối, tuy nhiên nó vẫn không phải là thứ nước lành, có mùi vị khó chịu hay gây nên cảm sốt và rối loạn tiêu hóa.
Vào ngày hệ thống dẫn nước bị phá hủy, Ôtômi sinh đứa con đầu lòng của chúng tôi. Khó khăn do sự phong tỏa gây nên rất lớn, thức ăn thiếu, đến nỗi nếu nàng yếu hơn một chút hay tôi không phải là một bác sĩ có kinh nghiệm thì khó lòng nàng sống nổi qua lần sinh nở đó. Thế nhưng tôi rất mừng và thở phào nhẹ nhõm khi thấy Ôtômi nhanh chóng bình phục. Tôi đã làm lễ đặt tên cho đứa bé mới sinh theo đúng phong tục nhà thờ Cơ đốc chúng ta, mặc dù tôi không phải là linh mục. Tôi gọi nó bằng cái tên của tôi, - Tômax.
Cuộc chiến đấu dữ dội vẫn diễn ra quyết liệt hết ngày này đến ngày khác, hết tuần này đến tuần khác, lúc ở cổng thành, lúc trên mặt hồ, cũng có lúc ngay trên các đường phố, khi thì bên này thua, khi bên kia thua. Có lúc quân Tây Ban Nha bị đánh bật trở ra với những thương vong rất lớn, nhưng sau đó chúng lại lao lên tấn công từ tất cả các hướng. Có lần chúng tôi bắt được sáu trăm tên Tây Ban Nha và hơn một nghìn tên tay sai của chúng làm tù binh. Tất cả số người này đã bị giết đưa lên bàn thờ tế thần Uixilôpôctli, còn xác thì vứt cho bọn cuồng tín ăn thịt. Người Aztec còn giữ cái phong tục dã man ấy, và ăn xác những người bị giết để tế thần không phải vì thích thịt người, mà vì đó là điều bắt buộc của một thứ nghi lễ tôn giáo bí mật nào đó Nhiều bộ lạc châu Mỹ, trong đó có người Aztec, quả có ăn thịt người nhưng nói chung, việc đó mang tính chất nghi lễ tôn giáo.).
Tôi van nài Guatêmôc chấm dứt ngay những cảnh khủng khiếp ấy nhưng vô ích.
- Bây giờ không là lúc phải giữ ý tứ, - chàng đáp một cách độc ác. - Tôi không thể cứu chúng khỏi cái chết ở bàn thờ, thậm chí nếu có thể, tôi cũng không cứu. Cứ để những con chó ấy chết theo phong tục nước ta. Còn anh, Teule, người bà con của tôi, tôi khuyên anh không nên đi quá xa!
Than ôi, trái tim Guatêmôc đã trở nên độc ác hơn sau mỗi ngày diễn ra chiến sự, điều đó cũng chẳng có gì khó hiểu.
Côrtex vạch một kế hoạch khủng khiếp mới nhằm tiêu diệt toàn bộ thành Tênôctitlan. Và hắn bắt đầu thực hiện kế hoạch ấy một cách không thương tiếc. Hễ quân Tây Ban Nha chiếm được khu phố nào đó, lập tức hàng nghìn quân Tlatxcalan bắt tay vào việc. - Chúng đốt trụi tất cả các ngôi nhà cùng những người sống trong đó. Trước khi cuộc vây hãm kết thúc, Tênôctitlan, viên ngọc của tất cả các thành phố, đã bị biến thành những đống gạch vụn.
Tôi đã tham gia các trận đánh, mặc dù chẳng có gì đáng tự hào về điều ấy. Ít ra thì quân Tây Ban Nha đã nhận ra tôi và không phải không có căn cứ hễ thấy tôi là chúng kêu to nguyền rủa, gọi tôi là “tên đào ngũ”, “kẻ phản bội”, “con chó trắng của Guatêmôc” và đủ các thứ tên khác. Được các thám báo báo tin rằng nhiều cuộc tấn công của Guatêmôc thắng lợi là nhờ có tôi bày mưu, Côrtex thậm chí đã đặt giải thưởng cho ai lấy được đầu tôi. Tôi cố không để ý tới điều ấy, mặc dù sự xúc phạm của chúng làm tôi đau như bị tên bắn. Tuy căm thù quân Tây Ban Nha và có nhiều bạn bè giữa người Aztec, với tư cách là một con chiên đạo Cơ đốc, tôi vẫn cảm thấy băn khoăn khi chiến đấu trong hàng ngũ những người vô đạo vẫn giết người để tế thần. Tôi không bỏ trốn vì tôi muốn tìm và giết kẻ thù của tôi là Gacxia. Tôi biết hắn đang ở đây, tôi đã nhìn thấy hắn mấy lần nhưng không sao lại gần được. Nếu tôi truy lùng hắn, thì hắn cũng cố tìm dấu vết của tôi, có điều với mục đích khác, là để lẩn trốn, vì bây giờ hắn vẫn sợ tôi như trước. Hắn vẫn tin rằng gặp tôi, hắn sẽ bị giết chết.
Các chiến binh của hai bên vẫn có lệ thách nhau đấu tay đôi. Những cuộc đọ kiếm như thế thường xảy ra trước mắt mọi người, và quân của hai bên không được tấn công họ và những người làm chứng của họ. Một lần, khi mất hết hy vọng được gặp Gacxia trong trận đánh, tôi đã cho một người đưa tin tới gặp quân Tây Ban Nha để thách kẻ mang cái tên giả là Xacxêđa ra đấu tay đôi với tôi. Một giờ sau người đưa tin quay lại với một mảnh giấy có ghi những dòng chữ Tây Ban Nha:
Người theo đạo Giatô không bao giờ thèm đấu tay đôi với một tên phản bội đáng khinh, một tên vô thần ăn thịt người. Đối với hạng người ấy chỉ có một thứ vũ khí duy nhất là dây thừng. Nó từ lâu đang chờ mày đấy, Tômax Uyngfin ạ.
Tôi nổi giận xé vụn tờ giấy thành nhiều mảnh và giẫm nát dưới chân. Từ nay ngoài những việc độc ác đã gây ra cho tôi, hắn còn thêm một sự vu khống trắng trợn nữa. Nhưng tôi có tức giận đến đâu cũng đành bất lực vì chưa bao giờ tôi lại gần hắn được. Một lần, cùng mười chiến binh Ôtômi, tôi đuổi theo hắn vào sâu trong hàng ngũ quân Tây Ban Nha. Sau đó tôi thoát ra khỏi, nhưng mười người Ôtômi kia đã phải chết vì sự căm thù của tôi đối với tên vô lại kia.
Tôi biết kể thế nào về những điều kinh khủng hàng ngày đổ xuống thành Tênôctitlan đang tuyệt vọng. Lương thực đã cạn, và bây giờ không chỉ đàn ông, mà cả đàn bà yếu đuối và trẻ con cũng phải sống cầm hơi bằng cách uống nước hồ lợm giọng và ăn những thứ lúc bình thường đến lợn cũng chẳng thèm ăn. Thức ăn lý tưởng là cỏ ngọt, rễ cây, ốc sên, sâu bọ và cả thịt các tù binh bị giết để tế thần.
Hàng trăm, hàng nghìn người chết, xác chết nhiều đến mức không chôn kịp. Chúng nằm lăn lóc khắp nơi, thối rữa và gây nên một bệnh dịch mới khủng khiếp, kéo thêm hàng nghìn người Aztec chết. Đến lượt mình, những người này chết lại truyền bệnh cho những người tiếp theo. Trung bình cứ một chiến binh Aztec bị quân Tây Ban Nha và tay sai giết chết, thường có thêm hai người nữa chết vì đói và bệnh dịch. Bây giờ ta thử hình dung xem bao nhiêu người Aztec đã chết, nếu chỉ riêng bằng lửa và kiếm, quân Tây Ban Nha đã giết hơn bảy mươi nghìn người! Nghe nói có đêm chúng đã giết hơn bốn mươi nghìn người. Đó là đêm trước ngày thành Tênôctitlan thất thủ.
Một lần, lúc chập tối, tôi quay về ngôi nhà nơi Ôtômi và Têsuixpô, vợ Guatêmôc đang ở, - tất cả cung điện, triều đình đã bị đốt cháy. Tôi đang suýt chết đói vì trong gần bốn mươi giờ qua chưa được ăn gì. Ôtômi đưa cho tôi một ít rễ cây và ba chiếc bánh ngô nhỏ, - đó là tất cả những gì nàng có thể kiếm được. Nàng hôn tôi và mời ăn, nhưng khi biết bản thân nàng hôm ấy chưa ăn gì, tôi bắt nàng chia với tôi khẩu phần ít ỏi ấy. Phải vất vả lắm, Ôtômi mới nuốt nổi những mẩu bánh, vừa ăn vừa cố giữ những dòng nước mắt đang lăn trên má.
- Có chuyện gì thế em? - Tôi hỏi.
Nàng bỗng òa lên khóc nức nở.
- Chồng của em ơi, - nàng nói, - đã hai ngày nay trong ngực em không còn giọt sữa nào. Cái đói đã vắt kiệt đôi vú... và con trai của chúng ta đã chết! Anh nhìn đây, nó đã chết!
Rồi gạt chiếc khăn sang một bên, nàng chỉ cho tôi xem thân hình bé nhỏ của đứa bé.
- Đừng khóc, - tôi nói, - nó chết vì cũng chịu đau khổ như chúng ta. Không lẽ em muốn nó sống để sau này gặp phải những ngày như hôm nay?
- Nhưng đây là đứa con của chúng ta, đứa con đầu lòng! - Ôtômi rên rỉ. - Ôi, chúng ta đã làm điều gì để phải chịu những đau đớn thế này?
- Phải kiên nhẫn chịu đựng thôi, vì chúng ta sinh ra là để chịu đau khổ. Chúng ta chưa hóa điên là may lắm rồi, đừng đòi hỏi hơn. Đừng hỏi anh điều gì thêm nữa, anh không trả lời em được đâu. Cả Chúa của anh và các thần của em cũng không trả lời nổi.
Rồi nhìn đứa con đã chết, tôi cũng òa lên khóc.
Trong những ngày tháng khủng khiếp vừa qua, hàng ngày, hàng giờ tôi được chứng kiến trăm nghìn điều kinh khủng nhất, nhưng cái xác chết bé nhỏ đáng thương này đã làm tôi xúc động hơn cả. Nó là con tôi, con trai tôi, con trai đầu lòng của tôi! Mẹ nó đang ngồi khóc cạnh tôi, và tôi có cảm giác như những ngón tay bé xíu cứng đờ của nó đang xé vụn trái tim tôi. Chỉ một mình Đức Chúa toàn năng mới biết con người lấy đâu sức lực để sống qua những cảnh đau đớn tương tự.
Tôi cầm cuốc bắt đầu đào cạnh nhà một chiếc hố sâu, cho đến khi chạm nước, - ở Tênôctitlan đào chưa quá nửa mét đã thấy nước. Sau khi nói mấy lời cầu nguyện trên xác đứa bé, tôi cho nó xuống hố nước và lấp đất. Ít ra nó cũng không bị chim ưng xé xác như những người khác.
Trở vào nhà, hai vợ chồng tôi ôm nhau khóc cho đến khi ngủ thiếp, và cả trong giấc ngủ, Ôtômi vẫn nói:
- Ôi, chồng của em, ước gì được ngủ mãi cùng đứa bé của chúng ta để chẳng bao giờ tỉnh dậy!
- Em chờ thêm ít nữa, - tôi đáp, - cái chết ở gần lắm rồi!
Mặt trời lại lên, và cùng với mặt trời lại bắt đầu một trận đánh mới, còn dữ dội và đẫm máu hơn trước. Rồi ngày thứ hai, thứ ba, thứ tư cũng thế. Hàng ngày thần chết mang đi hàng nghìn vạn mạng sống, nhưng chúng tôi vẫn chưa chết, vì vua Guatêmôc vẫn chia chung khẩu phần thức ăn với mọi người. Côrtex cho người tới yêu cầu chúng tôi đầu hàng. Ba phần tư thành phố đã bị biến thành tro bụi, và ba phần tư những người bảo vệ nó đã biến thành xác chết. Xác chết chồng chất trong mọi nhà, như đàn ong bị giết trong tổ. Trên các đường phố, xác người dày đặc, đến nỗi chúng tôi phải bước qua mà đi.
Để thảo luận đề nghị của Côrtex, hội đồng lại nhóm họp, - các thành viên hội đồng là những người đã trở nên khắc nghiệt, bị giày vò bởi cái đói và những vết thương.
Tất cả im lặng.
- Ý kiến ngài thế nào, thưa Đức vua Guatêmôc? - Cuối cùng, một người lên tiếng hỏi.
- Tôi không phải là Môntêzuma, sao ông hỏi tôi như thế? - Guatêmôc giận dữ đáp. - Tôi đã thề sẽ bảo vệ thành phố đến cùng, và tôi sẽ làm điều ấy! Thà tất cả chúng ta cùng chết, còn hơn sống mà rơi vào tay bọn Teule!
- Chúng tôi cũng đồng ý như thế! - Các quan cố vấn nói, và trận đánh lại tiếp tục.
Nhưng rồi cuối cùng cũng đến cái ngày khi quân Tây Ban Nha lại tấn công và chiếm được một phần nữa của thành phố. Bây giờ mọi người chen chúc nhau trong những khu phố còn lại như bầy cừu chen nhau trong chuồng. Chúng tôi cố bảo vệ họ, nhưng vì đói, đôi tay đã quá yếu. Quân Tây Ban Nha bắn thẳng vào người Aztec làm họ ngả rạp như cỏ dưới lưỡi hái. Sau đó chúng cho quân Tlatxcalan lao vào tấn công, bọn này như bầy chó dữ xông vào đàn cừu tội nghiệp. Chính vào lúc này bốn mươi nghìn người Aztec đã bị giết, vì quân Tlatxcalan không thương tiếc bất kì người nào.
Hôm nay là ngày cuối cùng của cuộc vây hãm thành Tênôctitlan. Côrtex lại cho người đến gặp: hắn muốn nói chuyện với Guatêmôc. Câu trả lời vẫn như cũ, - không gì có thể làm lung lay trái tim cao thượng của chàng.
- Hãy nói lại với ông ta rằng tôi sẽ chết ở nơi tôi đang đứng, nhưng nhất định không chịu thương lượng với ông ta, - chàng nói. - Chúng tôi đang ở trong tình thế bất lực, ông ta muốn làm gì thì làm!
Toàn bộ thành phố đã bị phá hủy, những người còn sống sót, gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con, tụ tập trên bờ đập hay chen chúc nhau trốn dưới các bức tường xiêu vẹo. Cả ở đây họ vẫn bị tấn công.
Lần cuối cùng tiếng trống đại trên kim tự tháp vang lên, lần cuối cùng tiếng kêu xung trận hoang dã của các chiến binh Aztec bay cao lên trời xanh. Chúng tôi chiến đấu với tất cả sức lực còn lại. Tôi bắn chết bốn đứa, - Ôtômi đưa tên cho tôi. Nàng không rời tôi nửa bước. Nhưng số đông những người còn lại đã quá yếu và bất lực như những đứa trẻ. Chúng tôi còn biết làm gì được nữa? Quân Tây Ban Nha tự do đi lại giữa đám người Aztec đáng thương, giết chết một lúc hàng trăm người, như những con sói đói giữa bầy hươu ngơ ngác. Chúng dồn chúng tôi xuống nước và dìm chết, cho đến khi các kênh đào bị lấp đầy bởi các xác chết. Làm cách nào chúng tôi đã thoát chết thì cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu nổi.
Cuối cùng, một nhóm nhỏ trong đó có Ôtômi, tôi và vợ chồng Guatêmôc đến được bờ hồ, nơi có những con thuyền nhỏ đang đợi. Chúng tôi xuống thuyền, vẫn chưa biết phải bơi đi đâu. Cả thành phố đã bị quân thù chiếm đóng, và chúng tôi chỉ còn lại một hy vọng là chạy trốn. Tuy nhiên thuyền chiến của quân Tây Ban Nha đã nhìn thấy chúng tôi và bắt đầu đuổi theo. Gió thuận chiều thổi mạnh, - trong trận này cả đến gió cũng đứng về phe địch! Dù chúng tôi đem hết sức chèo thật nhanh, chẳng bao lâu một chiếc thuyền Tây Ban Nha đã đuổi kịp và bắn đạn lửa vào chúng tôi. Guatêmôc liền đứng thẳng người, nói to:
- Ta là Guatêmôc đây! Hãy dẫn ta tới gặp Malixin Tên người da đỏ gọi Côrtex.
Hãy tha thứ cho những người của ta đang sống sót.
- Thế là đã đến giờ anh phải chết, em ạ, - tôi quay sang nói với Ôtômi đang ngồi cạnh. - Chắc chắn quân Tây Ban Nha sẽ treo cổ anh. Thà tự tử chết trước còn hơn phải chịu một cái nhục như thế.
- Không, không nên, - nàng buồn bã đáp. - Em đã nhiều lần nói với anh chừng nào còn sống nghĩa là đang còn hy vọng, chỉ chết rồi mới không biết hy vọng vào đâu. Biết đâu ta có thể thoát chết? Nếu anh không cho là thế, em sẵn sàng cùng chết với anh!
- Ôtômi, em phải sống!
- Thế thì anh đừng tìm cách tự tử! Em sẽ theo anh đi bất cứ nơi nào.
- Ôtômi, em hãy nghe anh nói đây! - Tôi khẽ bảo nàng. - Đừng nói với ai rằng em là vợ anh. Hãy xem như em là một trong những người bà con của Têsuixpô. Nếu chúng ta bị ngăn cách, và nếu có điều kiện trốn thoát, anh sẽ tới thành Xôxen, chúng ta cùng ẩn náu ở đấy, giữa lòng đồng bào của em.
- Vâng, - nàng đáp rồi buồn bã mỉm cười. - Có điều em không biết bây giờ người Ôtômi sẽ đón tiếp em như thế nào, sau cái chết của hai mươi nghìn binh sĩ thiện chiến nhất mà họ gửi cho chúng ta.
Lúc ấy chúng tôi đã bước lên boong một chiếc thuyền chiến Tây Ban Nha. Tôi không kịp trả lời nàng.
Quân Tây Ban Nha tranh cãi với nhau điều gì, sau đó cho chúng tôi lên bờ và dẫn vào một ngôi nhà không hiểu nhờ phép lạ nào mà vẫn còn nguyên lành. ƠŒ đây Côrtex vội vã ra đón ông vua của người Aztec bị bắt làm tù binh.
Vây quanh bởi đám tuỳ tùng, tên chỉ huy Tây Ban Nha ra đón chúng tôi, một tay cầm chiếc mũ. Marina đứng cạnh hắn. So với khi tôi thấy cô ta ở Tabaxcô, bây giờ cô ta còn xinh đẹp hơn. Mắt chúng tôi gặp nhau, và cô ta đã rùng mình khi nhận ra tôi, mặc dù nhận biết một người bạn cũ da trắng ở cái dạng mệt mỏi, rách rưới, người bê bết máu thế này không phải dễ. Tuy nhiên, chúng tôi không trao đổi với nhau lời nào. Lúc ấy, mọi con mắt đều đổ dồn về Côrtex và Guatêmôc, người chiến thắng và kẻ thất bại.
Như một bộ xương người còn sống, Guatêmôc vẫn kiêu hãnh và cao thượng như trước. Chàng bước lại gần đối thủ và lên tiếng. Marina dịch lại lời chàng:
- Malixin, tôi là Guatêmôc, vua Anahuac. Tất cả những gì một người có thể làm được để bảo vệ dân tộc mình, tôi đã làm! Hãy nhìn xem ông chiếm được những gì!
Vừa nói, Guatêmôc vừa đưa tay chỉ những đống đổ nát đang bốc khói khắp nơi trong thành phố Tênôctitlan.
- Nhưng ông đã thắng! - Chàng nói tiếp, - vì các vị thần chống lại tôi. Ông muốn làm gì tôi thì làm, nhưng tốt hơn hết là hãy giết tôi đi! Đây, cái này đây, - chàng chạm vào con dao găm của Côrtex. - Hãy giết ngay để giải phóng tôi khỏi mọi điều đau khổ.
- Ông Guatêmôc, đừng sợ! - Côrtex đáp. Ông đã chiến đấu như một người lính dũng cảm. Tôi quý trọng những người như thế. Bên tôi, ông sẽ được an toàn, vì người Tây Ban Nha đánh giá cao các địch thủ ngay thẳng. Ông ăn đi!
Côrtex chỉ lên chiếc bàn đang có những đĩa thịt mà đã nhiều tuần nay chúng tôi không nhìn thấy, rồi hắn nói tiếp:
- Mời bạn bè của ông cùng ăn luôn. Các ông cần củng cố lại sức khỏe. Sau đó chúng ta sẽ nói chuyện.
Chúng tôi ngồi xuống cùng ăn một cách ngấu nghiến. Tôi thầm nghĩ chẳng phải là điều đáng sợ lắm; nếu được chết với cái dạ dày căng phồng, nhất là sau nhiều lần tôi đã kề sát cái chết khi bụng đang đói. Trong lúc chúng tôi ăn, quân Tây Ban Nha đứng nhìn với vẻ hầu như thương hại.
Sau đó Têsuixpô, Ôtômi và sáu người phụ nữ quý phái khác được dẫn tới trình Côrtex. Côrtex lịch sự chào họ và cũng ra lệnh cho ăn.
Cuối cùng một tên Tây Ban Nha quan sát tôi hồi lâu rồi nói nhỏ điều gì đó với Côrtex. Lập tức Côrtex cau mày. Hắn nói với tôi bằng tiếng Tây Ban Nha:
- Này, có phải mày là cái thằng đào ngũ và phản bội đã giúp bọn Aztec đánh lại chúng tao không?
- Thưa tướng quân, tôi không đào ngũ mà cũng chẳng phản bội, - tôi bạo dạn đáp, rượu và thức ăn đã cho tôi sức mạnh. - Tôi là người Anh, chiến đấu cùng phe với người Aztec, vì tôi có không ít lý do để căm thù người Tây Ban Nha các ông.
- Bây giờ mày sẽ có nhiều lý do hơn nữa, đồ phản bội! - Côrtex gầm lên giận dữ. - Ê, treo cổ thằng này lên cột buồm đằng kia cho ta!
Tôi hiểu rằng thế là tất cả kết thúc, và khi tôi chuẩn bị chờ đón cái chết, bỗng nhiên Marina nói nhỏ điều gì đó vào tai Côrtex. Tôi không biết cô ta nói gì, chỉ nghe lõm bõm mấy chữ: “kho báu chôn cất”. Côrtex do dự một lát rồi quát:
- Gượm đã! Ta còn khối thời gian để treo cổ hắn!Hãy cho canh giữ người này thật cẩn thận! Mai ta sẽ nói chuyện với hắn.
XXVIII
TÔMAX TUYỆT VỌNG
Theo lệnh Côrtex, hai tên Tây
Ban Nha đi tới túm lấy tay tôi rồi dẫn đến chiếc cầu thang đi xuống. Ôtômi đã nghe rõ tất cả. Tuy không biết tiếng Tây Ban Nha, nhưng chỉ cần nhìn mặt Côrtex, nàng hiểu ngay rằng hắn đã ra lệnh đưa tôi vào nhà tù hay đi treo cổ.
Khi tôi đi ngang qua nàng, nàng bước lên phía trước một bước, mắt đầy vẻ lo sợ cho tôi. Tôi thấy Ôtômi định nhào đến ôm cổ tôi, và sợ bằng cách ấy nàng để lộ nàng là ai và sẽ phải chịu chung một số phận, tôi liền đưa mắt ngăn nàng lại. Sau đó, giả vờ lảo đảo vì quá hoảng sợ và yếu đuối, tôi ngã ngay xuống chân nàng.
Những tên lĩnh dẫn tôi đi liền phá lên cười thô bỉ, một tên còn lấy mũi giày thúc mạnh vào người tôi. Nhưng Ôtômi vội cúi xuống chìa tay đỡ tôi dậy. Trong khi lổm ngổm bò dậy, chúng tôi đã kịp thì thầm trao đổi với nhau đôi lời ngắn ngủi.
- Vĩnh biệt em, Ôtômi đáp. - Tôi khẽ nói. - Bất kì chuyện gì xảy ra, em cũng phải im lặng.
- Vĩnh biệt, - Ôtômi. - Nếu phải chết, anh hãy chờ bên cổng nhà thần chết, - em sẽ tới cùng anh.
- Không, em phải sống. Rồi thời gian sẽ làm dịu bớt vết thương.
- Chồng của em ơi, cuộc đời của anh chính là em! thiếu anh, em chẳng sống làm gì.
Lúc này tôi đã đứng dậy hẳn. Hình như chẳng ai nhận thấy chúng tôi nói chuyện, vì tất cả đang nhìn Côrtex và nghe hắn mắng tên lính đã đánh tôi.
- Tao ra lệnh cho mày thế nào hả? - Côrtex giận dữ quát. - Tao bảo mày phải canh giữ tên này, chứ không phải đá hắn bằng mũi giày.Sao, mày muốn làm nhục tao trước bọn hoang dã này à? Nếu để xảy ra những chuyện tương tự, mày hãy liệu hồn với tao. Ít ra thì mày cũng phải học lấy cách xử sự lịch sự của người đàn bà này. Mày thấy đấy, bà ta đang sắp chết đói, thế mà vẫn ngừng ăn để đỡ hắn dậy. Còn mày thì sao?... Đưa hắn về trại và nhớ cẩn thận để không chuyện gì xảy ra với nó. Nó còn cần cho ta!
Vừa lầu bầu một cách khó chịu, bọn lính vừa dẫn tôi đi xuống phía dưới. Cái cuối cùng tôi nhìn thấy khi ngoái đầu lại là khuôn mặt đầy đau khổ của Ôtômi, vợ tôi.
Khi tôi đang định bước xuống, một chân đã đặt lên bậc thang đầu tiên, thì Guatêmôc cầm chặt tay tôi, cố gượng cười nói:
- Người anh em, tạm biệt. Chúng ta đã đóng vai của mình đến cùng, và bây giờ có thể nghỉ ngơi được. Cảm ơn anh vì sự giúp đỡ và vì lòng dũng cảm của anh.
-Vĩnh biệt, Guatêmôc, - tôi đáp. - Anh thất bại, nhưng sự thất bại ấy vẫn làm tên tuổi anh bất tử.
- Đi đi, đi đi! - Bọn lính giục tôi, tôi chia tay với Guatêmôc, đâu biết rằng chẳng bao lâu sau chúng tôi đã lại gặp nhau, và trong một hoàn cảnh thật khủng khiếp.
Bọn lính cho tôi lên thuyền, và quân Tlatxcalan lại cầm chèo đưa tôi sang trại Tây Ban Nha bên kia hồ.
Sợ Côrtex, chúng không dám đánh đập tôi nữa, nhưng dọc đường lại thi nhau trêu đùa, giễu cợt tôi. Chúng hỏi tôi làm người vô thần có thích không, và rằng tôi ăn thịt người còn sống hay đã rán chín, vân vân... Chúng luôn miệng nói những câu đùa thô bỉ. Lúc đầu tôi chỉ im lặng, vì người da đỏ đã dạy tôi biết kiên nhẫn, và chỉ cuối cùng, tôi mới đáp lại chúng một câu ngắn nhưng đích đáng.
- Câm mồm đi, đồ hèn! - Tôi nói. - Nếu tao còn khỏe mạnh và có vũ khí như trước, thì không phải tao ngồi nghe chúng mày nói những lời thế này, mà chắc chắn có thằng trong bọn mày đã phải bỏ mạng. Bây giờ chúng mày chỉ hèn nhát lợi dụng sự bất lực của tao.
Sau đó tôi im lặng, bọn lính cũng chẳng nói gì thêm.
Khi tới bờ, tôi phải đi qua một đám đông bọn người Tlatxcalan đang tức giận. Nếu không vì sợ Côrtex, chúng đã xé xác tôi thành nhiều mảnh. Đi ngược về phía chúng tôi, còn có mấy tên Tây Ban Nha, nhưng chúng chẳng nhìn thấy gì, vì đứa nào cũng đang say rượu và vui mừng rằng cuối cùng thành Tênôctitlan đã bị đánh chiếm và từ nay không còn chiến sự nữa! Tôi chưa bao giờ nhìn thấy con người đang ở trong một tình trạng phấn chấn như thế. Có thể nói chúng đã hóa điên thực sự. Những tên lính đáng thương ấy nghĩ bây giờ chúng sẽ được ăn suất cơm hàng ngày của lính từ những chiếc bát bằng vàng. Vì vàng, chúng theo Côrtex tới đây: vì vàng, chúng tham gia hàng trăm trận đánh, với mạo hiểm có thể bị ném lên bàn thờ tế thần, chúng cho rằng hôm nay chúng đã nắm được trong tay số vàng mà chúng hằng mong muốn.
Tôi bị giam ở một trong số nhiều phòng của một ngôi nhà đá, cửa sổ có chấn song bằng gỗ. Trong thời gian bị giam, qua ô cửa sổ này, tôi đã nghe và nhìn thấy tất cả những gì bọn lính đang làm bên ngoài. Suốt ngày và hầu như suốt đêm, nếu không phải canh gác, bọn lính Tây Ban Nha chỉ uống rượu say và đánh bạc, mỗi lần đặt cọc hàng chục pêxô, người thua hứa lấy phần mình sẽ được chia từ các kho báu vô tận của người Aztec để trả. Chúng tin vào sự giàu có tương lai của chúng đến mức có thua bao nhiêu chúng cũng không lấy thế làm buồn.
Chúng chỉ thôi đánh bạc khi quá say và tất cả nằm lăn xuống đất như chết, hay khi cao hứng rời bàn đứng dậy, nhảy múa như những thằng điên dưới ánh mặt trời chói chang, vừa nhảy vừa rống lên:
- Vàng! Vàng! Vàng!
Đôi lúc, qua ô cửa ấy tôi nghe được các tin tức trong trại. Thí dụ tôi biết Côrtex đã trở về trại, cùng với hắn có Guatêmôc và mấy người đàn ông và đàn bà quý tộc da đỏ.
Chính tôi thấy và nghe bọn lính chán chơi bài ăn tiền, đã bắt đầu đem những người đàn bà ấy ra đặt cọc sau khi ghi rõ đặc điểm của từng người lên những tờ giấy nhỏ. Theo các đặc điểm ấy, tôi đoán một trong những người đàn bà ấy có lẽ là Ôtômi. Một thằng khốn nạn nào đó thắng và chiếm được nàng, nhưng lập tức hắn liền bán nàng cho một thằng khác để lấy một trăm pêxô. Chúng tin chắc mọi cái đã nằm trong tay chúng, kể cả vàng và phụ nữ.
Cứ thế tôi bị giam trong căn phòng của mình suốt nhiều ngày mà không bị ai quấy rầy, trừ một người đàn bà da đỏ vẫn tới để thu dọn và mang thức ăn cho tôi. Những ngày ấy tôi chỉ làm một việc là ăn bằng ba người khác và ngủ, bởi vì không một nỗi bất hạnh nào có thể làm tôi ăn kém ngon và mất ngủ được. Bản thân tôi cũng không tin nổi rằng chưa hết tuần, tôi đã bình phục gấp đôi ngày thường, không còn thấy yếu đuối, mệt mỏi nữa, và tôi lại khỏe mạnh như trước.
Trong quãng thời gian giữa giấc ngủ và bữa ăn, tôi không rời khỏi cửa sổ với hy vọng ít ra cũng được nhìn thấy Ôtômi hoặc Guatêmôc từ xa. Nhưng tất cả đều vô ích. Tuy nhiên, tôi đã nhìn thấy kẻ thù của mình. Một hôm vào buổi chiều, Gacxia xuất hiện bên nhà tù. Hắn không nhìn thấy tôi, nhưng tôi thì nhìn thấy rõ nụ cười xảo quyệt và độc ác trên mặt hắn, tôi thấy chân tay ngứa ngáy. Gacxia đứng mười phút, đưa mắt nhìn vào cửa sổ phòng tôi như con mèo đói nhìn con chim trong lồng. Tôi đoán hắn chờ cửa phòng tôi mở, và có lẽ chẳng bao lâu nữa nó sẽ mở.
Đó là buổi chiều ngày đầu tiên tôi bị tra tấn.
Lúc này tôi bắt đầu nhận thấy tinh thần của bọn lính bắt đầu thay đổi. Chúng không còn đem các kho báu vô tận của người Aztec đặt cược đánh bạc với nhau nữa, thậm chí thôi cả uống rượu đến say bí tỉ, và sự vui vẻ thái quá cũng chấm dứt. Thay cho những điều ấy, quân Tây Ban Nha bây giờ luôn đi thành từng đoàn nhỏ và tranh cãi điều gì đó rất gay gắt. Vào ngày Gacxia đến đứng nhìn vào căn phòng giam tôi, trên quảng trường chính đối diện với cửa sổ phòng tôi, có một toán đông quân lính tụ tập. Côrtex mặc quần áo đại lễ, cưỡi ngựa trắng đi ra gặp chúng. Quảng trường ở quá xa nên không nghe rõ chúng nói gì, nhưng tôi nhìn thấy một số sĩ quan gay gắt chỉ trích người cầm đầu của chúng. Còn quân lính thì ủng hộ chúng bằng những tiếng hô to đồng thanh. Côrtex đáp lại điều gì đó rất lâu, cuối cùng tất cả lặng lẽ giải tán.
Sáng hôm sau, khi tôi vừa ăn xong, có bốn tên lính bước vào phòng ra lệnh cho tôi đi theo.
- Đi đâu? - Tôi hỏi.
- Tới gặp chỉ huy của chúng tôi, - tên cầm đầu toán lính đáp.
“Thế là bắt đầu!” - Tôi nghĩ, và nói to:
- Được. Bất kì một sự thay đổi nào cũng hơn phải ngồi một chỗ trong cái hang này!
- Cứ cho là thế! - Tên lính đáp. - Có điều đây là sự thay đổi cuối cùng của mày.
Tôi hiểu hắn nghĩ tôi đang bị dẫn đi xử tử.
Năm phút sau tôi đã đứng trước Côrtex trong ngôi nhà của hắn. Marina ngồi cạnh, còn xung quanh là mấy tên thân cận nhất của hắn. Tên cầm đầu quân Tây Ban Nha lặng lẽ nhìn tôi một lúc rồi nói:
- Tên anh là Tômax Uyngfin. Anh là người lai một nửa Tây Ban Nha, một nửa Anh. Anh bị giạt vào cửa sông Tabaxcô, rồi từ đó tới Mêhicô. ƠŒ đây anh bị biến thành Têcatlipôca, vị thần của người Aztec. Anh đã thoát chết khi chúng tôi chiếm được chiếc kim tự tháp lớn. Sau đó anh đứng về phe quân Aztec và tham gia trận đánh Đêm buồn đẫm máu. Rồi anh trở thành bạn và cố vấn của Guatêmôc, người được anh giúp rất nhiều trong việc bảo vệ thành phố. Anh nói đi, có đúng thế không?
- Thưa tướng quân, đúng thế, - tôi đáp.
- Tốt. Bây giờ anh bị chúng tôi bắt làm tù binh, và trong bất kì trường hợp nào anh cũng không thể thoát chết vì anh đã phản bội tôn giáo và chủng tộc của anh. Tôi không muốn biết nguyên nhân đã dẫn anh tới sự phản bội ấy. Đối với tôi, chỉ sự kiện mới quan trọng! Anh đã giết nhiều người Tây Ban Nha và nhiều đồng minh của chúng tôi, Tômax Uyngfin, anh đã giết một cách hèn hạ thông qua sự phản bội của anh, và đối với tôi, anh đơn giản chỉ là một tên giết người. Anh sẽ phải chết. Tôi kết án anh bị treo cổ, với tư cách là một kẻ phản đạo và phản lại chủng tộc mình.
- Nếu thế thì chẳng còn gì phải nói thêm, - tôi bình tĩnh đáp, mặc dù trong tôi, máu đang đông lại vì sợ.
- Không, - Côrtex vội nói. Mặc dù anh đã phạm những tội lỗi như thế, tôi vẫn sẵn sàng cho anh được sống và tự do. Thậm chí có thể hơn thế, - hễ có điều kiện, tôi sẵn sàng cho anh trở về châu Âu, và ở đấy, nếu được Chúa cho phép, anh có thể che giấu quá khứ tội lỗi của mình. Nhưng để bù lại, anh phải giúp chúng tôi một việc. Chúng tôi có cơ sở để tin rằng anh đã tham gia vào việc cất giấu kho báu Môntêzuma, đó là tài sản của chúng tôi đã bị cướp đi một cách bất hợp pháp trong trận đánh Đêm buồn. Đừng tìm cách từ chối. Chúng tôi biết rõ như thế, vì lúc ấy người ta đã nhìn thấy anh khi anh bước xuống thuyền cùng kho báu ấy. Anh chọn đi, - hoặc là anh sẽ chết nhục nhã như một tên phản bội, hoặc anh chỉ cho chúng tôi kho báu ấy.
Tôi do dự trong chốc lát. Hy sinh danh dự, tôi có thể giữ được mạng sống tự do và hy vọng được trở về quê hương, nếu không, tôi sẽ phải chết một cái chết rùng rợn. Nhưng liền lúc ấy tôi bỗng nhớ lại lời thề của mình, tôi nghĩ tới việc Ôtômi sẽ nghĩ thế nào về tôi, cả khi sống lẫn khi đã chết, nếu tôi phản bội lời thề.
Lập tức các do dự của tôi tan biến.
- Tôi không biết gì về những kho báu ấy, - tôi lạnh lùng đáp. - Ông có thể giết tôi nếu muốn.
- Nghĩa là anh không muốn cho chúng tôi biết chứ gì, - đồ phản bội? Hãy suy nghĩ kĩ đi! Nếu anh trót thề một câu thề nào đó, thì Chúa sẽ giải phóng cho anh khỏi câu thề ấy. Vương quốc của người Aztec không còn nữa, ông vua của cái vương quốc ấy đã bị tôi bắt làm tù binh, còn Thủ đô của nó thì chỉ là một đống gạch vụn. Chúa đã cho tôi chiến thắng các vị thần da đỏ đáng nguyền rủa! Vàng bạc của kẻ thù đã thành chiến lợi phẩm hợp pháp của tôi, và tôi phải được nhận lại nó để chia cho các chiến sĩ vinh quang của tôi đang không có gì sinh sống giữa đống đổ nát này. Hãy suy nghĩ kĩ một lần nữa!
- Thưa tướng quân, tôi không biết gì về những kho báu ấy.
- Nhiều khi trí nhớ phản lại chúng ta. Nếu trí nhớ đã phản lại anh, thì anh sẽ phải chết, anh có thể tin chắc như thế. Nhưng không phải bao giờ cái chết cũng đến ngay lập tức. Có nhiều cách chết khác nhau mà tất nhiên anh đã được nghe nói đến, vì anh từng sống ở Tây Ban Nha.
Côrtex ngước mắt nhìn tôi đầy ý nghĩa và nói tiếp:
- Người ta có thể chết nhưng vẫn tiếp tục sống trong suốt mấy tuần dài. Thật đáng tiếc, nhưng tôi buộc phải sử dụng tới những cách ấy để đánh thức trí nhớ anh dậy, nếu nó đang ngủ.
- Ông muốn làm gì tôi thì làm. - Tôi đáp. - Ông luôn gọi tôi là tên phản bội, nhưng tôi không hề phản bội ai. Tôi là thần dân của vua Anh chứ không phải vua Tây Ban Nha. Tôi tới đây để tìm một tên khốn nạn, vì hắn đã gây cho tôi và gia đình tôi những tội ác kinh khủng. Hắn là một trong những người thân cận của ông, tên là Gacxia, hay Xacxêđa như các ông vẫn gọi hắn. Tôi về phe với người Aztec là cốt để tìm hắn, và vì một vài nguyên nhân nữa. Người Aztec đã thất bại và bây giờ tôi là tù binh của các ông. Ít ra các ông nên cư xử với tôi như những người lính trung thực cư xử với đối thủ đã bị đánh bại. Tôi không biết gì về những kho báu ông vừa nói. Hãy giết tôi đi, và thế là hết chuyện.
- Với tư cách một con người, tôi có thể làm như thế. Nhưng ở đây tôi không chỉ đơn thuần là một con người. Tôi là đại diện của giáo hội ở Anahuac! Anh nhập bọn với quân phản động, anh đã bình tĩnh đứng nhìn những thằng bạn dã man của anh giết chết những con chiên Giatô giáo, là người bà con của anh, để đưa lên bàn thờ tế thần. Chỉ cái tội ấy cũng đủ bắt anh phải chịu tra tấn suốt đời, và chắc chắn sẽ như thế, nếu anh không chịu giúp chúng tôi. Còn về ông Xacxêđa, thì tôi chỉ biết ông ta như một người bạn chiến đấu dũng cảm, và tôi sẽ không nghe bất kì điều nhảm nhí nào do một tên phản đạo đáng khinh bịa ra để bôi nhọ ông ta. Nhưng nếu xưa, quả giữa anh và ông ta có một mối thù nào đó, thì lại càng không lợi cho anh chút nào, - nói đến đây đôi mắt Côrtex lóe lên những tia hằn học, - vì tôi đang định trao anh cho ông ta xử lý. Một lần nữa tôi nhắc lại: hãy chọn đi! Hoặc anh chỉ nơi chôn giấu kho báu để được tự do hoặc anh sẽ được trao vào tay Xacxêđa. Mà ông ta thì chắc chắn sẽ tìm được cách bắt anh nói!
Một sự mệt mỏi lạ lùng bỗng đè nặng lên tôi khi tôi biết sắp bị đem ra tra tấn. Mà người tra tấn tôi, lại chính là Hoan đơ Gacxia. Biết rõ trái tim độc ác của hắn, tôi mất hết hy vọng được thương xót. Thế là cuối cùng hắn đã tóm được kẻ thù không đội trời chung của mình, và bây giờ thì hắn tha hồ vui thích! Tuy thế, danh dự và ý chí vẫn lấn át nỗi sợ. Tôi đáp:
- Thưa tướng quân, tôi đã nói rằng tôi không biết gì về những kho báu ấy, và bây giờ ông có thể hành hạ tôi nếu muốn. Chúa sẽ không tha thứ cho sự độc ác của ông! - Câm ngay, đồ phản đạo kia! Mày, một tên vô thần, một tên ăn thịt người đáng kinh tởm mà lại dám nhắc đến Chúa à? Cho gọi Xacxêđa tới đây!
Khi tên lính được phái đi gọi Xacxêđa ra khỏi phòng, xung quanh tất cả đều im lặng. Tôi gặp cái nhìn của Marina và thấy sự thương hại lộ rõ trong đôi mắt hiền hậu của cô ta. Nhưng cô ta không có cách nào để giúp tôi. Côrtex đang vô cùng tức giận.
Cho đến tận bây giờ hắn vẫn chưa tìm thấy số vàng bạc của hắn, mà binh lính thì lại đòi được chia thưởng, và vì sợ chúng nổi loạn nên hắn mới dùng đến các biện pháp nhục nhã này, mặc dù về bản chất, hắn không phải là người độc ác lắm.
Tuy thế, Marina vẫn tìm cách bênh tôi. Côrtex lắng nghe cô ta thì thầm bên tai hắn một lúc, nhưng sau đó đã thô lỗ ngắt lời:
- Im đi, Marina! - Hắn nói. - Không lẽ cô nghĩ tôi có thể tha cho con chó Anh này, khi quyền lực và có thể cả mạng sống của tôi đang phụ thuộc vào việc có tìm thấy kho báu ấy không. Mà hắn thì biết chỗ chôn giấu. Chính cô đã nói với tôi điều ấy khi tôi muốn treo cổ hắn vì tội phản bội. Vả lại, tên thám báo của ta không thể nhầm được, người này đã nhìn thấy hắn trên hồ. Cùng đi với chúng lúc ấy còn có một người bạn của ta, nhưng ông ta đã không quay về, - có lẽ bị chúng giết. Mà thằng này liên quan gì đến cô mà cô phải bênh vực hắn? Hãy để tôi yên, Marina, không có cô, tôi cũng đã rối đầu lắm rồi.
Côrtex đưa tay ôm mặt, chìm trong những suy nghĩ nặng nề. Marina nhìn tôi như muốn nói: “Anh xem, tôi đã làm những gì có thể”. Tôi đưa mắt cảm ơn cô ta.
Cuối cùng có tiếng bước chân đang tới gần, và khi tôi ngước nhìn lên, Gacxia đã đứng trước mặt. Thời gian và cuộc sống gian khổ không hề làm hắn thay đổi. Những sợi bạc ở bộ râu dưới cằm và trong mái tóc chỉ tăng thêm vẻ tự hào, đáng kính cho kẻ tử thù của tôi.
Khi con người Tây Ban Nha da ngăm đen xinh đẹp, mặc bộ quần áo lộng lẫy, có đeo những dây chuyền bằng vàng này cởi mũ chào Côrtex, tôi buộc phải công nhận rằng tôi chưa bao giờ được gặp một người đàn ông đạo mạo có vẻ ngoài hấp dẫn và biết giấu trái tim đen tối của mình như thế. Ai chứ tôi thì biết rõ hắn là người thế nào, và vừa thấy hắn, máu tôi đã sôi lên vì tức giận. Nhưng nghĩ tới việc tôi phải chịu bất lực và những gì hắn sắp làm, tôi lại nghiến răng và thầm nguyền rủa cái ngày tôi ra đời. Còn Gacxia thì chào tôi bằng một nụ cười cay độc rồi quay sang Côrtex:
- Thưa tướng quân, ngài cho gọi tôi ạ?
- Chào anh bạn, - Côrtex đáp. - Anh bạn biết tên phản bội này chứ?
- Thậm chí biết quá rõ, thưa tướng quân. Hắn đã ba lần định giết tôi.
- Nhưng hắn đã không làm được điều ấy. Còn bây giờ đến lượt anh, Xacxêđa. À mà hắn nói như thể giữa anh và hắn có mối hiềm khích nào đó, chuyện gì vậy?
Gacxia tỏ ý do dự, tay hắn mân mê bộ râu nhọn dưới cằm, cuối cùng hắn nói:
- Tôi không muốn nhắc tới điều này, vì nó gợi cho tôi sự đau đớn và cảm giác hối hận, nhưng dù sao tôi cũng kể để ngài khỏi nghĩ xấu về tôi một cách oan uổng. Con người này có lý do để đối xử với tôi một cách không thân thiện. Cho phép tôi được nói thẳng. Cách đây nhiều năm, khi còn bị chi phối bởi các tình cảm điên rồ của tuổi trẻ, tôi đã gặp mẹ hắn ở nước Anh. Đó là một người đàn bà Tây Ban Nha rất xinh đẹp, nhưng vì một trường hợp ngẫu nhiên đáng buồn, bà ta đã phải lấy bố hắn làm chồng. Thằng này là một tên nhà quê ngốc nghếch, một thằng hề độc ác luôn làm khổ bà ta. Tóm lại, bà ta yêu tôi và tôi đã giết chết chồng bà ta trong một cuộc đấu tay đôi. Đấy là lý do khiến tên phản bội này căm thù tôi đến mức ấy.
Trong khi hắn nói, tôi cứ tưởng trái tim tôi sẽ vỡ tung vì tức giận. Cộng thêm với tất cả những độc ác trước, hôm nay Gacxia còn gây thêm một tội ác nữa: hắn đã làm hoen ố danh dự người mẹ quá cố của tôi.
- Mày nói dối, đồ giết người! - Tôi kêu lên, cố gắng một cách vô ích thoát khỏi các dây thừng đang trói tôi. - Mày nói dối!
- Thưa tướng quân, tôi yêu cầu bảo vệ tôi khỏi những sự xúc phạm tương tự, - Gacxia bình tĩnh nói. - Nếu hắn xứng đáng để tôi đấu kiếm tay đôi, chắc tôi sẽ yêu cầu ngài cởi trói cho hắn trong chốc lát, nhưng tôi không muốn làm bẩn kiếm mình bằng máu những người như hắn. Tôi quý trọng danh dự của tôi.
- Nếu mày dám xúc phạm nhà quý tộc Tây Ban Nha này một lần nữa, - Côrtex lạnh lùng đáp, - thì người ta sẽ lấy kìm nung đỏ rút cái lưỡi bẩn thỉu của mày ra, đồ phản đạo đáng nguyền rủa! Còn anh, Xacxêđa, tôi cảm ơn anh về sự cởi mở. Nếu anh chẳng còn tội lỗi nào khác ngoài câu chuyện tình yêu kia, tôi tin ông giám mục Ônđêmô tốt bụng của chúng ta sẽ có cách giúp anh không bị thiêu trong ngọn lửa tĩnh ngục. Nhưng chúng ta đang để phí lời nói và thời gian một cách vô ích. Con người này biết nơi chôn cất kho báu của Guatêmôc và Môntêzuma. Nếu Guatêmôc và những người thân cận của hắn không chịu nói thì hy vọng ta có thể bắt được thằng vô thần da trắng này mở miệng. Chỉ những người da đỏ mới không kêu rên lời nào khi bị tra tấn. Xacxêđa, nhờ anh làm việc với hắn hộ tôi. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào các khả năng đặc biệt của anh. Lúc đầu cứ để hắn chịu đựng chung với những đứa khác, nếu hắn vẫn không chịu nói thì hãy tách riêng ra. Tôi cho anh quyền lựa chọn phương pháp làm việc. khi nào hắn chịu nói, hãy báo cho tôi biết.
- Xin tướng quân tha lỗi, nhưng việc này không phù hợp với một nhà quý tộc Tây Ban Nha, tôi chỉ quen giết chết kẻ thù bằng mũi kiếm của tôi, chứ không phải dùng kìm rứt thịt chúng, - Gacxia ra vẻ từ chối, nhưng tôi đã nhận thấy đôi mắt đen của hắn ánh lên thích thú, và trong giọng nói giả vờ khiêm tốn của hắn lộ vẻ sung sướng một cách độc ác.
- Tôi biết thế, anh bạn ạ, - Côrtex đáp. - Nhưng làm thế nào được? Chính tôi cũng không thích thế, nhưng không còn cách nào khác. Vàng! Vàng! Lạy Đức Mẹ, bọn lính đang kêu to rằng tôi đã ăn cắp vàng của họ. Những tên da đỏ đáng nguyền rủa kia có bị tra tấn mấy chắc cũng không chịu nói. Thằng này biết hết mọi chuyện, và không phải ngẫu nhiên tôi giao nó cho anh. Anh biết hắn đã phạm những tội lỗi gì, điều ấy giúp anh không phải mủi lòng vô ích. Cứ thẳng tay với hắn! Hắn sẽ phải nói!
- Dù đây không phải là việc của tôi, nhưng ngài ra lệnh, tôi xin tuân theo, nhưng với một điều kiện; xin hãy viết lệnh của ngài lên giấy!
- Người ta sẽ mang nó tới cho anh ngay lập tức, - Côrtex đáp.
- Còn bây giờ hãy mang tên này đi.
- Đi đâu?
- Vào nhà tù, nơi hắn vẫn bị giam. Tất cả đã sẵn sàng. ƠŒ đấy hắn sẽ được gặp lại các bạn cũ của hắn...
Mấy tên lính lại xuất hiện và dẫn tôi trở lại phòng giam. Khi chúng tôi bước ra khỏi cửa, Gacxia nói theo rằng hắn sẽ đuổi kịp.
XXIX
GACXIA NÓI THẬT
Chúng nhốt tôi không phải ở phòng cũ, mà ở một căn phòng nhỏ bé ngay sát cửa ra vào, nơi bọn lính canh thường nghỉ ngơi. ƠŒ đây, suýt ngất đi vì lo sợ và tức giận, tôi nằm yên một lúc, cả hai tay và chân đều bị trói. Hai tên lính cầm kiếm tuốt trần không rời mắt khỏi tôi. ƠŒ bên kia tường vọng lại tiếng đấm đá thình thịch và tiếng rên của nạn nhân. Cuối cùng cửa mở, hai tên Tlatxcalan có vẻ ngoài độc ác đáng sợ túm lấy tóc và tai tôi, xềnh xệch lôi đi. Tôi nghe một tên Tây Ban Nha đứng cạnh nói với bạn hắn:
- Tội nghiệp! Phản đạo hay không không biết, nhưng tớ thấy thương hắn. Thật là một nghề đáng nguyền rủa!
Sau đó cửa được đóng lại và tôi thấy mình đang ở trong phòng tra tấn. Căn phòng mờ tối, trên ô cửa sổ có chấn song treo một mảnh vải gì đấy, và ngọn lửa từ những chiếc hỏa lò hắt bóng run rẩy lên các bức tường. Dưới ánh sáng run rẩy ấy, tôi đưa mắt quan sát khắp phòng.
ƠŒ chính giữa phòng có ba chiếc ghế gỗ được đóng một cách sơ sài. Một chiếc để trống, hai chiếc còn lại đã có người ngồi, đó là Guatêmôc, vua của người Aztec và một người quen biết cũ của tôi, là thủ lĩnh Tacubư. Họ bị buộc chặt vào ghế, ngay dưới chân họ là các hỏa lò chứa đầy than đang đỏ rực. Phía sau họ có một tên thư kí đang ngồi chờ sẵn với giấy và mực. Dưới sự chỉ huy của hai tên lính Tây Ban Nha, bọn Tlatxcalan bận bịu đi lại quanh họ để làm cái việc khủng khiếp của chúng.
Trước cái ghế thứ ba bỏ trống có một tên Tây Ban Nha khác đang đứng, vẻ như không tham gia vào tất cả những việc đang xảy ra. Đó là Gacxia. Bỗng một tên Tlatxcalan túm chặt lấy một chân để trần của Tacubư rồi gí vào những hòn than đỏ rực trong hỏa lò. Mấy giây trôi qua trong sự im lặng tuyệt đối. Sau đó ông ta khẽ rên lên. Guatêmôc quay sang nhìn ông ta, và chỉ lúc ấy tôi mới nhận thấy chân chàng, cũng bị đặt trên những hòn than rực cháy như vậy.
- Có gì phải kêu, ông bạn? - Chàng nói bằng giọng cứng rắn. - Có phải tôi ngồi chơi đâu, thế mà tôi vẫn im lặng. Ông bạn hãy nhìn tôi và cố đừng để lộ sự đau đớn của mình ra ngoài.
Tôi nghe có tiếng ngòi bút chạy trên giấy sột soạt: viên thư kí đang ghi những lời chàng. Đúng lúc ấy, Guatêmôc quay đầu lại và nhìn thấy tôi. Mặt chàng xám đi vì đau đớn, nhưng khi chàng lên tiếng nói với tôi, tôi vẫn nghe cái giọng đều đều, rõ ràng mà nhiều lần chàng đã nói trong các phiên họp của hội đồng:
- Than ôi, anh cũng ở đây à, anh bạn Teule của tôi? Thế mà tôi tưởng chúng đã tha cho anh. Bây giờ anh thấy thế nào là tin vào người Tây Ban Nha rồi chứ? Malixin thề sẽ đối xử với tôi tử tế, và đây, ông ta đang cho tôi cái vinh dự được nếm mùi than nóng và kìm nung đỏ. Họ nghĩ chúng ta cất giấu kho báu của Môntêzuma, và định bắt ta phải cho họ biết điều bí mật ấy. Nhưng Teule, anh cũng biết rằng hoàn toàn không có kho báu nào cả, đúng không? Nếu có, lẽ nào chúng ta không giao cho người chiến thắng, tức là những người con thần thánh của Kêxancôatli? Anh cũng biết rằng chúng ta chẳng có gì, ngoài những thành phố đã bị hủy diệt và xác những người thân của chúng ta đã bị giết chết.
- Câm mồm đi, con chó kia! - Một trong những tên đao phủ ngắt lời và đánh vào mặt chàng. Nhưng tôi đã kịp hiểu tất cả. Tôi tự thề thà chết chứ không phản lại bạn bè. Giấu được kho báu khỏi con mắt tham lam của quân Tây Ban Nha, ít ra điều ấy có nghĩa là một thắng lợi của chàng đối với chúng. Không,  tôi sẽ không phản bội chàng trong trận đánh cuối cùng này!
Tôi tự thề như thế, và liền lúc ấy lời thề đó đã được đem ra thử thách. Gacxia ra hiệu, bọn Tlatxcalan túm lấy tôi và trói vào chiếc ghế thứ ba. Sau đó hắn cúi xuống sát tai tôi, nói bằng tiếng Tây Ban Nha:
- Thật khó ai biết trước được mọi con đường của Chúa, Uyngfin, người bà con của tao ạ. Mày tìm tao khắp nơi trên trái đất này, chúng ta đã nhiều lần gặp nhau, và lần nào cũng không may cho mày. Tao nghĩ đã thoát được mày khi ở trên con tàu nô lệ, tao tưởng cá mập đã xé xác mày dưới biển, nhưng bằng một cách nào đó mày bao giờ cũng sống sót, và mỗi lần biết được điều ấy, tao lại lấy làm tiếc. Nhưng bây giờ thì tao chẳng thấy tiếc điều gì. Bây giờ tao biết cái ngày hôm nay đã chờ mày từ lâu. Lần này thì mày không thoát khỏi tay tao đâu, Uyngfin ạ, và tao hy vọng chúng ta sẽ có được mấy ngày dễ chịu với nhau, trước khi phải chia tay mãi mãi. Tao sẽ rộng lượng với mày. Cho mày chọn nên bắt đầu tra tấn mày bằng cái gì. Tiếc là chẳng có nhiều để chọn như tao mong muốn; tòa án dị giáo thiêng liêng còn chưa tới đây cùng các dụng cụ làm phúc của nó, nhưng dù sao tao cũng đã mang vào phòng này tất cả những gì có thể. Mấy thằng này không hiểu quái gì về nghề nghiệp cả: đầu óc chúng chỉ dừng lại ở mấy hòn than nóng, còn tao thì mày thấy đấy, đầu óc tao bay bổng hơn nhiều, - nói đoạn hắn đưa tay chỉ vào những dụng cụ tra tấn khác. - Thế nào, mày thích bắt đầu bằng cái gì?
Tôi không đáp, thầm quyết định sẽ im lặng tuyệt đối, dù bị chúng làm gì đi nữa.
- Được, bây giờ ta nghĩ xem, nghĩ xem, - Gacxia vừa tiếp tục nói, vừa mân mê bộ râu. - À, nghĩ ra rồi! Ê, bọn nô lệ kia, lại đây!
Tôi không muốn kể ra đây những đau đớn mà tôi phải trải qua, để sau này những người đọc cuốn sách của tôi khỏi cảm thấy kinh sợ trong lòng. Chỉ cần nói thế này là đủ: với sự giúp đỡ của những tên Tlatxcalan, con quỷ ấy đã tra tấn tôi trong hai giờ liền, bằng đủ mọi cách man rợ nhất. Hắn bắt tôi phải nếm tất cả những đòn tra tấn mà hắn có thể nghĩ ra, mà về việc này thì hắn là người thông minh và có óc sáng tạo vô bờ bến. Thỉnh thoảng khi tôi ngất đi, chúng lại lấy nước lạnh và rượu đổ vào miệng tôi, bắt tỉnh lại. Mặc dù thế, tôi vẫn có thể tự hào mà nói rằng, trong hơn hai giờ đau đớn kinh khủng ấy, tôi đã không phát ra một tiếng rên hay một lời nói nào.
Mà tôi chịu đựng không phải chỉ đau đớn về thể xác. Gacxia còn luôn miệng chửi bới, giễu cợt tôi, làm tâm hồn tôi đau hơn cái đau của thể xác khi bị than nóng đốt cháy hay dụng cụ tra tấn cào cứa. Cuối cùng, kiệt sức, hắn gọi tôi là con lợn Anh bướng bỉnh rồi cho tạm ngừng. Đúng lúc ấy Côrtex bước vào căn phòng lênh láng máu, theo sau hắn là Marina.
- Thế nào? - Côrtex bình tĩnh hỏi, mặc dù mặt hắn tái đi khi thấy những cảnh tượng rùng rợn trước mắt.
- Thủ lĩnh Tacubư thú nhận rằng vàng được chôn trong vườn nhà ông ta, - viên thư kí nhìn vào bản cung khai. - Còn hai người khác thì hoàn toàn im lặng, thưa tướng quân.
Tôi nghe Côrtex lẩm bẩm một mình:
- Những con người kì lạ! Đúng là sắt đá thật...
Sau đó hắn nói to ra lệnh:
- Ngày mai hãy dẫn Tacubư tới khu vườn đã nói để ông ta chỉ chỗ chôn vàng ở đâu. Còn hai người này thì hôm nay hãy tạm để yên. Có thể qua một đêm họ sẽ thông minh hơn. Tôi hy vọng như thế, vì chính quyền lợi của họ!
Côrtex bước về phía cuối phòng và bắt đầu bàn bạc điều gì đó với Gacxia và những tên đao phủ khác. Trước tôi và Guatêmôc chỉ còn lại một mình Marina. Trong giây lát cô ta nhìn Guatêmôc với vẻ mặt kinh khủng, sau đó một ánh lửa kì lạ bỗng lóe lên trong đôi mắt xinh đẹp của cô ta, và cô ta khẽ nói với chàng bằng tiếng Aztec:
- Guatêmôc, ông có nhớ một lần ông làm nhục tôi ở Tabaxcô và lúc ấy tôi đã nói gì với ông? Tôi nói rằng tôi sẽ vươn lên cao bất chấp sự giúp đỡ và ý muốn của ông. Ông thấy đấy, tất cả đã xảy ra đúng như thế, thậm chí còn hơn. Hãy nhìn xem ông đã thành người thế nào! Sao, ông có lấy làm tiếc cái ngày xa xôi ấy không, Guatêmôc? Còn tôi thì tôi tiếc đấy, mặc dù ở vào trường hợp tôi, nhiều phụ nữ khác sẽ thích thú khi thấy ông gặp nạn.
- Hỡi người đàn bà kia, - Guatêmôc thều thào nói, - cô đã phản bội Tổ quốc mình, đã làm nhục tôi và dẫn đến những đòn tra tấn này. Vâng, nếu không có cô, có lẽ mọi việc sẽ xảy ra khác hẳn. Vâng, tôi lấy làm tiếc, tiếc rằng tôi đã không giết cô ngay lúc ấy. Mong sao tên tuổi cô sẽ trở thành lời nguyền rủa bẩn thỉu trên miệng mỗi người lương thiện, tâm hồn cô sẽ bị đày đọa suốt đời, và khi còn sống, cô cũng phải chịu một sự nhục mạ và phản bội ghê gớm nhất! Lời tiên tri của cô đã thành sự thật, chắc chắn những lời hôm nay tôi nói cũng thế!
Marina run rẩy quay đi, trong một lúc lâu cô ta không nói lên lời. Cuối cùng, cô ta nhìn tôi, giàn giụa nước mắt:
- Ôi, bạn của tôi, - cô ta lẩm bẩm nói, - tội nghiệp, tội nghiệp...
- Đừng khóc thương tôi, Marina, - tôi đáp bằng tiếng Aztec. - Cô khóc nào có ích gì? Nếu có thể, hãy giúp tôi bằng cách nào đó thì hơn!
- Ôi, giá như tôi làm được điều ấy! - Cô ta kêu lên, và vừa khóc to vừa quay người chạy ra khỏi phòng tra tấn. Côrtex đi theo.
Quân Tây Ban Nha lại tới. Chúng đỡ Guatêmôc và thủ lĩnh Tacubư lên tay rồi đưa đi, vì Guatêmôc không tự đi nổi, còn Tacubư thì đang mê man bất tỉnh.
- Vĩnh biệt, Teule! - Guatêmôc nói với tôi khi đi ngang. - Anh đúng là một người cao thượng, con trai chân chính của thần Kêxancôatli. Cầu các vị thần đền bù cho anh những gì anh phải chịu vì tôi và nhân dân của tôi, điều đáng lẽ tôi làm nhưng không thể.
Đó là những lời cuối cùng của Guatêmôc mà tôi được nghe, vì liền lúc ấy chàng đã bị đưa đi.
Tôi ở lại một mình, mặt đối mặt với bọn Tlatxcalan và Gacxia. Hắn vẫn tiếp tục cười giễu tôi:
- Sao, ông bạn Uyngfin có hơi mệt một chút hả? Không sao, rồi sẽ quen đi! Cái gì cũng chỉ khó lúc đầu. Đêm đến, giấc ngủ sẽ làm anh tỉnh táo lại, và sáng hôm sau anh sẽ thành một người khác hẳn. Chắc anh đang nghĩ những điều kinh khủng nhất đã ở lại phía sau, và tôi sẽ không làm được điều gì hơn chứ gì. Anh ngốc lắm, đó mới chỉ là phần dạo đầu. Chắc anh tưởng sự bướng bỉnh của anh làm tôi tức giận chứ gì? Lại một sai lầm nữa! Tôi chỉ mong muốn một điều là đừng để anh nói lời nào. Tôi sẵn sàng từ chối không nhận phần của tôi trong số vàng đang bị chôn giấu đâu đó, để chỉ được ở thêm thế này với anh đôi ba ngày nữa. Tôi có thể trả nợ cho anh một cách sòng phẳng, vì tôi đã may mắn tìm được cách làm điều đó. Người ta không chỉ tra tấn thể xác, đúng không? Ngày xưa, muốn trả thù cha anh, tôi đã giết chết người mà ông ấy yêu. Bây giờ thì đến lượt tôi có việc với anh. Tất nhiên anh không hiểu tôi đang nói về chuyện gì, đúng không? Được, tôi sẽ nói anh biết. Có thể anh quen một cô gái da đỏ có dòng dõi vua chúa tên là Ôtômi chăng?
- Ôtômi? Chuyện gì xảy ra với cô ấy? - Tôi thốt lên, lần đầu tiên mở miệng, vì nỗi sợ cho nàng còn làm tôi đau đớn hơn cả những đòn tra tấn.
- Ồ, hay lắm! Thế là cuối cùng tôi đã bắt được anh động lưỡi. Ngày mai anh sẽ líu lo như chim họa mi bên tôi cho mà xem. Mà cách làm thì thật đơn giản: Ôtômi, con gái Môntêzuma, một người phải nói là khá hấp dẫn, đã đồng ý thành vợ anh theo đúng phong tục của người da đỏ. Tôi biết toàn bộ câu chuyện của anh chị, người bà con của tôi ạ. Tóm lại, vợ anh đang ở trong tay tôi và tôi có thể chứng minh điều ấy. Ngay bây giờ người ta sẽ dẫn cô ấy vào đây; anh chị cứ an ủi nhau thoải mái, nhưng ngày mai cô ta sẽ phải ngồi vào chỗ của anh và sẽ phải chịu tất cả những gì anh đã trải qua hôm nay, tất nhiên là trước mắt anh. Mày nghe rõ chứ, đồ chó ghẻ? Hừ, lúc ấy thì mày sẽ nói hết! Nói không sót một điều gì, có điều tao sợ rằng lúc ấy đã quá muộn!
Lần đầu tiên trong suốt thời gian bị tra tấn, tôi bỗng thấy sức lực mình sụp đổ, và tôi bắt đầu van xin kẻ tử thù của mình hãy nương nhẹ.
- Tha cho cô ấy! - Tôi rên rỉ. - Mày muốn làm gì với tao cũng được nhưng hãy tha cho cô ấy. Mày còn có trái tim cơ mà. Phải, thậm chí cả mày, vì mày cũng là người. Mày sẽ không bao giờ tra tấn cô ấy, vì Côrtex không cho phép.
- Côrtex à? - Gacxia phá lên cười. - Côrtex không biết gì về chuyện này, mà khi biết thì mọi chuyện đã xong xuôi. Tôi có lệnh viết của ông ta đây, lệnh đó cho phép sử dụng tất cả mọi phương pháp, miễn là bắt được anh nói: tra tấn không mang lại kết quả, thì phải dùng đến phương pháp này. Còn về những chuyện khác thì hình như anh không hiểu tôi lắm. Anh biết thế nào là lòng căm thù, vì anh đang căm thù tôi. Anh cứ nhân cái tình cảm ấy của anh lên mười lần, lúc ấy anh sẽ hiểu tôi căm thù anh đến mức nào. Tôi căm thù anh vì gia đình anh, vì anh có đôi mắt mẹ anh, nhưng chủ yếu vẫn vì chính bản thân anh! Anh đã đánh tôi, một nhà quý tộc Tây Ban Nha bằng gậy như đánh một con chó! Lẽ nào có cái gì đó có thể ngăn được tôi lúc này, khi cuối cùng tôi được thả sức bộc lộ sự căm thù của tôi? Anh là một người dũng cảm, nhưng anh đang run lên. Bây giờ anh đã biết thế nào là đau đớn. Thật là một dịp may hiếm có! Lúc này, tôi đã có thể nói trắng với anh mọi chuyện: tôi sợ anh, Tômax Uyngfin. Tôi đã hoảng sợ khi gặp anh lần đầu, - tôi có lý do để làm thế, - và vì vậy tôi định giết anh. Nhiều khi đêm đêm tôi không ngủ được do một nỗi lo sợ khó hiểu mà anh đã gây cho tôi. Vì anh mà tôi chạy trốn khỏi Tây Ban Nha, vì anh mà tôi cư xử như một thằng hèn trong nhiều lần đánh nhau. Trong cuộc đấu tay đôi lạ lùng này, bao giờ tôi cũng gặp may, nhưng vẫn sợ anh như trước. Cả bây giờ tôi cũng sợ anh. Nếu có thể, tôi đã giết anh ngay lập tức cho thoát nợ, nhưng lúc ấy, cùng với hồn ma mẹ anh, hồn ma anh sẽ bám theo tôi khắp nơi, và điều chủ yếu là tôi sẽ phải trả lời về mạng sống của anh trước Côrtex, người bà con của tôi ạ. Độc ác là con đẻ của sợ hãi. Vì sợ anh, nên tôi không thể thương xót anh được. Tôi biết trước rằng sớm muộn, anh sẽ thắng tôi, chết cũng như sống, nhưng bây giờ tạm thời phần thắng đang trong tay tôi. Chừng nào anh và tất cả những người anh yêu quý còn sống, tôi sẽ làm tất cả những gì làm được để đưa anh và những người anh yêu quý ấy đến tận cùng của sự đau đớn, nhục nhã và chết chóc. Tại sao lại không? Chính tôi đã giết mẹ anh, mặc dù thật ra tôi buộc phải làm điều ấy để cứu sống lấy mình. Dù sao tôi cũng không còn mong được Chúa tha thứ, vì việc đã làm không thể làm lại được! Anh đuổi theo tôi khắp nơi để trả thù, và sớm hay muộn, bởi bàn tay anh hay nhờ anh giúp đỡ, sự trả thù ấy sẽ xảy ra. Nhưng hôm nay tôi đang thắng, và vì vậy tôi phải lợi dụng điều ấy, tuy phải tự biến mình thành một tên đao phủ!
Gacxia bỗng quay người và đi ra khỏi phòng, còn tôi thì do quá yếu và đau đớn nên đã ngất đi.
Tôi tỉnh dậy, thấy mình như đang nằm trên một cái gì đấy, các dây trói đã được tháo bỏ. Một người đàn bà đang cúi bên tôi. Vừa nói những lời đầy tình yêu và lòng thương hại, người ấy vừa băng các vết thương cho tôi.
Lúc ấy đang đêm, trong phòng chỉ một ngọn đèn nhỏ leo lét, và dưới ánh sáng run rẩy của nó, tôi thấy người phụ nữ kia không phải ai xa lạ, mà là Ôtômi, không phờ phạc và gầy yếu vì tra tấn, mà hầu như vẫn xinh đẹp như rất lâu trước ngày Tênôctitlan bị cái đói phong tỏa.
- Ôtômi, em ở đây à? - Tôi hé đôi môi bị thương nói và rên lên, vì vừa tỉnh lại lập tức tôi nhớ tới những lời đe dọa của Gacxia.
- Vâng, chồng của em, em đây, - Ôtômi cũng khẽ đáp lại. - Chúng cho phép em chăm sóc anh. Đồ đáng nguyền rủa, hãy xem chúng làm gì với anh thế này? Nếu em có thể trả thù được!...
Ôtômi nức nở khóc.
- Xì! Khẽ chứ! - Tôi nói. - Có thức ăn không?
- Bao nhiêu tùy thích. Marina đã cho một người phụ nữ mang tới.
- Thế thì cho anh ăn đi, Ôtômi.
Rồi nàng bắt đầu cho tôi ăn, dần dần sự mệt mỏi chết chóc biến mất. Chỉ còn lại cái đau đang cắn rứt khắp cơ thể tội nghiệp của tôi.
- Này, Ôtômi, em có nhìn thấy Gacxia không?
- Không, chồng của em ạ. Cách đây hai ngày, chúng tách em khỏi Têsuixpô và những người phụ nữ khác nhưng em được đối xử tốt và không hề nhìn thấy một tên Tây Ban Nha nào, trừ những tên lính đã dẫn em tới đây. Chúng nói anh ốm. Ôi, bây giờ thì em hiểu bệnh của anh là gì!...
Rồi nàng lại khóc.
- Nhưng vẫn có người nào đấy nhìn thấy em và báo cho chúng biết rằng em là vợ anh.
- Điều ấy dễ hiểu, - Ôtômi đáp. - Người Aztec ai cũng biết lễ cưới của chúng ta, và giữ kín một điều bí mật như thế là không thể được. Nhưng vì sao chúng hành hạ anh đến mức này? Vì anh chống lại chúng ư?
- ƠŒ đây không có ai ngoài ta chứ? - Tôi hỏi.
- Bên ngoài có lính gác, nhưng trong phòng thì không.
- Thế thì cúi lại gần, anh sẽ nói em nghe.
Khi tôi giải thích mọi chuyện cho Ôtômi nghe xong, nàng liền đứng bật dậy, hai tay ôm ngực nói:
- Ôi, trước kia em đã yêu anh, bây giờ em còn yêu hơn nữa. Ai có thể chịu đựng nổi những sự đau đớn như thế để trung thành với lời thề và những người bạn đang thất cơ lỡ vận của mình? Thật hạnh phúc cái ngày lần đầu tiên em nhìn thấy anh, chồng của em, một người chung thủy nhất trong tất cả những người chung thủy! Nhưng những tên dám xử sự với anh thế này bây giờ đang ở đâu? Chúng sẽ không lại đây nữa chứ! Tất cả đã kết thúc và em sẽ chăm sóc anh cho đến khi bình phục hoàn toàn. Nếu không, chúng đã chẳng cho em tới đây.
- Than ôi, Ôtômi, anh buộc phải nói thật với em: chưa kết thúc đâu!
Rồi bằng giọng đứt quãng, tôi cho nàng biết tất cả, vâng, tất cả. Vì tôi không có quyền giấu nàng điều gì. Tôi giải thích vì sao chúng để nàng tới đây. Nàng lặng lẽ nghe tôi, chỉ đôi môi mấp máy, tái nhợt.
- Đúng là bọn người Teule còn độc ác hơn cả các quan tư tế của người da đỏ, - nàng nói khi tôi kể xong. - Các quan tư tế tra tấn và giết người để thờ thần chứ không phải thờ vàng và sự hiềm khích bí mật. Bây giờ chúng ta phải làm gì? Chồng của em hãy nói đi, anh phải nói em biết!
- Anh không dám, - tôi rên rỉ đáp.
- Anh giống một cô bé không dám thú nhận tình yêu đang rực cháy trong lòng, - Ôtômi nói với nụ cười buồn bã nhưng đầy kiêu hãnh. - Được, em sẽ nói thay cho anh. Anh đang nghĩ đêm nay chúng ta sẽ chết.
- Đúng, - tôi đáp. - Sau khi đã chịu đau đớn và nhục nhã, chúng ta sẽ phải chết, bây giờ hoặc ngày mai, - không còn sự lựa chọn nào khác. Nếu Chúa không giúp chúng ta, thì chúng ta sẽ tự giúp lấy mình, chúng ta chỉ còn một cách duy nhất.
- Chúa à? Không có Chúa nào cả! Có thời em nghi ngờ các vị thần của dân tộc em và đã quay sang ngưỡng mộ Chúa của anh. Nhưng bây giờ em từ bỏ và nguyền rủa ông ta! Nếu Chúa nhân từ như anh nói, lẽ nào ông ta nỡ để xảy ra điều này? Anh là vị thần duy nhất của em và em chỉ tôn thờ mình anh. Chẳng việc gì phải cầu mong điều không có thật! Còn nếu có cái gì đấy, thì cũng chẳng ai nghe thấu tiếng kêu rên của chúng ta hoặc nhìn thấy những cảnh đau khổ chúng ta đang chịu đựng. Vì vậy chỉ còn một cách là chúng ta hãy hy vọng vào bản thân mình. Kia, dây thừng kia. Cửa sổ có chấn song. Chỉ vài giây sau là chúng ta sẽ bay ra với thế giới mặt trời, tránh xa sự độc ác của bọn người Teule, hoặc đơn giản là chúng ta sẽ ngủ thiếp đi mãi mãi. Nhưng tạm thời chúng ta đang có thì giờ, chúng ta hãy nói chuyện thêm chút nữa! Có lẽ chúng sẽ không tới để tra tấn trước khi trời sáng, mà khi trời sáng thì chúng ta đã ở xa đây.
Sau đó chúng tôi tiếp tục nói chuyện. Chúng tôi nhớ lại về cuộc gặp gỡ đầu tiên, về việc Ôtômi được trao cho tôi, thần Têcatlipôca, linh hồn của Thế giới, về cái ngày chúng tôi nằm bên nhau trên bàn thờ tế thần, về lễ cưới thật sự của chúng tôi, về cuộc vây hãm thành Tênôctitlan và về đứa con đầu lòng đã chết.
Cứ thế chúng tôi nói chuyện cho tới quá nửa đêm, và chỉ ngừng lời vào lúc hai giờ sáng. Trong phòng là một sự im lặng nặng nề. Cuối cùng, Ôtômi nói với tôi, giọng khàn khàn nhưng trịnh trọng:
- Anh bị cái đau giày vò, còn em thì sự mệt mỏi. Thời gian dẫn đến việc nhất định sẽ xảy ra. Số phận đáng buồn thật, nhưng phía trước đang chờ ta là sự bình yên. Cảm ơn anh, chồng em, vì lòng tốt của anh, nhưng em còn biết ơn anh hơn nữa về sự chung thủy của anh đối với gia đình và dân tộc em. Anh hãy ra lệnh để em chuẩn bị tất cả cho hành động cuối cùng của chúng ta đi.
- Em hãy chuẩn bị đi! - Tôi đáp.
Ôtômi đứng dậy chuẩn bị dây thừng. Một lúc sau mọi thứ sẵn sàng. Giờ đã điểm.
- Giúp anh với Ôtômi, - tôi nói. - Anh không tự đi được.
Nàng đỡ tôi dậy bằng đôi tay dịu dàng nhưng khỏe mạnh của mình, rồi đặt tôi lên chiếc ghế dưới cửa sổ. Sau đó nàng luồn dây thòng lọng vào cổ tôi rồi đứng cạnh tôi, luồn thòng lọng thứ hai vào cổ mình. Trong sự im lặng thiêng liêng ấy, chúng tôi hôn nhau lần cuối cùng. Những điều cần nói đã được nói hết.
Bỗng Ôtômi hỏi tôi:
- Trong giây phút này chồng của em đang nghĩ gì? Về em? Về đứa con đã chết của chúng ta? Hay về cô gái đang sống bên kia bờ đại dương xa xôi? Không, đừng trả lời! Em đã được hưởng hạnh phúc trong tình yêu của em, như thế là đủ. Bây giờ tình yêu của em sẽ bị cắt đứt cùng một lúc với cuộc sống. Em chẳng có gì phải hối tiếc, em chỉ tiếc cho anh. Hãy ra lệnh đi, em sẽ xô đổ ghế. Chỉ cần anh nói: vâng!...
- Vâng, Ôtômi. Chúng ta chẳng còn gì nữa để hy vọng, ngoài cái chết. Anh không thể phản bội lại Guatêmôc, cũng như anh không thể chịu đựng nổi sự nhục nhã và đau đớn của em.
- Thế thì hãy hôn em lần nữa!
Tôi hôn nàng, và Ôtômi ẩy cái ghế ra, định xô nó ngã. Đúng lúc ấy cửa phòng bỗng mở rộng và liền đóng chặt lại. Trước chúng tôi là một người đàn bà che kín mặt với bó đuốc trong một tay, còn tay kia cầm một bọc gì đấy. Thấy cảnh rùng rợn kia, cô ta liền chạy bổ về phía chúng tôi, kêu to:
- Các người làm gì thế? Teule, anh điên mất rồi!
Lập tức tôi nhận ra đó là giọng của Marina.
- Người đàn bà này là ai, chồng của em? - Ôtômi hỏi.- Tại sao cô ta lại biết anh? Và tại sao cô ta ngăn không cho chúng ta chết!
- Tôi là Marina, - người đàn bà trùm khăn kín mặt đáp. - Tôi tới đây để cứu các người, nếu có thể.
XXX
CHẠY TRỐN
Otômi tháo chiếc thòng lọng khỏi cổ, bước xuống sàn và đứng trước Marina.
- Cô đấy à, Marina? - Nàng nói một cách kiêu hãnh và lạnh lùng - Cô mà đến cứu chúng tôi, cô, người đã phản bội lại Tổ quốc, người đã bắt hàng nghìn người con của đất nước phải chịu nhục nhã, chết chóc và tra tấn? Nếu chỉ một mình tôi, tôi sẽ không cần đến sự giúp đỡ của cô, và sẽ chết như tôi mong muốn.
Chưa bao giờ trông Ôtômi có vẻ đường bệ như khi ấy, khi nàng từ chối khả năng trốn thoát cuối cùng, chỉ để bộc lộ sự khinh bỉ của nàng đối với người nàng gọi là phản bội. Mà đúng Marina phản bội thật. Không có cô ta, chắc gì Côrtex chiếm được Anahuac?
Tôi nghe những lời nói giận dữ của Ôtômi mà run lên. Mặc dù phải chịu muôn vàn đau đớn, tôi vẫn yêu quý cuộc sống, tuy cách đấy chỉ mười giây tôi đã sẵn sàng bước qua ngưỡng cửa cái chết. Không lẽ bây giờ Marina bỏ đi và chúng tôi sẽ chết? Nhưng điều ấy đã không xảy ra. Marina chỉ hơi lùi lại, rùng mình trước cái nhìn của Ôtômi.
- Xin công chúa cho tôi biết,- Marina nói bằng giọng dịu dàng của cô ta, - nếu người ta không nói dối tôi thì hình như cô đã nằm trên thớt chém để cùng chết với con người này? Vì sao cô làm thế?
- Vì tôi yêu anh ấy.
- Cũng vì lý do ấy mà tôi, Marina, đã vứt bỏ danh dự của tôi lên một chiếc bàn thờ khác, cũng vì lý do ấy, tôi đã chống lại đồng bào đất nước tôi, vì tôi cũng yêu một người, như cô. Chỉ vì yêu mà tôi giúp Côrtex, bởi vậy cô đừng khinh tôi. Tình yêu của cô sẽ giúp cô thanh minh cho tôi, vì đối với phụ nữ chúng ta, tình yêu là tất cả. Nếu tôi có tội, thì vì cái tội ấy tôi sẵn sàng chịu đựng những hình phạt ghê gớm nhất.
- Cô đáng như thế, - Ôtômi ngắt lời. - Tình yêu của tôi không gây hại cho ai, còn cô? Hãy nhìn kia, đây mới chỉ là một hạt thóc trong cả mùa thu hoạch của cô. Trên chiếc ghế này, Côrtex, người yêu của cô, bất chấp những lời hắn hứa, đã tra tấn vua Guatêmôc. Còn trên chiếc ghế bên cạnh là chồng tôi và là bạn Teule của cô, người đã được Côrtex trao vào tay Gacxia, hay còn gọi là Xacxêđa. Hãy nhìn xem hắn đã làm gì với bạn cô! Ồ không, hỡi người đàn bà tốt bụng kia, đừng ngoảnh mặt đi, hãy nhìn các vết thương cho thật kĩ! Hãy nghĩ xem chúng đã đưa chúng tôi tới mức nào, để chúng tôi phải quyết định tự tử chết ở đây như những con chó; chồng tôi vì không thể chịu đựng nổi việc tôi bị tra tấn, còn tôi thì vì là con gái Môntêzuma, công chúa của dân tộc Ôtômi, tôi không cho phép mình phải chịu một sự nhục nhã như thế. Thà chết còn hơn! Mà đó chỉ là một phần rất nhỏ trong những việc cô đã làm. Cô, kẻ phản bội đã bị nguyền rủa! Trên những đống đổ nát của thành Tênôctitlan, cô đang thu hoạch vụ mùa của sự nhục nhã và chết chóc. Nếu được quyền quyết định, tôi thà chết mười lần còn hơn được cứu thoát bởi bàn tay đã thấm máu dân tộc tôi. Có thời nó cũng là dân tộc của cô!...
- Ôi, im đi, im đi, tôi van cô! - Marina năn nỉ, hai tay che mặt như sợ nhìn Ôtômi. - Việc đã làm không làm lại được nữa, cô giày vò tôi như thế làm gì?  Nhưng không lẽ chúng đưa cô, công chúa Ôtômi, tới đây là để tra tấn?
- Vâng, tra tấn trước mặt chồng tôi! Con gái Môn- têzuma, công chúa dân tộc Ôtômi, có gì tốt hơn vua Anahuac? Nếu việc tôi là phụ nữ không ngăn được chúng, thì lẽ nào chúng còn đếm xỉa tới địa vị cao quý của tôi trước kia?
- Côrtex hoàn toàn không biết gì về điều này, tôi xin thề như thế! - Marina kêu lên. - Còn tất cả những việc khác thì do ông ấy bị bọn lính bắt làm. Chúng đang nổi loạn, kêu to rằng Côrtex đã ăn cắp kho báu mà chính ông ta chưa bao giờ nhìn thấy. Nhưng trong việc này ông ấy không có lỗi! Ông ấy không biết!...
- Thế thì cứ hỏi Xacxêđa, đầy tớ của ông ấy.
- Tôi hứa sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để trả thù Xacxêđa về việc này. Nhưng thưa công chúa, chúng ta phải nhanh lên. Theo lệnh của Côrtex, tôi tới đây để hỏi chồng cô về bí mật kho báu vua Môntêzuma. Nhưng vì tình bạn, tôi sẵn sàng lừa dối Côrtex và giúp hai người trốn khỏi đây. Cô có chấp nhận sự giúp đỡ của tôi không?
Ôtômi im lặng. Lúc ấy, lần đầu tiên tôi lên tiếng, nói:
- Marina, tôi hoàn toàn không muốn chết với chiếc thòng lọng trên cổ như một tên trộm nào đó, nhưng trốn làm sao được?
- Kể ra hy vọng không nhiều lắm, nhưng tôi nghĩ nếu hai người thay quần áo đóng giả người khác đi ra khỏi nhà tù, thì có thể trốn thoát được. Trước khi trời sáng, trong trại chắc không có ai tỉnh dậy, nếu có cũng chỉ ít người tỉnh táo. Bọn chúng đứa nào cũng say bí tỉ. Hãy nhìn đây, Teule, tôi mang tới cho anh một bộ quần áo lính Tây Ban Nha. Da anh ngăm đen, và giữa lúc nhập nhoạng, có thể nghĩ anh là người Tây Ban Nha được. Còn công chúa vợ anh, tôi có mang một bộ quần áo khác. Tôi lấy làm xấu hổ, nhưng đấy là bộ quần áo duy nhất có thể giúp một người phụ nữ tự do ra vào trại ban đêm. Ngoài ra tôi còn mang cho anh thanh kiếm mà người ta đã tước của anh, mặc dù tôi biết có thời nó thuộc về một người khác.
Vẫn tiếp tục nói, Marina cởi chiếc túi, lấy ra bộ quần áo và thanh kiếm mà tôi tước được của một người Tây Ban Nha tên là Điax trong trận Đêm buồn đẫm máu. Nhưng trước hết Marina đưa bộ quần áo phụ nữ cho Ôtômi. Đó là bộ quần áo màu vàng gạch mà chỉ những người phụ nữ da đỏ đi theo các toán lính mới mặc. Vừa nhìn thấy, Ôtômi đã giật mình lùi lại.
- Marina, cô mang tới cho tôi chính bộ quần áo của cô, - nàng bình tĩnh nói, với vẻ khinh bỉ và với niềm tự hào hoang dã, đến mức thậm chí là người sống lâu giữa bộ lạc của nàng, tôi cũng phải lấy làm ngạc nhiên, - có lẽ cô nhầm, ít ra tôi sẽ không mặc nó vào người.
- Thế thì quá đáng quá! - Marina nói, lúc này cô ta đã mất hết kiên nhẫn và che giấu một cách vô ích những giọt nước mắt đang lăn trên má. - Tôi không thể chịu thêm được nữa. Tôi đi đây, vĩnh biệt!
Marina bắt đầu gói lại bó quần áo, nhưng tôi đã vội xen vào:
- Hãy tha thứ cho Ôtômi. Marina! Vì quá đau khổ, cô ấy mới nói như thế!
Lòng mong muốn được chạy trốn mỗi lúc một lớn thêm trong tôi. Tôi quay sang Ôtômi, nói:
- Anh yêu cầu em hãy tỏ ra thân thiện hơn, ít ra là vì anh. Marina là hy vọng cuối cùng của chúng ta.
- Thà cô ấy để chúng ta chết còn hơn. Thôi được, vì anh, em sẽ mặc bộ quần áo này của con đĩ. Nhưng làm sao chúng ta có thể ra khỏi đây, và sau đó ra khỏi trại? Ai sẽ mở cửa cho ta, ai sẽ cho bọn lính canh thôi gác? Và thậm chí nếu không bị chúng phát hiện, làm sao anh đi được?
- Cửa sẽ không mở, - Marina đáp. - Người đã cho tôi vào đây đang chờ ở bên ngoài để đóng cửa lại khi tôi đi khỏi. Còn bọn lính canh thì chẳng có gì phải sợ, xin cứ tin như thế. Hãy nhìn kia, Teule, chấn song cửa sổ bằng gỗ, kiếm anh chặt gẫy không khó lắm. Còn nếu sau đó bị bọn lính canh nhìn thấy, thì anh cứ giả vờ làm một tên lính say rượu đang bị một người đàn bà dẫn về với đồng bọn. Sau đó sẽ thế nào thì chính tôi cũng không biết. Tôi chỉ biết rằng vì hai người, tôi đang liều mạng chính cuộc sống của tôi. Nếu bị phát giác tôi giúp anh và vợ anh chạy trốn thì khó lòng mà tôi làm dịu được cơn giận của Côrtex. May mà chiến tranh đã kết thúc, nhưng than ôi, bây giờ tôi không còn cần cho ông ấy như trước kia nữa.
- Tôi có thể nhảy xuống bằng chân phải, - tôi nói. - Còn những việc khác thì đành trông chờ vào may rủi. Dù sao, nếu có chuyện gì xảy ra, cũng không thể tồi tệ hơn lúc này được.
- Vĩnh biệt, Teule, đã đến lúc tôi phải đi. Tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được. Mong ngôi sao hạnh phúc sẽ giúp anh thoát khỏi nơi đây an toàn. Nếu chúng ta chẳng bao giờ còn gặp nhau, tôi mong anh ít ra đừng nghĩ xấu về tôi, vì ở đời này vốn đã có quá nhiều người nguyền rủa tôi thậm tệ.
- Vĩnh biệt Marina, - tôi đáp, và cô ta đi ra.
Chúng tôi nghe rõ tiếng cửa khép chặt sau lưng Marina, và bước chân những người khiêng cô ta trên kiệu mỗi lúc một bé dần. Sau đó, tất cả lại rơi vào yên tĩnh. Ôtômi còn đứng bên cửa sổ lắng nghe một lúc nữa, nhưng hình như bọn lính canh đã bỏ đi hẳn, - vì sao và đi đâu thì cho đến bây giờ tôi vẫn không biết. Chỉ có tiếng bọn lính say rượu từ xa vọng lại.
- Phải bắt tay vào việc ngay! - Tôi nói.
- Tùy anh, nhưng em sợ tất cả chỉ vô nghĩa. Em không tin người đàn bà ấy. Kẻ phản bội ấy sẽ phản bội chúng ta. Nhưng thôi, ít nhất bây giờ anh có được thanh kiếm, và chắc anh sẽ biết sử dụng nó.
- Em nói gì vậy? - Tôi ngắt lời nàng. - Trên đời này chẳng có gì đáng sợ bằng sự tra tấn và cái chết, mà cả hai thứ đó đều đang chờ chúng ta. Thế thì còn phải sợ gì nữa?
Tôi đứng lên chiếc ghế, và lợi dụng đôi tay còn khỏe và lành lặn, tôi bắt đầu dùng lưỡi kiếm sắc chặt đứt hết chấn song này đến chấn song khác, cho đến khi thành một lỗ hổng đủ chui qua. Trong suốt thời gian ấy không thấy có ai ở gần. Sau đó Ôtômi giúp tôi mặc bộ quần áo lính Tây Ban Nha mà tự mình tôi không mặc nổi. Khó hình dung được tôi đã phải đau đớn thế nào khi mặc bộ quần áo đáng nguyền rủa ấy, nhất là khi phải xỏ đôi chân bị đốt cháy vào đôi ủng dài, cứng dành cho lính. Mấy lần tôi dừng lại, tự hỏi hay thà chết còn hơn phải chịu những đau đớn kinh khủng như thế. Cuối cùng tôi cũng mặc xong, bây giờ đến lượt Ôtômi phải khoác lên người bộ quần áo nhục nhã mà đối với phần lớn phụ nữ da đỏ, còn đáng sợ hơn cả cái chết. Tôi có cảm giác mặc nó, nàng còn đau đớn hơn tôi, dù đau theo kiểu khác, vì đối với nàng Ôtômi kiêu hãnh, bộ quần áo này vượt quá sức chịu đựng.
Cuối cùng, mọi thứ xong xuôi. Ôtômi với dáng điệu lẳng lơ đi trước tôi, và hỏi tôi bằng nụ cười giễu cợt man dại:
- Thế nào, anh lính, trông em có ngon không? Nào, đi cùng em!...
- Thôi đi, đừng chơi trò ngốc nữa! - Tôi ngắt lời nàng. - Chúng ta phải cải trang thành ai thì có gì quan trọng, khi vấn đề liên quan tới việc sống hay chết?
- Quan trọng đấy, chồng của em ạ. Nhưng anh là đàn ông và là người nước ngoài, anh không hiểu nổi! Em chui qua cửa sổ trước, và sẽ đứng chờ anh. Nếu anh không chui qua nổi, em sẽ lại chui vào, và chúng ta sẽ kết thúc trò chơi hóa trang này.
Nói đoạn, Ôtômi nhanh chóng chui qua lỗ hổng. - Nàng khỏe mạnh và uyển chuyển như một con ôxelôt Một loại thú dữ thuộc họ mèo, nhưng lớn hơn, sống ở vùng nhiệt đới châu Mỹ). Đứng lên ghế, tôi cũng cố làm theo nàng, chừng nào các vết thương cho phép. Tôi đã chui qua được nửa người, nhưng bỗng bị kẹt lại và treo lửng lơ như con mèo chết. Cuối cùng, Ôtômi túm lấy người tôi kéo mạnh ra ngoài và cả hai cùng ngã xuống đất. Không kìm nổi, tôi đã rên lên vì đau. Ôtômi dựng tôi đứng lên trên hai chân, chính xác hơn là một chân, vì chân kia quá đau không đi nổi. Chúng tôi ngoái lại nhìn. Xung quanh không có ai, thậm chí cả những tiếng rống lên vì say rượu cũng tắt hẳn. Đỉnh Pôpôcatêpêtli đã được nhuốm hồng bởi những tia mặt trời đầu tiên. Bình minh bắt đầu hé rạng.
- Đi đâu bây giờ? - Tôi hỏi.
May mà Ôtômi cùng với chị gái của mình là vợ Guatêmôc và những người đàn bà khác được phép tự do đi lại trong trại, và như phần lớn những người da đỏ, nàng nhớ rất rõ con đường mà nàng đi qua dù chỉ một lần, vì vậy bây giờ Ôtômi có thể dẫn tôi đi cả trong bóng tối.
- Ta đi tới cổng phía nam, - nàng thì thầm, - có thể bây giờ, khi không còn đánh nhau nữa, chúng không gác ở đấy. Ít ra thì em biết lối đi hướng đó.
Chúng tôi đi, tôi nhảy lò cò một chân, tay tựa vào vai Ôtômi. Vất vả lắm chúng tôi mới đi được khoảng ba trăm mét, không hề gặp người nào, nhưng sau đó vận may không còn mỉm cười với chúng tôi nữa. Khi rẽ góc một ngôi nhà nào đó, chúng tôi chạm trán với ba tên lính Tây Ban Nha cùng mấy tên hầu đang trở về sau buổi chè chén ban đêm.
- Lại ai đây thế này? - Một tên gào to. - Tên mày là gì, ông bạn?
- Chào người anh em, chúc một đêm tốt lành, tạm biệt nhé! - Tôi đáp bằng tiếng Tây Ban Nha, với giọng của một gã say rượu.
- Mày muốn nói là chào buổi sáng chứ gì? - Tên kia phá lên cười, vì quả thật lúc ấy trời đã rạng sáng. Nhưng tên mày là gì? Sao tao không nhận ra mày nhỉ, mà trông thì lại quen quen. Hay chúng ta đã gặp nhau trong các trận đánh?
- Cậu không có quyền hỏi tên tớ! - Tôi đáp với vẻ quan trọng, người luôn ngả bên này, nghiêng bên kia. Lạy Chúa, đừng để viên chỉ huy của tớ biết, không thì khốn. Chả là lão ấy không uống rượu mà. Nào, cô nàng, đưa tay anh dắt, đã đến lúc phải đi ngủ, tạm biệt. Này, nhìn kia, mặt trời đang lặn đấy!
Bọn lính phá lên cười hô hố, một đứa nói với Ôtômi:
- Bỏ quách cái thằng ngốc say rượu này đi, cô em xinh đẹp, rồi đi với bọn anh.
Hắn túm tay nàng kéo, nhưng Ôtômi liền quay sang nhìn hắn với vẻ dữ dội đến mức hắn phải ngạc nhiên lùi lại; chúng tôi lảo đảo đi tiếp.
Khi bọn lính khuất sau nhà, sức lực rời bỏ tôi hoàn toàn. Tôi ngã lăn xuống đất vì đau đớn không sao chịu nổi: khi gặp bọn lính, tôi phải giẫm cả chân đau mà đi bình thường để chúng khỏi nghi ngờ. Ôtômi tìm cách đỡ tôi dậy.
- Dậy đi, chồng của em! - Chúng ta phải đi tiếp nếu không sẽ chết.
Vừa rên rỉ, tôi vừa đứng dậy. Thật khó lòng nói hết chúng tôi phải chịu đựng đau đớn và vất vả thế nào để tới được cổng trại phía nam. Tôi có cảm giác tôi đã chết mười lần trước khi tới được đấy. Thật may là cạnh cổng không có một tên lính nào: tất cả bọn lính Tây Ban Nha đang ngủ trong phòng canh. Chỉ ba tên Tlatxcalan đang ngồi ngủ gật bên một đống lửa nhỏ, áo khoác trùm kín đầu. Vào buổi rạng sáng, trời mát dễ chịu.
- Hãy mở cổng ra, mấy con chó kia! -Tôi oai vệ quát!
Thấy trước mặt là một người lính Tây Ban Nha, một tên Tlatxcalan liền đứng dậy, rồi suy nghĩ một lát, hắn hỏi:
- Để làm gì? Ai ra lệnh?
Tôi không nhìn rõ mặt hắn vì bị chiếc áo khoác phủ kín, nhưng giọng thì nghe quen quen làm tôi rất sợ. Tuy nhiên vẫn phải trả lời.
- Để làm gì à? Để tao, một thằng say rượu, được ngủ trên cỏ cho đến khi tỉnh dậy. Ai ra lệnh à? Tao, sĩ quan trực, ra lệnh! Nhanh lên, kẻo tao cho đánh vào đít mày đến khi mày bỏ hẳn cái thói hỏi những câu ngốc nghếch vừa rồi. Mày nghe rõ chứ?
Tên kia tỏ ý do dự.
- Hay tao đánh thức các ông Teule dậy? - Hắn nói với thằng bên cạnh.
- Không cần, tên kia đáp, - ông Xacxêđa mệt và ra lệnh không được quấy rầy ông vô ích. Cho họ ra hay không thì tùy, nhưng không được đánh thức ông ấy dậy.
Tôi run lên từ đầu đến chân: Gacxia đang ở trong phòng canh! Sẽ thế nào nếu hắn đã dậy? Sẽ thế nào nếu bây giờ hắn đi ra và nhìn thấy tôi? Thêm vào đó, cuối cùng tôi đã nhận ra giọng nói của tên Tlatxcalan kia, - hắn là một trong những đứa đã tra tấn tôi. Mong sao hắn đừng nhìn thấy mặt tôi, nếu không chắc chắn hắn sẽ nhận ra.
Sững sờ vì kinh sợ, tôi không nói thêm được lời nào nữa, và nếu không có Ôtômi, câu chuyện của tôi đến đây coi như chấm dứt. Lúc ấy, nàng bắt đầu đóng vai của mình và đóng một cách tuyệt vời. Bằng những câu đùa lính tráng tục tĩu, nàng bắt được tên Tlatxcalan kia cười, và hắn đã mở cổng. Chúng tôi đi qua chúng một quãng, quá mệt mỏi, tôi vấp, ngã lăn xuống đất.
- Dậy đi, anh bạn, dậy đi! - Ôtômi vừa kéo tôi vừa cười một cách thô tục. - Nếu muốn ngủ thì hãy chờ chút nữa, khi ta tìm được một chỗ kín đáo nào đó trong bụi.
Nàng cúi xuống đỡ tôi dậy. Tên Tlatxcalan kia vừa cười vừa vội vàng chạy đến giúp. Và tôi đã đứng dậy được. Nhưng khi đứng dậy, chiếc mũ tôi đội che gần kín khuôn mặt bỗng rơi xuống đất. Tên Tlatxcalan nhặt đưa cho tôi, và đúng lúc ấy mắt chúng tôi gặp nhau. May mà ánh sáng chiếu từ phía sau, nên mặt tôi bị khuất bóng.
Một giây sau, tôi đã đi tiếp, vừa đi vừa nhảy lò cò. Tôi ngoái lại nhìn và thấy tên Tlatxcalan kia đang ngơ ngác nhìn theo chúng tôi, như thể không tin những điều hắn vừa thấy.
- Hắn đã nhận ra anh, - tôi khẽ bảo Ôtômi. - Bây giờ hắn sẽ đuổi theo ta. - Nhanh lên, nhanh lên! - Nàng nói. - Đằng sau chỗ ngoặt kia có các bụi cây aga. Chúng ta sẽ trốn ở đó.
- Anh không đi nổi! Không còn sức nữa, - tôi thì thào và lại bắt đầu ngã xuống. May lắm Ôtômi mới kịp đỡ tôi. Và rồi, đem hết sức, nàng bỗng bế tôi lên tay và ôm đi, như bà mẹ ôm chặt đứa trẻ vào ngực. Tình yêu và sự tuyệt vọng đã giúp nàng bế tôi đi như thế khoảng năm mươi bước, đến những bụi cây aga, cả hai chúng tôi cùng ngã lăn xuống đất.
Tôi đưa mắt nhìn về phía con đường nhỏ chúng tôi vừa đi qua. ƠŒ đấy xuất hiện tên Tlatxcalan kia với chiếc gậy lớn có gắn những mảnh thủy tinh sắc nhọn. Rõ ràng hắn quyết tâm giết chết chúng tôi để khỏi phải nghi ngờ gì nữa.
- Thế là hết, - tôi khẽ nói, - hắn đang đi tới đây.
Thay cho việc trả lời, Ôtômi rút kiếm khỏi vỏ và giấu dưới cỏ.
- Bây giờ hãy nhắm mắt lại, - nàng thì thào bảo tôi. - Hãy làm ra vẻ đang ngủ. Đây là hy vọng cuối cùng của chúng ta.
Tôi đưa khuỷu tay che mặt, giả vờ ngủ. Tôi nghe rõ tiếng chân của tên Tlatxcalan kia đang đi tắt qua đám cỏ. Mấy giây sau, hắn đã đến đứng trước tôi.
- Anh cần gì? - Ôtômi hỏi. - Sao, anh không thấy anh ta đang ngủ à? Không được đánh thức anh ta dậy!
- Trước hết, tôi phải nhìn mặt con người này đã, cô gái ạ, - hắn vừa đáp vừa nhấc tay tôi lên. - Ôi, lạy thần thánh, quả đúng như tôi nghĩ! Hắn chính là tên Teule mà hôm qua tôi đã tra tấn! Thì ra hắn chạy trốn.
- Anh điên rồi chắc! - Ôtômi phá lên cười. - Nếu anh ta có chạy trốn thì chỉ vì uống rượu say rồi đánh nhau.
- Cô nói dối, cô gái ạ, hoặc là cô không nghe gì cả. Con người này biết nơi chôn cất kho báu của vua Môntêzuma. Người ta treo giải thưởng lớn cho ai bắt được hắn nói.
Rồi hắn vung chiếc gậy của hắn lên.
- Khoan đã, nếu vậy tại sao lại giết anh ta? Tất nhiên tôi không biết chuyện gì nhưng nếu cần mời anh cứ bắt. Từ lâu tôi đã chán thằng say này lắm rồi.
- Cô nói đúng đấy! Chẳng ngốc gì mà giết hắn. Tốt hơn là giao hắn cho ông Xacxêđa, chắc ông ta sẽ khen và cho thưởng. Này, giúp tôi một tay!
- Anh tự làm lấy, - Ôtômi giận dữ đáp. - Có điều trước hết nên moi thử các túi của hắn, biết đâu lại chẳng tìm thấy gì cho hai chúng ta?
- Đúng lắm, - tên kia nói, quỳ xuống trước tôi và bắt đầu lần mò các túi. Ôtômi đứng sau hắn. Bỗng nhiên tôi thấy mặt nàng méo xệch, đôi mắt lóe lên những tia khủng khiếp như mắt bọn tư tế khi giết người làm lễ dâng thần. Nhanh hơn cả ý nghĩ, nàng rút thanh kiếm từ cỏ lên và vung tay chém mạnh một nhát vào gáy hắn.
Hắn ngã gục, không phát ra một tiếng kêu nào. Ôtômi cũng ngã, nhưng chỉ một giây sau nàng đã đứng dậy, vẫn cầm chặt thanh kiếm trần trong tay và mắt không rời khỏi tên lính đã chết.
- Dậy đi anh, chừng nào những đứa khác chưa tới đây tìm hắn! Anh phải đứng dậy!
Thế là chúng tôi lại lên đường đi tiếp, xuyên qua các bụi rậm. Đầu óc tôi quay cuồng hỗn độn. Đôi lúc tôi có cảm giác như tất cả những cảnh này chỉ là một giấc mơ khủng khiếp, và trong giấc mơ ấy, tôi bước đi như bước trên một tấm sắt nung đỏ, như qua màn sương mù, tôi nhìn thấy một đám đông với những mũi giáo tua tủa xuất hiện. Ôtômi dang rộng hai tay chạy về phía họ. Tiếp đến tôi không còn nhớ gì nữa.
XXXI
ÔTÔMI NÓI VỚI ĐỒNG BÀO CỦA NÀNG
Tôi tỉnh dậy thấy mình đang ở trong một hang đá được chiếu sáng mờ mờ. Ôtômi cúi xuống cạnh tôi, xa hơn một chút có một người nào đó đang ném những túm cỏ khô vào ngọn lửa dưới một chiếc bình sành đang sôi.
- Chúng ta đang ở đâu thế này? - Tôi hỏi. - Chuyện gì đã xảy ra?
- Chúng ta đã được cứu sống, chồng của em ạ, - Ôtômi đáp. - Ít ra thì tạm thời anh đang an toàn. Anh ăn đi, rồi em sẽ kể mọi chuyện anh nghe.
Nàng mang tới cho tôi một ít cháo và bánh ngô. Tôi ăn một cách. Khi thấy tôi đã đỡ đói, Ôtômi nói:
- Anh có nhớ khi tên Tlatxcalan nọ lao vào chúng ta, và em đã... đã giết nó thế nào không?
- Nhớ, có điều anh không hiểu em lấy đâu sức để chém hắn.
- Tình yêu và sự tuyệt vọng đã cho em sức mạnh, nhưng em không bao giờ muốn lặp lại điều này nữa. Anh đừng nhắc lại. Cứ nghĩ mà thấy khiếp. Chỉ còn một an ủi duy nhất là có lẽ hắn chưa chết: lúc ấy kiếm bị lật ngược và hình như nó chỉ bị em đánh ngất.
Sau đó chúng ta bỏ chạy. Được một quãng, em ngoái lại nhìn và thấy hai tên bạn của hắn đang đi theo sau đường chúng ta đã đi. Chúng dừng lại một lát cạnh tên lính đang nằm bất tỉnh nhân sự, rồi vội vàng đuổi theo chúng ta. Anh không đi nổi, lại đang suýt ngất, còn em thì không đủ sức để ôm anh đi nữa. Chúng đã tiến lại gần cho đến khi khoảng cách chỉ còn lại chưa đầy năm mươi bước. Rồi bỗng nhiên em nhìn thấy có bảy tám người trang bị khí giới từ bụi rậm nhảy ra. Đó là những người Ôtômi, quân lĩnh của anh. Họ đang theo dõi trại lính Tây Ban Nha và vừa nhìn thấy anh, họ đã suýt giết chết, vì lúc ấy em quá mệt không kịp giải thích cho họ. Cuối cùng em nói được mấy lời, cho họ biết em là ai, và anh đang ở trong tình trạng nào. Đúng lúc ấy, bọn Tlatxcalan đuổi kịp. Em kêu gọi những người Ôtômi giúp đỡ, họ lao vào tấn công trước khi chúng kịp định thần lại. Một tên bị giết ngay tại chỗ, tên kia bị bắt làm tù binh. Sau đó họ làm cáng, cáng anh đi suốt hai mươi dặm không nghỉ, vào sâu trong núi, cho đến khi tới cái hang bí mật này. Anh đã ở đây ba ngày đêm. Bọn Teule tìm kiếm anh khắp nơi nhưng không thấy. Chỉ hôm qua có hai tên Tây Ban Nha và khoảng một chục tên Tlatxcalan đi ngang qua đây, cách hang một trăm bước, và phải vất vả lắm em mới giữ được để các chiến binh của ta không nhảy ra tấn công chúng. Bây giờ bọn chúng đã đi hết, em nghĩ ít ra trong một thời gian nữa chúng ta sẽ được an toàn. Khi anh khỏe hơn, chúng ta sẽ đi tiếp.
- Đi đâu? Ôtômi, bây giờ chúng ta như chim không tổ.
- Chỉ còn lại một cách là xin được nương thân ở thành Xôxen hay chạy về phía biển. Chỉ thế thôi, không có nhiều để chọn.
- Xuống biển thì không có gì để nghĩ: chỉ tàu Tây Ban Nha mới tới được nơi này. Còn chúng ta sẽ được đón tiếp thế nào ở thành Xôxen thì anh không biết,  vì chúng ta đã bị đánh bại, và hàng nghìn chiến binh Ôtômi bị giết chết.
- Buộc phải mạo hiểm thôi, chồng của em ạ. ƠŒ Anahuac còn có những người chân thật, những người biết tự bảo vệ mình và bảo vệ chúng ta trong giờ phút đau buồn này. Anh và em còn vượt qua những nỗi nguy hiểm còn lớn hơn thế. Còn bây giờ hãy để em băng các vết thương cho anh. Anh nghỉ đi.
Tôi còn nằm ở hang đá ấy thêm ba ngày nữa. Ôtômi chăm sóc tôi. Sang đêm thứ tư, khi tôi đã có thể nằm trên cáng để người khác khiêng, - chỉ mấy tuần sau tôi mới tự đi được, - chúng tôi bắt đầu lên đường. Các chiến binh cáng tôi trên vai cho tới tận khe núi dẫn thẳng đến thành Xôxen.
ƠŒ đây, lính canh ngăn chúng tôi lại. Ôtômi kể cho họ nghe câu chuyện của chúng tôi và yêu cầu một người nào đấy đi trước báo cho thủ lĩnh thành phố. Chúng tôi cũng đi theo. Mệt mỏi vì đường dài, các chiến binh đi rất chậm, và chúng tôi đã tới cổng của thành phố tuyệt đẹp này đúng vào lúc ánh hoàng hôn nhuộm đỏ đỉnh núi phủ tuyết của núi lửa Haca.
Tin đồn về chúng tôi đã lan khắp thành phố. Từng đám đông tụ tập khắp nơi, lặng lẽ nhìn theo chúng tôi, và chỉ thỉnh thoảng mới có một người đàn bà nào đấy có chồng hay con vừa bị giết chết ở Tênôctitlan ném lên chúng tôi đôi câu nguyền rủa.
Than ôi, bây giờ chúng tôi được đón tiếp khác hẳn một năm trước đây, khi lần đầu chúng tôi tới thành Xôxen. Lúc ấy đi theo chúng tôi là cả một đội quân mười nghìn chiến binh dũng cảm, là các nhạc công, ca sĩ, và đường chúng tôi đi được rải đầy hoa đẹp. Còn bây giờ thì sao? Bây giờ chúng tôi chỉ là hai người đáng thương hại đang chạy trốn khỏi sự trả thù của bọn Teule. Bốn chiến binh cáng tôi, Ôtômi đi cạnh vì chẳng còn ai nữa để cáng nàng, còn đám phụ nữ thì cười giễu nàng vì bộ quần áo con đĩ nàng đang mặc, - cho đến lúc ấy nàng vẫn chưa kiếm được bộ nào khác. Dân chúng trong thành nguyền rủa chúng tôi như nguyền rủa những kẻ đã gây nên tai họa cho họ: cũng may mà họ đã dừng lại ở những lời nguyền rủa ấy!
Cuối cùng chúng tôi đi ngang qua quảng trường, nơi bóng kim tự tháp đã bắt đầu đổ xuống, và khi đến khu lâu đài cổ có những hình điêu khắc cầu kì, thì màn đêm đột ngột buông xuống, cột khói đang phun từ miệng núi Haca thiêng liêng được chiếu sáng từ bên trong, trông như một ngọn lửa dài đỏ rực.
Trong cung điện hầu như chẳng có gì được chuẩn bị sẵn. Hôm ấy trong bữa tối, dưới ánh đuốc, chúng tôi chỉ ăn măng khô và bánh nhạt rưới nước lã như những người nghèo khổ nhất. Sau đó chúng tôi đi ngủ. Các vết thương đau không cho tôi ngủ: một lúc sau tôi nghe bên cạnh có tiếng khóc của Ôtômi. Nghĩ tôi đã ngủ, nàng khóc thút thít. Thậm chí cả bản tính đầy tự hào của nàng lần này cũng bị bẻ gãy. Từ trước tới nay chưa bao giờ nàng khóc một cách cay đắng như thế, nếu không kể lần đứa con đầu lòng của chúng tôi chết khi thành Tênôctitlan bị vây hãm.
- Em khóc gì thế, Ôtômi? - Cuối cùng tôi hỏi.
- Em tưởng anh đã ngủ, - nàng vừa đáp vừa nấc lên, - nếu không, em đã chẳng khóc. Chồng của em ơi, em khóc buồn cho tất cả những gì đã đổ lên đầu chúng ta và lên dân tộc em, nhất là em khóc buồn cho anh. Hãy xem anh đã bị dồn tới mức nào! Người ta nhìn anh như nhìn một thằng khốn nạn! Thử hỏi chúng ta được đón tiếp thế nào!
- Em cũng biết lý do vì sao, - tôi đáp. - Tốt hơn em hãy cho anh biết liệu dân chúng Ôtômi sẽ làm gì với chúng ta? Giết à? Hay giao ta cho bọn Teule?
- Ngày mai chúng ta sẽ biết. Nhưng nếu còn sống chúng sẽ không bắt được em.
- Cả anh cũng thế. Thà chết còn hơn để Côrtex và tên hầu của hắn là Gacxia ban ơn. Nhưng liệu chúng ta có còn hy vọng nào nữa không?
- Có, vẫn còn hy vọng. Bây giờ người Ôtômi đang mụ đầu lên vì tức giận và chỉ biết một việc là chúng ta đã dẫn các chiến binh của họ đi tới chỗ chết. Nhưng trái tim họ vốn thương người và dũng cảm; nếu em biết làm cho những trái tim ấy xúc động, rất có thể mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Anh và em đã trở nên yếu đuối vì khó khăn, mệt mỏi và đau khổ, trong khi chúng ta, sau chừng ấy nguy hiểm, cần thành người khỏe mạnh và dũng cảm. Chồng của em hãy ngủ đi, để em suy nghĩ thêm. Rồi mọi việc sẽ đâu vào đấy, vì sẽ có lúc tất cả những điều bất hạnh này của chúng ta phải được chấm dứt.
Tôi ngủ thiếp, sáng hôm sau tỉnh dậy thấy khỏe khoắn hẳn lên, cả về tinh thần lẫn thể xác, như tất cả chúng ta sau khi nghỉ ngơi thấy khỏe lại.
Tôi mở mắt khi mặt trời đã lên rất cao. Còn Ôtômi thì dậy từ khi mới rạng sáng, và nàng đã không bỏ phí vô ích quãng thời gian ấy. Trước hết nàng đã thành công trong việc cho chúng tôi ăn uống tử tế hơn và cho những bộ quần áo khác phù hợp với cương vị và lòng tự trọng của chúng tôi. Sau đó nàng cho gọi một số nhà quý tộc Ôtômi vẫn trung thành với nàng cả trong giờ phút này, và yêu cầu họ đi khắp thành phố báo tin rằng đúng giữa trưa công chúa Ôtômi sẽ nói chuyện với thần dân của nàng ở các bậc thang dẫn lên cung điện. Nàng biết làm xúc động tâm hồn đám đông dễ hơn nhiều so với trái tim giá lạnh của các thủ lĩnh.
- Em nghĩ mọi người sẽ đến nghe à? - Tôi hỏi.
- Đừng lo, - Ôtômi đáp. - Người ta đến để được tận mắt nhìn thấy người đã sống sót qua cuộc phong tỏa, và để được nghe sự thật về việc này. Tất nhiên cũng sẽ có mặt cả những người muốn trả thù chúng ta.
Ôtômi đã nói đúng.
Gần trưa, hàng nghìn người thành Xôxen kéo đến quảng trường, và chẳng bao lâu sau tất cả khoảng trống giữa các bậc thang dẫn lên cung điện đến chân kim tự tháp đã chật đen những người là người.
Ôtômi chải lại mớ tóc gợn sóng của nàng, cắm những bông hoa lên đó; nàng khoác bộ quần áo trắng có chiếc thắt lưng vàng, chiếc áo khoác bằng lông chim lấp lánh, đeo lên cổ chuỗi vòng ngọc bích mà Guatêmôc đã tặng tôi khi chôn giấu kho báu của Môntêzuma; nàng đã giữ nó qua mọi nguy hiểm. Từ các đồ trang sức và các dấu hiệu quyền lực còn giữ được trong cung điện, nàng chỉ chọn một chiếc đũa nhỏ bằng gỗ đen có chạm trổ bằng vàng. Mặc dù mệt mỏi và phải chịu những đau khổ vừa qua, bây giờ nàng vẫn là một người đàn bà quý phái và đường bệ nhất mà xưa nay tôi chưa hề gặp. Sau đó Ôtômi giúp tôi nằm lên chiếc cáng sơ sài, và đúng giữa trưa, nàng ra lệnh cho các chiến binh đã đưa tôi vượt núi về đây, khiêng cáng đi cạnh nàng. Cứ thế chúng tôi xuất hiện trước cửa cung điện rồi đến chỗ dành riêng cho chúng tôi ở bậc cao nhất của chiếc cầu thang lớn.
Cả đám đông hàng nghìn người tiếp đón chúng tôi bằng những tiếng hô to như tiếng gầm của bầy thú dữ khi ngửi thấy con mồi. Tiếng gầm có thể bắt bất kì người dũng cảm nào cũng phải run sợ ấy mỗi lúc một to hơn, một lát sau tôi đã không nghi ngờ gì nữa về cái chết đang chờ đợi chúng tôi sắp tới.
- Giết chúng đi! - Đám đông gào lên. - Trao chúng cho bọn Teule!
Ôtômi bước lên phía trước và lặng lẽ giơ chiếc đũa đen biểu hiện quyền lực của nàng. Mặt trời càng tô thêm khuôn mặt tuyệt đẹp và thân hình kiều diễm của nàng. Mọi người phía dưới nhốn nháo hẳn lên. Hàng nghìn giọng nói thét to hăm dọa, cơn tức giận mỗi lúc một tăng thêm, rồi cả đám đông nhào tới như để xé xác Ôtômi ra làm trăm mảnh, nhưng khi tới bậc thang cuối cùng, tất cả bỗng chững lại, lùi xuống như cơn sóng va vào núi đá. Sau đó từ phía dưới một mũi giáo của ai đó phóng lên, bay vèo qua sát cổ Ôtômi.
Thấy trước điều nguy hiểm và không muốn chết cùng chúng tôi, các chiến binh bỏ cáng tôi xuống rồi trốn vào cung điện. Nhưng Ôtômi vẫn đứng yên không nhúc nhích, thậm chí cả khi mũi giáo suýt đâm trúng nàng. Nàng đứng đó với vẻ khinh bỉ và không hề nao núng trước đám đông đang bừng bừng phẫn nộ,  như một hoàng hậu vĩ đại trước những người phụ nữ xấu tính, và rồi dần dần sự vĩ đại và dũng cảm ấy của nàng đã bắt được mọi người yên lặng. Cuối cùng, khi xung quanh trở nên yên tĩnh, Ôtômi bắt đầu nói bằng giọng nói trong trẻo và vang xa, làm tất cả những người có mặt đều nghe rõ. Những lời nàng nói thật buồn và cay đắng:
- Tôi đang ở đâu thế này? Không lẽ đây là nhân dân Ôtômi của tôi. Hay tôi đã lạc đường rơi vào giữa những người Tlatxcalan hoang dã? Hãy nghe tôi, hỡi dân tộc Ôtômi! Tôi chỉ một mình và chỉ có một giọng nói, tôi không thể nói chuyện với cả đám đông. Các anh hãy chọn một người đại diện, để người ấy nói hết tất cả những suy nghĩ các anh đang mang trong lòng.
Mọi người lại nhốn nháo trở lại. Một số kêu tên người này, số khác kêu tên người kia, cuối cùng một quan tư tế và là một thủ lĩnh có danh tiếng tên là Mactla bước ra khỏi đám đông. Ông này có quyền lực rất lớn đối với người Ôtômi. Trước đấy ông đã kéo nhiều bộ lạc về phe với quân Tây Ban Nha và tìm mọi cách chống lại việc cử người giúp Cuitlahua bảo vệ thành Tênôctitlan.
Mactla bước ra khỏi đám đông không chỉ một mình, mà cùng bốn người khác. Nhìn quần áo của họ, tôi nhận ra ngay đó là những người Tlatxcalan do Côrtex gửi đến. Tôi rụng rời vì thất vọng. Không khó đoán chúng xuất hiện lúc này với mục đích gì.
- Nói đi, Mactla! - Ôtômi nói. - Có gì ông cứ hỏi, chúng tôi sẽ trả lời. Xin mọi người hãy im lặng lắng nghe để tự phán xét đúng sai khi tất cả đã nói hết.
Một sự im lặng chết chóc bao trùm xung quanh. Họ sán lại gần, như bầy cừu trong chuồng, và cố nín thở để lắng nghe không sót một lời nào.
- Với cô, Ôtômi, và với người chồng Teule bất hợp pháp của cô, câu chuyện sẽ rất ngắn, - Mactla trắng trợn nói. - Cách đây không lâu cô tới đây để xin quân cho Cuitlahua, vua của người Aztec, nhằm giúp ông ta trong cuộc chiến tranh chống lại Teule, con cháu của thần Kêxancôatli. Cô đã nhận được số quân ấy trái với ý muốn của nhiều người: cô đã thuyết phục được hội đồng bằng những lời đường mật của cô, và không ai còn nghe theo chúng tôi, những người chủ trương hòa hoãn và liên minh với người da trắng, con của thần. Rồi cô rút lui về Tênôctitlan, cùng đi với cô là hai mươi nghìn chiến binh ưu tú nhất của dân tộc Ôtômi. Bây giờ những người ấy ở đâu? Tôi sẽ nói cho cô biết. Khoảng hai trăm người trở về được quê nhà, tất cả những người còn lại bây giờ hoặc là ở trong mỏ những con chim ác đang bay trên trời, hoặc bò dưới đất trong bụng những con chó hoang háu đói. Cô đã dẫn họ tới chỗ chết, và họ đã chết. Hai mạng sống của cô và chồng cô để bù lại hai mươi nghìn mạng sống của những người bố, người con và người anh em của chúng tôi, - đó là một cái giá không đắt. Nhưng thậm chí chúng tôi không đòi cả cái giá ấy. Đang đứng cạnh tôi đây là người của Malixin, thủ lĩnh của dân tộc Teule. Họ vừa tới thành Xôxen cách đây một giờ. Xin hãy nghe những lời sau đây của Malixin.
“Hãy trao cho chúng tôi Ôtômi, con gái Môntêzuma, cùng tình nhân của cô ta là Teule phản bội, kẻ đã trốn thoát khỏi sự trừng phạt chính đáng vì những tội lỗi hắn gây nên. Hỡi những người Ôtômi, làm theo ý ta, các ngươi sẽ được ta ban ân huệ cho sống yên lành. Nếu các ngươi định che giấu, không trao chúng cho ta, thì số phận thành Xôxen sẽ giống như số phận thành Tênôctitlan, thành phố của tất cả các thành phố. Các ngươi hãy chọn đi, giữa một bên là lòng thương, và bên kia là cơn giận của ta. Nếu chịu quy phục, mọi việc trong quá khứ sẽ được bỏ qua, và sự cai trị của ta đối với các người sẽ không quá nặng nề. Nếu dám chống lại, ta sẽ phá huỷ thành phố của các người, thậm chí xóa hẳn tên nó trên trái đất”.
- Hỡi các sứ giả của Malixin, - Mactla quay sang nói với mấy tên Tlatxcalan, - có đúng Malixin nói thế không?
- Đúng thế, Mactla, - tên cầm đầu đáp.
Đám đông lại sôi lên. Có tiếng kêu to:
- Trao chúng đi. Trao chúng cho Malixin, để được yên ổn!
Ôtômi bước lên phía trước, tất cả lại yên lặng. Mọi người muốn nghe câu trả lời của nàng.
- Hỡi nhân dân Ôtômi! - Nàng nói. - Tôi thấy hôm nay các thần dân của tôi đã lên án tôi và chồng tôi. Được, tôi chỉ là một người phụ nữ, nhưng tôi sẽ lên tiếng tự bảo vệ mình, và các anh hãy tự phán xét ai đúng ai sai giữa tôi và Mactla cùng bạn bè của ông ta, và Malixin cùng đám người Tlatxcalan của hắn.
Chúng tôi đã làm gì để các anh tức giận? Vâng, theo lệnh Cuitlahua chúng tôi đã tới đây để yêu cầu các anh giúp đỡ trong cuộc chiến tranh chống lại người Teule. Nhưng lúc ấy tôi nói gì? Lúc ấy tôi nói rằng nếu các dân tộc Anahuac không đoàn kết với nhau để chống người da trắng, thì sẽ bị người da trắng tách riêng, bẻ gãy như bẻ gãy từng mũi tên rồi quẳng vào lửa. Phải chăng tôi đã lừa dối các anh? Không, tôi đã nói đúng sự thật, vì chính do một số bộ lạc phản bội, đặc biệt là người Tlatxcalan, mà đất nước Anahuac đã bị tiêu diệt, thành Tênôctitlan bị biến thành gạch vụn và chất đầy xác chết như cây ngô trên cánh đồng.
- Đúng! Quả đúng như thế! - Có tiếng kêu to.
- Vâng, hỡi nhân dân Ôtômi, đó là sự thật. Nếu chiến binh của tất cả các bộ lạc Anahuac cùng chiến đấu như dân tộc Aztec, thì kết quả sẽ khác hẳn. Nhưng họ đã chết và bây giờ các anh lại muốn trao chúng tôi cho kẻ thù, người đã giết họ. Tôi không khóc buồn những người đã chết, mặc dù trong số họ có nhiều người có chung dòng máu với tôi. Hãy nén cơn giận của mình lại để nghe tôi nói tiếp! Tôi không khóc họ và thà chết vinh quang trong trận đánh và trở thành bất tử trong Ngôi nhà Mặt trời, hơn sống như những người nô lệ, điều mà các anh, những người Ôtômi, hình như đang muốn làm. Tôi không nói với các anh lời nào trái với sự thật. Malixin đã bẻ gãy từng mũi tên ngắm vào ngực Guatêmôc, và bây giờ trên ngọn lửa ấy bọn Teule đang nấu thức ăn làm tiệc cho chúng. Các bạn bè của Teule, những kẻ phản bội, đã biến thành nô lệ của chúng. Lẽ nào các anh chưa nghe lệnh của Malixin? Hắn bắt tất cả các bộ lạc đồng minh của hắn phải đẽo đá xây dựng lại thành Tênôctitlan, cho đến khi vươn cao lên trên mặt nước với toàn bộ sự lộng lẫy, huy hoàng của mình. Hay các anh, những người Ôtômi, cũng muốn đến đấy làm việc vất vả suốt ngày đêm không nghỉ để được trả công bằng những ngọn roi của bọn cai tù và những lời nguyền rủa của quân Teule? Nếu thế thì đi đi, còn chờ gì, hỡi những người miền núi dũng cảm! Tất nhiên! Chả là bàn tay các anh vốn quen với cuốc xẻng, chứ không phải với cung tên và mũi giáo. Hình như các anh thích làm theo lệnh và ý muốn của Malixin để tăng thêm của cải cho hắn, thích phơi mình dưới ánh mặt trời gay gắt hay bị chôn trong các hầm mỏ ẩm thấp hơn được sống tự do giữa rừng núi này, nơi cho đến nay dấu chân kẻ thù chưa đặt tới...
Trong chốc lát Ôtômi bỗng im lặng. Tiếng thì thầm bối rối và lo lắng vang qua đám đông hàng nghìn người như đợt sóng. Mactla bước lên định nói điều gì nhưng không ai còn muốn nghe ông ta. Mọi người kêu to:
- Ôtômi! Ôtômi! Để Ôtômi nói!
- Tôi cám ơn mọi người! - Nàng nói tiếp. - Tôi muốn được nói nhiều điều nữa. Nghĩa là tội lỗi chúng tôi ở chỗ chúng tôi đã đưa một đoàn quân vào trận đánh chống bọn Teule? Nhưng thử hỏi chúng tôi làm điều ấy như thế nào? Có phải tôi đã ra lệnh cho các anh phải đứng thành hàng và rồi đi không? Không, tôi giải thích cho các anh mọi chuyện rồi nói: “Đấy, tùy các anh quyết định!”. Và rồi các anh đã tự quyết định, tự gửi tới Tênôctitlan những chiến binh dũng cảm nhất mà sau này đã hy sinh. Nghĩa là tội của tôi ở chỗ các anh đã quyết định sai, mặc dù theo tôi đó là một quyết định đúng đắn. Nghĩa là vì điều ấy, bây giờ các anh muốn trao tôi và chồng tôi cho bọn Teule để đổi lấy hòa bình? Xin hãy nghe tôi nói tiếp! Trước khi các anh làm điều đó và trước khi đôi môi của chúng tôi lặng im mãi mãi, tôi muốn kể các anh nghe sự thật về cuộc chiến tranh vừa rồi. Nên bắt đầu từ chuyện gì, tôi cũng không biết nữa. Tôi sinh một đứa con trai, và nếu còn sống, nó sẽ là hoàng thân của các anh. Đứa bé ấy đã chết trong những ngày phong tỏa, chết ngay trên tay tôi vì phải nhịn đói hết ngày này đến ngày khác, hết giờ này đến giờ khác... Nhưng tôi là ai mà than khóc, luyến tiếc đứa con của tôi, khi hàng nghìn người con của các anh đã hy sinh, và các anh kêu to rằng tay tôi nhuốm máu họ. Tôi sẽ kể chuyện khác. Xin hãy lắng nghe!...
Rồi nàng tiếp tục câu chuyện khủng khiếp của mình. Bằng những lời gợi cảm nàng miêu tả cảnh rùng rợn những ngày thành phố bị bao vây, sự độc ác của quân Tây Ban Nha và các chiến công vẻ vang của đội quân Ôtômi mà tôi chỉ huy. Nàng nói suốt một giờ, và cả đám đông khổng lồ chăm chú nghe như uống từng lời nàng nói. Ôtômi cũng kể về việc tôi trực tiếp tham gia đánh nhau, và nghe thế, lúc người này, lúc người kia trong số những người chiến đấu cùng tôi may mắn sống sót trở về nhà, bây giờ kêu to từ đám đông.
- Đúng thế, tất cả đúng như thế!Chúng tôi đã nhìn thấy điều ấy!
- Và cuối cùng, - Ôtômi nói tiếp, - tất cả đã kết thúc: Tênôctitlan bị biến thành gạch vụn, vua Guatêmôc, người anh vinh quang của tôi, đã bị Malixin bắt làm tù binh, và cùng ngài là người chồng Teule của tôi, chị gái tôi, bản thân tôi và nhiều người khác. Malixin thề sẽ đối xử với Guatêmôc và những người thân của ngài tương xứng với địa vị cao quý của họ. Các anh có biết hắn đã giữ lời hứa của hắn ra sao không? Chỉ mấy ngày sau Đức vua của chúng tôi bị đưa lên ghế tra tấn. Chúng đốt chân ngài bằng những hòn than đỏ rực để ngài chỉ cho chúng nơi chôn giấu kho báu của Môntêzuma! Ôi, bây giờ các anh có thể kêu to bao nhiêu tùy thích hai chữ “Nhục nhã! Nhục nhã!”. Các anh còn sẽ kêu to gấp bội khi biết rằng không chỉ một mình Guatêmôc bị tra tấn. ƠŒ đây, đang nằm ngay trước mặt các anh là một trong những người bị tra tấn cùng ngài và cũng không hé răng nói lời nào. Thậm chí cả tôi, phụ nữ, và là công chúa của các anh, cũng được quyết định đem ra tra tấn! Xin hãy nghe hết mọi chuyện! Rồi chúng tôi bỏ trốn khi cái chết đã kề bên; tôi nói với chồng tôi rằng người Ôtômi có trái tim chung thủy, và họ sẽ không phản bội lại chúng tôi khi gặp tai nạn. Tôi đã tin như thế! Và chính vì thế mà tôi, Ôtômi đã mặc bộ quần áo của cô gái làm tiền để chạy trốn cùng chồng tôi. Nhưng nếu biết trước những điều tôi phải nghe và phải thấy hôm nay ở đây, nếu biết trước các anh đón tôi thế này, thì tôi thà chết một trăm lần còn hơn bây giờ phải đứng đây cầu xin các anh thương xót!
Hỡi Ôtômi, dân tộc của tôi, tôi đang kêu gọi các anh! Đừng làm theo lời bọn Teule xảo quyệt! Hãy mãi mãi tự do và kiêu hãnh! Đôi vai các anh không phải để mang gông nô lệ, con trai và con gái các anh không thể là người hầu và trò vui cho bọn ngoại bang. Hãy cảnh giác với Malixin! Đừng tin hắn! Nhiều chiến binh của các anh đã chết, nhưng hàng nghìn, hàng vạn chiến binh khác còn sống. ƠŒ đây, trong tổ ấm rừng núi này, các anh có thể đánh tan tất cả quân Teule cũng như trước kia những người Tlatxcalan phản bội đã đánh người Aztec ở đây. Nhưng lúc ấy quân Tlatxcalan là những người tự do, còn bây giờ họ là một bộ tộc nô lệ. Hay các anh thèm muốn được nô lệ như họ? Hỡi Ôtômi, dân tộc của tôi. Đừng nghĩ tôi đang bào chữa cho tôi hay cho chồng tôi, người mà tôi yêu quý nhất đời, trừ danh dự. Không lẽ các anh hy vọng có thể trao được chúng tôi còn sống cho những con chó Tlatxcalan mà Malixin phái tới đây để làm nhục các anh? Xin hãy nhìn đây!
Ôtômi cúi nhặt chiếc giáo đang nằm cạnh rồi giơ cao lên đầu.
- Đây, đây là thứ vũ khí mà một người tốt bụng nào đó vừa ném tặng chúng tôi, và nếu các anh định từ chối không giúp đỡ, thì ngay bây giờ chúng tôi sẽ chết trước mặt các anh. Sau đó nếu muốn các anh có thể trao xác chúng tôi cho Malixin để làm tin cho quan hệ thân thiện sau này. Nhưng hãy lắng nghe tôi, vì quyền lợi của chính các anh! Đừng tin Malixin, và thậm chí sau này nếu phải chết, các anh hãy chết như những người tự do, chứ không phải nô lệ của bọn Teule. Hãy nhìn để biết lòng thương của hắn, - nếu nghe theo Mactla, các anh cũng sẽ nhận được phần thưởng thế này!
Ôtômi bước lại gần cáng, nhanh chóng cởi bỏ quần áo bông băng trên người tôi, đỡ tôi đứng dậy trên một chân còn lành, hầu như trần truồng.
- Hãy nhìn đây! - Nàng thét lên phẫn nộ, tay chỉ vào các vết sẹo và các vết thương chưa lành chi chít trên mặt và chân tôi! Hãy nhìn đi, nhìn để biết bọn Teule và Tlatxcalan đã làm gì. Đây là cái đang chờ đợi những người đang định đầu hàng để cầu xin lòng thương của chúng. Cứ đầu hàng đi, nếu các anh muốn. Cứ trao chúng tôi đi, nếu các anh muốn, nhưng tôi nhắc lại: lúc ấy cơ thể các anh cũng sẽ bị tra tấn như thế này! Lúc ấy bọn Teule nhàn rỗi và tham lam sẽ hành hạ các anh cùng cực, cho đến khi bòn rút được mẩu vàng cuối cùng, biến được người đàn ông và người đàn bà cuối cùng thành nô lệ.
Nói xong, Ôtômi nhẹ nhàng đỡ tôi xuống đất, vì tự tôi không thể làm được điều ấy, và rồi nàng đứng bên tôi với mũi giáo trong tay, sẵn sàng đâm nó vào tim tôi, nếu người Ôtômi vẫn quyết định trao chúng tôi cho Côrtex.
Trong giây lát, tất cả im lặng như tờ, sau đó cả quảng trường bỗng vang lên những tiếng kêu thét còn to hơn trước gấp mười lần. Nhưng bây giờ đó không phải là những lời đe dọa chúng tôi. Ôtômi đã thắng. Sắc đẹp và những lời nói cao thượng của nàng, câu chuyện đau buồn và những vết thương trên người tôi đã có tác dụng rõ rệt. Bây giờ ai cũng hết sức căm giận bọn Teule và những tên tay sai đã giúp chúng giết chết các chiến binh Ôtômi của họ. Chưa bao giờ đầu óc thông minh và tài hùng biện của một người phụ nữ có thể gây nên một hiệu quả lớn như thế. Cả đám đông giận dữ gầm rít, tự xé quần áo và rung rung vũ khí. Mactla mấy lần định lên tiếng nói, nhưng hắn bị kéo xuống và phải bỏ chạy thoát thân. Bây giờ cơn giận của đám đông lại đổ xuống đầu các sứ giả của Côrtex, hay người da đỏ còn gọi là Malixin.
- Đây, câu trả lời của chúng tao dành cho Malixin đây! - Người Ôtômi vừa nói, vừa lấy gậy đánh chúng. - Cút ngay, đồ chó! Cút ngay về với ông chủ của chúng mày!
Thế là chúng bị đuổi khỏi thành Xôxen, đám đông trên quảng trường dần dần lắng dịu. Lúc ấy, một trong những thủ lĩnh danh giá nhất bước lại gần Ôtômi hôn tay nàng và nói:
- Thưa công chúa, chúng tôi là thần dân của công chúa và sẽ bảo vệ công chúa đến cùng, vì công chúa đã thổi vào cơ thể chúng tôi một tâm hồn mới. Công chúa nói đúng: thà chết tự do còn hơn sống nô lệ!
- Chồng của em thấy chưa, - Ôtômi quay sang nói với tôi, - em đã không nhầm khi nói với anh rằng đồng bào của em chung thủy và công bằng. Nhưng bây giờ chúng ta buộc phải chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh tự vệ sắp tới. Việc đã đi quá xa, không còn lùi được nữa. Biết tin này, Malixin sẽ tức giận như con báo mẹ bị tước mất con. Nào, ta đi nghỉ, em rất mệt.
- Ôtômi, - tôi nói, - em là người đàn bà vĩ đại nhất từ xưa tới nay trên trái đất chúng ta.
- Em không biết, chồng của em ạ, em không biết, - nàng cười đáp, - nhưng em rất mừng là đã cứu được anh và được anh khen như vậy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét