Công Chúa Ô-tô-mi - 4
XXXII
CÁI CHẾT CỦA GUATÊMÔC
Chúng tôi sống bình yên ở thành Xôxen
một thời gian. Các vết thương do bàn tay độc ác của Gacxia gây nên trên người
tôi lành lại một cách chậm chạp, chúng bắt tôi phải chịu đau đớn không ít,
nhưng cuối cùng tôi đã bình phục hẳn. Tuy nhiên, tôi, Ôtômi và đồng bào của
nàng hiểu hòa bình sẽ kéo dài không lâu, vì chúng tôi đã thẳng tay đuổi ra khỏi
thành phố các sứ giả của Malixin. Nhiều người bây giờ hối tiếc về điều ấy,
nhưng việc đã làm không chữa lại được!
Chúng tôi bắt đầu chuẩn bị chiến
tranh. Ôtômi cầm đầu hội đồng bộ lạc mà tôi cũng tham gia. Chẳng bao lâu sau có
tin báo năm mươi tên Tây Ban Nha và năm nghìn tên Tlatxcalan tay sai đang tiến
tới thành phố với ý định xoá hẳn nó khỏi mặt đất. Tôi được chọn làm chỉ huy
quân đội Ôtômi gồm hơn mười nghìn người, được trang bị không đến nỗi tồi, tất
nhiên theo cách riêng của mình. Rời thành phố, chúng tôi đi theo khe núi ra đón
kẻ thù, nhưng vừa đi được hai phần ba khe núi, tôi cho các chiến binh dừng lại.
Tôi không định đóng trại ở đây vì hẻm núi quá hẹp, không có chỗ để dàn quân
đánh nhau. Kế hoạch của tôi khác hẳn. Tôi cho bảy nghìn chiến binh đi vòng qua
núi theo những con đường nhỏ chỉ người Ôtômi mới biết, rồi để họ nấp sau các
tảng đá lớn cao gần ba trăm mét dọc hai bờ khe núi. Đồng thời tôi ra lệnh cho
họ phải chuẩn bị thật nhiều đá.
Các chiến binh còn lại trang bị cung
tên và mũi giáo, - trừ năm trăm người luôn đi theo tôi, - được tôi bố trí phục
kích ở các chỗ lõm sâu vào sườn núi có thể tránh được đá từ trên cao ném xuống.
Sau đó tôi cử những người tin cậy nhất đi trinh sát trước. Một số theo dõi
đường tấn công của quân Tây Ban Nha, số khác được giao nhiệm vụ vờ dẫn đường
cho chúng.
Tôi nghĩ kế hoạch của tôi như thế là
tuyệt diệu. Tất cả tiến triển tốt đẹp, ấy thế mà suýt nữa chúng tôi thất bại.
Số là trong trại chúng tôi có cả Mactla. Tôi cố tình bắt hắn cùng đi để theo
dõi, nhưng hóa ra hắn cũng không ngồi yên vô ích.
Khi chỉ còn nửa ngày đường nữa quân
Tây Ban Nha sẽ tới cửa khe, một trong những người thám báo tôi cử đi theo dõi
đường tiến quân của chúng đã đến gặp tôi. Anh ta thú nhận rằng Mactla đã mua
chuộc anh ta và bắt phải báo cho viên chỉ huy quân Tây Ban Nha về âm mưu của
chúng tôi. Anh ta đã đồng ý, nhận những gì được đề nghị rồi lên đường, nhưng bị
lương tâm cắn rứt, anh ta đã quay lại báo cho tôi mọi chuyện. Lập tức tôi ra
lệnh bắt ngay Mactla, và trước khi trời tối, hắn đã bị treo cổ, một hình phạt
thích đáng dành cho sự phản bội của hắn.
Sáng hôm sau đoàn quân Tây Ban Nha bắt
đầu đi vào khe núi. Tôi đem năm trăm chiến binh của tôi ra đón chúng, nhưng vừa
đánh nhau một lúc, tôi vội rút lui với số thương vong không đáng kể. Đoàn quân
Tây Ban Nha mỗi lúc một hăng, còn chúng tôi thì cố chạy thật nhanh để thoát
khỏi toán lính kị đang đuổi theo.
Gần nửa dặm nữa thì hết lối đi và tiếp
đến là thành Xôxen, khe núi bỗng rẽ ngoặt và thu hẹp hẳn lại. Các dốc núi ở đây
cao và thẳng đứng, nên phía dưới bao giờ cũng mờ mờ tối. Đến chỗ ngoặt này,
chúng tôi bỏ chạy thật nhanh, làm ra vẻ vô cùng sợ hãi, còn quân Tây Ban Nha
thì được thắng lợi kích thích, vừa đuổi theo vừa kêu to tên các thánh của
chúng. Nhưng vừa đặt chân tới chỗ khe núi bị thu hẹp, cái hào khí của chúng vụt
biến mất. Các chiến binh của tôi đang theo dõi chúng từ độ cao ba trăm mét đã
nhất loạt đổ xuống đầu chúng một trận mưa đá khủng khiếp, làm trời đất tối sầm
hẳn lại. Phần lớn quân Tây Ban Nha đã bị giết ngay tại chỗ. Số còn lại chạy lên
phía trước, nơi lối đi rộng hơn. Một số thoát qua được, nhưng các tay cung của
tôi đã chờ sẵn, và bây giờ, thay cho những viên đá, hàng nghìn vạn mũi tên thi
nhau bay vào chúng. Cuối cùng, trong một sự hỗn độn tột độ, kẻ địch giẫm lên
nhau tháo chạy, không hề nghĩ tới việc chống cự.
Trận đánh đến đây kết thúc. Chúng tôi
tấn công kẻ thù từ khắp mọi phía, trên cao mưa đá lại dội xuống. Chỉ một ít
quân Tây Ban Nha và tay sai thoát ra khỏi các dãy núi bao quanh thành Xôxen.
Sau trận đánh ấy quân Tây Ban Nha để
chúng tôi yên trong nhiều năm liền, chỉ hạn chế bằng đôi lời đe dọa, còn tên
tuổi của tôi thì lừng lẫy khắp các bộ lạc Ôtômi.
Tôi đã cứu một tên Tây Ban Nha bị bắt
thoát chết và sau đó thả cho tự do. Qua tên này, tôi biết được đôi điều về
Gacxia, hay còn gọi là Xacxêđa. Hắn vẫn ở bên Côrtex. Marina đã giữ đúng lời
hứa, làm hắn bị Côrtex ghét bỏ vì tội muốn tra tấn Ôtômi. Côrtex còn ghét hắn
bởi lẽ Marina đã đổ lên đầu hắn tội để chúng tôi chạy thoát. Cô ta nói chắc
Gacxia thả chúng tôi ra khỏi trại để nhận một số tiền hối lộ lớn.
Về mười bốn năm đời tôi sau trận thắng
ấy, tôi sẽ kể ngắn gọn, vì so với trước, đó là những năm yên ổn. Trong thời
gian này, chúng tôi đã sinh thêm ba người con trai, - một nguồn an ủi lớn cho
tôi. Tôi yêu chúng, và chúng cũng rất yêu tôi. Nếu không lai dòng máu mẹ, chúng
là những người Anh chính cống, vì tôi đã cho chúng nhập đạo Thiên chúa và dạy
cho chúng tiếng Anh của chúng ta. Chúng có đôi mắt của tôi, và nếu không kể
nước da ngăm đen, chúng có vẻ ngoài giống người Anh nhiều hơn người da đỏ.
Nhưng than ôi, những đứa con mà tôi
yêu quý ấy cũng phải chịu một số phận cay đắng! Chúng bị cái chết bắt đi như
đứa con bất hạnh của tôi và Lyly mãi về sau mới được sinh ra. Hai đứa đã chết,
- một vì bệnh sốt mà tôi bất lực không chữa nổi, còn đứa thứ hai thì ngã từ
ngọn một cây tùng linh xuống, khi nó trèo lên tìm tổ diều hâu. Trong ba người
con trai, - đây là tôi chưa nói tới đứa đầu lòng của chúng tôi đã chết trong khi
thành Tênôctitlan bị bao vây, chỉ còn lại một đứa duy nhất, đứa lớn nhất và
được tôi đặc biệt yêu quý. Sau này tôi sẽ kể về nó.
Còn những chuyện khác thì sao? Sau khi
đánh thắng quân Tây Ban Nha và tay sai của chúng, tôi được đại hội đồng bầu làm
thủ lĩnh thành Xôxen, ngang hàng với Ôtômi và bằng cách ấy chúng tôi được trao
quyền lực rất lớn, nhưng không phải tuyệt đối. Nhờ quyền lực ấy, cuối cùng tôi
đã bỏ được lệ giết người tế thần đáng sợ, mặc dù điều ấy làm các quan tư tế vô
cùng tức giận và dẫn tới việc nhiều bộ lạc từ chối không chịu liên minh với
chúng tôi nữa. Lần giết người tế thần cuối cùng, nếu không kể cái lần kinh
khủng nhất mà tôi sẽ nói ở phần sau, được tiến hành trên đỉnh kim tự tháp đối
diện với cung điện ngay sau khi quân Tây Ban Nha bị đánh bại.
Khi tới Xôxen được ba năm, - lúc này
Ôtômi đã sinh được hai đứa con trai, - bạn bè của Guatêmôc đã bí mật đến tìm
tôi. Chàng chịu đựng tất cả các đòn tra tấn và vẫn bị Côrtex giam như trước.
Những người này cho tôi biết Côrtex sắp tiến hành một cuộc viễn chinh về phía
vịnh Ônđurax xuyên qua đất nước mà bây giờ gọi là Ucatan, và rằng hắn quyết
định mang Guatêmôc cùng các nhà quý tộc khác đi theo, vì sợ để lại không ai
trông giữ cẩn thận. Nhờ họ, tôi biết cả việc các bộ lạc Anahuac bị chinh phục càng
ngày càng bất bình trước sự tàn ác và ngang ngược của người Tây Ban Nha. Nhiều
người cho rằng chẳng bao lâu nữa sẽ có một cuộc bạo loạn chung, và cuộc bạo
loạn ấy có thể thắng lợi.
Những người cử họ tới đây yêu cầu tôi
dẫn một đội quân Ôtômi đến Ucatan cùng họ chiến đấu. Người ta sẽ đợi tôi ở đấy.
Khi tất cả các đạo quân được tập trung một chỗ, chúng tôi sẽ bao vây bọn Tây
Ban Nha giữa rừng và đầm lầy, sau đó chọn thời cơ tấn công giết sạch chúng và
giải phóng cho Guatêmôc. Đó là bước đầu của kế hoạch chống bọn xâm lược nước
ngoài; về các phần còn lại, tôi không muốn nói ở đây vì chúng không được thực
hiện.
Nghe những người đưa tin nói xong, tôi
buồn bã lắc đầu vì thấy trước kế hoạch của họ sẽ thất bại. Lúc ấy người cầm đầu
trong số họ kéo tôi ra một bên để truyền lại những lời chỉ dành riêng cho tôi.
- Vua Guatêmôc nhờ tôi nói lại với ông
thế này! “Tôi nghe nói anh, người anh em của tôi, cùng với em gái tôi là Ôtômi
đang sống tự do trên núi. Còn tôi thì than ôi, tôi đang chết dần trong nhà giam
của bọn Teule, như con đại bàng bị
thương trong lồng sắt. Tôi van anh, nếu có thể, hãy giúp tôi vì tình bạn cũ và
vì tất cả những gì chúng ta đã cùng chịu đựng. Biết đâu sẽ có lúc tôi lại là
vua Anahuac, và anh sẽ ngồi bên tôi!”
Tôi nghe xong, trái tim rớm máu, vì
như trước, tôi vẫn rất yêu quý Guatêmôc.
- Hãy quay lại nói với Guatêmôc, - tôi
đáp, - rằng tuy ít hy vọng, nhưng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để
giúp ông ta. Cứ đợi tôi trong rừng Ucatan.
Nghe tôi hứa thế, Ôtômi rất buồn. Nàng
cho đó là một việc điên rồ, và nói nó chỉ dẫn tới cái chết mà thôi. Nhưng một
khi đã nói ra, lời hứa phải được thực hiện, và Ôtômi không cố giữ tôi nữa. Tôi
tập hợp năm trăm chiến binh rồi bắt đầu một cuộc hành trình xa xôi và khó khăn,
tính toán làm sao để gặp quân Tây Ban Nha ở các rừng rậm Ucatan. Đúng vào phút
cuối cùng, Ôtômi muốn đi theo tôi, nhưng tôi cương quyết không cho, vì nàng
không có quyền bỏ rơi dân tộc và những đứa con của nàng. Và thế là chúng tôi
chia tay, lần đầu tiên cảm thấy cái đau buồn xa cách.
Tôi sẽ không kể ở đây tất cả những khó
khăn mà chúng tôi gặp phải trên đường đi. Chúng tôi đi ròng rã hai tháng rưỡi,
qua rất nhiều sông núi, ao hồ, rừng cây, cho đến khi cuối cùng tới một thành
phố chết khổng lồ đã bị các dân cư của nó bỏ hoang rất nhiều năm về trước.
Người da đỏ địa phương gọi nó là Palenkê Một trong những thành phố cổ của dân
tộc Maia, có nhiều ngôi nhà kiến trúc đẹp, đã bị bỏ hoang rất lâu trước khi
người Tây Ban Nha tới.). Thành phố ấy là một trong những nơi kì diệu nhất mà tôi thường
gặp trong cuộc đời nay đây mai đó của mình. Nó bị cỏ và bụi rậm che gần hết.
Nhìn đi đâu cũng thấy các lâu đài bằng đá cẩm thạch đang đổ sụp, phía trong và
ngoài tường có nhiều hình điêu khắc. Ngoài ra còn có nhiều kim tự tháp được
trang điểm bằng các bức tranh kiến trúc và các hình điêu khắc xấu xí miêu tả
các thần đang cười giễu người đời. Tôi thường tự hỏi: dân tộc nào đã dựng lên
được một Thủ đô tráng lệ thế này, và ông vua nào đã trị vì ở đây? Những câu hỏi
ấy chỉ trả lời được khi một nhà bác học nào đó đoán ra nổi ý nghĩa các biểu
tượng bằng đá và các dòng chữ kì dị khắc đầy mặt tường của những ngôi nhà còn
chưa đổ sụp.
Chúng tôi náu mình trong thành phố
chết ấy, mặc dù phải vất vả lắm tôi mới thuyết phục nổi các chiến binh của mình
đi theo tôi. Họ sợ khấy động linh hồn hàng nghìn, hàng vạn con người đã có thời
sống ở đây, sợ những cơn sốt độc ác, đấy là chưa nói tới vô số rắn và thú dữ
luôn đi lại giữa các đống đổ vỡ. Tuy nhiên, tôi nhận được tin quân Tây Ban Nha
sẽ phải đi qua những bãi lầy giữa dòng sông và thành phố chết, chính vì vậy tôi
quyết định chọn đúng nơi này để phục kích.
Sau ngày thứ tám, quân thám báo cho
tôi biết Côrtex đã vượt con sông lớn phía thượng nguồn, và bây giờ đang xuyên
qua các cánh rừng, - đầm lầy đã làm hắn ngấy tới cổ. Chúng tôi vội vàng đi về
phía dòng sông để theo hắn vượt qua bờ bên kia. Bỗng nhiên trời đổ mưa rào, một
trận mưa khủng khiếp chỉ ở đây mới có; nó kéo dài liên tục suốt một ngày một
đêm, đến mức cuối cùng chúng tôi phải lội quá đầu gối mà đi, còn khi tới sông
thì chúng tôi nhìn thấy trước mặt là một dòng thác mênh mông đang cuộn chảy. Để
vượt qua, ít ra cũng cần một loại thuyền lớn như thuyền đánh cá ở Iamut.
Chúng tôi buộc phải chờ ba ngày đêm
liền bên bờ sông, chịu cảnh cảm sốt, thiếu thức ăn và quá nhiều nước, cho đến
khi cuối cùng nước rút. Sang ngày thứ tư, chúng tôi qua được sông, với sự
thương tổn là bốn người.
Sang tới bờ bên kia, tôi ra lệnh cho
các binh sĩ trốn trong các lùm cây và bãi sậy, và tôi thì cùng sáu người dũng
cảm nhất đi về phía trước sục sạo dấu vết bọn Tây Ban Nha. Được một giờ, chúng
tôi gặp một lối đi nhỏ xuyên qua rừng do chúng mở để lại, và tiếp tục đi theo
con đường đó một cách cẩn thận. Một lát sau rừng thưa dần, chúng tôi bước ra
một bãi cỏ lớn, nơi có lẽ cách đây không lâu bọn Côrtex đã cắm trại. Một người
da đỏ chết bệnh, xác còn nằm đó. Than trong các đống tro chưa tắt hẳn.
Cách chỗ cắm trại khoảng năm mươi mét
có một cây xâyba đại thụ giống như
cây sồi ở nước Anh, có điều gỗ mềm hơn và vỏ ngoài màu trắng. Chỉ cần hai mươi
năm, loại cây xâyba này có thể lớn
bằng cây sồi một trăm năm, thành thật mà nói tôi chưa bao giờ được thấy những
loại cây tương tự.
Trên cây có rất nhiều chim diều hâu
đậu, khi đến gần, tôi mới hiểu tại sao chúng kéo nhau đến đây. ƠŒ những cành
phía dưới có ba xác đàn ông bị treo cổ đang khẽ đung đưa theo gió.
- Đây rồi, dấu vết quân Tây Ban Nha
đây, - tôi tự bảo mình. - Để xem ai thế này.
Rồi chúng tôi đi lại gần gốc cây cổ
thụ.
Thấy động, một con diều hâu bay lên từ
đầu người bị treo cổ ở gần chúng tôi nhất. Có thể do cánh chim đập, cũng có thể
vì lý do khác, người bị treo cổ quay mặt sang phía tôi. Tôi ngước lên nhìn,
hoảng hốt lùi lại, rồi nhìn một lần nữa và vừa rên vừa ngã xuống đất. Đó chính
là người anh em của tôi, bạn của tôi, là Guatêmôc, ông vua cuối cùng của đất
nước Anahuac! Chàng bị treo cổ như một tên ăn trộm ở khu rừng ảm đạm vắng vẻ
này, và chỉ có diều hâu bay lượn trên đầu chàng. Sững sờ vì ngạc nhiên và kinh
sợ, tôi đứng từ dưới đất ngước lên nhìn chàng, vô tình bỗng nhớ tới biểu tượng
kiêu hãnh và quyền lực của người Aztec, - con diều hâu đang quắp một con rắn.
Trước tôi là thân xác của ông vua Anahuac cuối cùng đang treo lơ lửng, và thật
kinh khủng, chính tôi phải tận mắt chứng kiến cảnh một con diều hâu bỗng cắm
ngập móng vào đầu chàng, như biểu tượng rùng rợn của sự diệt vong đất nước
Anahuac và những ông vua của nó.
Vừa nguyền rủa, tôi vừa vội rút cung
tên bắn con diều hâu. Nó kêu lên một tiếng rồi rơi ngay dưới chân tôi, hai cánh
còn đập mạnh. Sau đó tôi ra lệnh cắt dây thừng. Chúng tôi cho xác Guatêmôc
xuống đất, thủ lĩnh Tacubư và một nhà quý tộc Aztec khác, đào một hố sâu bên
gốc cây và cho cả ba vào đó. Lần cuối cùng, tôi vĩnh biệt Guatêmôc dưới bóng
cây xâyba buồn bã như thế đấy; đó
cũng là nơi chàng yên nghỉ nghìn năm. Tôi đã vượt qua một con đường dài tới đây
để cứu chàng, nhưng than ôi, khi gặp nhau, quân Tây Ban Nha đã kịp hành động
trước, và tôi chẳng còn gì hơn để làm ngoài việc chôn cất chàng.
Thế là Anahuac để mất người cầm đầu
của mình, chẳng còn ai nữa để cứu và giờ là lúc phải trở về nhà. Nhưng trước
khi lên đường quay lại, vô tình chúng tôi bắt được một tên Tlatxcalan nói được
tiếng Tây Ban Nha. Hắn chạy trốn từ một toán quân của Côrtex, người phờ phạc vì
thiếu thốn và do đi đường vất vả. Tên này được chứng kiến cảnh hành quyết nhục
nhã đối với Guatêmôc và những người Aztec khác. Hắn cũng nghe được những lời
cuối cùng của chàng.
Có lẽ một tên khốn nạn nào đó đã báo
cho Côrtex biết đang có âm mưu cứu thoát Guatêmôc. Thấy thế, Côrtex liền ra
lệnh treo cổ họ. Guatêmôc đón nhận cái chết một cách kiêu hãnh và dũng cảm, như
chàng đã đón nhận tất cả những thử thách khác trong cuộc đời đầy bi kịch của
mình. Trước khi chết chàng nói:
- Malixin, tao lấy làm tiếc đã không
giết được mày trước khi tự nguyện để mày bắt. Trái tim nói với tao rằng tất cả
những lời thề của mày là giả dối, và nó đã không nhầm. Tao mong muốn chết, vì
tao đã phải chịu thất bại nhục nhã và tra tấn, và vì tao đã sống để phải thấy
nhân dân tao bị biến thành nô lệ cho bọn người Teule. Nhưng tao nói để mày biết: mày sẽ phải đền tội vì tất cả
những điều ác do mày gây nên!
Sau đó chàng bị treo cổ trong một sự
im lặng chết chóc.
Vĩnh biệt Guatêmôc, người da đỏ dũng
cảm nhất, thông minh nhất và cao thượng nhất! Cầu mong bóng đen cái chết đau
đớn của chàng sẽ đổ xuống vinh quang của Côrtex, chừng nào mọi người còn nhớ
tên chàng và tên hắn!
Để trở về nhà, chúng tôi phải mất thêm
hai tháng nữa, nhưng cuối cùng, vô cùng mệt mỏi chúng tôi tới được thành Xôxen,
và chỉ bốn mươi người chết trong các tai nạn dọc đường đi. Ôtômi khỏe mạnh và
rất sung sướng khi thấy tôi trở về, vì nàng đã tưởng không còn được gặp lại tôi
nữa. Nghe tôi kể về cái chết của Guatêmôc, nàng khóc rất lâu, khóc về người anh
của nàng, và về cả việc cùng cái chết của chàng, tia hy vọng cuối cùng của người
Aztec đã tắt.
XXXIII
IXABEN ĐƠ XIGUENXA ĐƯỢC TRẢ THÙ
Sau cái chết của Guatêmôc, tôi và
Ôtômi sống bình yên ở thành Xôxen nhiều năm nữa. Đất nước của chúng tôi cằn cỗi
và nghèo, tuy thế chúng tôi không bị lệ thuộc vào quân Tây Ban Nha, không nộp
cống cho chúng, và sau khi Côrtex trở về Tây Ban Nha, chúng không còn ý định
thuần phục chúng tôi nữa. Hầu như toàn bộ Anahuac đã bị chúng chinh phục trừ
một ít các bộ lạc sống ở những vùng núi hẻo lánh, đường sá khó khăn như chúng
tôi, vì chinh phục phần còn lại của dân tộc Ôtômi chúng chẳng được lợi gì,
ngoài những trận đánh ác liệt, vì vậy chúng để yên chờ dịp khác.
Tôi nói “những phần còn lại của dân
tộc Ôtômi”, vì dần dần nhiều bộ lạc Ôtômi đã tự mình đầu hàng quân Tây Ban Nha,
cuối cùng chỉ còn lại thành Xôxen của chúng tôi và phần đất bao quanh nó không
quá mấy chục dặm. Phải nói thật rằng chính nhờ yêu mến công chúa Ôtômi, lòng
kính trọng đối với tên tuổi và dòng dõi lâu đời của nàng, và có thể nhờ danh
tiếng của tôi, một thủ lĩnh da trắng tài giỏi về nghệ thuật quân sự, mà số thần
dân Ôtômi ít ỏi ấy không bỏ chúng tôi đi.
Người ta thường hỏi tôi có hạnh phúc
không? Để hạnh phúc, tôi đã được trao rất nhiều, và chắc ít ai được Chúa cho
một người vợ xinh đẹp và đầy tình yêu nồng nàn như vợ tôi, người đã nhiều lần
khẳng định tình cảm ấy của mình bằng những hành động tự hy sinh đáng khâm phục.
Người phụ nữ ấy đã tự nguyện nằm cạnh tôi trên bàn thờ của thần chết; vì tôi,
nàng đã để tay nhuốm máu; sự thông minh của nàng đã cứu tôi thoát nhiều cảnh
hiểm nghèo, còn tình yêu của nàng là nguồn an ủi tôi trong những lúc đau buồn.
Nếu sự biết ơn có thể chinh phục trái tim đàn ông, thì suốt đời tôi sẽ đặt trái
tim tôi dưới chân Ôtômi; trong chừng mực nào đó, xưa nay nó đã như thế. Nhưng
lẽ nào lòng biết ơn, các tình cảm khác hay thậm chí cả tình yêu nồng nàn có thể
bắt được chúng ta quên ngôi nhà quê hương? Tôi, một thủ lĩnh da đỏ, cầm đầu một
bộ lạc đang ở trong tình thế tuyệt vọng, đấu tranh chống lại chính số phận, lẽ
nào tôi có thể quên được tuổi trẻ cùng bao nhiêu hy vọng và lo sợ, quên được
thung lũng Uêvơni với những bông hoa xinh đẹp ở đó, và quên được lời thề của
tôi, thậm chí cả khi lời thề ấy đã bị phản bội? Chả là tất cả đã xảy ra trái
với ý tôi, chẳng qua vì bị hoàn cảnh bắt buộc, và tôi nghĩ những ai đọc xong câu
chuyện này sẽ không lên án những việc tôi đã làm. Chắc ít người ở vào địa vị
tôi, bị tấn công từ mọi phía bởi sự nghi ngờ, khó khăn và nguy hiểm, có thể
hành động khác.
Trí nhớ không để tôi yên. Nhiều lần
đang đêm tỉnh dậy, thậm chí với Ôtômi nằm cạnh, trái tim tôi da diết nhớ nhung
và hối hận, nếu người ta có thể hối hận những điều không phụ thuộc vào họ. Tôi
vẫn đeo chiếc nhẫn của Lyly trên tay, nó là kỷ niệm duy nhất của nàng tôi còn
giữ được. Tôi không biết nàng đã lấy chồng hay chưa, còn sống hay chết. Càng
ngày, cái hố ngăn cách chúng tôi càng sâu rộng hơn, nhưng ý nghĩ về nàng vẫn
bám theo tôi như cái bóng, chúng xuyên qua cả tình yêu bão táp của Ôtômi, thậm
chí tôi cảm thấy chúng cả trong những cái hôn của con tôi. Điều đáng sợ nhất là
tôi tự khinh bỉ mình vì những cảm giác luyến tiếc ấy. Tuy nhiên, còn một điều
khác làm tôi còn sợ hơn thế, đó là việc Ôtômi, người không bao giờ nhắc tới
chuyện này, có thể đọc thấy trong tim tôi:
Dù
chúng ta ở đâu
Trái
tim vẫn bên nhau.
Trên chiếc nhẫn Lyly tặng có ghi hai
câu thơ ấy, và trong thực tế đã xảy ra đúng như vậy. Vâng, chúng tôi xa nhau,
xa đến nỗi không thể hình dung nổi có chiếc cầu nào đó có thể nối liền hai
người, nhưng dù sao, tâm hồn tôi vẫn luôn bên nàng. Có thể trong tim nàng tất
cả đã giá lạnh, nhưng vượt qua núi non, biển cả, vượt qua sự vô cùng vô tận của
cái chết, tôi vẫn hướng về nàng như trước, và nếu nàng đã chết thì chỉ cái chết
mới chia cắt được chúng tôi. Như trước, tôi vẫn mơ ước về tình yêu mà tôi đã
phản bội.
Những người đọc câu chuyện đời tôi
những năm còn trẻ chắc vẫn nhớ cái chết của Ixaben đơ Xiguenxa, về việc trước
khi chết cô ta nguyền rủa tên linh mục đã xúc phạm và chửi mắng cô ta; đồng
thời cô ta còn nói rằng hắn sẽ phải chết một cái chết còn rùng rợn hơn bởi bàn
tay những kẻ cuồng tín như hắn. Nếu nhớ không nhầm, thì hình như ở phần đầu tôi
có nói rằng điều ấy đã xảy ra, và bằng một cách lạ kì nhất.
Sau khi Côrtex chinh phục Anahuac, tên
linh mục mẫn cán ấy đã tới Mêhicô cùng một số tên khác để dùng kiếm và các dụng
cụ tra tấn khác bắt người da đỏ phải yêu mến vị thần chân chính là Chúa Giêsu.
Hắn là tên cuồng tín và dã man nhất trong số những đồng nghiệp của hắn làm cái
nghề “nhân đạo” ấy.
Bọn người tư tế da đỏ làm nhiều việc
thật độc ác, như móc tim người để tế thần Uixilôpôctli hay thần Kêxancôatli,
nhưng ít ra chúng chỉ gửi linh hồn những nạn nhân đáng thương ấy lên Ngôi nhà Mặt trời. Còn các linh mục
Thiên chúa giáo thì thay hòn đá chém bằng các dụng cụ tra tấn tinh vi và bằng
các giàn thiêu người, thêm vào đó, linh hồn các nạn nhân được giải phóng khỏi
bao đau đớn trần tục bằng cách ấy, bị chúng ném xuống Ngôi nhà của quỷ dữ.
Vâng, trong số những tên độc ác và
khốn nạn nhất, cha Pêđrô này của chúng ta là thằng nổi bật hơn cả. Hắn xuất
hiện lúc chỗ này, lúc chỗ khác, để lại sau lưng hàng đống xác người ngoại đạo,
đến mức cuối cùng hắn được gọi là Con quỷ
dữ của Chúa Giêsu. Nhưng một lần, khi làm cái việc thiêng liêng ấy của hắn,
hắn đã đi quá xa và bị một bộ lạc Ôtômi bắt được. Bộ lạc này tách khỏi chúng
tôi vì muốn giữ nghi lễ giết người tế thần, nhưng họ cũng không thuần phục quân
Tây Ban Nha. Một hôm, tôi được báo các quan tư tế của bộ lạc ấy muốn giết một
nhà truyền đạo Giatô bị bắt làm tù binh để tế thần Têcatlipôca. Lúc ấy đã là
năm thứ mười bốn kể từ ngày chúng tôi cầm đầu thành Xôxen.
Lập tức tôi cùng một toán lính nhỏ lên
đường tới gặp thủ lĩnh bộ lạc này, với hy vọng thuyết phục được ông ta thả nhà
truyền đạo kia ra. Mặc dù bộ lạc này không cùng liên minh với chúng tôi, nhưng
giữa tôi và vị thủ lĩnh ấy vẫn có những mối quan hệ thân thiện nhất định.
Tuy nhiên, khi chúng tôi tới thì đã
muộn. Các quan tư tế đã hành động trước. Con quỷ dữ của Chúa Giêsu bị dâng tới cái thớt chém bằng đá trước
một bức tượng thật kinh khủng, xung quanh là những chiếc cọc có cắm đầu lâu.
Hai tay trói quặt sau lưng, bị lột trần tới bụng, để lộ chiếc ngực có những túm
lông lốm đốm bạc. Cha Pêđrô vừa đi tới chỗ hành hình, vừa lắc đầu để xua bầy
muỗi đang bay vo ve xung quanh. Đôi môi mỏng của hắn lẩm bẩm đọc những lời cầu
nguyện, còn cặp mắt ti hí và sắc thì như nhìn xoáy vào mặt kẻ thù của hắn, với
vẻ đe dọa nhiều hơn là xin được tha chết. Tôi nhìn hắn, và rất ngạc nhiên khi
biết hắn là ai.
Lập tức trong đầu tôi hiện lên cảnh
một hầm tù ảm đạm ở Xêvin, một cô gái trẻ đẹp khoác tấm vải liệm và một tên
linh mục mặc quần áo đen, khuôn mặt bé choắt đang cầm cây thánh giá bằng ngà
voi đập gãy răng và không ngớt lời chửi rủa cô kia vì tội phản đạo. Tên linh
mục ấy hiện giờ đang đứng trước mặt tôi! Ixaben đơ Xiguenxa đã báo trước cho
hắn một cái chết như cái chết của cô. Điều tiên tri của cô đã thành sự thật.
Lúc này tôi không chặn bàn tay số phận lại được, thậm chí cả khi tôi có quyền.
Tôi đứng lùi sang bên và khi Con quỷ dữ
của Chúa Giêsu đi ngang, tôi nói với hắn bằng tiếng Tây Ban Nha:
- Có thể cha đã quên, thưa cha, nhưng
hãy nhớ lời tiên tri của Ixaben đơ Xiguenxa trước khi chết, cô ta đã bị cha
giết hại ở Xêvin nhiều năm trước đây!
Nghe tôi nói thế, tên linh mục tái
mặt, mặc dù da mặt hắn rám nắng; hắn run lên và tôi nghĩ chỉ chút nữa hắn ngã.
Hắn kinh sợ nhìn tôi, nhưng chỉ thấy trước mặt là một thủ lĩnh da đỏ bình
thường đang vui thích khi thấy một trong những kẻ thù của mình bị giết.
- Quỷ xatăng! - Hắn thều thào nói. -
Ngươi từ địa ngục tới đây để hành hạ ta vào giờ phút cuối cùng này chăng?
- Xin cha nhớ lại những lời cuối cùng
của Ixaben đơ Xiguenxa khi cha nguyền rủa và đánh cô ta, - tôi châm chọc hắn. -
Không cần biết tôi là ai, hãy nhớ lời cô ta nói!
Hắn đứng sững lại trong chốc lát,
không để ý tới bọn người tư tế đang xô, giục hắn đi, nhưng sau đó, hắn lấy lại
được dũng cảm và kêu thét lên:
- Hãy tránh xa ta, quỷ xatăng, ta
không sợ ngươi đâu! Ta đã nhớ cô gái tội lỗi ấy, mong cho linh hồn cô ta được
yên nghỉ! Điều cô ta nguyền rủa hôm nay đã đến với ta, nhưng ta đang vui mừng,
đúng, vui mừng, vì sau cái thớt chém bằng đá là cánh cửa thiên đường đang mở
rộng chờ ta. Cút đi, quỷ xatăng, cút đi, ta không sợ, không sợ!
Bị lôi đi tiếp, hắn vẫn tiếp tục kêu
to:
- Ôi! Lạy Chúa, hãy cứu rỗi linh hồn
con! Lạy Chúa!
Mong cho linh hồn hắn được yên nghỉ!
Hắn độc ác nhưng ít ra không hèn nhát,
và đã dũng cảm tiếp nhận cái số phận bi thảm mà trước đấy chính hắn đã bắt rất
nhiều người phải chịu.
Bản thân sự kiện này không lớn lắm,
nhưng than ôi, nó đã dẫn tới những hậu quả vô cùng trầm trọng. Nếu lúc ấy tôi
cứu được hắn khỏi tay bọn người tư tế, thì có lẽ bây giờ tôi không phải viết
những dòng này trong ngôi nhà của tôi ở thung lũng Uêvơni. Tôi không biết liệu
tôi có cứu được hắn không, chỉ biết thậm chí lúc ấy tôi không có ý định cứu
hắn, và rằng cái chết của hắn đã gây cho tôi một tai họa thật lớn.
Vào thời gian này, Tây Ban Nha đã cử
một đại diện mới cho nhà vua sang đây. Biết cái chết của nhà truyền đạo, ông ta
vô cùng tức giận và quyết định sẽ trả thù những người Ôtômi vô thần.
Chẳng bao lâu sau tôi được tin một đội
quân rất lớn gồm người Tlatxcalan và các bộ lạc da đỏ khác đã lên đường trừng
phạt chúng tôi, với quyết tâm giết hết tất cả những người Ôtômi, không bỏ sót
một người nào. Cùng đi với chúng còn có một trăm lính Tây Ban Nha. Cầm đầu đội
quân trừng phạt này không phải ai xa lạ mà là đại úy Becnan Điax, tên lính đã
được tôi tha chết trong trận đánh Đêm
buồn, chủ nhân của thanh kiếm tôi đang mang bên hông.
Phải chuẩn bị phòng thủ trước, vì
chúng tôi chỉ có một hy vọng duy nhất để chiến thắng là phản công bất ngờ.
Trước kia, quân Tây Ban Nha cùng hàng nghìn quân tay sai của chúng đã tấn công
chúng tôi, nhưng kết quả là chỉ một ít tên sống sót trở về trại Côrtex. Điều
được làm một lần có thể sẽ lặp lại, - Ôtômi đã nói thế với sự vững tin kiêu
hãnh của một bản lĩnh bất khuất. Nhưng than ôi, sau mười bốn năm nhiều cái đã
thay đổi.
Mười bốn năm trước đây, dưới quyền
chúng tôi là cả một vùng rừng núi rộng lớn, chỉ cần lên tiếng gọi là lập tức
các bộ lạc sẽ gửi cho chúng tôi hàng nghìn chiến binh. Bây giờ các bộ lạc ấy
không phụ thuộc chúng tôi nữa, và chúng tôi chỉ có thể trông chờ vào dân chúng
thành Xôxen và một vài vùng lân cận. Trong trận đánh lần trước tôi có thể huy
động tới mười nghìn binh sĩ, bây giờ vất vả lắm tôi mới có được hai ba nghìn
người, mà rồi gặp nguy hiểm, một phần trong số đó đã bỏ chạy.
Dù khó khăn như thế, tôi vẫn không
được nản chí. Tôi phải sử dụng một cách tốt nhất các lực lượng tôi có, tuy thật
ra tôi rất lo sợ về kết quả của trận đánh. Tuy nhiên, tôi cố giấu không cho
Ôtômi biết những lo lắng của tôi, về phần mình nàng cũng giữ kín không bộc lộ
ra ngoài những điều làm nàng băn khoăn. Niềm tin của Ôtômi vào tôi thật lớn:
nàng tin chắc rằng chỉ đầu óc thông minh của tôi cũng đủ đánh tan toàn bộ đội
quân Tây Ban Nha.
Kẻ thù đang tới gần, chúng tôi chuẩn
bị phòng thủ. Kế hoạch của tôi cũng giống mười bốn năm trước đây. Tôi sẽ cầm
đầu một toán quân nhỏ xông ra đón địch ở khe núi, con đường duy nhất dẫn tới
thành Xôxen. Lực lượng còn lại được chia thành hai phần đều nhau bố trí ở hai
bờ đá dựng đứng dọc khe núi để ném đá xuống quân Tây Ban Nha khi chúng đuổi
theo tôi. Ngoài ra, tôi còn cho tiến hành các biện pháp dự phòng. Rất có thể
quân địch sẽ dồn chúng tôi tới chân thành phố, vì vậy tôi đã ra lệnh để lại một
số quân để canh giữ các cổng và tường thành. Để đề phòng trường hợp xấu nhất,
tôi cho đưa lên đỉnh kim tự tháp, - là nơi sau khi bỏ lệ giết người tế thần,
được biến thành chỗ chứa vũ khí, - một số lớn nước và thức ăn dự trữ. Tôi cho
xây bao quanh kim tự tháp những bức tường có gắn mảnh thuỷ tinh do núi nửa phun
ra cùng các công trình khác, và biến nó thành một pháo đài bất khả xâm phạm mà
từ nay sẽ chẳng có ai chiếm được nó, nếu trong pháo đài còn lại dù chỉ mười
người bảo vệ.
Cuối cùng, vào một đêm đầu hè, tôi
chia tay với Ôtômi và sau khi ra lệnh cho phần lớn lực lượng mai phục trên khe
núi, tôi cầm đầu mấy trăm chiến binh khác đi dọc theo con đường sẩm tối. Cùng
đi với tôi có con trai tôi. Nó đã đến cái tuổi mà theo phong tục người da đỏ,
phải trải qua các nguy hiểm của chiến tranh.
Thám báo cho tôi biết, quân Tây Ban
Nha đóng trại ở bên kia khe núi và định vượt qua nó một giờ trước khi trời
sáng, với hy vọng làm chúng tôi không kịp trở tay. Các tin tức ấy chính xác.
Khi mặt trời vừa chiếu những tia đầu tiên lên đỉnh núi lửa Haca phủ tuyết,
chúng tôi bỗng nghe có tiếng ầm ì được nhân lên nhờ tiếng vọng của rừng núi báo
tin quân Tây Ban Nha đang lại gần. Tôi dẫn đầu các chiến binh ra đón đường.
Chúng tôi đi một cách lặng lẽ vì ở đây mỗi hòn đá đã trở nên quen thuộc. Nhưng
bọn Tây Ban Nha thì ngược lại. Nhiều tên trong số chúng cưỡi ngựa, vả lại chúng
phải kéo theo hai khẩu đại bác lớn. Cứ một lúc, các cỗ súng nặng nề ấy lại bị
kẹt giữa các tảng đá vì những tên nô lệ kéo chúng do trời tối không nhìn thấy
đường đi. Cuối cùng, vì không muốn đánh nhau trong điều kiện bất lợi như thế,
tên chỉ huy đã ra lệnh dừng lại chờ trời sáng.
Trời sáng hẳn, những tia sáng yếu ớt
chiếu xuống khe núi hiểm trở. Từ bóng tối chui ra một đoàn dài những tên Tây
Ban Nha mặc áo giáp sáng loáng, theo sau là hàng nghìn quân tay sai da đỏ mặc
quần áo còn sặc sỡ hơn, đầu đội những chiếc mũ có vẽ hình kì dị và khoác những
tấm vải cắm lông chim nhiều màu.
Kẻ địch cũng nhìn thấy chúng tôi và
bắt đầu cười giễu trang phục nghèo nàn của đối thủ. Cứ thế, vòng quanh các tảng
đá như một con rắn khổng lồ, cả đoàn quân Tây Ban Nha và tay sai tiến dần lên
phía trước theo khe núi. Khi khoảng cách chỉ còn lại hơn một trăm bước, quân
Tây Ban Nha hô to những tiếng hô xung trận, ném giáo sang phía chúng tôi, và
rồi vừa cầu Thánh Pie giúp đỡ, chúng vừa phi ngựa lao vào tấn công.
Chúng tôi đón chúng bằng những trận
mưa tên. Điều này làm chúng dừng lại, nhưng không lâu. Một lát sau quân Tây Ban
Nha tiến lại gần hơn và bắt đầu dồn ép chúng tôi bằng những chiếc giáo dài và
nhọn. Nhiều chiến binh của tôi đã bị giết, vì nói chung vũ khí người da đỏ
không thể nào chống chọi nổi các tay lính kị và các con ngựa chúng cưỡi được
che bằng áo giáp kim loại. Chúng tôi buộc phải bỏ chạy, và đó cũng là một phần
kế hoạch chiến đấu. Tôi định kéo chúng tới chỗ lối đi bị thu hẹp và hai vách
núi dựng đứng để các chiến binh của tôi ném đá xuống đầu chúng.
Tất cả xảy ra đúng dự định. Chúng tôi
chạy, còn quân Tây Ban Nha thì được thắng lợi kích thích, đuổi theo để rơi vào
bẫy. Hòn đá đầu tiên đã được ném xuống, giết chết một con ngựa, và khi văng ra
làm một con khác bị thương. Tiếp sau là hòn thứ hai, thứ ba, và tôi thầm vui
mừng, cho là mọi nguy hiểm đã lùi lại phía sau, và một lần nữa kế hoạch của tôi
sẽ mang lại thắng lợi.
Nhưng bỗng nhiên tôi nghe thấy trên
cao có những tiếng động lạ, hoàn toàn không giống tiếng đá lăn xuống khe. Đó là
tiếng động của một trận đánh và mỗi lúc một to hơn. Rồi từ trên cao có cái gì
văng xuống. Tôi nhìn kỹ, - thì ra đó không phải hòn đá mà là một xác người, một
trong những chiến binh Ôtômi của tôi. Anh ta mới chỉ là giọt đầu tiên trong
trận mưa xác chết sẽ tiếp theo sau đó.
Than ôi, thế là rõ: chính chúng tôi bị
rơi vào bẫy! Quân Tây Ban Nha là những tên lĩnh dạn dày kinh nghiệm nên không
chịu mắc bẫy hai lần. Chúng phải cho các khẩu đại bác đi qua khe núi vì không
còn cách nào khác, nhưng trước đó, nhờ đêm tối, chúng đã cho phần lớn lực lượng
của chúng vào núi. Theo những con đường bí mật được bọn phản bội chỉ dẫn, chúng
đã lên tới đỉnh núi bằng phẳng, và bây giờ đang chém giết toán quân mai phục
của tôi có nhiệm vụ bảo vệ khe núi và ném đá xuống đầu địch.
Đây không phải là trận đánh mà là một
cuộc tàn sát thật sự. Náu mình trong các hốc đá và những bụi cây gai, các chiến
binh Ôtômi của tôi chỉ theo dõi đường tiến của kẻ địch theo khe núi, mà không
ngờ rằng chúng có thể đang ở sau lưng. Họ bị tấn công bất ngờ. Nhiều người thậm
chí không kịp cầm vũ khí đánh trả, vì trước đây vũ khí đã được xếp sang bên để
tiện lăn những tảng đá lớn xuống khe. Với số quân đông hơn hẳn, kẻ địch vừa kêu
to man dại, vừa lao tới. Trận đánh diễn ra thật quyết liệt và nhanh chóng.
Khi tôi hiểu tất cả những điều này thì
đã muộn. Và tôi luôn miệng nguyền rủa mình đã không lường trước một khả năng
như thế. Thú thật, tôi không hề nghĩ quân Tây Ban Nha có thể biết được những
con đường bí mật dẫn chúng lên đỉnh núi từ phía bên kia. Tôi là một thằng ngốc!
Tôi đã quên rằng sự phản bội có thể làm tất cả mọi điều.
XXXIV
THÀNH XÔXEN BỊ BAO VÂY
Trận đánh kết thúc với sự thất bại của
chúng tôi. Từ độ cao gần ba trăm mét có tiếng hô thắng lợi của kẻ thù vọng
xuống. Trận đánh kết thúc, nhưng tôi vẫn phải chiến đấu đến phút cuối cùng.
Tôi cố đưa thật nhanh các chiến binh
còn lại của mình đến chắn ở khe hẹp nhất, nơi một ít người có thể chặn được cả
một đoàn quân đông đúc.ƠŒ đây tôi kêu gọi những người tình nguyện ở lại với
mình, và hầu hết đã đồng ý ở lại. Tôi giữ năm mươi người bên mình, số còn lại
cho chạy thật nhanh vào thành Xôxen để báo cho các lực lượng đóng trong ấy biết
mối nguy hiểm đang đe dọa họ. Trong trường hợp bị giết chết, tôi yêu cầu vợ tôi
là Ôtômi sử dụng quyền lực của nàng để bảo vệ thành phố, và nếu có thể được,
yêu cầu quân Tây Ban Nha bảo đảm mạng sống cho nàng, cho con trai của chúng tôi
và cho dân tộc Ôtômi. Tôi quyết định sẽ cố thủ ở khe núi cho tới khi các cổng
thành được đóng chặt và các chiến binh được bố trí hết trên tường thành.
Tôi cho con trai tôi cùng đi theo họ.
Nó van nài ở lại nhưng tôi nhất định không chịu, vì biết ở lại, thế nào cũng bị
giết chết.
Cuối cùng chúng tôi chỉ còn một mình.
Sợ bị phục, quân Tây Ban Nha tiến rất chậm và thận trọng. Thấy ở chỗ ngoặt một
ít người đang đứng chặn đường, chúng dừng lại hẳn. Chúng tin chắc có cạm bẫy
nào đấy đang đợi chúng, mà không nghĩ toán người ít ỏi kia sẵn sàng giao chiến
trực diện với cả đoàn quân hùng hậu của chúng.
Khe núi ở chỗ này hẹp đến mức một lúc
quân Tây Ban Nha chỉ có thể đưa lên mấy người để đánh lại chúng tôi. Không thể
đặt đại bác ở đây để bắn, các thứ vũ khí khác cũng vậy. Thêm vào đó, mặt đường
rất không bằng phẳng, buộc chúng phải xuống ngựa và chỉ dàn bộ mới tấn công
được.
Cuối cùng quân Tây Ban Nha cũng làm
thế thật. Trận đánh diễn ra rất quyết liệt, có nhiều thương vong cho cả hai
bên. Hết mét này đến mét khác, kẻ địch dồn chúng tôi lùi dần. Cứ thế, chúng tôi
bị đẩy ra khỏi khe núi: từ đấy tới thành Xôxen không quá ba phần tư dặm.
Tiếp tục đánh nhau ở chỗ trống là điều
vô ích. Chúng tôi chỉ có thể chọn hoặc cái chết hoặc bỏ chạy, vì tính mạng của
vợ con, chúng tôi đã chọn cách thứ hai.
Như những con hươu bị săn lùng, chúng
tôi vội vã chạy qua thung lũng, còn quân Tây Ban Nha và tay sai thì đuổi theo
như bầy chó. Cũng may mà đường gồ ghề nên lính kị Tây Ban Nha không phi nhanh
được, và khoảng hai mươi người Ôtômi đã an toàn chạy tới cổng thành. Từ đội quân
đông đảo của tôi chỉ còn năm trăm người sống sót về thành, và cũng độ chừng ấy
nữa đang trấn giữ bên trong.
Cổng thành nặng nề đóng sập lại đúng
lúc: chúng tôi vừa kịp chốt các cánh cổng bằng gỗ sồi to dày, thì quân Tây Ban
Nha cũng vừa tới. Chiếc cung vẫn ở bên tôi, trong ống chỉ còn lại một mũi tên
duy nhất. Tôi đặt mũi tên lên cung, kéo thật mạnh rồi nhắm vào một thằng cưỡi
ngựa còn trẻ đi đầu. Mũi tên cắm đúng vào cổ hắn, giữa chiếc mũ và bộ áo giáp.
Hắn dang rộng hai tay rồi ngã xuống, bất động. Điều này làm bọn lính kị chững
lại, nhưng sau đó một tên khác phi ngựa lao tới, tay giơ cao miếng vải trắng.
Với bộ quần áo giáp lấp lánh, trông hắn như một hiệp sĩ thực thụ. Có cái gì
quen thuộc trong dáng người và cách điều khiển ngựa của hắn. Dừng lại trước
cổng thành, hắn giơ cao cờ trắng và lên tiếng nói.
Tôi nhận ngay ra hắn. Đó là Gacxia,
người tôi không biết tin gì trong suốt mười hai năm qua. Thời gian đã làm hắn
thay đổi, điều ấy chẳng lạ, vì bây giờ có lẽ hắn sáu mươi tuổi, nếu không hơn.
Bộ râu nhọn màu hạt dẻ dưới cằm đã điểm màu bạc trắng, má hắn xệ xuống, còn đôi
môi nhìn từ xa như hai đường viền đỏ rất mảnh. Chỉ đôi mắt là vẫn long lanh và
sắc như xưa; trên miệng hắn vẫn nụ cười chế giễu lạnh lùng. Bao giờ cũng vậy,
hắn xuất hiện trên đường tôi đi đúng vào lúc gây cấn nhất, và một lần nữa trên
đầu tôi là một đe dọa sẽ phải chết một cái chết đau đớn. Nhìn hắn, tôi cảm thấy
rằng đây là cuộc chạm trán cuối cùng và quyết định của chúng tôi. Chỉ ít ngày
nữa sự căm thù được chồng chất bao năm nay của một trong hai chúng tôi sẽ vĩnh
viễn rơi vào thế giới lặng lẽ của cái chết. Và cũng như trước, thần số phận
đang chống lại tôi. Cách đây chỉ một vài phút, khi đặt mũi tên cuối cùng lên
cung, tôi do dự không biết bắn ai: vào chàng trai đi đầu hay nhà hiệp sĩ đang
cưỡi ngựa phía sau anh ta? Và rồi con người chưa hề gây điều ác nào cho tôi kia
đã nằm xuống tắt thở, còn kẻ tử thù của tôi thì đang đứng nguyên lành trước
mặt.
- Ê! - Gacxia kêu to bằng tiếng Tây
Ban Nha. - Thay mặt đại úy Becnan Điax, người cầm đầu của chúng tôi, tôi muốn
nói chuyện với thủ lĩnh quân Ôtômi phiến loạn!
Tôi bước lên tường thành theo chiếc
cầu thang cạnh đấy và đáp:
- Nói đi, tao chính là người mày cần.
- Anh nói tiếng Tây Ban Nha khá lắm,
anh bạn ạ, - Gacxia nói rồi tiến lại gần, nheo mắt nhìn tôi. - Anh học thứ
tiếng này ở đâu thế? Anh sinh ở đâu và tên là gì?
- Tao học nó nhờ một bà tên là Luizơ,
mà thời trẻ mày có biết, Hoan đơ Gacxia ạ. Còn tên tao là Tômax Uyngfin.
Gacxia lảo đảo trên yên ngựa, một câu
nguyền rủa độc ác buột khỏi miệng hắn.
- Lạy Đức Mẹ! - Hắn kêu lên. - ƠŒ Tây
Ban Nha tao nghe nói mày ẩn trốn đâu đó giữa một bộ lạc dã man, khi trở lại
đây, tao cứ tưởng mày chết rồi! Vì từ ấy đến nay đã bao nhiêu năm trôi qua!
Đúng là tao gặp may thật! Xưa nay mày luôn trốn chạy khỏi tao, và đó là một
trong những điều làm tao buồn nhất Tômax ạ. Nhưng bây giờ thì mày đừng hòng
thoát chết, mày có thể tin chắc điều ấy.
- Hoan đơ Gacxia, tao biết lần này
hoặc tao, hoặc mày sẽ phải ra đi, - tôi đáp.- Ván cờ sắp kết thúc, chỉ còn bước
cuối cùng. Tuy nhiên đừng vội khoe khoang trước, vì còn chưa biết ai sẽ thắng.
Mày đã nhiều lần gặp may nhưng có thể chẳng bao lâu nữa sự may mắn của mày sẽ
kết thúc, và cùng với nó là mạng sống của mày. Nói đi, Hoan đơ Gacxia, người ta
giao cho mày đến đây làm gì?
Hắn do dự trong chốc lát, tay mân mê
bộ râu nhọn dưới cằm, tôi có cảm giác rằng bóng đen sợ hãi đã bị lãng quên nay
lại xuất hiện trong mắt hắn. Nếu đúng thế thật, thì hắn cũng nhanh chóng lấy
lại được bình tĩnh. Hắn ngẩng đầu, nói một cách dũng cảm và rõ ràng:
- Nghe đây, Tômax Uyngfin. Tao được
lệnh báo cho mày và những con chó Ôtômi còn sống sót biết đề nghị của đại úy
Becnan Điax, là người thay mặt quan toàn quyền Tây Ban Nha ở đây.
- Đề nghị ấy là gì? - Tôi hỏi.
- Một đề nghị rất rộng lượng đối với
những tên vô thần và khốn nạn, - hắn cười đáp. - Hãy đầu hàng vô điều kiện, lúc
ấy quan toàn quyền sẽ nương nhẹ với chúng mày. Sự trừng phạt sẽ không khắt khe
lắm. Tất cả những người tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc giết chết đức
cha Pêđrô thiêng liêng sẽ bị thiêu sống trên giàn lửa, còn những người đứng xem
cha bị giết sẽ bị chọc mù mắt. Để làm gương cho người khác, quan tòa đã chọn và
treo cổ một số thủ lĩnh Ôtômi, trong đó tất nhiên có mày, Tômax Uyngfin và đặc
biệt một phụ nữ tên là Ôtômi, con gái của vua Môntêzuma đã chết. Tất cả dân
chúng còn lại của thành Xôxen sẽ phải giao cho quan toàn quyền hết mọi tài sản
của mình. Sau đó bọn chúng, gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con sẽ được đưa ra khỏi
thành phố, và quan toàn quyền sẽ cho ở trong các khu dân cư của người Tây Ban
Nha để chúng học cách làm việc ở hầm mỏ và các nghề sinh sống khác. Đó là điều
kiện đầu hàng của chúng mày. Tao được lệnh báo trong vòng một giờ chúng mày
phải quyết định sẽ chấp nhận hay không.
- Nếu không chấp nhận thì sao?
- Thì đại úy Becnan Điax đã được lệnh
cướp bóc và hủy diệt toàn bộ thành phố, cho quân Tlatxcalan và các đồng minh da
đỏ khác được tha hồ hoành hành trong mười hai giờ, sau đó bắt tất cả những
người còn sống sót bán làm nô lệ ở thành phố Mêhicô.
- Được, - tôi nói, - một giờ rưỡi nữa
sẽ có trả lời.
Bố trí lính canh ở cổng thành, tôi ra
lệnh lập tức triệu tập cuộc họp các thành viên hội đồng Xôxen còn sống sót, bản
thân tôi thì vội vàng đi vào cung điện. Ôtômi ra cửa đón tôi. Nghe tin thất
bại, nàng tưởng không còn được gặp tôi nữa, nên bây giờ nàng rất vui mừng.
- Ta đi vào phòng họp của hội đồng, -
tôi nói. - Anh sẽ nói.
Chúng tôi đi vào gian phòng, nơi đã
tập trung phần lớn các quan cố vấn (đến lúc này chỉ còn tám thủ lĩnh sống sót),
và không một lời bình luận, tôi báo ngay đề nghị của Gacxia cho họ biết. Sau
đó, Ôtômi là người đầu tiên lên tiếng nói.
Đã hai lần tôi được nghe nàng nói với
đồng bào của mình, thuyết phục họ chống lại bọn Tây Ban Nha. Lần đầu tiên chúng
tôi được người kế tục Môntêzuma là Cuitlahua cử tới đây để yêu cầu các bộ lạc
Ôtômi giúp đỡ người Aztec chống Côrtex và bọn Teule. Lần thứ hai cách đây mười bốn năm, chúng tôi trở lại thành
Xôxen khi Tênôctitlan bị hủy diệt, và tức giận vì hai mươi nghìn chiến binh của
mình bị giết chết, người Ôtômi đã muốn trao chúng tôi cho quân Tây Ban Nha để
đổi lấy hòa bình. Cả hai lần Ôtômi đã giành được thắng lợi nhờ tên tuổi, sự cao
thượng và tài hùng biện của nàng.
Nhưng bây giờ tình hình khác hẳn, thậm
chí nếu Ôtômi biết sử dụng nghệ thuật của mình tài giỏi đến đâu, nàng cũng
không thay đổi được tình thế. Từ sự vĩ đại ngày nào của nàng bây giờ chỉ còn
lại cái bóng, như muôn nghìn cái bóng khác của một quốc gia đang sụp đổ mà sự
vinh quang đã biến mất vĩnh viễn, như biến mất vĩnh viễn tuổi trẻ và sắc đẹp
ban đầu của nàng. Bây giờ nàng chẳng thể kêu gọi hướng tới các truyền thống vẻ
vang và lòng tự hào của dân tộc nàng. Tuy thế, khi nàng đứng dậy cạnh con trai
và quay sang nói với những người đang bối rối tuyệt vọng, mất trí vì hoảng sợ
và ôm mặt cúi đầu trước nàng, tôi lại thấy như chưa bao giờ nàng đường bệ, xinh
đẹp như lúc này, và chưa bao giờ những lời giản dị của nàng lại có sức thuyết
phục như thế.
- Thưa các bạn! - Nàng nói. - Các bạn
hiểu tai họa nào đang đổ lên đầu chúng ta: chồng tôi vừa cho các bạn biết điều
kiện đầu hàng của bọn Teule. Chẳng
còn gì để hy vọng nữa. Để bảo vệ thành phố, ngôi nhà thiêng liêng của tổ tiên,
chúng ta chỉ còn nhiều nhất là một nghìn người, và chúng ta là dân tộc duy nhất
trong số các dân tộc Anahuac còn dám cầm vũ khí chống lại người da trắng. nhiều
năm về trước tôi đã nói với các ông: hãy chọn lấy giữa một bên là cái chết danh
dự và một bên là cuộc sống nhục nhã! Hôm nay tôi nhắc lại: hãy chọn đi! Đối với
tôi và người thân của tôi, không có sự lựa chọn ấy, vì dù các ông quyết định
thế nào, chúng tôi vẫn chết! Nhưng các ông thì khác. Các ông có thể tiếp tục
chiến đấu để chết, hoặc sẽ sống những ngày còn lại của đời mình cùng con cháu
các ông trong cảnh nô lệ. Hãy chọn đi!
Bảy thủ lĩnh hội ý với nhau, sau đó
một người đứng dậy nói:
- Hỡi Ôtômi, và cả anh, Teule, trong nhiều năm liền chúng tôi
làm theo lời khuyên của các anh, nhưng điều đó đã không mang lại hạnh phúc cho
chúng tôi. Chúng tôi không oán trách các anh vì chính các vị thần của Anahuac
đã từ bỏ chúng tôi khi chúng tôi từ bỏ các thần, mà số phận con người lại do
các thần quyết định. Trong nhiều năm các anh đã chia sẻ cùng chúng tôi niềm vui
và nỗi khổ, và bây giờ, khi cái chết đang đến gần, chúng tôi muốn chịu chung
cùng các anh một số phận. Trong giờ phút cuối cùng này, nhân dân Ôtômi sẽ không
phản bội lời thề của mình. Chúng tôi lựa chọn thế này: chúng tôi đã sống tự do
với các anh, và bây giờ cùng các anh, chúng tôi sẽ chết như những người tự do,
vì như các anh, chúng tôi cũng cho rằng thà chết vẻ vang còn hơn sống nhục nhã
suốt đời để mang gông xiềng của bọn Teule!
- Tốt lắm! - Ôtômi nói. - Chúng ta chỉ
còn lại một việc để làm là phải chết một cái chết thế nào để con cháu sau này
đặt bài hát ca ngợi chúng ta. Thưa chồng của em, anh nghe rõ câu trả lời của
hội đồng chứ? Hãy chuyển nó tới quân Tây Ban Nha!
Tôi quay lại tường thành với ngọn cờ
trắng trong tay. Một tên trong bọn Tây Ban Nha, nhưng không phải Gacxia, phi
ngựa tới, và tôi vắn tắt báo hắn biết rằng người Ôtômi sẽ tiếp tục chiến đấu cho
đến khi chỉ còn lại một mũi giáo và một cánh tay để phóng mũi giáo ấy đi, và
rằng tất cả chúng tôi sẵn sàng chết dưới những đống đổ vụn của thành phố, như
những người Aztec ở Tênôctitlan, chứ nhất định không chịu đầu hàng quân Tây Ban
Nha, là những người chúng tôi biết rõ có “lòng nhân đạo” như thế nào.
Tên kia quay ngựa về trại, và không
đầy một giờ sau, trận đánh bắt đầu. Chúng bố trí các khẩu đại bác cách chúng
tôi hơn một trăm bước, - ở khoảng cách ấy các mũi giáo và mũi tên của chúng tôi
không thể gây thương vong cho chúng, - và chúng bắt đầu phóng những quả đạn sắt
vào cổng thành. Tuy nhiên, chúng tôi cũng không thể khoanh tay ngồi nhìn. Thấy
các tấm cổng bằng gỗ sắp đổ sụp, chúng tôi phá các ngôi nhà lân cận và lấp đầy
cổng thành bằng đá và gỗ. Sau đống chướng ngại vật ấy, tôi ra lệnh đào một
đường hào sâu và rộng để không một con ngựa hay một khẩu đại bác nào có thể đi
qua. Chúng tôi đã tạo nên những chướng ngại vật tương tự, có hào sâu cả phía
trước và sau, cắt ngang đường phố chính dẫn tới quảng trường lớn, nơi có chiếc
kim tự tháp. Và đề phòng quân Tây Ban Nha tấn công từ hai sườn theo các ngóc
ngách nhỏ giữa các ngôi nhà, tôi cũng ra lệnh bịt kín cả bốn mặt quảng trường
ấy.
Cho đến tận chiều tối, dù quân Tây Ban
Nha tiếp tục bắn đại bác vào cánh cổng đổ sụp và lên các đống gạch vụn, nhưng
không gây cho chúng tôi thiệt hại gì đặc biệt; chưa đến mười người Ôtômi bị
chết. Hôm ấy quân Tây Ban Nha vẫn không dám tấn công chiếm thành.
Trời vừa sẩm tối, đại bác ngừng bắn,
nhưng trong thành không ai đi ngủ. Phần lớn đàn ông canh giữ cổng thành và các
nơi xung yếu khác, còn xây dựng các chướng ngại vật chủ yếu là phụ nữ. Tôi và
các thủ lĩnh khác chỉ huy họ làm việc này. Ôtômi nêu gương đầu tiên, tiếp theo
nàng là các bà quý tộc và cuối cùng là tất cả phụ nữ bình thường trong thành
phố. Nói chung, trong thành phố của dân tộc Ôtômi, phụ nữ nhiều hơn nam giới,
và sau trận đánh buổi sáng để lại khá nhiều bà góa chồng, sự chênh lệch ấy lại
càng rõ nét. Thật là một cảnh tượng lạ lùng khi dưới ánh sáng của hàng trăm bó
đuốc, hàng đoàn phụ nữ nối đuôi nhau đi giữa các phố, còng lưng dưới những viên
đá nặng và các giỏ đầy đất, hoặc đào đất cứng bằng những chiếc gậy gỗ đầu nhọn,
hoặc dùng sức phá đổ các bức tường. Họ làm việc say sưa và lặng lẽ, không một
lời kêu rên, không một giọt nước mắt. Thậm chí cả những người có chồng con bị
quẳng xuống khe núi sáng hôm ấy cũng không nao núng. Họ biết chống cự cũng vô
ích, và sớm muộn tất cả sẽ chết, tuy thế không một người nào trong họ nhắc đến
việc đầu hàng. Nếu ai đó buột miệng nói điều ấy, họ chỉ nhắc lại lời Ôtômi,
rằng thà chết tự do còn hơn sống nô lệ.
Nhìn họ, tôi thầm nghĩ: hình như những
người phụ nữ ít lời này đang được cổ vũ bởi một quyết định khủng khiếp nào đấy
mà họ không nói ra.
Tôi tin họ đã có một quyết định tuyệt
vọng, nhưng tôi không hình dung nổi khủng khiếp tới mức nào, mà Ôtômi cũng
không chịu để lộ với tôi điều bí mật đó.
Đêm ấy, tình cờ gặp nhau, tôi nói với
nàng:
- Ôtômi, anh có một tin không hay lắm.
- Nếu anh nói thế vào giờ phút này,
thì chắc nó phải rất đáng sợ.
- Trong hàng ngũ quân địch có Gacxia.
- Em cũng biết điều ấy.
- Làm sao em biết được?
- Nhờ đôi mắt của anh. Mắt anh đầy vẻ
căm thù.
- Hình như đã đến lúc hắn giành được
thắng lợi. - Tôi nói.
- Không phải hắn mà anh sẽ thắng,
chồng của em ạ. Hắn sẽ bị trả thù vì những việc hắn làm, nhưng anh phải trả giá
đắt cho thắng lợi của anh. Đừng hỏi em vì sao, em cảm thấy điều ấy bằng tất cả
trái tim em. Hãy nhìn kia! - Nàng chỉ lên đỉnh phủ tuyết của núi lửa Haca đang
được bình minh nhuốm hồng. - Hãy nhìn kia, Hoàng
hậu đang đội vương miện của mình. Bây giờ anh hãy tới cổng thành, - chẳng
bao lâu nữa quân Tây Ban Nha sẽ tấn công.
Ôtômi nói chưa dứt lời, tôi đã nghe
phía ngoài tường thành vọng lại tiếng kêu xung trận, và vội vã chạy về phía cổng.
Từ tường thành, trong ánh mờ sáng của buổi bình minh, tôi thấy quân Tây Ban Nha
dàn hàng chuẩn bị tấn công. Nhưng chúng không vội. Cuộc tấn công chỉ được bắt
đầu khi mặt trời nhô lên hẳn.
Trước hết quân Tây Ban Nha cho bắn như
điên vào cổng thành, làm nó đổ sụp và làm bay phần chóp của chướng ngại vật
bằng đá và gỗ. Bỗng nhiên đại bác ngừng bắn. Kèn đồng lại vang lên, và cả đoàn
quân hơn một nghìn tên Tlatxcalan, theo sát chúng là bọn lính Tây Ban Nha, bắt
đầu lao lên tấn công. Nấp sau chướng ngại vật, tôi và hơn ba trăm chiến binh
Ôtômi đang đợi chúng. Chưa đầy hai phút, bọn Tlatxcalan đã nhô đầu lên sau
chướng ngại vật, và trận đánh bắt đầu.
Ba lần chúng tôi đẩy lui quân địch
bằng mũi giáo và cung tên, nhưng lần thứ tư làn sóng tấn công vượt qua được chướng
ngại vật và ào xuống chiến hào. Đánh nhau với một kẻ địch đông như thế ở nơi
trống trải là cầm chắc thất bại, nên chúng tôi vội vàng rút lui về vị trí phòng
ngự thứ hai.
ƠŒ đây trận đánh lại tiếp tục. Chướng
ngại vật thứ hai được xây bằng lương tâm con người, nó đã giúp chúng tôi cầm cự
suốt hai giờ liền và đánh quân Tây Ban Nha nhiều đòn rất hiểm. Nhưng quân Ôtômi
cũng bị tổn thất lớn, và chúng tôi buộc phải rút lui. Lại một cuộc tấn công
mới, kéo theo một trận huyết chiến tuyệt vọng, và lại rút lui. Cứ thế kéo dài
không nghỉ suốt ngày hôm ấy. Mỗi lúc, quân của chúng tôi một ít hơn, và tuy mỏi
mệt, tay không cầm nổi vũ khí, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục chiến đấu một cách
tuyệt vọng. Cạnh hai chướng ngại vật cuối cùng, hàng trăm phụ nữ Ôtômi đã quần
nhau với kẻ địch bên cạnh chồng con của họ.
Chỉ khi mặt trời lặn, quân Tây Ban Nha
mới vượt qua nổi chướng ngại vật cuối cùng. Dưới màn đêm đang bao trùm khắp
nơi, một số ít chiến binh Ôtômi còn sống sót đã kịp chạy tới nhà thờ trước kim
tự tháp và vào ẩn náu trong đó.
Đêm yên tĩnh trôi qua.
XXXV
LỄ TẾ THẦN CUỐI CÙNG
CỦA PHỤ NỮ ÔTÔMI
CỦA PHỤ NỮ ÔTÔMI
Dưới ánh sáng các đám cháy do quân Tây
Ban Nha gây nên khắp nơi khi tấn công thành phố, tôi đã cho kiểm tra lại lực
lượng trong cái sân rộng được tường xây bao bọc xung quanh trước kim tự tháp.
Tập trung về đây gồm hai nghìn phụ nữ, rất nhiều trẻ con nhưng chỉ còn lại
nhiều nhất là bốn trăm chiến binh. Kim tự tháp của chúng tôi thấp hơn kim tự
tháp ở Tênôctitlan, nhưng các mặt của nó dốc hơn và được ốp đá rất phẳng, phần
diện tích trên đỉnh cũng được lát bằng các phiến đá cẩm thạch và rộng gần như
thế, - mỗi cạnh một trăm bước. ƠŒ chính giữa là cái thớt chém bằng đá, bàn thờ
với ngọn lửa thiêng, ngôi nhà dành cho các quan tư tế và đền thờ thần chiến
tranh, trong đền vẫn còn tượng của thần mặc dù đã nhiều năm nay không ai cúng
viếng. Giữa đền thờ và thớt chém là một cái hố sâu được tráng ximăng, to hơn
một căn phòng lớn, nơi có thời được dùng để chứa lương thực trong những năm đói
kém. Trước khi thành phố bị bao vây, tôi cho đổ nước đầy vào bể này, - đưa được
nước lên đỉnh kim tự tháp là chuyện không đơn giản. Còn nhà thờ tôi cho biến
thành kho lớn chứa lương thực và thực phẩm. Vì vậy, ít ra trong thời gian trước
mắt, chúng tôi không lo chết đói và chết khát. Nhưng bây giờ chúng tôi lại gặp
một khó khăn mới. Tuy đỉnh kim tự tháp rộng như thế, nhưng nhiều lắm nó chỉ
chứa được nửa số người đang có mặt. Để tiếp tục chiến đấu, số người thừa ấy
phải tìm chỗ ẩn náu ở nơi khác. Tôi tập hợp các thủ lĩnh lại, báo vắn tắt tình
hình và hỏi nên làm thế nào. Hội ý với nhau xong, họ quyết định tất cả những
người bị thương, những người già cả, phần lớn trẻ em và những ai muốn nhập với
họ, ngay đêm nay sẽ tìm cách trốn ra khỏi thành phố, nếu bị bọn Tây Ban Nha bắt
được thì đành trông chờ vào lòng thương của chúng. Tôi không phản đối. Những
con người bất hạnh này đang bị cái chết đe dọa khắp nơi, vì vậy chết ở đâu
không quan trọng lắm.
Từ các đám đông chọn ra hơn một nghìn
năm trăm người sẽ sơ tán. Đúng nửa đêm chúng tôi mở cửa sân nhà thờ cho họ đi
ra. Thật là một cuộc chia tay khủng khiếp! Nơi này con gái ôm ông bố già cả,
chồng từ biệt vợ, nơi kia bà mẹ hôn con lần cuối, ở đâu cũng nghe thấy những
lời tiễn biệt đau lòng. Hai tay úp mặt, tôi tự hỏi mình như đã từng tự hỏi
nhiều lần trước đó: “Nếu quả Chúa nhân từ, sao ngài có thể chấp nhận những tội
ác thế này, những tội ác đã gây nên cảnh đau lòng, thậm chí làm cả những trái
tim tội lỗi xúc động? Tại sao?”.
Sau đó, quay sang Ôtômi đang đứng
cạnh, tôi hỏi nàng có nên cho con trai của chúng tôi đi không, như nó là một
đứa bé con nhà bình thường.
- Không, - nàng đáp. - Thà để nó chết
với chúng ta còn hơn làm nô lệ cho quân Tây Ban Nha.
Cuối cùng tất cả ra đi và cánh cổng
đóng lại. Một lát sau chúng tôi nghe lính canh Tây Ban Nha báo động, sau đó có
tiếng kêu và tiếng súng vọng lại.
- Có lẽ bọn Tlatxcalan giết chết họ, -
tôi nói.
Tuy nhiên, tôi đã nhầm. Sau khi bắn
chết mấy người, những tên chỉ huy Tây Ban Nha mới hiểu ra rằng đó chỉ là một
đám đông người già, phụ nữ và trẻ em. Becnan Điax, người cầm đầu của chúng, dù
thô lỗ nhưng có lòng nhân đạo, đã ra lệnh lập tức chấm dứt bắn giết. Sau khi
chọn để bán làm nô lệ những người đàn ông có khả năng lao động và những đứa trẻ
lớn có thể đi xa, ông ta đã cho những người còn lại muốn đi đâu thì đi. Những
con người bất hạnh này đi đâu và chuyện gì xảy ra với họ sau đó, - tôi không
biết.
Suốt đêm ấy chúng tôi ở trong sân nhà
thờ, nhưng trước khi trời sáng, sợ quân Tây Ban Nha đột ngột tấn công, tôi cho
phụ nữ và các thanh niên mới lớn leo lên đỉnh kim tự tháp. Bây giờ số người này
còn lại gần sáu trăm. Hầu như tất cả các cô gái và những phụ nữ có chồng, còn
trẻ và đẹp, đã tình nguyện ở lại. Nhưng để bù lại, hơn một trăm đàn ông lực
lưỡng đã bỏ chúng tôi ra đi để cầu xin lòng thương của quân xâm lược.
Cùng ba trăm chiến binh còn lại, tôi
ẩn mình sau những bức tường che sân đền thờ, chờ quân Tây Ban Nha tấn công.
Cuộc tấn công bắt đầu vào lúc rạng sáng. Mặc dù bị chống trả quyết liệt, đến
giữa trưa quân địch đã vượt qua tường. Với số thương vong gần một trăm người
chết và bị thương, chúng tôi buộc phải rút lui theo con đường vòng vèo dẫn lên
đỉnh kim tự tháp.
Quân địch lại lao vào tấn công, nhưng
ở đây, ở bờ kim tự tháp dốc đứng, ưu thế về số đông không cho chúng hiệu quả.
Cuối cùng chúng tôi đã đẩy lùi chúng xuống, gây khá nhiều tổn thất. Hôm ấy
chúng không tấn công lần nào nữa.
Đêm đến, chúng tôi củng cố lại vị trí
của mình trên đỉnh kim tự tháp. Tôi mệt đến mức vừa kịp ăn qua loa mấy miếng,
đã ngủ say như chết. Sáng hôm sau quân Tây Ban Nha lại tấn công, và lần này thì
kết quả khá hơn. Được trận mưa đạn yểm trợ, hết bước này đến bước khác, chúng
dồn chúng tôi dần về phía sau. Suốt ngày trận đánh diễn ra ở chân kim tự tháp,
hết bậc này đến bậc khác. Cuối cùng, khi mặt trời sắp lặn, toán quân đầu tiên
của địch vừa hô to những tiếng kêu thắng lợi, vừa leo lên bề mặt kim tự tháp và
xông vào đền thờ.
Trước đấy, phụ nữ chỉ đứng nhìn, nhưng
lúc này bỗng một người trong số họ chồm dậy kêu lên:
- Hãy túm lấy những tên ôn vật này!
Chúng không đông đâu!
Vừa rít lên những tiếng giận dữ kinh
khủng, cả đám đông phụ nữ nhảy xổ vào những tên lính Tây Ban Nha và Tlatxcalan
mệt mỏi, và vật chúng ngã xuống.
Nhiều người bị giết nhưng họ đã giành
được phần thắng. Họ lấy dây thừng trói chúng vào những vòng đồng còn sót lại
trên các tảng đá cẩm thạch từ thời các quan tư tế còn trói các nạn nhân, để
chúng khỏi chạy trốn.
Trong mấy giây chúng tôi đứng yên sững
sờ vì cảnh tượng ấy, rồi tôi kêu to với các chiến binh xung quanh:
- Không lẽ phụ nữ Ôtômi lại dũng cảm
hơn đàn ông? Tiến lên!
Không nói thêm lời nào nữa, tôi cùng
một trăm chiến binh khác lao xuống phía dưới theo bờ dốc hẹp và thẳng đứng.
Chạy được một quãng, chúng tôi gặp
ngay lực lượng chủ yếu của quân Tây Ban Nha và đồng minh. Tin chắc đã nắm được
phần thắng trong tay, chúng leo lên một cách thong thả. Đòn tấn công của chúng
tôi mạnh và bất ngờ đến mức nhiều tên bị giết ngay lập tức, xác lăn tròn theo
bờ dốc kim tự tháp. Thấy thế, chúng dừng lại rồi bắt đầu lùi xuống. Bị chúng
tôi đánh phủ đầu, chúng thoát chạy ngã chồng chất lên nhau, đứa trước cản đường
đứa sau, và chẳng bao lâu, sự hỗn loạn lan truyền khắp cả đoàn quân đang dàn
hàng ngang tiến lên đỉnh kim tự tháp. Vừa kêu lên những tiếng hoảng sợ, kẻ địch
vừa mạnh ai nấy chạy, nhưng nhiều đứa đã không trốn thoát. Hàng ngũ những người
tấn công lớn dần, như một mảng núi sụt lở ầm ầm đổ xuống, xô hết tốp này đến
tốp khác quân địch xuống chân kim tự tháp.
Trong khoảng mười lăm phút, quân Tây
Ban Nha đã để mất những gì mà trong suốt một ngày vất vả lắm mới chiếm được.
Trên kim tự tháp không còn một tên địch nào sống sót, nếu không kể những đứa bị
trói vào vòng đồng, vì quá hoảng sợ quân Tây Ban Nha thậm chí còn rút khỏi sân
đền thờ để trở về trại, mang theo những tên đã chết hoặc bị thương.
Mệt mỏi nhưng rất phấn chấn, chúng tôi
quay lên đỉnh kim tự tháp. Khi leo tới tầng thứ hai, cách mặt đất khoảng ba
mươi mét, một ý nghĩ bỗng xuất hiện trong đầu tôi. Với sự giúp đỡ của những
người đang ở cạnh, tôi bắt đầu thực hiện ý nghĩ đó. Cạy những hòn đá lát đường
lên, chúng tôi bắt đầu cho lăn xuống dưới theo bờ dốc kim tự tháp. Cứ thế hết
lớp này đến lớp khác, chúng tôi lấy dần đá và đất cho đến khi dưới chân chúng
tôi, thay cho con đường bằng phẳng, là một đống đất đá cao gần mười mét. Thế là
đường lên kim tự tháp bị cắt đứt.
- Bây giờ thì còn lâu cánh quân Tây
Ban Nha mới lên được đây để phá tổ của chúng ta, - tôi vừa hài lòng nói, vừa
nhờ ánh trăng nhìn lại kết quả của mình.
- Nhưng thưa thủ lĩnh, - một chiến
binh nói với tôi, - chúng ta liệu có cánh để bay khỏi nơi này không?
- Có, đôi cánh của thần chết, - tôi ảm
đạm đáp, và chúng tôi lại tiếp tục leo lên.
Công việc phá đường chiếm nhiều thời
gian, thức ăn được đưa từ phía trên xuống, vì vậy khi tôi lên tới đỉnh kim tự
tháp thì đã nửa đêm. Tới gần đền thờ, tôi ngạc nhiên nghe từ đấy có tiếng hát
trang nghiêm vọng ra. Tôi còn ngạc nhiên hơn nữa khi thấy cửa đền thần
Uixilôpôctli mở rộng, trên bàn thờ trước tượng thần, ngọn lửa thiêng lại bùng
cháy giận dữ, ngọn lửa đã bao năm nay không được đốt lại. Tôi lắng tai nghe, -
tôi đang mơ hay quả có bài hát tế thần rùng rợn từ đền thờ bay ra? Không, không
phải mơ. Trong sự yên tĩnh ban đêm, tiếng hát man dại nghe rất rõ:
Chúng
con mang vật tế cho thần!
Hãy
cứu giúp chúng con, hỡi thần Uixilôpôctli
Hỡi
thần Uixilôpôctli, - vị thần vĩ đại!
Tôi bước vội lên phía trước rồi rẽ
sang góc, mặt đối mặt với quá khứ xa xôi. Như ngày xưa, bây giờ tập hợp ở đây
là các quan tư tế mặc áo đen, tóc để xõa ngang vai, hông đeo những con dao găm
đáng sợ. Bên phải hòn đá chém là những tù binh bị trói nằm thành hàng chuẩn bị
đem dâng cho thần. Những người mặc quần áo tư tế đã túm lấy nạn nhân đầu tiên,
- đó là một tên Tlatxcalan. Đang cúi xuống người hắn là một trong những thủ
lĩnh của tôi, người mặc chiếc áo tế thần màu đỏ, - tôi nhớ trước kia, khi tôi chưa
cấm tệ giết người tế thần ở thành Xôxen, ông ta là quan tư tế của thần
Têcatlipôca, - còn xung quanh là một vòng phụ nữ, vừa hát bài hát rùng rợn kia,
vừa nhìn tên địch sắp bị giết.
Tôi đã hiểu tất cả. Trong giờ phút
tuyệt vọng cuối cùng và trước cái chết không tránh khỏi, ngọn lửa niềm tin cổ
xưa lại lần nữa bùng cháy trong trái tim những người phụ nữ đang hóa điên vì
chồng, con hoặc bố mình bị giết.
Tôi nói đến đám phụ nữ vừa hát bài hát
tế thần, vừa nhìn những tên tù binh bằng đôi mắt giận dữ, nhưng tôi chưa nói
điều kinh khủng nhất: đối diện với tôi, ở chính giữa vòng người là công chúa
Ôtômi, con gái vua Môntêzuma và là vợ tôi. Tay nàng cầm một chiếc đũa nhỏ, vung
vẩy bắt nhịp.
Mấy giây sau, tôi đã ở bên nàng.
- Có chuyện gì xảy ra vậy? - Tôi nghiêm
khắc hỏi nàng.
Ôtômi ngước đôi mắt đờ đẫn nhìn tôi
một cách ngạc nhiên, như không nhận ra tôi là ai.
- Hãy đi khỏi đây, người da trắng kia!
- Nàng khẽ nói. - Người ngoại tộc không được phép can thiệp vào các nghi lễ của
chúng tôi.
Tôi sững sờ đứng yên, không biết phải
làm gì, và nhìn trân trân vào ngọn lửa sau bao năm đã tắt nay lại bùng cháy
trước tượng thần Uixilôpôctli đáng sợ.
Đứng cách tôi không xa là một thủ lĩnh
Ôtômi cùng tuổi với tôi. Anh ta bao giờ cũng là bạn của tôi và là người chỉ huy
quân sự cao nhất ở đây sau tôi. Tôi đến gần anh ta và nói:
- Này, anh bạn, hãy vì danh dự của dân
tộc các anh mà giúp tôi chấm dứt việc này!
- Tôi không thể làm được điều ấy, -
anh ta đáp. - Cả anh cũng đừng nhúng tay vào. Nếu không sẽ không ai cứu nổi anh
đâu. Bây giờ quyền lực đang trong tay phụ nữ, anh thấy đó, họ sử dụng nó một
cách triệt để. Chẳng bao lâu tất cả chúng tôi sẽ chết, nhưng trước khi chết họ
muốn làm cái điều mà cha ông họ đã làm, và sẽ làm được, vì họ chẳng có gì để
mất. Dù cố đến đâu cũng không thể dễ dàng quên các phong tục cổ xưa được.
- Nhưng có thể ta cứu được bọn Teule? - Tôi hỏi.
- Để làm gì? Lẽ nào ít ngày nữa chúng
cứu ta khi ta nằm trong tay chúng?
- Có thể chúng không cứu, - tôi đáp, -
nhưng nếu phải chết, chúng ta hãy chết với lương tâm trong sạch.
- Tóm lại, anh muốn tôi làm gì, Teule?
- Thế này nhé: hãy tìm ba bốn chiến
binh còn chưa bị mê muội về chuyện này, rồi giúp tôi cùng họ giải thoát cho
những tên Teule, nếu chúng ta cứu
được những người còn lại. Sau đó chúng ta sẽ dùng dây thừng dòng chúng xuống
chỗ đường bị đào để chúng tự đi về trại.
- Được, để tôi thử, - anh ta nhún vai
đáp. - Nhưng tôi làm điều ấy chỉ vì anh yêu cầu và vì tình bạn cũ của chúng ta,
chứ không vì thương bọn Teule đáng
nguyền rủa kia. Tôi thì tôi muốn ném tất cả bọn chúng lên bàn thờ!
Anh ta bỏ đi, lát sau tôi thấy một số
chiến binh Ôtômi bắt đầu đến đứng cạnh những tên tù binh. Như thể vô tình, họ
dừng lại ở gần người tù binh da đỏ cuối cùng, tiếp đến là những tên lính Tây
Ban Nha đang bị trói chặt, - để che mắt đám đông phụ nữ đang say sưa điên loạn
với cái nghi lễ rùng rợn của họ.
Tôi thận trọng bò lại gần những tên
lính Tây Ban Nha bị trói chặt tay chân vào những vòng đồng, trên các tảng đá,
chúng nằm im chờ chết, mặt tái nhợt, mắt lồi ra vì kinh sợ.
- Xì! Im lặng! - Tôi khẽ nói vào tai
tên nằm ngoài cùng. Hắn là tên lính già trước đó phục vụ bên cạnh Côrtex. Tôi
biết hắn. - Có muốn được cứu thoát không?
- Anh nào lại đùa về việc trốn chạy
thế này? - Hắn khẽ thì thào rồi vội ngoái lại nhìn. - Lẽ nào có thể cứu chúng
tôi thoát khỏi những tên phù thủy kia?
- Tôi là Teule, người da trắng, con chiên đạo Giatô, đồng thời là thủ lĩnh
dân tộc Ôtômi. Tôi còn một ít người trung thành. Chúng tôi sẽ cắt dây trói cho
các anh, rồi liệu sau. Đừng quên rằng tôi đang mạo hiểm rất lớn, vì nếu việc
không thành, chúng tôi sẽ phải chịu chung một số phận với các anh.
- Nếu trốn khỏi nơi này, - tên lính
Tây Ban Nha đáp, - chúng tôi sẽ không quên ơn anh, anh có thể tin chắc điều ấy.
Hãy cứu chúng tôi, rồi đến lượt chúng tôi sẽ cứu anh. Nhưng cả khi được các anh
tha, làm sao chúng tôi có thể đi giữa lúc trăng sáng thế này, vượt qua được bãi
trống trước con mắt những mụ kia?
- Cũng phải thử vậy? - Tôi đáp. -
Không còn cách nào khác!
Thật may một trường hợp ngẫu nhiên đã
giúp chúng tôi. Khi chúng tôi nói chuyện, hình như trong trại Tây Ban Nha đã
hiểu chuyện gì đang xảy ra trên đỉnh kim tự tháp. Phía dưới có những tiếng kêu
kinh sợ vọng lên, sau đó đại bác bắn từng tràng tới tấp, nhưng không gây cho
chúng tôi tổn thất gì. Đồng thời một toán lớn quân Tây Ban Nha vượt qua sân đền
thờ chuẩn bị tấn công. - Chúng chưa biết đường lên đã bị cắt.
Thậm chí tất cả những điều ấy cũng
không làm nghi lễ tế thần dừng lại. Viên thủ lĩnh Ôtômi, bạn tôi cùng các chiến
binh đáng tin cậy khác đang ở cạnh. Tôi cúi xuống, dùng dao găm cắt hết dây
trói cho bọn Tây Ban Nha. Cả mười hai người chúng tôi xúm vào một chỗ che cho
năm tên Tây Ban Nha ở giữa, rồi bất chợt, tôi vung kiếm kêu to:
- Quân Teule tấn công kim tự tháp! Quân
Teule đang tấn công! Chúng ta hãy đánh bật chúng xuống!
Tôi không nói dối, vì lúc ấy cả đoàn
quân Tây Ban Nha đã bắt đầu leo lên con đường dốc đứng. Lợi dụng điều ấy, chúng
tôi chạy tắt qua quãng trống rồi bắt đầu xuống dốc. Không ai nhận thấy để giữ
chúng tôi lại, vì tất cả đang bận với lễ tế thần.
Bây giờ tôi có thể yên tâm hơn, vì ít
ra đã thoát khỏi những cặp mắt phụ nữ. Tuy nhiên phải hành động gấp. Chúng tôi
chạy xuống với tốc độ nhanh nhất mà đôi chân tê dại của bọn Tây Ban Nha cho
phép, cho tới khi chỗ đường xuống bị đào sâu không vượt qua được.
Lúc ấy, quân Tây Ban Nha cũng vừa tới
bên kia bờ hào. Chúng bất lực tụm lại một chỗ, gào to tức giận và tuyệt vọng vì
không cách nào cứu được đồng bọn. Chúng tôi không nhìn thấy chúng, nhưng nghe
rất rõ.
- Thế là chúng tôi phải chết! - Tên
lính già Tây Ban Nha lầu bầu, - đường đã bị cắt đứt!
- Chưa hết hy vọng đâu, - tôi đáp. -
Khoảng mươi mười lăm mét phía dưới, đường vẫn còn nguyên. Chúng tôi sẽ thòng
dây cho các anh xuống từng người một.
Không để mất thời gian vô ích, các
chiến binh của tôi bắt tay vào việc. Họ lấy dây thừng buộc sát nách tên lính
đầu tiên rồi cẩn thận dòng xuống đúng vào tay bọn Tây Ban Nha đang đứng chờ
phía dưới. Bọn này đón hắn như thể hắn vừa từ cõi chết trở về. Người cuối cùng
được dòng xuống hóa ra là tên lính già.
- Tạm biệt, - ông ta bảo tôi. - Dù anh
là kẻ phản bội, nhưng Chúa sẽ không quên lòng tốt của anh. Hay anh cùng đi với
tôi? Người ta sẽ không động tới anh, tôi xin lấy mạng sống và danh dự của tôi
bảo đảm với anh như vậy. Anh nói anh vẫn là con chiên Giatô giáo, lẽ nào đây là
chỗ thích hợp cho anh? - Ông ta chỉ tay lên phía trên.
- Không, tất nhiên, - tôi đáp, - Nhưng
tôi không cùng đi với ông được. Vợ và con trai tôi ở đây, và khi cần, tôi sẽ
chết cùng họ. Nếu ông muốn trả ơn tôi thì hãy cố cứu họ, tôi tự lo được cho
tôi.
- Tôi sẽ cố, - người lính già Tây Ban
Nha nói, rồi chúng tôi cho ông ta xuống một cách an toàn.
Trở lại đền thờ, tôi báo tin quân Tây
Ban Nha không vượt qua được chướng ngại vật nên đã rút lui.
Nghi lễ rùng rợn vẫn tiếp tục. Chỉ còn
hai tù binh da đỏ chưa bị giết. Các quan tư tế đang rã rời vì mệt.
- Bọn Teule? - Một người nào đó bỗng kêu lên.- Nhanh lên! Đưa chúng lên
bàn thờ!
Nhưng bọn Teule đã biến mất, người ta tìm chúng khắp nơi, nhưng không thấy.
Đứng nấp trong bóng tối, tôi bắt chước giọng người khác nói to:
- Vị thần Teule đỡ chúng lên cánh bay đi rồi! Thần Uixilôpôctli thua thần của
Teule rồi!
Sau đó, tôi vội đứng sang một bên để
không ai biết tôi vừa nói câu ấy. Có người lập tức nhắc lại lời tôi, và rồi tất
cả cùng đồng thanh kêu to như vậy.
- Vị thần của cây thánh giá đã che chở
bọn Teule dưới cánh của mình! - Đám
phụ nữ kêu to. - Chúng ta hãy đưa lên bàn thờ những người bị vị thần ấy ruồng
bỏ!
Một lát sau những tù binh cuối cùng đã
bị giết chết. Tôi tưởng như thế là kết thúc, nhưng không phải thế! Lễ tế thần
đã xong, nhưng hội vui thật sự mới chỉ bắt đầu.
Đám phụ nữ tụm nhau ở mép đỉnh kim tự
tháp, bận chuẩn bị điều gì đấy, mặc dù đạn Tây Ban Nha thỉnh thoảng lại giết
chết người này hoặc người nọ. Cùng đứng với họ chỉ có các quan tư tế; số đàn
ông còn lại đứng thành từng nhóm nhỏ bên ngoài, lặng lẽ quan sát họ. Không ai
định thuyết phục họ hay bắt họ dừng lại.
Trong đền thờ, cạnh hòn đá chém chỉ
còn lại một người, là Ôtômi, vợ tôi.
Thật là một cảnh tượng đáng buồn. Sự
kích động, hay đúng hơn là sự điên rồ đã rời bỏ nàng, và nàng lại trở thành
Ôtômi như hàng ngày. Bằng đôi mắt mở to vì sợ hãi, lúc nàng nhìn xác những
người bị chết, lúc nhìn đôi tay mình như chúng nhuốm đầy máu đỏ; ý nghĩ ấy làm
nàng rùng mình.
Tôi lại gần, đặt tay lên vai nàng.
Nàng hoảng hốt quay lại.
- Ôi, chồng của em, chồng của em! -
Nàng thổn thức, chỉ nói được như thế.
- Vâng, anh đây, - tôi đáp, - nhưng từ nay
đừng gọi anh là chồng em nữa!
- Ôi, em đã làm gì thế này! - Nàng rên
rỉ và rồi ngất đi trong tay tôi.
ƠŒ đây tôi muốn dừng lại để nói về
những điều mà mãi nhiều năm sau tôi mới được ông cha xứ của xứ đạo chúng tôi,
một người thiển cận nhưng hiểu rộng cho biết. Nếu lúc ấy biết được điều này,
tất nhiên tôi đã không nói thế với vợ tôi. Thậm chí cả trong giờ phút nguy kịch
ấy, cũng không nghĩ xấu về nàng, vì theo ông cha xứ ấy thì, từ thời xa xưa,
những kẻ ngoại đạo thờ các thần ác của mình, như các thần của người da đỏ ở
Anahuac, thỉnh thoảng lại hóa điên do bị phù phép. Trong cơn điên loạn ấy, họ
có thể gây nên nhiều tội lỗi ghê gớm.
Trong số nhiều thí dụ ông cha xứ đưa
ra để chứng minh, ông có kể cho tôi nghe về một tập thơ của nhà thơ Hy Lạp cổ
đại Phêôcrit Phêôcrit,
- nhà thơ hy Lạp cổ đại, thế kỷ thứ ba trước công nguyên. ƠŒ đây tác giả kể tóm
tắt nội dung trường ca (vackhanca) của ông. ). Bản trường ca này nói về việc một
người phụ nữ tên là Agava, trong ngày lễ bí mật thờ thần Điônix đã nhận thấy
con trai bà ta để mắt tới các cô gái tham gia buổi lễ. Linh hồn độc ác của thần
Điônix nhập vào bà ta, và lúc ấy, cùng những người phụ nữ khác, bà ta đã xông
vào xé xác con trai. Là người tôn thờ thần Điônix, bản thân nhà thơ Phêôcrit
không lên án bà điều ấy, mà ngược lại còn khen ngợi, vì biết bà làm điều ấy là
do thần xui khiến. “Không ai có thể lên án các thần!”.
Câu chuyện trên hoàn toàn không liên
quan gì tới tôi, tôi dẫn ra đây chỉ để chứng minh rằng có lẽ lúc ấy Ôtômi cũng
bị thần Uixilôpôctli phù phép giống như Agava, người vì thần Điônix đã giết
chết con trai mình. Sau này, bản thân Ôtômi cũng nói với tôi như thế. Vậy thì
có gì đáng ngạc nhiên? Vì thế, bây giờ tôi nghĩ lúc ấy tôi nhìn thấy không phải
Ôtômi cạnh bàn thờ mà chính là con quỷ độc ác của thần Uixilôpôctli. Trước kia
nàng thờ thần, thần đã nhập vào người nàng và giết chết linh hồn thật sự cao
thượng của nàng.
XXXVI
TRONG TAY KE CHIẾN THẮNG
Tôi bế Ôtômi lên tay rồi đưa vào một
trong những ngôi nhà cạnh đền thờ. Đây là chỗ giấu trẻ con, trong đó có con
tôi.
- Bố ơi, có chuyện gì xảy ra với mẹ
thế? - Con trai tôi hỏi. - Sao mẹ giam con ở đây với những đứa bé này, khi trận
đánh đang diễn ra bên ngoài?
- Mẹ con bị ngất, - tôi đáp. - Còn bắt
con ở đây là vì ngoài ấy nguy hiểm, con hãy trông mẹ nhé, bố đi một lát rồi
quay lại.
- Vâng ạ, - nó đáp. - Có điều con nghĩ
con phải luôn ở bên bố mới đúng, vì con là người lớn rồi! Con muốn đánh nhau
với bọn Tây Ban Nha, chứ không quanh quẩn ở đây với những người đàn bà ốm yếu.
- Con không được nghĩ tới điều đó! -
Tôi nói. - Bố yêu cầu con ở đây cho tới khi bố quay lại.
Rồi tôi đi ra, đóng chặt cửa sau lưng
mình.
Chúng tôi cầm cự với quân Tây Ban Nha
thêm ba ngày nữa. Chúng không lên được chỗ chúng tôi, đạn chúng bắn trên đầu
không gây nên thương tổn nào. Cả ba ngày ấy tôi không nói chuyện với Ôtômi, -
cả hai người như lẩn tránh nhau. Như chính bản thân nỗi buồn, nàng ngồi yên một
mình hàng giờ liền bên đền thờ, đôi mắt lộ vẻ đau đớn tột độ. Vì thương nàng,
hai lần tôi cố bắt chuyện, nhưng nàng ngoảnh đi không đáp.
Chẳng bao lâu sau, quân Tây Ban Nha
biết trên kim tự tháp còn nước và một số lớn lương thực dự trữ, giúp chúng tôi
có thể sống hơn một tháng. Nghĩ không dùng sức đánh chúng tôi được, chúng đề
nghị thương lượng.
Tôi đi xuống chướng ngại vật, nơi con
đường bị cắt đứt. Đại diện Tây Ban Nha nói chuyện với tôi từ phía bên kia hố
đào. Lúc đầu hắn đề nghị chúng tôi đầu hàng vô điều kiện. Tôi đáp chúng tôi sẽ
tiếp tục chiến đấu cho đến người cuối cùng. Sau đó chúng nói nếu chúng tôi giao
cho chúng những người tham gia vào việc giết tù binh để tế thần, chúng sẽ cho
tất cả những người còn lại tự do. Tôi đáp làm việc ấy chỉ có phụ nữ và các quan
tư tế, và rằng tất cả họ đã tự tử chết. Chúng lại hỏi Ôtômi đã chết chưa.
“Chưa! Tôi đáp, - nhưng các ông phải thề để cô ta và con trai của cô ta yên,
nếu không, nhất định tôi sẽ không đầu hàng!”. Ngoài ra, tôi còn yêu cầu chúng
viết giấy bảo đảm rằng chúng sẽ cho họ và tôi đi bất cứ nơi nào tùy thích. Lúc
đầu chúng từ chối, nhưng cuối cùng đã đồng ý, và ngày hôm sau chúng cắm vào đầu
giáo đưa cho tôi tờ giấy do Becnan Điax kí, trong đó có nói rằng chiếu cố việc
tôi và một số chiến binh khác đã cứu quân Tây Ban Nha khỏi bị giết để tế thần,
tôi, vợ con tôi và những người Ôtômi khác hiện có mặt trên kim tự tháp sẽ được
tha và cho tự do đi lại bất cứ nơi nào, với điều kiện tất cả tài sản và ruộng
đất của chúng tôi sẽ được chuyển sang sở hữu của quan toàn quyền Tây Ban Nha.
Tôi không chờ đợi các điều kiện thuận
lợi hơn thế. Thú thật rằng trước đó tôi chỉ dám hy vọng không bị chúng giết
chết.
Ôtômi đã dựng nên giữa tôi và nàng một
bức tường ngăn cách không vượt qua nổi. Tôi đã gắn bó đời tôi với một người phụ
nữ có bàn tay vấy máu, dù vô tình hay cố ý! May mà tôi có người con, niềm an ủi
cuối cùng của tôi, và cũng may rằng nó không biết gì về việc làm nhục nhã của
mẹ nó.
“Ước gì mình có thể trốn khỏi đất nước
đáng nguyền rủa này, mang nó về nước Anh, nó và cả Ôtômi nữa! - Vừa đi lên đỉnh
kim tự tháp, tôi vừa nghĩ. - Có thể ở đấy nàng sẽ quên có thời nàng từng là một
cô gái man dại!”.
Than ôi, điều này đã không xảy ra.
Khi tôi và những người cùng đi với tôi
lên tới đền thờ, chúng tôi vội vàng báo tin vui này cho mọi người cùng biết.
Tất cả đứng nghe một cách lặng lẽ. Nếu là người da trắng thì họ đã nhảy lên
sung sướng, vì so với cái chết, mọi sự mất mát khác đều vô nghĩa. Nhưng người
da đỏ thì khác. Gặp thất bại, họ không xem mạng sống của mình là quan trọng.
Các chiến binh Ôtômi này đã mất Tổ quốc, vợ con, anh em và tất cả tài sản của
mình. Thế thì thử hỏi họ còn gì nữa? Còn quyền được sống và tự do muốn đi đâu
thì đi! Nhưng bây giờ họ sống để làm gì? Vì thế mà người Ôtômi đã cau có, lặng
lẽ tiếp nhận sự khoan hồng của kẻ thù.
Tôi lại gần Ôtômi.
- Em đã hy vọng được chết ở đây, -
nàng đáp. - Nhưng không sao, chết ở đâu cũng được.
Chỉ con trai tôi là vui mừng khi biết
từ nay chúng tôi không còn bị đe doạ phải chết bởi cái đói và mũi kiếm nữa.
- Bố ơi, - nó nói, - người Tây Ban Nha
cho chúng ta sống, nhưng chúng cướp mất đất đai và đuổi chúng ta đi. Chúng ta
biết đi đâu?
- Bố không biết, con trai ạ, - tôi
đáp.
- Bố ơi, ta hãy đi khỏi Anahuac! ƠŒ
đây chẳng còn gì nữa ngoài quân Tây Ban Nha và những điều đau khổ. Ta hãy tìm
tàu, vượt biển trở về nước Anh, Tổ quốc của ta!
Đứa bé nói đúng những điều tôi đang
nghĩ, làm trái tim tôi nhức nhối. Nhưng thực hiện kế hoạch ấy bằng cách nào?
Ôtômi sẽ nghĩ sao? Tôi do dự nhìn nàng.
- Ý kiến của nó hay đấy, Teule, - như đoán được câu hỏi của tôi,
nàng đáp. - Có lẽ đó là giải pháp tốt nhất cho anh và con trai chúng ta. Còn em
thì em sẽ làm theo câu tục ngữ của dân tộc em: “Chỉ nằm trong lòng đất quê
hương mới ngủ ngon!”.
Nói đoạn, nàng quay đi và bắt đầu
chuẩn bị mọi thứ để rời đền thờ, nơi nàng đã sống qua những ngày bị bao vây.
Chúng tôi không nói thêm về chuyện này nữa.
Sau bữa trưa, một đoàn dài gồm những
người đàn ông mệt mỏi cùng một số đàn bà và trẻ em bắt đầu vượt qua hố đào theo
chiếc cầu thang được làm vội bằng các cột của ngôi đền bị phá hủy. Trước khi
mặt trời lặn, chúng tôi đã đặt chân tới khu sân dưới chân kim tự tháp. Quân Tây
Ban Nha đang chờ chúng tôi cạnh cổng.
Một số đón chúng tôi bằng những câu
chửi rủa, số khác bằng những lời giễu cợt, nhưng những tên còn chút ít tình
người thì lặng lẽ nhìn chúng tôi với vẻ thông cảm và khâm phục trước sự dũng
cảm mà chúng tôi đã bộc lộ trong trận đánh cuối cùng này.
Bọn lính tay sai thì tụm lại một chỗ,
gào lên như những con báo đói. Chúng luôn miệng kêu thét bắt chúng tôi phải
chết. Cuối cùng quân Tây Ban Nha phải ra lệnh cho chúng im lặng.
ƠŒ cổng ra vào, chúng tôi bị chia làm
hai: những người bình thường lập tức được đưa ra khỏi thành phố đổ nát và cho
lên núi, còn những người khác bị dẫn vào trại Tây Ban Nha để xét hỏi. Tôi, vợ
và con tôi được dẫn vào cung điện, nơi trước kia chúng tôi đã sống trong nhiều
năm, ở đó, đại úy Becnan Điax sẽ định đoạt số phận của chúng tôi.
Đoạn đường chúng tôi phải đi rất
ngắn,thế mà tôi vẫn gặp một chuyện bất ngờ. Vô tình ngước mắt lên, tôi bỗng
thấy Hoan đơ Gacxia đang khoanh tay trên ngực, đứng tách khỏi đám đông. Những
ngày qua tôi quên hắn vì đầu óc còn bận những việc khác, nhưng vừa thấy hắn lập
tức tôi nhớ rằng chừng nào con người này còn sống, tôi sẽ còn phải gặp nguy
hiểm và đau khổ.
Gacxia lặng lẽ quan sát chúng tôi. Tôi
là người đi cuối cùng, khi đến ngang nhau, hắn nói:
- Hẹn gặp nhé, Tômax! Lần này mày
thoát chết, thậm chí còn được tha với vợ mày và thằng con quái dị của mày. Nếu
con ngựa già đang chỉ huy quân Tây Ban Nha biết nghe lời tao, thì cả ba chúng
mày đã bị thiêu sống trên giàn lửa! Nhưng biết làm thế nào được! Chẳng bao lâu
nữa chúng ta sẽ gặp nhau, anh bạn thân mến ạ. Bây giờ tao sẽ tới Mêhicô để báo
cho quan toàn quyền biết tất cả về việc này. Hy vọng ngài sẽ không để thế.
Tôi không đáp lại, và chỉ khi đi được
mấy bước, tôi mới hỏi tên lính đi kèm, - hắn chính là tên được tôi cứu thoát
khỏi bị giết để tế thần:
- Ông kia nói thế nghĩa là gì?
- Ông Xacxêđa ấy vừa có chuyện xích
mích với chỉ huy của chúng tôi. Ông ta khuyên đừng hứa hẹn gì cả, hoặc ngược
lại cứ hứa hẹn đủ chuyện, nhưng khi các ông rời khỏi chỗ ẩn nấp, chúng tôi sẽ
giết không còn một tên nào! Không nhất thiết phải giữ đúng lời hứa với những kẻ
ngoại đạo! Nhưng ông chỉ huy của chúng tôi lại nghĩ khác. Ông ấy cho rằng cần
trung thực cả với những người theo Thần giáo. Nghe thế, chúng tôi, tất cả những
người được anh cứu sống liền kêu to với Xacxêđa: “Nhục nhã! Nhục nhã!”. Sau đó
suýt nữa xảy ra ẩu đả. Về cấp bậc, ở đấy Xacxêđa là người thứ ba. Hắn nói hắn
không tham gia thương lượng, mà cùng bọn lính hầu của hắn sẽ tới Mêhicô để kêu
với quan toàn quyền. Lúc ấy đại uý Becnan Điax bảo hắn: “Nếu muốn, anh có thể
đi gặp quỷ sứ cũng được, và muốn kêu ca với ai tuỳ ý! Bao giờ tôi cũng nghĩ chỗ
của anh phải ở dưới địa ngục mới đúng!”. Rồi mỗi người đi một nơi. Họ xích mích
nhau từ thời có trận đánh Đêm buồn.
Một giờ nữa Xacxêđa đi Mêhicô, và ở đấy hắn sẽ tha hồ nói xấu anh với quan toàn
quyền. Nhưng cũng may là anh đã thoát được hắn.
- Bố ơi, - con trai tôi nói với tôi, -
sao ông Tây Ban Nha kia nhìn chúng ta với vẻ căm thù như vậy?
- Có lần bố đã kể về người này cho con
nghe. Hắn là Hoan đơ Gacxia. Hắn đã bị cả hai thế hệ của dòng họ chúng ta nguyền
rủa, chính hắn trao ông nội con cho tòa án dị giáo, chính hắn giết bà nội con,
tra tấn bố, và không biết sẽ còn gây cho ta bao điều độc ác nữa. Hãy xa lánh
hắn, con trai ạ, và bố bắt con không bao giờ được tin hắn.
Đúng lúc ấy chúng tôi tới cung điện, -
có lẽ nó là ngôi nhà duy nhất còn lại nguyên vẹn trong cả thành Xôxen. Chúng
tôi được dẫn vào một căn phòng ở cuối một dãy nhà dài, nhưng chẳng bao lâu sau
đại úy Điax ra lệnh cho gọi tôi tới gặp.
Ôtômi muốn ở lại cùng con trai trong
căn phòng nơi người ta vừa mang thức ăn tới. Nhưng nàng phải đi theo tôi. Tôi
nhớ trước khi đi tôi đã hôn con tôi, tôi làm điều ấy chỉ vì nghĩ lúc trở
về nó đang ngủ.
Phòng đại úy Điax ở phía đối diện,
cách phòng chúng tôi khoảng hai trăm bước. Ít phút sau, chúng tôi đã đứng trước
mặt ông ta. Ông là người đứng tuổi, có vẻ ngoài nghiêm khắc, đôi mắt sáng trên
khuôn mặt không đẹp nhưng trung thực, như mặt một người nông dân quen quanh năm
làm lụng ngoài đồng. Có điều chỗ làm việc của đại úy Điax là bãi chiến trường,
và cái mà ông thu hoạch trên đó là những xác chết.
Khi chúng tôi bước vào, ông và đám
lính bình thường đang nói với nhau những câu đùa không hợp tai phụ nữ một chút
nào. Vì vậy thấy chúng tôi, ông liền im và bước lên phía trước. Tôi chào ông
theo cách người da đỏ, nghĩa là chạm tay phải xuống đất, vì bây giờ tôi đơn
giản chỉ là một tù binh da đỏ.
- Bỏ kiếm xuống, - ông nhanh nhẹn đưa
mắt nhìn tôi và ra lệnh ngắn gọn. Tôi tháo kiếm đưa cho ông và nói bằng tiếng
Tây Ban Nha:
- Hãy cầm lấy nó, ông đại úy, vì ông
đã thắng, và vì cả việc cuối cùng nó phải được trao lại cho chủ cũ!
Đó chính là thanh kiếm tôi đã tước của
Becna - Điax trong trận đánh Đêm buồn.
Nhìn nó mấy giây, Điax bỗng nói to:
- Quỷ tha ma bắt tôi đi! Tôi vẫn nghĩ
đấy là anh mà! Sau chừng ấy năm, cuối cùng chúng ta lại gặp nhau. Tốt lắm, ngày
xưa anh cứu tôi thoát chết, bây giờ tôi lấy làm mừng được đền ơn anh bằng cách
ấy. Nếu không tin thủ lĩnh Ôtômi chính là anh, tôi đã không cho anh điều kiện
đầu hàng như thế. À, mà tên anh là gì nhỉ? Không, tên thật của anh cơ, còn
người da đỏ gọi anh thế nào thì tôi đã biết.
- Tên tôi là Uyngfin!
- Tốt lắm, anh bạn Uyngfin ạ. Tôi nhắc
lại, nếu không phải anh mà là người khác, tôi sẽ bao vây ngôi nhà quỷ dữ này, -
ông chỉ lên kim tự tháp, - cho tới khi tất cả các anh phải chết đói trên ấy.
Không, anh cứ giữ lấy thanh kiếm này, anh bạn ạ. Những năm qua tôi đã quen với
thanh kiếm khác, mà anh thì sử dụng chiếc này rất tài: chưa bao giờ tôi thấy
người da đỏ đánh nhau dũng cảm như thế. Còn đây là Ôtômi, con gái Môntêzuma và
là vợ anh? Tôi thấy cô ta vẫn đường bệ và xinh đẹp như trước. Ôi, lạy Chúa, lạy
Chúa! Bao nhiêu năm đã trôi qua mà tôi cứ tưởng như vừa thấy bố cô chết hôm
qua. Ông ta có tâm hồn của một người theo đạo Giatô, tuy không tin vào Chúa
Giêsu. Chúng tôi đối xử với ông ta không được hay lắm, nhưng Chúa sẽ tha lỗi
cho chúng tôi! Còn về cô, thưa cô, tôi không thể gọi cô là người có tâm hồn
Giatô giáo được, nếu những điều các cô làm cách đây ba đêm là có thật. Nhưng
thôi, không nói chuyện này nữa, - chính dòng máu hoang dã có lỗi trong mọi
chuyện. Cô cũng được tha, nhờ chồng cô, người đã cứu bạn bè của tôi khỏi bị
chết trên bàn thờ.
Ôtômi không nói lời nào. Nàng đứng
yên, lặng lẽ như một bức tường. Từ cái đêm làm việc giết người nhục nhã ấy, nói
chung nàng rất ít nói.
- Sắp tới đây anh định làm gì, anh bạn
Uyngfin? - Đại úy Điax quay sang hỏi tôi. - Anh có thể đi bất cứ nơi nào anh
muốn, anh được tự do. Nhưng anh định đi đâu?
- Tạm thời tôi chưa biết, - tôi đáp. -
Nhiều năm về trước, khi vua Aztec tha chết cho tôi và cho lấy công chúa Ôtômi
làm vợ, tôi đã thề sẽ đứng về phía ông ta và chiến đấu vì ông ta, cho đến khi
núi lửa Pôpôcatêpêcli ngừng phun, cho đến khi trong thành Tênôctitlan không còn
một ông vua da đỏ nào, và Anahuac không còn tồn tại như một dân tộc.
- Nếu thế thì anh đã được giải phóng
khỏi lời thề ấy, vì những điều anh vừa nói không còn nữa, thậm chí cả núi lửa
Pôpôcatêpêcli cũng đã nằm yên hai năm nay. Nếu muốn, tôi có thể cho anh một lời
khuyên thân thiện: hãy trở về với những người Giatô giáo và phục vụ vua Tây Ban
Nha. Nhưng trước hết chúng ta ăn tối đã, - ta còn có khối thời gian để bàn tất
cả những chuyện ấy.
Dưới ánh sáng những bó đuốc, chúng tôi ngồi ăn
cùng bàn với Becnan Điax và mấy người Tây Ban Nha khác trong phòng khánh tiết
của cung điện. Ôtômi không muốn ở lại, Becnan Điax cố mời, nhưng nàng chẳng
chịu ăn gì, và một lúc sau đã bỏ về phòng mình.
XXXVII
TRẢ THÙ
Trong bữa ăn, Becnan Điax nhắc đến
cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi trên bờ đập, và vì tưởng nhầm là Xacxêđa,
suýt nữa tôi đã giết chết ông. Nhân tiện ông hỏi có chuyện gì đã xảy ra giữa
tôi và Xacxêđa.
Một cách thật ngắn gọn, tôi kể cho ông
nghe câu chuyện cuộc đời tôi. Biết Xacxêđa hay còn gọi là Gacxia, đã gây cho
tôi và gia đình tôi những điều gì, và tôi đã tới đất nước này ra sao, Điax hết
sức ngạc nhiên.
- Lạy Đức Mẹ! - Cuối cùng ông kêu lên.
- Bao giờ tôi cũng nghĩ hắn là một thằng khốn nạn, nhưng nếu không được anh kể
cụ thể thế này, thì tôi sẽ chẳng biết hắn khốn nạn đến mức nào. Nói thật với
anh, anh bạn Uyngfin ạ, nếu tôi được nghe anh kể cách đây một giờ thì Xacxêđa
không đi khỏi được nơi này, khi chưa đền tội vì những việc hắn đã làm, hoặc khi
chưa đấu tay đôi với anh. Bây giờ tôi sợ đã muộn: hắn định trăng lên là sẽ đi
Mêhicô, chẳng là hắn muốn nhanh chóng kêu ca với quan toàn quyền về việc tôi
chấp nhận điều kiện của anh. Cứ mặc hắn kêu ca, ở đấy người ta không tin hắn
lắm!
- Những điều tôi vừa nói với ông là
đúng sự thật, - tôi đáp. - Nếu cần, tôi có thể chứng minh được nhiều điều trong
đó. Thú thật, tôi sẵn sàng hy sinh nửa đời người để gặp hắn, mặt đối mặt trong
một trận đấu tay đôi công khai. Tôi với hắn có nợ riêng với nhau từ lâu, có
điều bao giờ hắn cũng tìm cách trốn chạy khỏi tôi.
Bỗng nhiên tôi cảm thấy có hơi lạnh
khủng khiếp nào đó phả vào mặt và tay tôi. Cảm giác lo lắng về một mối bất hạnh
không phương cứu chữa làm trái tim tôi đau nhói, và tôi ngồi lặng người, không
đủ sức cử động hay nói một lời nào.
- Ta cùng đi ra xem, có thể hắn còn ở
đây, - đại úy Điax nói, gọi lính canh, rồi đi ra khỏi phòng. Tôi đứng dậy định
đi theo, nhưng chợt nhìn thấy một người đàn bà xuất hiện trước cửa. Người này
đứng bám tay vào thành cửa, đầu ngả ra sau, tóc để xõa, khuôn mặt méo mó vì đau
đớn. Tôi nhận ra ngay rằng đó là Ôtômi.
- Có chuyện gì xảy ra với con trai
chúng ta à? - Tôi hỏi.
- Chết, chết rồi! - Nàng khẽ đáp với
giọng hoảng sợ.
Tôi không đủ sức hỏi thêm nữa: trái
tim mách tôi biết những phần còn lại. Nhưng Điax không hiểu.
- Chết? Vì sao lại chết? Ai giết?
- Hoan đơ Gacxia! Tôi thấy hắn đang đi
ra, - Ôtômi đáp, giơ cao hai tay lên trời, rồi lặng lẽ ngã xuống bậc cửa. Tôi
biết đúng lúc ấy trái tim tôi đã vỡ tan vĩnh viễn. Từ nay chẳng gì có thể làm
nó rung động thật sự, và hết ngày này đến ngày khác, hết giờ này đến giờ khác,
tôi sẽ bị giày vò đau đớn khi nghĩ tới điều này, đau đớn suốt đời, cho đến khi
tôi trút hơi thở cuối cùng để sang thế giới bên kia cùng con tôi.
- Ông thấy chưa, ông Becnan Điax? -
Tôi vừa chua xót cười, vừa kêu lên. - Những điều tôi nói về bạn ông có đúng
không?
Rồi bước qua người Ôtômi, tôi nhảy ra
khỏi phòng. Đại uý Điax cùng những người Tây Ban Nha khác chạy theo tôi. Ra
khỏi cung điện, tôi rẽ phải chạy về phía trại lính Tây Ban Nha, nhưng chưa được
một trăm bước, tôi nhìn thấy dưới ánh trăng một tốp người cưỡi ngựa đi về phía tôi.
Đó là Gacxia và đám lính hầu của hắn. Hắn đang vội đi về phía khe núi, rồi từ
đấy đi Mêhicô. Tôi đã đến đúng lúc.
- Đứng lại! - Becnan Điax hô to.
- Ai dám ra lệnh cho ta thế? - Tiếng
Gacxia đáp.
- Ta đây, ta là đại úy Becnan Điax,
chỉ huy của anh! Đứng lại, đồ quỷ dữ, đồ giết người, nếu không ngươi sẽ bị ta
giết chết!
Tôi thấy Gacxia rùng mình, mặt tái
nhợt.
- Thưa chỉ huy, ông nói gì lạ vậy? -
Hắn nói. - Nếu ông cho phép...
Nhưng đúng lúc ấy Gacxia đã nhận thấy
tôi. Tôi vùng khỏi tay Điax rồi đi lại gần hắn. Tôi không nói lời nào, nhưng
nhìn mặt tôi, có lẽ hắn hiểu rằng tôi đã biết hết mọi chuyện và bây giờ thì
không còn gì cứu được hắn.
Gacxia nhìn về phía trước qua đầu tôi,
- con đường hẻm sau lưng tôi đã bị đám lính đứng chặn. Tôi cứ tiến lại gần, gần
thêm, nhưng hắn không đứng yên chờ tôi. Hắn đã đặt tay lên chuôi kiếm, nhưng
rồi bỗng quay ngựa chạy theo con đường dẫn tới núi lửa Haca. Gacxia trốn chạy,
còn tôi thì đuổi theo hắn một cách không vội vã lắm, nhưng bám rất chặt, như
chó săn đuổi theo mồi. Lúc đầu hắn vượt tôi khá xa, nhưng chẳng bao lâu đường
hẹp, hắn không phi nhanh được. Thành phố, hay đúng hơn là những đống gạch vụn
của nó, đã lùi lại phía sau. Bây giờ chúng tôi đang đi dọc theo một con đường
rất hẻm mà người Ôtômi thường đi để mang tuyết từ núi lửa về trong những ngày
trời nóng. Khoảng năm dặm nữa sẽ gặp tuyết, và con đường nhỏ biến mất: tiếp đến
là vùng đất thiêng liêng mà không một người da đỏ nào dám đặt chân tới.
Chúng tôi cứ tiếp tục đi lên, tôi đã
thầm vui mừng một cách độc ác, vì biết bây giờ có muốn, hắn cũng không quay lại
được nữa, vì cả hai bên đều là vực thẳm hay các vách đá dựng đứng. Càng đi,
Gacxia càng hay nhìn xung quanh, lúc bên trái, lúc bên phải, lúc nhìn lên đỉnh
núi phủ tuyết đang bốc lửa trước mặt. Có điều không lần nào hắn ngoái nhìn lại
phía sau vì hắn biết đang bám theo hắn là thần chết đội lốt một hình người.
Tôi đuổi theo hắn một cách lặng lẽ và
kiên trì, cố để dành sức.
Cuối cùng Gacxia đã tới chỗ có tuyết.
Không còn lối đi tiếp. Tôi ở cách hắn hai trăm bước. Tôi, thần chết của hắn,
đang tiến lại gần từ phía sau, mà trước hắn chỉ một màu tuyết trắng xóa. Hắn do
dự mấy giây. Trong sự im lặng hùng vĩ của thiên nhiên, tôi nghe rõ hơi thở nặng
nề của con ngựa hắn cưỡi. Sau đó hắn thúc mạnh mũi giày vào bụng con ngựa, bắt
nó đi lên phía trước.
Lâu ngày tuyết xẹp xuống, cứng lại như
băng. Và trong một thời gian ngựa đi trên nó thậm chí còn nhanh hơn đi trên
đường hẻm, mặc dù mỗi lúc một dốc. Nhưng đường đi vẫn chỉ một như cũ, -
men theo vách núi phủ tuyết dựng đứng. Hơn hai giờ liền chúng tôi đi theo dốc
núi ấy, chìm hẳn trong sự im lặng của những mảng tuyết vĩnh cửu đang bao quanh
ngọn núi lửa kỳ diệu.
Đường đi mỗi lúc một dốc hơn, con ngựa
đã kiệt sức. ƠŒ độ cao thế này, nó rất khó thở. Mặc dù bị Gacxia thúc mạnh vào
sườn, con vật đáng quý ấy vẫn không bước thêm được bước nào nữa.
Bỗng con ngựa ngã xuống tuyết. Tôi
nghĩ bây giờ thì chắc Gacxia phải dừng lại, hóa ra tôi vẫn chưa hình dung hết
hắn đang sợ hãi như thế nào. Lổm ngổm bò dậy khỏi con ngựa bị ngã, hắn vừa đưa
mắt nhìn quanh, vừa cởi bỏ bộ áo giáp nặng rồi lảo đảo đi tiếp.
Lúc ấy, chúng tôi đã tới chỗ hết
tuyết, và sườn núi bắt đầu được phủ băng. Hắn chơi vơi đi trên băng. Điều tôi
sợ nhất là hắn sẽ trượt chân ngã, và thế là tôi không được giết hắn để trả thù,
lúc này tôi chỉ ở cách hắn hai mươi bước về phía sau. Vì thế, hễ thấy chỗ nào
nguy hiểm, tôi lại kêu to bày hắn cách đặt chân cho vững và điều đáng ngạc
nhiên nhất là hắn đã quên hết sợ hãi và làm đúng theo lời tôi. Trong khi đó tôi
không hề nghĩ về tôi. Tôi biết tôi không thể ngã được, mặc dù vào lúc khác thì
chắc chắn không gì bắt được tôi trèo dốc nguy hiểm thế này.
Lúc ấy, dưới ánh trăng chúng tôi đã bò
lên tới gần miệng núi lửa, nhưng bỗng nhiên, tia nắng đầu tiên xuất hiện, và
ngọn lửa soi sáng từ phía trong cột khói khổng lồ liền tắt. Bây giờ đỉnh núi
phủ băng lấp lánh hàng nghìn tia sáng đỏ. Chúng tôi tiếp tục bò lên như hai con
ruồi, phía dưới bóng đêm vẫn cuộn tròn chưa tan hết. Đó là một bức tranh kì
diệu, nhưng cũng thật rùng rợn.
- Ê, ông bạn! - Tôi gọi to Gacxia.-
Sáng thế này dễ trèo đấy, cẩn thận kẻo ngã!
Những lời này của tôi vọng lại một
cách hết sức lạ lùng giữa các đỉnh núi phủ băng, nơi chưa bao giờ từng vang lên
tiếng nói của con người.
Cuối cùng Gacxia đã bò đến miệng núi
lửa, vươn mình về phía trước và nhìn xuống. Tôi nghĩ chắc hắn sẽ nhảy xuống đó
tự tử. Nhưng nếu hắn có ý định ấy, thì lập tức cũng gạt bỏ ngay, khi thấy
nơi mà hắn định nhảy vào rùng rợn thế nào. Quay ngoắt lại, hắn rút kiếm đi
ngược về phía tôi, và chúng tôi đã gặp nhau cách miệng núi lửa độ mươi bước.
Tôi nói “gặp nhau”, nhưng thực tế
không hoàn toàn như vậy, vì cách tôi khoảng bốn bước, nơi kiếm của tôi không
với tới được, hắn đã dừng lại. Vẫn không rời mắt khỏi hắn, tôi ngồi xuống một
tảng nham thạch. Khuôn mặt hắn lạ lùng làm sao! Đó là khuôn mặt một tên giết
người trước giờ đền tội. Tiếc rằng tôi không là họa sĩ, vì dùng lời không thể
miêu tả hết đôi mắt đỏ ngầu đầy kinh sợ, hàm răng nghiến chặt và đôi môi run
run của hắn.
- Thế là chúng ta lại gặp nhau,
Gacxia, - tôi nói.
- Mày còn chờ gì nữa? - Hắn rít lên. -
Giết tao đi và thế là mọi chuyện kết thúc!
- Đi đâu mà vội, ông bác họ của tôi?
Tôi tìm ông đã hai mươi năm nay, vì vậy chẳng cần chia tay nhanh như thế? Ta
chuyện gẫu chút đã! Trước khi xa nhau vĩnh viễn, tôi hy vọng ông có đủ lịch sự
để trả lời một vài câu hỏi của tôi, chả là tôi rất tò mò. Xin hỏi vì sao ông
gây cho tôi và những người thân của tôi chừng ấy điều bất hạnh? Chắc phải có lý
do nào đấy mới có thể giải thích được sự độc ác ngu ngốc và vô nghĩa của ông.
Tôi nói với hắn bằng giọng bình tĩnh
và lãnh đạm, không hồi hộp chút nào, cũng không cảm thấy gì. Trong giờ phút lạ
lùng ấy, tôi không còn là Tômax Uyngfin, không còn là người nữa, mà là một thứ
vũ khí không hồn, một sức mạnh mù quáng. Tôi có thể nghĩ về đứa con bị giết mà
không thấy buồn: đối với tôi, nó không chết, vì bản thân tôi là một phần nhỏ
của thiên nhiên vô cùng vô tận, trong đó có cái chết. Thậm chí tôi cũng không
thấy căm thù khi nghĩ về Gacxia, như thể hắn chỉ là một con cờ trong tay ai
đấy. Nhưng đồng thời tôi hiểu bây giờ mạng sống của hắn đang hoàn toàn phụ
thuộc vào tôi, và rằng hắn sẽ trả lời và nói hết sự thật; điều này cũng chắc
chắn như việc hắn sẽ chết lúc nào tôi muốn.
Gacxia định mím môi lại, vì miệng hắn
cứ tự động mở ra, và hắn bắt đầu nói. Từng lời một, hắn bộc lộ hết trước tôi,
toàn bộ chiều sâu trái tim đen của hắn như thể hắn đang đứng trước một vị quan
tòa tối cao.
- Từ trẻ tôi đã yêu mẹ anh, - hắn bắt
đầu một cách chậm chạp, vất vả nói dằn từng tiếng. - Suốt đời tôi chỉ yêu một
mình bà ấy, cho đến bây giờ tôi vẫn yêu, nhưng bà ấy lại căm thù và sợ tôi vì
những thói xấu và sự độc ác của tôi. Sau đó bà ấy gặp và yêu bố anh. Tôi tố cáo
bố anh cho tòa án dị giáo, với hy vọng chúng sẽ tra tấn và thiêu sống ông ấy,
nhưng rồi chúng lại thả ra, và bố mẹ anh chạy về nước Anh. Sự ghen tuông làm
tôi đau khổ, tôi mong ước được trả thù, nhưng mẹ anh lại ở xa. Trong gần hai
mươi năm tôi sống một cuộc đời tăm tối, cho đến khi một lần được đặt chân lên
nước Anh vì công việc buôn bán. ƠŒ đấy, ngẫu nhiên tôi biết tin bố mẹ anh sống
gần Iamut, và rồi tôi quyết định tới gặp bà ấy, chỉ gặp thôi, chứ không hề định
giết. Tôi đã gặp may. Tôi gặp mẹ anh trong rừng, và bà ấy vẫn đẹp như xưa, tôi
chợt hiểu tôi còn yêu bà ấy hơn trước. Tôi bắt bà ấy phải chọn: hoặc chạy trốn
cùng tôi, hoặc sẽ chết, và bà ấy đã chết. Khi tôi giơ kiếm định chém, bỗng mẹ
anh ngăn lại, bảo tôi:
“Hoan, hãy lắng nghe tôi đã. Trước khi
chết, tôi muốn báo anh biết điều này. Như tôi chạy trốn anh, sau này một trong
những đứa con trai của tôi sẽ đuổi anh chạy, và cũng như anh sắp cho tôi lên
thiên đường, nó sẽ xô anh xuống chốn vô cùng vô tận của địa ngục, giữa núi đá,
băng tuyết và khói lửa”.
- Chỗ ấy là đây, - tôi nói.
- Vâng, chỗ ấy là đây, - Gacxia vừa
nhìn quanh vừa khẽ đáp.
- Nói tiếp đi!
Một lần nữa hắn định im lặng, nhưng ý
chí của tôi đã đè bẹp hắn và hắn lại nói:
- Lúc ấy rút lui thì đã muộn. Để tự
cứu mình, tôi đã giết mẹ anh và bỏ chạy. Nhưng từ giờ phút ấy nỗi lo sợ đã len
vào tim tôi cho đến tận lúc này vẫn chưa thôi ám ảnh. Bất cứ bao giờ và ở đâu,
tôi cũng bị người con trai ấy của mẹ anh hành tội. Người ấy bắt tôi chạy trốn,
chạy trốn suốt đời, cho đến khi xô tôi ngã xuống địa ngục.
- Địa ngục đang ở kia, - tôi nói rồi
lấy mũi kiếm chỉ vào miệng núi lửa.
- Vâng, tôi thấy.
- Nhưng chỉ xác ông rơi xuống đấy, còn
tâm hồn thì không.
- Chỉ xác thôi, không phải tâm hồn, -
hắn nhắc lại theo tôi.
- Nói tiếp đi, - tôi ra lệnh.
- Sau đó ngay hôm ấy tôi đã gặp anh,
Tômax Uyngfin. Những lời tiên tri của mẹ anh làm tôi hoảng sợ, và vì thế khi
thấy một trong những người con trai của bà, tôi quyết định giết để sau này anh
ta không giết tôi.
- Nhưng bây giờ anh ta sẽ giết.
- Bây giờ anh ta sẽ giết, - Gacxia
nhắc lại như một con vẹt, rồi im lặng một lát hắn lại nói:
- Còn những gì xảy ra sau đó và việc
tôi đã trốn thoát thế nào thì anh đã biết. Tôi trở về Tây Ban Nha, cố quên hết
mọi chuyện nhưng không thể được. Một đêm nọ ở Xêvin, tôi nhìn thấy một người
giống anh, tôi không nghĩ đấy là anh, nhưng tôi sợ đến mức quyết định chạy sang
xứ Ấn Độ xa xôi này. Anh đã gặp tôi vào đêm trước ngày lên đường, khi tôi đang
chia tay với một cô gái.
- Đó là Ixaben đơ Xiguenxa. Chẳng bao
lâu sau tôi đã gặp cô ta trước lúc chết, và đã chuyển lại cho ông lời nhắn của
cô ta. Bây giờ mẹ con cô ta đang chờ ông.
Gacxia rùng mình rồi kể tiếp:
- Chúng ta lại gặp nhau trên biển. Anh
xuất hiện như từ dưới sóng chui lên. Tôi không dám giết anh trước mắt mọi người
vì sợ sau này người ta buộc tội tôi về cái chết của anh. Tôi nghĩ sớm muộn anh
sẽ chết trong hầm tàu dành cho nô lệ. Nhưng anh đã không chết, thậm chí cả đại
dương cũng tỏ ra thương anh, mặc dù lúc ấy tôi nghĩ tôi đã vĩnh viễn thoát được
anh. Cùng với Côrtex, tôi tới đất nước Anahuac và lại gặp anh ở đây; lần này
suýt nữa anh giết chết tôi. Nhưng sau đó phần thắng chuyển sang tôi và tôi được
tha hồ đày đọa anh. Ngày hôm sau tôi quyết định giết chết anh, nhưng lúc đầu
muốn bắt anh phải chịu tra tấn, vì nỗi sợ làm tôi trở nên độc ác. Tuy nhiên anh
đã trốn thoát. Nhiều năm trôi qua. Tôi đã đi khắp thế giới, trở về Tây Ban Nha,
đến nhiều nước khác và rồi quay lại Mêhicô, nhưng ở đâu, nỗi sợ ấy, và những
bóng ma ấy vẫn ám ảnh tôi khắp nơi, không cho tôi một phút hạnh phúc hay bình
thản nào. Chỉ cách đây không lâu tôi mới gia nhập đội quân của Becnan Điax. Tôi
không nghĩ tới anh nữa; người ta nói với tôi anh chết từ lâu, và chỉ khi đặt
chân tới thành Xôxen, tôi mới biết thủ lĩnh người Ôtômi là anh. Những điều còn
lại thì anh đã rõ.
- Vì sao ông giết con tôi?
- Thế nó không phải cháu của mẹ anh
sao? Nó không thể giết chết tôi sao? Nhưng điều quan trọng nhất là tôi muốn trả
thù anh về những năm tháng đầy kinh hoàng kia. Vả lại, khi định giết bố mà để
cho con trai sống thì chỉ là ngu ngốc. Nó đã chết, và tôi mừng đã giết được nó,
dù từ nay cùng những hồn ma khác, hồn ma nó sẽ ám ảnh tôi khắp nơi.
- Nó sẽ bám theo ông vĩnh viễn, muôn
đời. Nhưng thôi, thế là đủ. Ông có kiếm, hãy chống đỡ đi, nếu có thể. Chết
trong khi đánh nhau vẫn nhẹ nhàng hơn.
- Tôi không đủ sức! - Gacxia rên rỉ -
Tôi đang tuyệt vọng...
- Tùy ông, - tôi nói và giơ kiếm lên.
Hắn rùng mình rồi bắt đầu lùi lại,
hoảng sợ nhìn thẳng vào mặt tôi như con chuột nhìn con rắn trước khi bị nó
nuốt. Cứ thế, tôi dồn hắn tới tận miệng núi lửa. Tôi nhìn xuống và thấy trước
mặt tôi một cảnh tượng thật đáng sợ. ƠŒ đấy, dưới độ sâu hơn mười mét, bị che
dưới một làn khói cuộn tròn là những mảng nham thạch được nung đỏ rực, đang sôi
sục, uốn éo như một sinh vật sống. Từng sợi khói bốc lên nổ lép bép, cháy đỏ
như những con rắn nhiều màu, nóng hầm hập và tỏa mùi thối khó chịu. Vâng, đây
chính là chỗ thích hợp cho Gacxia làm nơi ẩn náu cuối cùng của hắn! Thậm chí cả
tôi cũng không nghĩ được chỗ nào tốt hơn thế.
Tôi chỉ mũi kiếm xuống và phá lên
cười, nhưng khi Gacxia nhìn thấy miệng núi lửa, hắn bỗng sợ chết đến mức để mất
hết tính người. Hắn khóc lên, gào thét như một con thú. Vâng, vâng, chính con
người Tây Ban Nha kiêu hãnh đạo mạo ấy đã sụt sùi van xin tôi tha chết. Hắn,
người đã gây nên chừng ấy tội lỗi không thể nào tha thứ được đang xin tôi cho
sống, ít ra đủ thời gian để sám hối. Tôi lặng lẽ đứng nhìn hắn, trông hắn thật
thảm hại, thậm chí cả trái tim băng giá của tôi cũng bắt đầu run run vì sợ.
- Thôi, đủ rồi đấy! - Tôi nói và lại
giơ kiếm lên, nhưng sau đó liền hạ xuống. Bỗng nhiên tôi thấy Gacxia hóa điên,
hóa điên ngay trước mặt tôi!
Tôi không muốn kể ra tất cả những gì
tiếp theo sau đó. Cùng với sự điên rồ, sự dũng cảm đã trở lại với Gacxia, và
hắn bắt đầu đánh nhau. Nhưng không phải
với tôi!
Hình như hắn không còn nhìn thấy tôi
nữa, nhưng hắn vẫn đánh nhau quyết liệt, luôn vung kiếm vào chỗ trống. Thật
kinh khủng khi nhìn thấy hắn vật lộn với những kẻ thù vô hình, và nghe hắn
nguyền rủa, gào thét. Hết tấc này đến tấc khác, hắn cứ lùi dần về phía miệng
núi lửa. ƠŒ đây hắn dừng lại và chiến đấu những phút cuối cùng với một đối thủ
mạnh vô hình. Những đòn tấn công quyết liệt tiếp theo nhau, hai lần hắn suýt
ngã như vừa bị thương nặng, nhưng rồi hắn lại đem hết sức tiếp tục chiến đấu, -
với không khí! Bỗng nhiên, kêu lên
một tiếng thất thanh như bị đâm trúng tim, hắn dang rộng hai tay, để rơi kiếm
và từ từ rơi xuống miệng núi lửa.
Tôi quay mặt để khỏi phải nhìn thêm.
Sau này tôi thường tự hỏi mình: lúc đó, chuyện gì đã xảy ra? Ai đã đánh Gacxia
đòn cuối cùng và quyết định ấy?
XXXVIII
VĨNH BIỆT ÔTÔMI
Thế là tôi đã thực hiện lời hứa của
tôi với bố tôi: thanh toán mối thù với Gacxia. Hay nói đúng hơn, tôi đã nhìn
thấy hắn bị trừng phạt, vì tuy hắn phải chết thật kinh khủng, nhưng vẫn không
phải do tay tôi giết. Gacxia chết vì sợ hãi! Liền ngay sau đó tôi lấy làm tiếc
rằng hắn chết cách ấy, vì khi trong lòng tôi không còn sự bình tĩnh lạnh lùng
phi tự nhiên kia nữa, tôi thấy căm thù hắn còn hơn trước. Tôi tiếc không phải
chính tay tôi giết hắn, và cả đến bây giờ tôi vẫn tiếc như thế. Tất nhiên,
nhiều người có thể trách tôi, vì chúng ta được dạy khoan dung với kẻ thù, nhưng
một sự khoan dung như vậy tôi xin nhường lại cho Chúa. Làm sao tôi có thể tha
thứ được cho người đã trao bố tôi vào tay tòa án dị giáo, đã giết mẹ tôi và con
tôi, đã xích tôi vào tàu buôn nô lệ, và đã tự tay tra tấn tôi trong suốt hai
giờ liền? Không! Càng ngày tôi càng căm thù hắn!
Tôi viết tất cả những điều này ra đây
chỉ vì một lẽ là trong suốt một thời gian dài tôi không sao lấy lại được bình
tĩnh. Tôi không biết tha thứ cho bất kì người nào, cả người chết lẫn người
sống, và vì thế mấy năm trước đây ông linh mục đáng kính và thông thái của xứ
đạo chúng tôi thậm chí đã không cho tôi bước chân vào nhà thờ. Sau đó tôi tìm
gặp ông giám mục và kể ông ta nghe câu chuyện đời tôi. Ông giám mục ngạc nhiên
không ít, nhưng vốn là người có tầm nhìn rộng rãi, ông đã cho mời ông linh mục
tới và thay đổi quyết định của ông ta. Cũng như tôi, ông cũng cho rằng Chúa
không lên án một người yếu đuối, nếu người ấy không thể tha thứ cho kẻ độc ác
đã gây cho anh ta chừng ấy tai họa.
Nhưng thôi, nói về các vấn đề của
lương tâm như thế là quá đủ!
Khi Gacxia biến mất trong miệng núi
lửa, tôi quay về nhà, nói đúng hơn là trở lại thành phố đổ nát đang nằm tít
phía dưới, vì bây giờ tôi chẳng có nhà nữa.
Bây giờ tôi phải đi xuống theo sườn
núi phủ băng, điều ấy hóa ra khó hơn nhiều so với khi lên. Lúc này, khi thù
được trả, như thể tôi biến thành người khác hẳn, cũng mệt mỏi và bất hạnh như
tất cả những người khác. Tôi cảm thấy đau khổ đến mức, thú thật, nếu có trượt
chân ngã xuống vực, tôi cũng chẳng lấy thế làm tiếc.
Nhưng tôi không trượt chân và cuối
cùng đã tới được chỗ bắt đầu phủ tuyết, từ đây đường dễ đi hơn nhiều.
Lúc tôi về tới nhà, mặt trời đã sắp
lặn, vì đường khá dài, mà tôi thì đi chậm vì yếu, mệt. Đại úy Điax cùng các bạn
của ông gặp tôi trong cung điện. Khi tôi đến gần, những người lính lặng lẽ cởi
mũ để bày tỏ sự kính trọng đối với tôi. Điax hỏi:
- Tên giết người chết rồi chứ?
Tôi gật đầu đi tiếp vào phòng mình, hy
vọng sẽ gặp Ôtômi ở đó.
Nàng đang ngồi một mình, lạnh lùng và
xinh đẹp như một bức tượng cẩm thạch.
- Em đã chôn con trai của chúng ta
cạnh mộ những người anh em và tổ tiên xa xôi của em, - Ôtômi đáp lại cái nhìn
dò hỏi của tôi. - Chắc trái tim anh không chịu nổi, nếu phải thấy con lần nữa.
- Vâng, vâng, - tôi nói. - Nhưng tim
anh đã tan vỡ từ lâu.
- Tên giết người chết rồi chứ? - Ôtômi
hỏi đúng như Điax đã hỏi.
- Vâng.
- Chết thế nào?
Tôi vắn tắt kể nàng nghe mọi chuyện.
- Đáng lẽ tự anh phải giết chết hắn.
Như thế là máu của con trai chúng ta còn chưa được trả bằng máu.
- Vâng, đáng lẽ tự anh phải giết chết
hắn, nhưng lúc ấy anh không nghĩ về sự trả thù, vì thấy hắn đã bị Chúa trừng
phạt. Có thể như thế lại tốt hơn. Anh đã phải trả giá đắt cho sự trả thù ấy, và
đã hiểu quá muộn rằng đáng lẽ anh không nên nhận trách nhiệm ấy vào mình. Có
bàn tay trừng phạt của Chúa từ trên cao.
- Không đúng! - Ôtômi nói, lúc ấy mặt
nàng giống hệt như lúc nàng giết chết tên Tlatxcalan hay khinh bỉ trả lời
Marina, hay khi cầm đầu đám đông phụ nữ nhảy múa quanh kim tự tháp trước giờ tế
thần. - Em không tin điều ấy. Nếu là anh, em sẽ băm nó ra làm nhiều mảnh và chỉ
sau đó mới quẳng hắn cho quỷ xé xác! Nhưng bây giờ thì nói làm gì nữa! Tất cả
đã kết thúc, tất cả đã chết, cả trái tim em cũng thế. Anh đang mệt, ăn đi!
Ăn xong, tôi ngả người xuống giường và
ngủ thiếp.
Trong bóng tối tôi bỗng nghe giọng nói
Ôtômi:
- Tỉnh dậy, em muốn nói chuyện với
anh!
Trong giọng nàng có cái gì đó làm tôi
lập tức tỉnh dậy.
- Nói đi, em ở đâu thế, Ôtômi? - Tôi
đáp.
- Em đang ở cạnh anh. Không ngủ được,
em đã dậy. Anh hãy nghe em nói. Chúng ta gặp nhau từ rất nhiều năm về trước,
khi Guatêmôc dẫn anh từ Tabaxcô về. Ôi, em nhớ ngày ấy mới rõ làm sao! Lần đầu
tiên em nhìn thấy anh trong cung điện của Môntêzuma ở Sapuntêpêc, em thấy anh
và đem lòng yêu anh. Bao giờ em cũng yêu anh! Em là người không sợ các vị thần
xa lạ.
- Sao em nói với anh điều này, Ôtômi?
- Tôi hỏi.
- Vì em muốn thế. Có thể anh sẽ dành
một giờ để nghe em, người đã trao cho anh tất cả. Anh có nhớ lúc ấy anh từ chối
em thế nào không? Ôi, em tưởng em sẽ chết vì xấu hổ, sau khi khó khăn lắm em
mới được chọn làm vợ anh, vợ của thần Têcatlipôca, thế mà đáp lại, anh nói với
em về một cô gái Lyly nào đó bên kia bờ đại dương, người có chiếc nhẫn anh vẫn
đeo đến bây giờ. Nhưng em cũng vượt qua thử thách ấy. Em yêu anh còn hơn trước
vì sự chân thật của anh, còn những điều khác thì tự anh đã biết.
Anh trở thành chồng em vì em quyết
định nằm chết bên anh trên hòn đá chém. Lúc ấy anh đã hôn em và nói rằng anh
yêu em. Nhưng chẳng bao giờ anh yêu em thật sự. Lúc nào anh cũng nghĩ về cô gái
Lyly kia. Như bây giờ, trước kia em đã biết điều ấy, dù em cố tự lừa dối mình.
Ngày ấy em còn xinh đẹp, mà đối với đàn ông điều này rất quan trọng. Em chung
thuỷ với anh, điều này còn quan trọng hơn nữa, và một hai lần chính anh nghĩ
rằng anh yêu em. Nhưng bây giờ em lấy làm tiếc rằng bọn Teule đã đến kịp và không cho chúng ta cùng chết trên bàn thờ. Em
tiếc điều ấy cho chính bản thân em. Chúng ta thoát chết, nhưng từ đó, đối với
em, một cuộc đấu tranh không bao giờ kết thúc đã bắt đầu.
Em đã nói rằng em hiểu và thấy hết mọi
điều. Anh hôn em trên thớt chém vài giây trước cái chết. Nhưng khi được sống,
tất cả lại thay đổi, và vì hoàn cảnh, anh đã cưới em làm vợ, đã thề và giữ trọn
lời thề ấy. Anh cưới em, nhưng không biết vợ anh là ai. Anh chỉ biết em xinh
đẹp, dịu dàng và chung thủy với anh, - tất cả đúng như thế, - nhưng anh không
hiểu rằng đối với anh, em vẫn xa lạ, vẫn là người như tổ tiên em bao đời nay.
Anh tưởng em đã chấp nhận các phong tục của anh, có thể thậm chí cả tôn giáo
của anh, vì để chiều anh, em đã cố làm những điều ấy. Thế nhưng trong suốt thời
gian qua, em đã sống bằng các phong tục của người da đỏ, và chẳng bao giờ quên
được các vị thần của em. Các vị thần ấy không cho em rời bỏ họ. Trong nhiều năm
liền em cố xa lánh họ, nhưng cuối cùng họ đã trả thù em điều ấy. Trái tim em
thuần phục trở lại, hay đúng hơn, các vị thần đã thuần phục nó, vì bản thân em
không nhớ và không hiểu tí gì về những việc em làm đêm nọ, khi anh thấy em trên
kim tự tháp cùng những người phụ nữ Ôtômi khác làm lễ tế thần Uixilôpôctli.
Những năm qua, anh chung thuỷ với em,
và em đã sinh cho anh những đứa con mà anh yêu quý. Nhưng anh yêu các con anh
vì bản thân chúng chứ không vì em. Sâu trong lòng, anh căm thù dòng máu của em,
dòng máu đã trộn lẫn với dòng máu của anh trong các con anh. Mà rồi anh cũng
chỉ yêu em một nửa. Cái tình yêu nửa vời cay độc ấy suýt nữa làm em hóa điên.
Nhưng sau đó, cái tình yêu ấy đã chết khi anh thấy em bị phù phép trong nghi lễ
cổ xưa của tổ tiên em. Chỉ lúc ấy anh mới hiểu em là ai. Em là một người đàn bà
hoang dại!
Thế rồi những đứa con gắn bó chúng ta
không còn nữa. Chúng chết vì nhiều lý do khác nhau. Hết đứa này đến đứa khác,
vì treo trên đầu chúng là lời nguyền rủa của dòng họ em. Theo chúng tình yêu
của anh cũng chết. Em chỉ còn lại một mình, như kỷ niệm sống về những điều đã
mất. Nhưng bây giờ, cả em cũng thôi tồn tại.
Tôi định nói, nhưng Ôtômi vội vàng
ngăn lại:
- Không, anh hãy im lặng và lắng nghe
em! Em chỉ còn rất ít thời gian. Khi anh cấm em không được gọi anh là chồng, em
hiểu tất cả đã kết thúc. Em đã nghe theo anh, Teule. Em dứt anh khỏi trái tim em, anh không còn là chồng em, và
lát nữa em sẽ thôi là vợ anh. Nhưng dù sao, em vẫn yêu cầu anh lắng nghe tiếp.
Bây giờ anh đang quẫn trí vì đau buồn. Anh nghĩ đời anh thế là hết và hạnh phúc
không còn nữa. Thực ra không phải thế. Anh đang ở độ tuổi đẹp nhất và tràn trề
sức lực. Có thể anh sẽ rời bỏ được mảnh đất đau buồn này, lúc ấy anh sẽ rũ khỏi
người anh các bụi bặm của nó, và lời nguyền rủa sẽ thôi không đè nặng lên anh
nữa. Anh sẽ trở về quê hương và gặp lại người đàn bà đã chờ anh chừng ấy năm.
Lúc đó một người đàn bà xa xôi khác, công chúa một dân tộc đang chết dần, sẽ
chỉ còn là cái bóng mờ mờ, và những tháng năm đầy các sự kiện lạ lùng đối với
anh chỉ còn là một giấc mơ. Cái duy nhất còn lại là tình yêu đối với những đứa
con đã chết. Anh sẽ yêu chúng suốt đời, và ý nghĩ về chúng cùng nỗi buồn nhớ
những người đã chết sẽ theo anh hết ngày đến đêm cho đến khi anh tắt thở; em
lấy thế làm mừng, vì em là mẹ chúng, và vì nghĩ tới chúng, thỉnh thoảng anh sẽ
nhớ đến em. Đó là tất cả những gì cô Lyly của anh chừa lại cho em, và đó cũng
là cái em hơn cô ấy. Teule, anh phải
biết rằng cô ấy sẽ chẳng sinh cho anh đứa con nào để che lấp tình yêu đối với
những đứa con của em trong trái tim anh!
Ôi, em đã theo dõi anh suốt ngày đêm!
Em nhìn thấy, nhìn thấy hết nỗi buồn trong mắt anh khi nghĩ về cô gái và quê
hương tuổi trẻ xa xôi của anh. Em cầu mong anh hạnh phúc. Anh sẽ được thấy quê
hương, sẽ gặp lại cô gái ấy! Cuộc vật lộn đã kết thúc: Lyly của anh đã thắng.
Sức lực đang rời bỏ em, em nói một cách vất vả, mà rồi cũng chẳng còn nhiều để
nói. Chúng ta chia tay nhau, có lẽ chia tay vĩnh viễn. Còn gì gắn bó chúng ta,
ngoài linh hồn những đứa con đã chết? Không, chẳng còn gì! Em không cần cho anh
nữa, và chính em tự cắt đứt mối quan hệ của chúng ta. Vào giờ phút hấp hối này,
em từ bỏ vị thần của anh để quay lại với các vị thần của dân tộc em, mặc dù có
thời em nghĩ em căm ghét họ. Chúng ta chia tay mãi mãi, nhưng em van anh đừng
nghĩ xấu về em, vì em đã và đang yêu anh. Em là mẹ những đứa con của anh mà anh
đã cho nhập đạo Thiên chúa, và có thể anh sẽ gặp lại chúng. Em vẫn yêu anh như
trước. Em hạnh phúc vì anh đã hôn em trên thớt chém, và vì em đã sinh cho anh
những đứa con trai. Chúng là con của anh, phần của em rất ít. Em có cảm giác
rằng em yêu chúng cũng chỉ vì chúng là con của anh, còn chúng thì chỉ yêu một
mình anh. Hãy nhận lấy chúng, hãy nhận lấy linh hồn chúng như anh đã nhận ở em
tất cả những thứ khác. Anh thề chỉ cái chết mới chia cắt nổi chúng ta, và anh
đã giữ trọn lời thề ấy cả trong việc làm lẫn trong ý nghĩ. Bây giờ em sẽ đi tới
Ngôi nhà Mặt trời, em sẽ đến với tổ tiên của em. Teule, em đã sống với anh nhiều năm, đã gặp nhiều điều đau khổ. Lúc
này em không thể gọi anh là chồng, vì anh cấm em điều ấy, nhưng em yêu cầu anh,
Teule: đừng đem em cười đùa với Lyly
của anh! Nếu có thể, đừng nói gì với cô ấy về em... Cầu mong anh hạnh phúc...
Vĩnh biệt!
Những lời cuối cùng của Ôtômi nghe yếu
dần, yếu dần. Sững sờ vì ngạc nhiên, tôi ngồi nghe nàng nói, trong khi ánh bình
minh đang chầm chậm chảy vào phòng. Dần dần thân hình màu trắng của nàng hiện
lên trong bóng tối: nàng ngồi trên chiếc ghế kê sát giường, hai tay để thõng,
đầu ngả vào lưng ghế. Tôi đứng bật dậy, nhìn thẳng vào mặt nàng. Mặt nàng lạnh
và tái nhợt, hơi thở đã tắt trên môi. Tôi cầm tay nàng, - nó lạnh như băng. Tôi
gọi to tên nàng, hôn lên trán nàng, nhưng nàng vẫn không động đậy, không trả
lời. Một lát sau, trời sáng hẳn, và tôi nhìn thấy chuyện gì đã xảy ra. Ôtômi đã
chết! Nàng tự nguyện rời bỏ cuộc sống, sau khi uống một thứ thuốc độc bí mật
chỉ người da đỏ mới biết. Thứ thuốc độc này tác động chậm và không gây đau đớn,
đầu óc vẫn giữ được tỉnh táo cho đến phút cuối cùng. Chỉ khi biết sắp chết,
Ôtômi mới lên tiếng nói chuyện với tôi một cách đau buồn và cay đắng như vậy.
Tôi ngồi xuống giường, mắt vẫn không
rời khỏi nàng. Tôi không khóc vì không còn nước mắt, và cả vì như tôi đã nói,
bây giờ không gì có thể phá vỡ được sự bình tĩnh lạ lùng đang ngự trị trong
tôi. Nỗi buồn và một sự âu yếm dào dạt bỗng xâm chiếm tôi. Vào giây phút ấy tôi
yêu Ôtômi hơn bất cứ lúc nào, hơn cả khi còn sống, và điều ấy đủ nói lên rất
nhiều. Một lần nữa tôi lại thấy nàng đang ở độ tuổi thanh xuân như thời nàng
còn sống trong cung điện của Môntêzuma; tôi nhìn thấy đôi mắt nàng khi nàng
bước lên thớt chém cùng tôi, tôi thấy nàng không hề run sợ trước cơn giận của
Cuitlahua, người quyết định tôi phải chết. Một lần nữa, tôi lại nghe tiếng khóc
thảm thiết của nàng bên xác đứa con đầu tiên của chúng tôi, và tôi lại nhìn
thấy nàng cầm kiếm đứng bên tên Tlatxcalan bị giết.
Nhiều điều đã sống lại trong đầu tôi
vào buổi sáng sớm đau buồn ấy, khi tôi ngồi yên nhìn nàng Ôtômi đã chết. Nàng
nói đúng: tôi không quên mối tình đầu và thường ước mơ được thấy lại khuôn mặt
của Lyly. Nhưng nàng không đúng khi nói tôi không yêu nàng. Tôi yêu nàng một
cách chân thành và tôi đã không phản bội lời thề của mình. Chỉ khi nàng chết
tôi mới thật sự hiểu đối với tôi, nàng thân thiết biết chừng nào. Vâng, giữa
chúng tôi là cái hố ngăn cách mỗi ngày một lớn thêm. Chúng tôi khác nhau về
chủng tộc và tôn giáo, và tôi biết Ôtômi sẽ không bao giờ từ chối hoàn toàn các
niềm tin của nàng. Vâng, khi tôi thấy nàng hát bài hát của thần chết đêm nọ,
tôi đã kinh sợ thật sự, và trong một lúc nào đó, tôi cảm thấy ghét nàng. Nhưng
tôi sẵn sàng bỏ qua tất cả những điều ấy, vì nó đã ăn sâu trong máu nàng, vả
lại, cái hành động cuối cùng và xấu xa nhất ấy mà nàng đã thực hiện, trái với ý
nàng. Nếu gạt bỏ được những điều ấy, nàng sẽ là người phụ nữ xinh đẹp và cao
thượng nhất, xứng đáng một tình yêu lớn và sự kính trọng tột độ; nàng, người
phụ nữ trong nhiều năm liền đã là người vợ chung thuỷ của tôi.
Lúc ấy, và cũng như bây giờ, tôi đã
nghĩ về nàng như thế, Ôtômi nói chúng tôi chia tay mãi mãi, nhưng tôi tin và hy
vọng sẽ không thế, vì tôi biết chúng tôi sẽ được tha thứ rất nhiều, và rằng
những người yêu quý và gần gũi nhau ở đây, trên mặt đất, có lúc sẽ được gặp
nhau trên thiên đường.
Cuối cùng tôi đứng dậy gọi người giúp
đỡ, và chỉ lúc ấy tôi mới cảm thấy có cái gì đấy đang đeo ở cổ tôi nằng nặng.
Đó là chiếc vòng ngọc bích lớn mà Guatêmôc đưa cho tôi và tôi đã tặng Ôtômi.
Nàng đeo nó vào cổ tôi khi tôi ngủ, - một ít sợi tóc dài của nàng còn gắn chặt
vào nó. Hai vật kỷ niệm này tôi sẽ luôn mang bên mình, cả khi xuống mộ.
Tôi chôn Ôtômi trong nhà mộ, nơi chôn
các tổ tiên nàng và những đứa con của chúng tôi. Hai ngày sau tôi lên đường đi
Mêhicô cùng toán quân của Becnan Điax. Trước khi bước vào khe núi, tôi ngoái
lại nhìn những đống đổ nát của thành Xôxen, nơi chừng ấy năm tôi đã sống và đã
chôn cất tất cả những người tôi yêu quý. Tôi nhìn thật lâu và thật buồn. Như
một người hấp hối đang nhìn lại đoạn đường đời đã đi qua. Cuối cùng Điax đập
tay lên vai tôi và nói:
- Anh chỉ còn một mình, anh bạn ạ, -
ông nói - Sắp tới anh định làm gì?
- Không làm gì cả. - Tôi đáp. - Tôi
chỉ còn một cách, là chết.
- Đừng bao giờ nói thế! Anh mới chỉ
bốn mươi tuổi, tôi quá năm mươi từ lâu, thế mà tôi không nói tới cái chết. ƠŒ
nước Anh, anh có bạn bè chứ?
- Có, nhưng lâu rồi.
- ƠŒ những nước bình yên, người ta
sống rất lâu. Anh hãy trở về với họ! Tôi sẽ giúp anh tới được Tây Ban Nha.
- Cảm ơn, tôi sẽ suy nghĩ thêm, - tôi
đáp.
Đúng thời hạn dự định, chúng tôi đã
tới Mêhicô. Bây giờ là một thành phố mới và xa lạ với tôi; nó đã được Côrtex
xây dựng lại.
ƠŒ chỗ trước kia là kim tự tháp, nơi
đáng lẽ tôi bị giết để tế thần, bây giờ là một đền thờ công giáo, móng được xây
bằng các tượng thần xấu xí của người Aztec. Thành phố vẫn xinh đẹp, nhưng không
còn là vẻ đẹp của Tênôctitlan dưới thời Môntêzuma, và sẽ chẳng bao giờ nó được
như thế. Cư dân của nó cũng thay đổi: ngày xưa họ là các chiến binh tự do, bây
giờ là những tên nô lệ.
ƠŒ Mêhicô, Điax tìm được cho tôi một
chỗ nghỉ chân. Tôn trọng lệnh ân xá, không ai truy đuổi tôi. Lúc này tôi là một
người tuyệt vọng, và chẳng thể gây cho ai điều gì nguy hiểm. Người ta đã quên
việc tôi tham gia vào trận đánh Đêm buồn
và bảo vệ thành Xôxen. Còn những điều bất hạnh mà tôi trải qua đã làm nhiều
người tỏ ý thông cảm, thậm chí cả bọn lính Tây Ban Nha. Tôi ở Mêhicô mười ngày,
thường buồn rầu đi lang thang khắp các phố và thường tới đồi Sapuntêpêc, nơi
ngày xưa có cung điện ngoại ô của Môntêzuma, và là nơi lần đầu tôi gặp Ôtômi.
Sự hùng vĩ ngày nào bây giờ chẳng còn lại gì, ngoài mấy cây tùng linh đại thụ.
Sang ngày thứ tám, một người da đỏ
chặn tôi lại giữa phố. Anh ta nói có một người bạn cũ muốn gặp tôi. Tôi đi theo
anh ta, ngạc nhiên tự hỏi người đó là ai, vì tất cả bạn bè tôi đã chết. Người
da đỏ dẫn tôi vào một ngôi nhà xây bằng đá rất đẹp trên một trong những phố
mới. Tôi phải ngồi chờ ít lâu trong căn phòng tối. Bỗng có người nào đó nói với
tôi bằng tiếng Aztec.
- Chào anh, Teule!
Giọng nói dịu dàng, hơi buồn, tôi nghe
quen quen. Tôi ngước mắt nhìn lên. Trước mặt tôi là một người đàn bà da đỏ mặc
quần áo Tây Ban Nha, còn xinh đẹp nhưng yếu đuối, như thể đang đau khổ vì một
thứ bệnh hay một nỗi buồn nào đó.
- Anh không nhận ra Marina à, Teule? - Bà ta hỏi, và tôi đã sực nhớ
lại, trước khi bà ta nói hết câu. - Còn anh thì phải vất vả lắm tôi mới nhận
ra. Vâng, Teule, thời gian và đau
buồn đã làm hai chúng ta thay đổi.
Tôi hôn lên tay Marina.
- Thế Côrtex đâu? - Tôi hỏi.
Bà ta rùng mình.
- Côrtex ở Tây Ban Nha. ƠŒ đấy ông ấy
đã lấy một người khác làm vợ, Teule.
Nhiều năm về trước ông ấy đã ruồng bỏ tôi và chuyển tôi sang làm vợ của Hoan
Halamilô, là người đã đồng ý lấy tôi vì tiền. Côrtex khá hào phóng với người
tình mà ông ta bỏ rơi!
Rồi bà ta òa lên khóc.
Dần dần tôi biết được toàn bộ câu
chuyện của Marina, nhưng tôi sẽ không đem kể ở đây, vì bà ta vốn nổi tiếng khắp
nơi. Khi làm xong vai trò của mình, và chẳng còn lợi ích gì nữa cho Côrtex, hắn
đã bỏ rơi Marina. Bà ta kể tôi nghe bà ta phải đau khổ thế nào, cả việc bà ta
đã quát vào mặt Côrtex rằng từ nay hắn sẽ không gặp may điều gì nữa. Sau này
lời tiên tri của bà ta đã thành sự thật.
Chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau hơn
hai giờ liền. Nghe xong câu chuyện của Marina, tôi bắt đầu kể về tôi, và bà ta
đã khóc vì thương xót. Dù sao thì Marina vẫn là một người tốt bụng.
Sau đó, chúng tôi chia tay để chẳng
bao giờ còn gặp lại. Nhưng trước khi tôi ra đi, Marina bắt tôi cầm một ít tiền,
và tôi đã nhận món quà bố thí ấy không chút xấu hổ, vì tôi đang là kẻ ăn mày.
Số phận cuộc đời Marina là vậy. Vì tình yêu, cô ta đã phản bội Tổ quốc mình,
nhưng thử hỏi cô ta được đền bù thế nào về tình yêu và sự phản bội ấy? Riêng
tôi, suốt đời tôi vẫn nhớ Marina như nhớ một người bạn tốt, vì đã hai lần cô ta
cứu tôi thoát chết, và cũng không bỏ rơi tôi, cả khi Ôtômi xúc phạm cô ta bằng
những lời cay độc nhất.
XXIX
TÔMAX TỪ CÕI CHẾT TRƠŒ VỀ
Một hôm sau ngày gặp Marina, đại úy
Điax tìm đến tôi. Ông nói một người bạn của ông là thuyền trưởng một chiếc tàu
buôn, mười ngày nữa sẽ nhổ neo từ Vêracrux đi Cađix, và rằng nếu tôi muốn rời
Mêhicô, người ấy sẵn sàng cho tôi đi theo. Suy nghĩ một lát tôi đồng ý, và chia
tay với đại úy Điax. Cầu Chúa phù hộ cho ông ta! Ông là một trong rất ít người
tốt giữa đám người Tây Ban Nha khốn nạn.
Cùng mấy thương gia khác, tôi đã vĩnh
viễn rời Mêhicô, và sau một tuần vượt núi an toàn, tôi đã tới Vêracrux. Đó là
một thành phố bẩn thỉu, nóng bức và có bến cảng nguy hiểm, phơi mình trước
những cơn gió phương bắc giận dữ. Tôi đưa thư giới thiệu của Điax cho ông
thuyền trưởng, và chẳng hỏi han dài dòng, ông ta cho tôi lên tàu. Tôi vội vàng
mang lên tàu phần lương thực và thực phẩm sẽ dùng đến trong thời gian vượt
biển.
Trong ba ngày liền thuận gió, rạng
sáng ngày thứ tư, tôi nhìn thấy xa xa đỉnh phủ tuyết của núi lửa Ôribax. Đó là
lần cuối tôi nhìn thấy Anahuac. Rồi cuối cùng nó cũng biến mất sau những đám
mây, thế là tôi vĩnh viễn chia tay với một vùng đất xa xôi, nơi đã xảy ra với
tôi chừng ấy sự kiện. Tôi nhẩm tính: cùng ngày này, mười tám năm về trước, lần
đầu tiên tôi đã nhìn thấy vùng đất đó.
Chuyến du hành lần này của chúng tôi
tới Tây Ban Nha không có chuyện gì đặc biệt xảy ra, so với các chuyến khác, nó
khá bình lặng và may mắn. Từ ngày nhổ neo ở cảng Vêracrux cho đến khi thả neo ở
Cađix, chúng tôi đi đúng hai tháng mười ngày.
Tôi ở Cađix chỉ hai ngày. Tôi gặp may
vì đúng lúc ấy có một chiếc tàu khách của Anh sắp lên đường đi Luân Đôn. Tôi
mua vé lên tàu. Để làm điều ấy, tôi buộc phải bán viên ngọc bích bé nhất trong
dây chuyền của tôi, vì tất cả số tiền Marina cho tôi đến lúc này đã hết. Tôi
bán viên đá quý được một số tiền khá lớn, mua quần áo ăn bận như một người lịch
sự, số vàng còn lại tôi mang theo về Anh. Thật ra, tôi rất tiếc khi phải bán,
dù đó chỉ là một hạt nhỏ đính vào viên ngọc bích lớn nhất trong dây chuyền,
nhưng hoàn cảnh bắt buộc, biết làm thế nào được. Còn viên ngọc bích lớn và đẹp
nhất, - tuy có một vài vết xây xát, - tôi đã tặng cho nữ hoàng Êlizabet vô cùng
tôn kính của chúng ta.
Trên tàu Anh, người ta nghĩ tôi là một
tay Tây Ban Nha phiêu lưu vừa từ Tây Ấn trở về và rất giàu có, tôi cũng chẳng
tìm cách thanh minh. Ít ra người ta cũng để tôi yên, nên tôi đã có thể lặng lẽ
chuẩn bị cho cuộc sống sắp tới với những phong tục bị lãng quên. Cứ thế tôi
luôn ngồi một mình như một nhà quý tộc Tây Ban Nha kiêu hãnh, cố nói thật ít và
nghe thật nhiều để biết những gì đã xảy ra ở nước Anh trong hai mươi năm tôi
vắng mặt.
Cuối cùng tàu cập bến. Ngày mười hai
tháng sáu, tôi đặt chân lên thành phố Luân Đôn nổi tiếng, nơi trước đó tôi chưa
từng tới. Trong căn phòng nhỏ của khách sạn, tôi quỳ xuống tạ ơn Chúa đã cho
tôi an toàn trở lại nước Anh sau chừng ấy tai họa và thử thách. Lúc ấy, tôi
thấy điều kì diệu nhất là cơ thể mảnh mai của tôi, cái đã phải chịu biết bao
đau đớn, bệnh tật, thiếu thốn và thương tích, biết bao lần tra tấn và những cú
đánh hiểm ác luôn bám theo tôi trong suốt hàng chục năm qua, thế mà nó vẫn đứng
vững, không gãy gục trước móng vuốt thú dữ và sự độc ác của con người.
ƠŒ Luân Đôn, ông chủ khách sạn giúp
tôi mua một con ngựa tốt và rạng sáng hôm sau tôi rời thành phố. Hôm ấy tôi đã
gặp chuyện phiêu lưu cuối cùng của đời mình. Khi tôi đang cưỡi ngựa đi trên con
đường dẫn tới Ipxuit, vừa ngắm phong cảnh nước Anh, vừa khoan khoái hít thở
không khí tháng sáu trong lành, thì một tên cướp đường hèn hạ nào đấy đứng nấp
trong bụi cây đã bắn súng lục vào lưng tôi. Hắn định giết tôi để cướp của,
nhưng viên đạn xuyên qua mũ và chỉ làm tôi xây xát một ít trên đầu. Bị bất ngờ,
tôi không kịp đối phó gì. Thấy bắn trượt, thằng khốn nạn ấy vội vàng biến mất,
còn tôi thì vừa đi tiếp, vừa nghĩ rằng thật lạ lùng nếu sau khi vượt qua được
chừng ấy tai họa khủng khiếp, tôi lại bị một thằng nhãi rách rưới nào đó giết
chết cách thành Luân Đôn chưa đầy năm dặm!
Tôi phi ngựa đi nhanh suốt ngày hôm ấy
và cả ngày hôm sau. Con ngựa của tôi khỏe mạnh và chịu đựng giỏi, nên bảy giờ
rưỡi chiều, nó đã đưa tôi tới ngọn đồi mà trước kia, khi cùng bố tôi tới cảng
Iamut, tôi đã dừng lại để lần cuối cùng vĩnh biệt Banghi. Phía dưới là những
ngôi nhà màu đỏ của thị trấn, bên phải xanh rờn những cây sồi Đichchingham với
đỉnh nhà thờ Đức Bà Maria vươn lên cao, phía xa là dòng sông Uêvơni, còn ngay
trước mặt tôi là cánh đồng với thảm cỏ lốm đốm những bông hoa xinh đẹp. Không
có gì thay đổi, tất cả vẫn như cũ, trừ tôi.
Tôi xuống ngựa, đi đến chiếc ao cạnh
đường rồi cúi xuống ngắm nhìn khuôn mặt mình đang phản chiếu trong nước. Vâng,
quả thật tôi đã thay đổi nhiều! Bây giờ trong tôi hầu như không còn gì sót lại
từ chàng trai bồng bột cách đây hai mươi năm đã đi qua con đường này. Mắt tôi
đã xệ xuống, đượm buồn, các đường nét trên mặt đanh lại, còn râu và tóc thì
than ôi, sợi trắng đã nhiều hơn sợi đen. Có lẽ đến tôi cũng chẳng nhận ra mình,
nói gì đến người khác. Mà rồi có ai để nhận ra tôi không? Sau hai mươi năm,
nhiều người chắc đã chết, nhiều người bỏ đi xa. Liệu tôi còn gặp dù chỉ một
người quen đang sống không? Từ khi tôi nhận được những bức thư do ông Ben
thuyền trưởng tàu "Kẻ phiêu
lưu" chuyển giúp trước khi lên đường đi Espanhiôla tới nay, tôi hoàn
toàn không biết tin gì về quê nhà. Cái gì đang chờ tôi? Và điều quan trọng
nhất, - Lyly thế nào? Nàng đã chết, đã đi đâu đó, hay đã lấy chồng?
Tôi lại nhảy lên ngựa, cho phi nước
kiệu đi ngang qua Cối xay gió Uyngfôđơ. Sau đó tôi đi qua các phố Binhâu, bỏ
lại Banghi ở phía trái, và mười phút sau, tôi đã đứng trước một cánh cổng, nơi
bắt đầu một con đường nhỏ dành cho người đi bộ. Nó chạy từ con đường Nôritzơ
tới chân đồi, và ở đấy trên sườn đồi thoai thoải cỏ cây mọc xanh tốt, cách chỗ
tôi đang đứng chỉ nửa dặm, là ngôi nhà Đichchingham của chúng tôi.
Cạnh cổng dẫn vào khu rừng có một
người nào đó đang đứng, khoan khoái ngắm những tia nắng cuối cùng của mặt trời
buổi chiều. Nhìn kĩ, tôi nhận ra đó là Bily Minx, cái anh ngốc ngày xưa đã cởi
trói cho Gacxia khi tôi bỏ hắn lại để tới gặp người yêu. Bây giờ anh ngốc ấy đã
là một ông già bé nhỏ, tóc bạc phơ với khuôn mặt có những đường nhăn chạy
xuống. Mặc dù người ông ta bẩn và quần áo rách rưới, vừa nhận ra, tôi vui mừng
đến mức suýt nữa ôm ông ta hôn, vì ông ta là một trong những người tôi biết từ
trẻ!
Thấy tôi, Bily Minx liền tháo then mở
cổng rồi cất giọng buồn rầu xin tôi bố thí.
- Ông Uyngfin có sống ở đây không? -
Tôi hỏi, tay chỉ theo con đường nhỏ. Trái tim tôi đập mạnh vì hồi hộp chờ câu
trả lời.
- Uyngfin à, thưa ông? Ông cần hỏi ông
Uyngfin nào? Ông Uyngfin già đã chết cách đây hai mươi năm. Chính tôi góp một
tay đào mộ chôn ông ấy, đúng thế, đúng thế! Ông ấy đang nằm cạnh bà vợ, người
bị giết chết ấy mà. Chắc ông cần gặp ông Giêfry Uyngfin?
- Ông ta ở đây chứ? - Tôi hỏi.
- Ông ấy cũng chết rồi, cách đây hơn
mười hai năm, ông ấy uống rượu rồi chết, vâng, vâng! Cả ông Tômax cũng thế.
Người ta nói ông ấy chết chìm đâu đó ngoài biển. Lâu rồi, vâng, vâng! Tất cả đã
chết, tất cả! Ôi, ông Tômax là một chàng trai mới kì lạ làm sao! Tôi nhớ ngày
xưa tôi đã thả một người, không phải người xứ này đâu, và rồi ông ấy... - Tiếp
đến Bily kể lại việc ông ta đỡ Gacxia lên ngựa và bị tôi đánh nhừ tử. Tôi muốn
ngăn Bily lại không cho nói nữa, nhưng không được. Tôi đưa cho ông ta một đồng
tiền rồi thúc con ngựa mỏi mệt đi tiếp, theo con đường nhỏ.
Tiếng vó ngựa đều đều đập vào tai tôi
như hồi âm câu nói của Bily: “Tất cả chết rồi! Tất cả chết rồi!" Có lẽ cả
Lyly cũng chết! Nếu chưa chết, tất nhiên nàng đã lấy chồng khi nghe tin tôi đắm
tàu. Một cô gái xinh đẹp như nàng làm gì chẳng có người tán tỉnh! Chắc chắn
nàng sẽ không làm hại đời mình bằng cách ở vậy để khóc buồn mối tình đầu bất
hạnh! Và đây, trước tôi là ngôi nhà tổ tiên của chúng tôi. Nó hầu như không
thay đổi, chỉ đám dây leo ở bức tường phía trước mọc tốt đến gần mái nhà. Nhìn
làn khói xanh đang bay ra trên nóc nhà và vẻ cẩn thận, sạch sẽ khắp nơi, tôi
đoán trong nhà đang có người ở.
Cổng vào nhà bị khóa, phía trong không
thấy người nào. Trời sắp tối, có lẽ đám người hầu đã làm xong công việc của
mình.
Tôi rẽ trái, cho ngựa đi vòng phía sau
nhà, nơi có chuồng ngựa, nhưng cả ở đây cổng cũng đóng. Không biết làm gì hơn,
tôi xuống ngựa. Nỗi lo sợ và nghi ngờ làm tôi mất hết dũng cảm. Để con ngựa gặm
cỏ bên cổng nhà, tôi đi bộ về phía nhà thờ, vừa đi, vừa luôn ngoái đầu nhìn lên
đỉnh đồi với hy vọng sẽ gặp ai đó.
“Lẽ nào tất cả đã chết? - Tôi nghĩ -
Sẽ thế nào nếu Lyly cũng thế?”.
Tôi đưa hai tay che mặt, ngẩng lên cầu
Chúa, người đã giúp tôi vượt qua những năm tháng đầy thử thách, tôi cầu ngài
không bắt tôi phải chịu sự thất vọng cuối cùng này. Tôi đau buồn đến mức tưởng
không chịu nổi. Nếu để mất Lyly, tôi chỉ còn lại một lối thoát duy nhất, - là
chết, nếu tiếp tục sống thì cuộc sống của tôi không còn ý nghĩa nữa.
Cứ thế, tôi cầu Chúa một lúc lâu,
người run lên như chiếc lá vàng trước gió. Sau đó tôi hạ tay xuống rồi đi về
phía ngôi nhà, để nhờ những người đang sống trong đó báo cho tôi sự thật, dù sự
thật cay đắng đến đâu chăng nữa. Hoàng hôn đã tắt, khắp nơi họa mi lên tiếng
hót giữa màn đêm đang đến gần. Tôi dừng lại.
Dưới ánh trăng, tôi bỗng thấy một
người phụ nữ có thân hình cao, cân đối, mặc áo trắng. Người ấy ngẩng đầu, đưa
mắt nhìn những con dơi đang bay, và để ánh trăng chiếu vào khuôn mặt. Đó là
Lyly Bôza. Nàng vẫn xinh đẹp như trước, không già hơn bao nhiêu, nhưng nỗi buồn
sâu sắc đã in dấu ấn lên mặt nàng. Thấy nàng, tôi xúc động đến mức suýt ngã
khuỵu xuống. Một tay bám vào bờ dậu, tôi khẽ kêu lên.
Nghe tiếng kêu và thấy có đàn ông,
nàng quay người định bỏ chạy. Tuy nhiên tôi vẫn đứng yên, và sự tò mò đã bắt
nàng quay lại.
Nàng bước lại rất gần tôi rồi khẽ hỏi
bằng giọng nói dịu dàng mà tôi rất quen thuộc:
- Ai đi dạo ở đây mà muộn thế? Giôn
đấy à?
Nghe thế, những điều nghi ngờ trước
đấy lại trỗi dậy trong tôi. Vâng. Tất nhiên, nàng đã lấy chồng và chồng nàng
tên là Giôn! Tôi đến được đây với nàng chỉ để đánh mất nàng mãi mãi!
Bỗng nhiên tôi có ý nghĩ tạm giấu mình
là ai trước khi biết được toàn bộ sự thật. Tôi bước lên phía trước, cố đứng
trong bóng cây, lưng quay về phía mặt trăng. Tôi cúi thấp đầu, chào nàng theo
kiểu Tây Ban Nha. Sau đó tôi giả vờ nói bằng thứ tiếng Anh lủng củng, pha âm
sắc Tây Ban Nha.
- Thưa bà, tôi đang vinh dự được nói
chuyện với người trước đây có tên là Lyly Bôza, phải không ạ?
- Vâng, tên tôi là thế, - nàng đáp. -
Ông cần gì ở tôi?
Tôi lại rùng mình, nhưng nhanh chóng
bình tĩnh trở lại và mạnh dạn nói tiếp.
- Trước khi trả lời, tôi xin phép bà
cho hỏi một câu. Hiện nay bà vẫn còn mang cái tên đó chứ?
- Vâng, tôi chưa lấy chồng, - nàng
nói. Trong giây lát đầu tôi choáng váng, đất dưới chân tôi ngả nghiêng như thể
được lấp bằng lớp nham thạch phun ra từ miệng núi lửa Haca. Nhưng tôi vẫn quyết
định chưa nói tên tôi vội. Chừng nào chưa biết chắc nàng còn yêu tôi.
- Thưa bà, - tôi nói. - Tôi là người
Tây Ban Nha, một trong những người tham gia chiến tranh chống người da đỏ dưới
sự chỉ huy của ngài Côrtex, tôi chắc bà có nghe cái tên ấy?
Lyly gật đầu, tôi nói tiếp:
- Trong thời gian chiến tranh tôi có gặp
một người được gọi là Teule. Nhưng
cách đây hai năm, trước khi chết, người ấy có nói với tôi rằng ông ta từng có
một cái tên khác.
- Tên khác như thế nào? - Lyly khẽ
hỏi.
- Tômax Uyngfin!
Bây giờ đến lượt nàng kêu to và bám
tay vào bờ dậu để khỏi ngã.
- Mười tám năm nay, tôi nghĩ ông ấy đã
chết, - Lyly vừa hổn hển thở, vừa nói. - Tôi tưởng ông ấy đã chết trong
một vụ đắm tàu...
- Vâng, tôi cũng nghe nói ông ta gặp
tai nạn đắm tàu, thưa bà, nhưng ông ta thoát chết và sống giữa những người da
đỏ. Họ biến ông ta thành thần và cho lấy con gái của vua Môntêzuma làm vợ.
Đến đây, tôi dừng lại. Lyly rùng mình
rồi lạnh lùng nói:
- Thưa ông, ông nói tiếp đi, tôi đang
nghe.
- Bạn tôi có tham gia vào cuộc chiến
tranh kia. Với tư cách là chồng một công chúa da đỏ, ông ấy đã chiến đấu dũng
cảm cùng phe với người da đỏ trong suốt nhiều năm liền. Cuối cùng thành phố mà
ông ấy bảo vệ bị huỷ diệt, đứa con trai duy nhất còn sống bị giết, công
chúa vợ ông ấy tự tử vì buồn, còn bản thân ông ấy thì bị bắt và một thời gian
sau cũng chết.
- Một câu chuyện thật đáng buồn, thưa
ông. - Lyly nghẹn ngào nói; nàng suýt khóc.
- Rất buồn, thưa bà, nhưng chưa hết
đâu. Trước khi chết bạn tôi có kể tôi nghe đôi điều về cuộc sống trước kia của
ông ấy. Ông ấy có đính hôn với một cô gái người Anh tên là...
- Tôi biết tên người ấy, ông nói tiếp
đi!
- Ông ấy nói với tôi mặc dù ông ấy đã
lấy người khác làm vợ và rất yêu vợ mình, - đó quả là một người đàn bà thật cao
thượng và xinh đẹp, đã nhiều lần dám hy sinh đời mình để cứu chồng, thậm chí
còn tự nguyện nằm chết với ông ấy trên bàn thờ tế thần, nhưng ông ấy không bao
giờ quên cô gái đã đính hôn. Suốt đời ông ấy luôn nghĩ về cô ta, nhất là khi
sắp chết. Vì vậy, nhân danh tình bạn, ông ấy yêu cầu tôi khi trở lại châu Âu
nhớ đến thăm vợ chưa cưới của ông ấy, nếu cô ta còn sống, và nhờ chuyển lại lời
và một yêu cầu cuối cùng của ông ấy.
- Những lời ấy là gì, và yêu cầu đó
thế nào? - Lyly khẽ nói.
- Ông ấy nhờ tôi nói lại rằng cả khi
sắp chết, ông ấy vẫn yêu bà nồng nhiệt như thời trẻ, và rằng ông ấy xin bà tha
thứ vì ông ấy đã không giữ được lời thề mà bà và ông ấy cùng thề bên gốc cây
già ở Đichchingham.
- Thưa ông! - Lyly khẽ kêu lên. - Ông
biết gì về những điều ấy?
- Tôi chỉ biết những gì bạn tôi kể cho
tôi nghe, thưa bà.
- Thế thì chắc các ông là bạn thân với
nhau, - nàng thì thầm. - Và có lẽ trí nhớ ông rất tốt.
- Bạn tôi không giữ đúng lời thề vì đã
gặp những hoàn cảnh rất khác thường. Ông ấy còn yêu cầu bà nói với tôi bà có
tha thứ cho ông ấy không, và có yêu như ông ấy đã yêu bà không?
- Nhưng ông ấy đã chết thì cần gì biết
tôi tha thứ hay yêu ông ấy? - Lyly vừa hỏi vừa cố nhìn vào mặt tôi đang khuất
trong bóng cây. - Lẽ nào người chết có tai để nghe và có mắt để nhìn?
- Làm sao tôi biết được, thưa bà? Tôi
chỉ làm đúng những gì bạn tôi yêu cầu.
- Thế làm sao tôi biết được rằng ông
đang thực hiện yêu cầu của người ấy? Rất có thể cái tin mà ngày xưa người ta
cho tôi biết rằng Tômax Uyngfin đã chết là đúng sự thật! Câu chuyện ông kể về
những người da đỏ và cô công chúa quá khác thường. Nó giống các câu chuyện kì
lạ thường được viết trong tiểu thuyết hơn là câu chuyện có thật trong thực tế
nhàm chán của chúng ta. Làm sao ông chứng minh được những lời ông nói là đúng?
Ông có bằng chứng nào không?
- Có, thưa bà. Nhưng ở đây tối quá,
tôi e bà không nhìn rõ.
- Nếu thế thì mời ông theo tôi, trong
nhà có đèn. Xin ông chờ một chút.
Nàng quay về phía cổng chuồng ngựa và
gọi:
- Giôn! Bác Giôn ơi!
Một ông già đáp lại lời nàng, và tôi
nhận ra đó là một trong những người hầu của bố tôi. Lyly nói điều gì đó với ông
ta rất khẽ, rồi dẫn tôi đi theo con đường tắt qua vườn tới cửa lớn vào nhà. Lấy
chìa khóa mở cửa xong, nàng nhường tôi vào trước. Tôi làm theo. Theo thói quen,
không hề suy nghĩ gì, tôi rẽ vào phòng khách vốn quen thuộc từ bé, bước qua bậc
cửa cao mà không hề vấp rồi đến đứng trước lò sưởi. Lyly chăm chú nhìn tôi. Sau
đó nàng thổi những hòn than còn le lói trong lò sưởi, rồi châm một ngọn nến nhỏ
đặt lên chiếc bàn bên cửa sổ. Tôi buộc phải cởi mũ, nhưng mặt tôi vẫn ở trong
bóng tối.
- Thưa ông, bây giờ xin ông cho xem
bằng chứng của ông.
Tôi tháo khỏi ngón tay chiếc nhẫn
thiêng liêng và đưa cho Lyly. Nàng ngồi xuống bàn, đưa nó lại gần ngọn nến để
nhìn cho kĩ. Tôi đứng yên quan sát và thấy nàng vẫn đẹp như xưa: thời gian hầu
như không chạm tới nàng, mặc dù nàng đã ba mươi tám tuổi. Đồng thời tôi cũng
nhận thấy rằng dù nàng cố không bộc lộ tình cảm của mình, nhưng nhìn thấy chiếc
nhẫn, ngực nàng bỗng phập phồng, còn đôi tay thì run run...
- Tôi tin ông, - cuối cùng nàng nói. -
Tôi biết chiếc nhẫn này, mẹ tôi từng mang nó. Kể ra, khi lần cuối cùng tôi thấy
nó, nó chưa bị mòn thế này. Nhiều năm về trước, tôi đem nó tặng một chàng trai
như dấu hiệu của tình yêu. Tôi đã hứa sẽ thành vợ của chàng trai ấy. Thưa ông,
bây giờ tôi không nghi ngờ gì nữa về những điều ông vừa kể. Xin cảm ơn lòng tốt
của ông, để làm điều này, chắc ông phải chịu khá nhiều vất vả. Vâng, thật buồn,
câu chuyện này thật buồn! Nhưng xin lỗi ông, tôi không thể mời ông ở lại nhà
này, vì tôi sống một mình. Không có khách sạn ở gần, vì vậy tôi sẽ cho người
dẫn ông tới nhà em trai tôi. Không xa đâu, chỉ cách đây khoảng một dặm. Sẽ có
người đưa ông đi, - nàng ngập ngừng, rồi nói tiếp, - nếu ông không biết đường.
ƠŒ đấy ông sẽ được đón tiếp tử tế, ngoài ra ông sẽ gặp em gái bạn ông là Mery
Bôza. Tất nhiên cô ấy sẽ muốn nghe ông kể về những chuyện phiêu lưu kì lạ của
anh trai.
Tôi cúi đầu nói:
- Thưa bà, trước hết tôi muốn nghe ý
kiến bà về những lời nói và yêu cầu cuối cùng của người bạn quá cố của tôi.
- Trả lời cho người chết ư? Đó là
chuyện trẻ con, thưa ông!
- Nhưng dù sao, xin bà cứ cho biết.
Tôi chỉ là người thực hiện ý định người khác.
- Chữ gì khắc trên nhẫn thế này?
- Dù
chúng ta ở đâu, trái tim vẫn bên nhau. - Tôi đáp, không hề suy nghĩ, và lập
tức nhớ ra mình đã lỡ lời.
- Ồ, thậm chí ông biết cả điều ấy.
Chắc ông đã mang chiếc nhẫn này trong nhiều tháng và học thuộc hai câu thơ khắc
trên đó. Được, thưa ông, tôi sẽ trả lời. Dù xa nhau, nhưng tôi vẫn mang trong
tim hình ảnh của người được tôi tặng chiếc nhẫn này, và vì người ấy, đến nay
tôi vẫn sống một mình. Nhưng người ấy đã trao trái tim mình cho một cô gái
hoang dã nào đó, người đã trở thành mẹ của những đứa con người ấy. Vì vậy tôi
xin trả lời yêu cầu của bạn anh thế này: tôi tha thứ cho bạn anh, nhưng từ nay
và mãi mãi sau này, cũng như bạn anh, tôi không để mình bị ràng buộc bởi lời
thề ngày xưa nữa, ngoài ra tôi sẽ cố quên tình cảm của tôi đối với bạn anh, cái
đã bị bạn anh từ chối và xúc phạm.
Lyly đứng dậy, khoát tay như muốn dứt
bỏ cái gì đấy khỏi lồng ngực, và để rơi chiếc nhẫn xuống đất.
Trái tim tôi đứng lặng. Thế đấy, tất
cả kết thúc thế đấy! Tất nhiên nàng xử sự đúng, nhưng bây giờ tôi lấy làm tiếc
rằng đã cho nàng biết toàn bộ sự thật, vì nhiều khi phụ nữ chấp nhận sự giả dối
dễ dàng hơn sự thật cay đắng.
Không nói được lời nào, tôi bỗng cảm
thấy vô cùng mệt mỏi, mệt mỏi và đau buồn. Tôi cúi xuống tìm nhặt chiếc nhẫn,
đeo nó vào ngón tay rồi đi ra. Đến cửa, tôi ngoái lại nhìn lần cuối người phụ
nữ đã từ chối tôi. Tôi dừng lại một giây bên bậc cửa, thầm nghĩ có nên nói nàng
biết tôi là ai không, nhưng liền ngay lúc ấy tôi quyết định không, vì một khi
nàng đã không tha thứ cho người chết, thì khó lòng nàng có thể thương tôi còn
sống. Không, đối với nàng tôi là người đã chết, và mãi mãi sẽ là người đã chết.
Khi tôi bước qua khỏi bậc cửa, bỗng
sau lưng có tiếng gọi của Lyly dịu dàng và thân thiết.
- Anh Tômax! Anh Tômax! Có thể trước
khi đi, anh cho tôi bàn giao lại tất cả số tài sản và ruộng đất mà anh đã tin
tưởng giao cho tôi chăng?
Sững sờ vì ngạc nhiên, tôi quay lại và
đứng lặng. Lyly từ từ đi về phía tôi, hai tay dang rộng.
- Ôi, anh ngốc lắm, ngốc lắm! - Nàng
khẽ nói. - Không lẽ anh định lừa dối trái tim một người phụ nữ? Vì chính anh đã
nhắc đến bóng cây trong khu vườn chúng ta, chính anh dễ dàng tìm đường đi trong
phòng tối, chính anh đã đọc câu thơ trên chiếc nhẫn bằng giọng của người đã
chết! Anh hãy nghe em nói đây. - Em tha thứ cho ông bạn của anh đã không giữ
đúng lời thề, vì ông ta đã thật thà thú nhận tất cả, vì đàn ông khó sống một
mình trong chừng ấy năm, và vì ở những đất nước xa lạ ấy, với bất kì ai cũng có
thể xảy ra những điều tương tự. Và còn điều này nữa, em vẫn yêu ông ta như ông
ta yêu em. Có điều hình như em đã già đối với tình yêu mà em chờ đợi chừng ấy
năm và những tưởng sẽ không bao giờ thấy lại.
Nàng Lyly của tôi đã nói thế. Nàng
thút thít khóc trên ngực tôi cho đến khi lặng yên trong vòng tay tôi ôm chặt.
Môi chúng tôi gặp nhau.
Đúng giây phút ấy tôi lại nhìn thấy
Ôtômi, nhớ lại những lời cuối cùng nàng nói, nhớ lại việc cũng vào ngày này
cách đây đúng một năm nàng đã uống thuốc độc tự tử.
Thật may mà người chết không nhìn thấy
người sống!
XXXX
PHẦN KẾT
Chẳng còn nhiều để kể tiếp, câu chuyện
của tôi đã đến phần kết, và tôi lấy thế làm mừng, vì tôi, một lão già rệu rã,
bây giờ cầm bút viết đã là điều rất khó, và mùa đông năm ngoái, nhiều lần tôi
đã tưởng phải bỏ dở.
Tôi và Lyly ngồi yên hồi lâu trong
chính căn phòng tôi đang viết những dòng này. Sự vui mừng tột độ và những tình
cảm mãnh liệt không cho chúng tôi nói nên lời. Sau đó, cả hai chúng tôi cùng
quỳ xuống tạ ơn số phận đã cho chúng tôi sống tới cuộc gặp gỡ kỳ lạ này.
Chúng tôi vừa đứng dậy thì nghe có
tiếng động bên ngoài, và rồi bước vào phòng là một người đàn bà đẫy đà cùng một
người đàn ông lịch sự và hai đứa bé, một trai một gái. Đó là em gái Mery của
tôi, Uyngfrêt Bôza, chồng cô và con họ là Rôtzơ và Joan. Sau khi nhận ra tôi,
Lyly liền cho ông già Giôn đến báo với họ rằng có một người từ xa đến mà chắc
chắn họ sẽ rất muốn gặp. Vì vậy, họ đến ngay, không hề nghĩ đó là tôi.
Lúc đầu họ không hiểu gì, ngơ ngác
đứng giữa phòng và thầm tự hỏi người lạ mặt này là ai? Quả thật tôi đã thay đổi
rất nhiều, vả lại ánh sáng trong phòng lúc ấy cũng yếu.
- Mery! - Cuối cùng tôi lên tiếng. -
Mery, em gái của anh, em không nhận ra anh à?
Mery kêu to một tiếng rồi nhảy bổ vào
ôm tôi và khóc to như bất kì người đàn bà nào khi thấy người anh yêu quý tưởng
đã chết từ lâu bỗng trở về nguyên vẹn. Còn Uyngfrêt Bôza thì cầm tay tôi lắc
mãi vì hồi hộp và xúc động, như tất cả những người đàn ông chúng ta vẫn làm thế
trong những trường hợp tương tự. Chỉ hai đứa trẻ là đứng bên ngơ ngác nhìn tôi.
Tôi gọi cô bé lại gần, cô bé rất giống Mery ngày còn nhỏ. Tôi hôn nó và nói tôi
là bác nó, là người có lẽ nó được nghe nói đã chết từ lâu.
Bị mọi người lãng quên, con ngựa của
tôi cuối cùng cũng được dẫn về chuồng. Sau đó chúng tôi ngồi xuống bàn ăn tối.
Tôi thấy bữa ăn thật lạ lùng, mọi cái đều không quen thuộc. Khi ăn xong, tôi
bắt đầu hỏi về mọi chuyện. Chỉ bây giờ tôi mới biết rằng tất cả gia tài của tôi
do Fônxêca để lại đã về tới nước Anh đầy đủ và nguyên vẹn. Đến nay, nhờ công
sức Lyly, nó đã được nhân lên gấp nhiều lần. Hầu như nàng không chi tiêu gì cho
mình, vì cho rằng số tiền đó nàng được nhờ cất giữ chứ không phải của riêng
nàng. Khi tin đồn về cái chết của tôi có vẻ là thật, Mery đã nhận phần thừa kế
của cô, và với số tiền ấy đã mua những vùng đất lân cận ở Irsem, Hiđingem và
những cánh rừng ở gần đồi Tinđên ở Đichchingham và Brum. Tôi vội nói ngay rằng
tôi tặng cô số đất đai ấy, vì không có chúng, tôi cũng đã quá giàu. Những lời
này của tôi làm chồng cô đặc biệt thích thú, vì chẳng ai có thể dễ dàng từ bỏ
cái trong suốt nhiều năm vẫn được xem là tài sản của mình!
Sau đó, tôi được kể cho nghe về tất cả
những điều còn lại: về cái chết của bố tôi; về việc số tài sản của tôi gửi về
đột ngột đã cứu Lyly không phải lấy anh Giêfry, về việc sau đó Giêfry trở nên
nghiện ngập và đã chết ở cái tuổi ba mươi mốt; và cả về cái chết của ông địa
chủ Bôza, bố Lyly. Ông chết đột ngột trong một cơn tức giận. Sau cái chết của
ông, em trai Lyly cưới cô em Mery của tôi, còn bản thân Lyly thì sau khi trả
hết nợ nần cho Giêfry, đã mua quyền thừa kế của Mery và dọn sang ở trong ngôi
nhà cổ xưa của chúng tôi. Nàng đã sống ở đây tất cả những năm qua, sống cô đơn,
buồn bã và chỉ tìm nguồn an ủi trong các việc thiện nàng làm. Như tự nàng thú
nhận với tôi, nếu không vì gia tài và những vùng đất rộng giao cho nàng trông
giữ, từ lâu nàng đã vào tu viện và sống nốt quãng đời mình trong đó, để khỏi
phải kéo dài những ngày tẻ nhạt của cuộc đời một “cô dâu góa chồng”. Đối với
nàng, tôi không còn tồn tại nữa, và nàng thực sự xem tôi là người đã chết kể từ
khi có tin đồn đắm tàu, mà lấy người khác thì nàng không muốn, dù không ít
người tử tế dạm hỏi.
Đó là tất cả những gì người thân của
tôi, những người sống đến già trong sự bình yên tuyệt đối, có thể cho tôi biết,
nếu không kể những tin tức khác đại loại như trẻ con sinh ra hoặc chết, hay về
cơn bão lớn và trận lụt làm ngập Banghi và thung lũng Uêvơni. Còn các việc
chính sự như ông vua nào chết, ông vua nào lên ngôi, như giáo hoàng La Mã thôi
không còn quyền lực nữa, hay như sự cướp bóc các tu viện vẫn còn xảy ra khắp
nơi, vân vân... tôi xin phép không đề cập tới, vì sẽ không đúng chỗ.
Đến lượt tôi, tôi bắt đầu kể từ đầu.
Mọi người lắng nghe tôi với vẻ mặt chăm chú tột độ. Suốt đêm, cho tới khi chim
họa mi hót và mặt trời đỏ ửng ở phương đông, tôi ngồi bên Lyly và kể cho nàng
nghe câu chuyện của đời mình. Rồi chúng tôi đi ngủ ở phòng được dành sẵn cho
hai người, và sáng hôm sau tôi lại kể tiếp. Để chứng minh, tôi cho họ xem thanh
kiếm của Becnan Điax, chuỗi vòng ngọc bích mà Guatêmôc đưa cho tôi và cả những
vết sẹo trên người tôi. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy những khuôn mặt ngạc nhiên
đến thế. Khi tôi kể về lễ tế thần cuối cùng của phụ nữ Ôtômi và về cái chết của
Gacxia với trận đánh điên rồ của hắn chống lại bóng ma, họ kêu lên vì kinh sợ;
còn khi tôi kể về cái chết của Ixaben đơ Xiguenxa, của Guatêmôc và các con tôi,
họ khóc nức nở vì thương xót.
Tuy nhiên, tôi vẫn không thể đem hết
mọi chuyện ra kể, những gì xảy ra giữa tôi và Ôtômi, tôi chỉ kể cho một mình
Lyly nghe. Tôi chân thành với nàng như một người đàn ông với một người đàn bà,
vì tôi biết nếu bây giờ tôi còn giấu nàng điều gì, thì chúng tôi không bao giờ
có thể tin nhau hoàn toàn. Tôi không giấu nàng cả những nghi ngờ và do dự của
tôi, cả việc tôi yêu Ôtômi, người có vẻ đẹp và sự dịu dàng làm tôi xúc động
ngay từ lần gặp đầu tiên trong cung điện của vua Môntêzuma, và cả những gì xảy
ra với chúng tôi trên hòn đá chém.
Nghe tôi nói xong, Lyly cảm ơn tôi vì
lòng trung thực và nói trong những trường hợp như thế, đàn ông có lẽ khác xa
đàn bà, vì nếu là nàng, nàng sẽ không tự đấu tranh với mình để chống lại các
cám dỗ. Nhưng thiên nhiên và Chúa đã tạo ra chúng ta như vậy, nên phụ nữ không
thể trách chúng ta được. Còn về Ôtômi cô gái hoang dã ấy, thì nếu bỏ qua việc
tế thần rùng rợn nọ, có lẽ nàng thật sự là một người đàn bà cao cả, dù ít nhiều
đỏng đảnh và biết quyến rũ trái tim đàn ông. Vì tình yêu, Ôtômi đã dám làm
những điều các phụ nữ khác không dám làm, như Lyly chẳng hạn. Suy cho cùng Lyly
hiểu tôi đã buộc phải lựa chọn giữa một bên là lấy vợ và bên kia là cái chết,
và tôi đã phải thề một lời thề long trọng, sau đó, khi không còn nguy hiểm nữa,
sẽ là điều đáng trách nếu tôi bỏ rơi vợ mình. Vì thế , Lyly cho rằng không cần
thiết phải nói thêm về những việc ấy, thậm chí còn hứa sẽ không ghen, nếu lúc
nào đó tôi nhắc tới Ôtômi bằng những lời tốt đẹp. Lyly nói với tôi những lời
này hết sức dịu dàng. Nàng nhìn tôi bằng đôi mắt sáng và âu yếm như mắt các
thiên thần. Đôi mắt ấy của nàng ướt đẫm khi tôi kể về cái chết của đứa con đầu
lòng và những đứa con khác của tôi. Chỉ mấy năm sau, khi Lyly mất hết hy vọng
sinh con, nàng mới bắt đầu ghen với chúng.
Tin đồn về việc tôi trở về và những
cuộc phiêu lưu kì lạ của tôi khi sống giữa những người da đỏ đã lan truyền khắp
vùng. Người ta kéo đến rất đông, thậm chí cả từ Nôritzơ và Iamut, và ai cũng
bắt tôi phải kể lại từ đầu mọi chuyện, cuối cùng làm tôi phát ngấy.
Tôi đặt một lễ tạ ơn ở nhà thờ Đức bà
Maria ở Đichchingham, để tạ ơn Chúa đã cứu tôi cả trên cạn lẫn dưới nước. Khi
buổi lễ kết thúc và mọi người giải tán, từ ngôi nhà của gia đình Bôza, nơi tôi
đang ở với tư cách là khách trước khi tôi và Lyly cưới nhau, tôi đi tới ngôi
nhà thờ trống rỗng, nơi thi hài bố mẹ tôi được chôn cất. Tôi quỳ xuống, tâm hồn
tôi hướng lên cao, nơi bố mẹ tôi đang yên nghỉ nghìn năm. Một sự yên tĩnh trang
nghiêm bao trùm lên tôi. Tôi chợt hiểu lời thề trả thù Gacxia của tôi quả đúng
là một điều điên rồ, vì nó là thân cây để các việc ác tôi làm bám quanh như
những chiếc lá. Nhưng không vì thế mà lòng căm thù của tôi đối với hắn giảm
bớt. Có thể tốt hơn cứ để Chúa trả thù hắn, nhưng tôi đã và cho đến tận bây giờ
vẫn không thể tha thứ cho kẻ giết chết mẹ tôi.
ƠŒ cửa ra vào bên mép nhà thờ, tôi gặp
Lyly. Nàng biết tôi đang ở đấy.
- Lyly, - tôi nói. - Anh muốn hỏi em
một điều: em có đồng ý lấy một người không xứng đáng như anh làm chồng không?
- Em đã đồng ý lấy anh từ nhiều năm về
trước, anh Tômax, - nàng đáp rất khẽ, hai má đỏ ửng như bông hồng tôi đang thấy
trên ngôi mộ sau lưng nàng. - Từ ấy đến nay em không thay đổi! Trong nhiều năm
em xem anh là chồng em, dù nghĩ anh đã chết.
- Hạnh phúc này lớn hơn những gì anh
đáng được hưởng, - tôi nói. - Nếu em đồng ý, bao giờ chúng ta có thể làm lễ
cưới? Ta không còn trẻ, và thời gian còn lại cũng không nhiều.
- Bao giờ tùy anh, anh Tômax ạ, - Lyly
nói rồi chìa bàn tay cho tôi.
Một tuần sau chúng tôi đã thành vợ
thành chồng.
Vậy là câu chuyện của tôi đã kết thúc.
Tuổi trẻ của tôi sôi động và đầy đau buồn, tôi sớm trưởng thành, nhưng để bù
lại, hạnh phúc đã sưởi ấm tuổi già của tôi. Những sự kiện tôi kể trong cuốn
sách này xảy ra nhiều năm về trước. Cái cây non tôi trồng bên cửa sổ vào ngày
cưới bây giờ đã thành một cây to sum sê cành lá. Ở đây, ở thung lũng Uêvơni tuyệt vời
này năm tháng nối tiếp nhau bay ngang trên mái đầu bạc trắng của tôi, những năm
tháng tràn đầy hạnh phúc, yên tĩnh, thanh bình và chỉ bị vẩn đục bởi những hồi
tưởng cay đắng và nỗi buồn nhớ những người đã chết mà nhiều khi tôi cũng không
kìm lại được. Cùng với thời gian, tôi biết thêm thế nào là hạnh phúc của tình
yêu chân chính, vì trên đời này hiếm ai có được một người vợ như Lyly của tôi.
Tôi cứ nghĩ những nỗi buồn và những đau khổ thời trẻ chỉ làm tâm hồn nàng thêm
cao quý như tâm hồn một thiên thần thực sự. Chỉ duy nhất một lần, khi gặp điều
bất hạnh lớn, - cái chết của đứa con chúng tôi, - như tôi nói ở phần đầu cuốn
sách, Lyly mới tỏ ra nàng cũng chỉ là một người đàn bà. Có lẽ suốt đời chúng tôi
phải sống trong cảnh cô đơn không con cái. Chúng tôi đành chấp nhận điều đó, và
từ ấy giữa chúng tôi không bao giờ có bóng đen nào nữa. Tay cầm tay, chúng tôi
đi xuống theo bờ dốc cuộc đời cho đến khi vợ tôi rời bỏ tôi đi trước. Đêm giáng
sinh, bà còn nằm ngủ bên tôi, thế mà đến sáng đã không còn tỉnh dậy.
Tôi đã đau buồn thương nhớ bà hết mực,
nhưng sự đau buồn ấy không thể so sánh với những gì tôi trải qua ngày trẻ, vì
kinh nghiệm và năm tháng làm cho chúng ta vững vàng hơn trước những thử thách.
Vả lại, tôi biết chúng tôi không xa nhau lâu: sắp tới tôi sẽ lên đường đi theo
Lyly, và con đường dài trước mặt không làm tôi sợ hãi. Như tất cả những người
già đã sống qua đời mình và gạt bỏ hết tội lỗi, bây giờ tôi không sợ chết. Tôi
sung sướng sẵn sàng bước qua cái vạch cuối cùng ấy của cuộc đời, vì tôi tin
rằng ở bên kia, tôi sẽ được nâng đỡ bởi chính bàn tay đã cứu tôi khỏi thớt chém
và che chở cho tôi an toàn đi qua hết cuộc đời đầy sóng gió nguy hiểm.
Và bây giờ, tôi, Tômax Uyngfin, tôi tạ
ơn Đức Chúa lòng lành, vì Ngài đã che chở cho tôi cùng những người xưa nay tôi
yêu quý.
Amen!
HET
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét