Thơ Chữ Hán Việt Nam
NGUYỄN ỨC
Không rõ năm sinh, năm mất
và quê quán ở đâu, chỉ biết dưới triều Trần Minh Tông ông từng làm quan ở Viện
Hàn lâm. Hiện còn lưu lại được 20 bài thơ.
238.
Hoa đồ mi 1)
Vài ba bông nhỏ nở trên giàn,
Trong lúc vườn xuân đã héo tàn.
Suốt đời chẳng thấy hoa mai nở,
Một mình lẽo đẽo với thời gian.
1. Thưêng gäi lµ hoa trµ mi, në cuèi xu©n, ®Çu
h¹.
239.
Đậu thuyền bên đình
Ứng
Phong 2) ngẫu hứng đề thơ
Buộc thuyền bên bến, cạnh đình làng.
Cung lầu triều trước thành gò hoang.
Mùa xuân không biết trò hưng phế,
Vẫn tươi, làm rối nắng hoe vàng.
1. ë phñ NghÜa Hưng, nay thuéc tØnh Nam §Þnh.
240.
Bụi hoa lan trước nhà
Từng được Khuất Nguyên 1)
luôn ngợi ca.
Trồng lan chín khoảnh trước sân nhà,
Trời có ý thương nơi vắng vẻ,
Để lại mùi thơm với bạn già.
1. Nhµ th¬ vÜ ®¹i cña Trung Quèc, t¸c gi¶ Së tõ.
241.
Tiễn người đi phương Bắc
Ngoái nhìn thành cổ phía xa xa.
Dừng ngựa tiễn người, rượu rót ra.
Kẻ ở người đi, rơi nước mắt.
Bẻ liễu 1) bên sông giữa nắng tà.
1. Ngµy xưa khi chia tay cã tôc bÎ liÔu trao cho nhau.
242.
Đề tranh "Cố bộ hạc đồ" 1)
Đống đá bên đường, mấy bụi lau.
Con hạc dùng dằng mãi lúc lâu.
Nguy hiểm lưới giăng ngay trước mặt.
Lại ngoái đề phòng ở phía sau.
1. Cè bé h¹c ®å: Bøc
tranh vÏ con h¹c võa ®i võa ngo¸i l¹i
243.
Đi thăm bạn không gặp
Hẹn mãi mà không gặp,
Tôi đi dọc, bác ngang.
Ở đời, vì việc lớn,
Gặp nhau không dễ dàng.
245.
Đêm thu, cùng bạn cũ Chu Hà kể chuyện đã qua
Ngồi bên khóm cúc mới ra hoa,
Cùng ngửi chi lan chung một nhà.
Tình bạn gửi sâu vào chén rượu.
Bên đèn ngồi kể chuyện ngày qua.
Tóc bạc trên đầu, đời sắp hết,
Con đường danh lợi chửa tìm ra.
Mừng được gặp nhau, không phải mộng.
Mưa rơi làm rụng lá ngô già.
246. Thơ làm khi thuyền qua Tiên Du, Bắc Giang 1)
Thuyền đi, gió thổi cánh buồm nâu.
Lòng thẹn núi xanh, mình bạc đầu.
Nắng chiều nửa tháp, chùa đơn độc.
Trăng sáng đầy sông, bốn nhịp cầu.
Lúa chín ngoài đồng vàng tít tắp,
Phong đỏ bạt ngàn sau mưa ngâu.
Những muốn trở về mà nước ngược.
Bao giờ thuyền tới đất Thần Châu? 2)
1.
Tªn huyÖn Tiªn Du, B¾c Ninh, ®êi TrÇn.
2. ChØ kinh ®« Th¨ng Long
247.
Ngày xuân ở nông thôn
Lối tre râm mát, cỏ xen hoa.
Cửa ngoài đóng chặt, khói xa xa.
Con ong hút mật, râu đầy phấn.
Chim én lượn bay giữa luống cà.
Sai bọn gia nhân chăm vườn thuốc.
Nhắc con cày kỹ ruộng ông cha.
Người xung quanh bảo làm quan sướng,
Mà chẳng biết ơn vợ ở nhà.
248.
Nơi quán khách họa thơ bạn
Phận nghèo, nhà lá, sống long đong.
Làm thơ chẳng nói đến hoa hồng.
Bao lần chim én bay rời tổ.
Đêm trăng bầy quạ cứ quay vòng.
Ăn trám, bạn nghèo cùng biết vị.
Nắm cát trong tay chỉ nhọc lòng.
Cảnh tình nói thế, còn nghi hoặc,
Thì hãy nhìn kìa, nước dưới sông.
249.
Hoa mai rụng
Vương Mẫu, Dao Trì 1)... chuyện
đã lâu.
Vườn nhỏ Hương Sơn 2) đủ sắc màu.
Công chúa Hàm Chương mai điểm trán. 3)
Kim Cốc 4) giai nhân bỗng nhảy lầu.
Có mai, trăng sáng xui nên mộng,
Lúc nở, bên song những gợi sầu.
Tự nở, vô tình mai tự rụng,
Luống để thi nhân bạc trắng đầu.
(1)
Một cảnh tiên, tương truyền nơi Tây Vương mẫu ở.
(2) Nhà thơ Bạch Cư Dị đời Đường có một vườn hoa gọi là Hương
sơn. Trong bài này cũng có thể là tên một ngọn núi, ngôi chùa hay một địa danh
nào đó ở nước ta.
(3) Theo Sơ học ký, một hôm công chúa Thọ Dương con vua Tống nằm
ngủ dưới hiên cung Hàm Chương, hoa mai rụng xuống đầy trán, người đương thời
nói công chúa trang sức bằng hoa mai.
(4) Thạch Sùng đời Tấn có vườn hoa tên là Kim Cốc ở tỉnh Hà Nam.
Nơi đây có Thanh Lương đài, nơi ở của người vợ lẽ xinh đẹp tên là Lục Châu.
Nàng đã nhảy lầu tự tử để giữ tiết nghĩa với chồng.
250.
Cảm tác khi biên tập cuốn "Cúc
Đường di cảo" 1)
Lăng mộ im lìm dưới tán thông.
Đôi tiếng chim kêu tiễn bóng hồng.
Hoa biểu
2) mịt
mù, chưa thấy hạc.
Sóng Đĩnh Hồ dâng, vắng bóng rồng.
Lận đận bao năm nơi đất khách.
Đêm nằm mơ mộng giữa tầng không.
Nhìn rặng núi xa, thầm nhỏ lệ.
Lòng gợn bao nhiêu chuyện não lòng.
(1) Theo Văn tịch chỉ thì Cúc Đường di cảo là do Trần Quang Triều,
Nguyễn Ức biên soạn.
(2) Theo Phong thiền thư, xưa Hoàng Đế từng đúc vạc dưới chân
núi Kinh Sơn. Khi vạc thành, Hoàng Đế cưỡi rồng lên tiên. Người đời sau đặt
tên chỗ đúc vạc là Đĩnh Hồ và thường dùng hai từ này để ngụ ý một vị vua chúa
nào đó chết và cưỡi rồng đi về cõi tiên.
251. Tiễn thị thần
Mạc Dĩnh Phu 1) đi sứ nhà Nguyên
Vĩnh biệt vua xong, giữa nắng tà,
Ly Câu hát hết, lại Hoàng Hoa 2).
Ngoái đầu từ biệt
mây cung cấm.
Đôi lời tâm sự kẻ đi xa.
Được vua tin cậy, mừng cho bác.
Lận đận đời tôi, nghĩ xót xa.
Giang Nam cảnh đẹp, khi cao hứng,
Viết thơ, bác nhớ gửi về nhà.
1.
Chưa rõ là ai. Có thể là Mạc Đỉnh Chi. Ông đi sứ Trung Quốc năm 1308.
2.
Ly Câu, tên một bài hát người xưa thường hát để từ biệt nhau. Hàng Hoa, chính
xác là Hoàng hoàng Giả hoa, một bài thơ trong Kinh Thi. Người ta cho rằng đó là
bài hát của vua để tiễn sứ đi xa.
BÙI TÔNG
QUÂN
Hiệu
Thủy Tiên, không rõ năm sinh, năm mất, quê quán, chỉ biết làm quan đến chức ngự
sử đời Trần. Còn lưu được bốn bài thơ trong Toàn Việt Thi Lục của Lê Quí Đôn.
252. Ngắm cảnh thu
xóm núi ven sông
Xốc áo đứng nhìn bên mé sông.
Cảnh thu như vẽ, trời xanh trong.
Chim nhạn từng đàn bay ríu rít.
Buồm con đôi cánh, gió căng phồng.
Ngoài lũy nhà tranh vương khói nhẹ.
Đầu khe chùa Phật, lá xanh hồng.
Cảnh trời hứa hẹn mùa tươi tốt.
Não ruột lòng người, ai biết không?
MẠC ĐỈNH CHI
Không rõ năm sinh, năm
mất, danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tên chữ là Tiết Phụ, ngươời làng Lũng Động,
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông la tổ phụ bảy đời của vua Mạc Thái tổ Đăng
Dung. Theo sach xưa, Mạc Đỉnh Chi người xấu nhưng rất thông minh. Ông thi đậu
Trạng nguyên năm 1304, sau làm quan thượng thu, từng đi sứ Trung Quốc, để lại
nhiều giai thoại.
253. Mừng trời tạnh
Non sông thật tươi đẹp.
Trời lại ấm, khô hanh.
Khói lồng mặt trời mọc.
Sóng gợn, nước trong xanh.
Thuyền lướt, chạm hoa lá.
Trên bờ liễu buông mành.
Khách xa lòng ấm lại,
Mừng năm mới tốt lành.
254. Cảnh chiều
Mây núi xanh nhàn nhạt.
Nước sông xuân nhuộm màu.
Quạ kêu giữa chiều xế.
Nhạn tiễn mây về đâu?
Bên khe bác tiều hát.
Trong vịnh, lửa thuyền câu.
Khách xa buồn, lạnh lẽo,
Mượn chén rượu giải sầu.
255. Đi sớm
Vừa tỉnh giấc mơ bướm.
Sông Thương Lang đầy mây.
Ai hát điệu chài lưới.
Thuyền xuyên lớp sương dày.
Tam Sở nhiều núi thẳm.
Cửu Giang nước dâng đầy.
Liêm Khê nơi nào nhỉ?
Muốn đến thăm nơi này.
256. Qua Bành Trạch, thăm nơi ở cũ của Đào Tiềm 1)
Bản tính ưa phóng khoáng.
Ghét xu nịnh, mưu cầu.
Từ quan, cởi dây ấn.
Không vì ăn, cúi đầu.
Một giậu cúc lạnh lẽo.
Dăm cây liễu gợi sầu.
Danh tiếng ông thanh khiết
Lưu lại muôn đời sau.
1. Nhà thơ đời Tấn (365 – 427), nổi tiếng khí khái, liêm khiết.
Chuyện kể một hôm nha lại bảo ông ăn mặc chỉnh tề đón một chức sắc địa phương,
ông than: “Ta há vì năm đấu gạo mà phải uốn lưng trước lũ tiểu nhân đó sao?”
Rồi ông treo ấn từ quan bỏ về làng, suốt ngày uống rượu và ngắm hoa cúc.
CHU VĂN AN
Không rõ năm sinh, mất
1370, hiệu là Tiểu Ấn, tên chữ là Linh Triệt, người huyện Thanh Đàm, nay là
Thanh Trì, Hà Nội. Sau khi thi đậu thái sinh học, ông không làm quan, mà chỉ ở
nhà dạy học, học trò rất đông, trong đó có Phạm Sư Mạnh và Lê Bá Quát. Đến năm
Khai Thái đời Trần Minh Tông, ông mới nhậm chức Quốc Tử Giám tư nghiệp. Hiện
nay chỉ lưu lại được 12 bài thơ.
257.
Tạp hứng ở Linh Sơn 1)
Núi rừng như cảnh vẽ bình phong:
Bờ khe lơ lửng mặt trời hồng.
Lối đi cỏ mọc, người thưa thớt.
Thỉnh thoảng chim kêu trong tán thông.
1. Tøc nói ChÝ Linh,
huyÖn ChÝ Linh, H¶i Dương ngµy nay.
258.
Tạm nghỉ ở núi thôn Nam
Như áng mây chiều, lòng thảnh thơi.
Gió mát xua tan hết sự đời.
Cõi trần, cõi Phật xa vời vợi.
Ngoài thềm chim hót, cánh hoa rơi.
259.
Kính họa thơ vua
Hạc múa ngoài sân, mây sát thềm.
Cầm hoa như chén, uống sương đêm.
Gió xuân thổi nhẹ rung đàn đá.
Dạo dưới hoa đào, lòng tĩnh êm.
260.
Sông Thanh Lương 1)
Hoàng hôn, vệt nắng vắt qua đồi.
Thuyền chài trên bến đứng từng đôi.
Ngắm mãi Thanh Lương không biết chán,
Triều dâng, ráng lạnh, áng mây trôi.
1. ë n¬i huyÖn HiÖp S¬n tiÕp gi¸p víi huyÖn ChÝ Linh, nay thuéc tØnh Hải Dương.
261. Đêm trăng, đi dạo trên con đường
có
thông mọc ở núi Tiên Du 1)
Con đường rợp bóng cây.
Xóm vắng, khói mờ bay.
Chiều buông, ai thổi sáo.
Trời thấp và nhiều mây.
Dưới khe lạnh cá nhảy.
Chim ngủ trong sương dày.
Người thổi sênh đâu vắng,
Để núi lạnh thế này?
1.
Tøc nói PhËt TÝch, nay thuéc huyÖn Tiªn s¬n, B¾c Ninh.
262.
Ao Miết Trì 1)
Hoàng hôn, bóng nguyệt giỡn bóng tà.
Dưới ao sen nở, lá xen hoa.
Chỉ thấy cá bơi, rồng không thấy.
Trời chiều vắng bóng hạc bay qua.
Rêu non đẫm nước che lấp cửa.
Thoang thoảng đường đi mùi quế già.
Lòng này chưa nguội như tro lạnh.
Nhắc đến Tiên hoàng, giọt lệ sa.
1.
NghÜa ®en lµ ao Ba Ba, ë nói C«n S¬n, huyÖn ChÝ Linh, tØnh H¶i Dư¬ng,
nay kh«ng cßn n÷a.
263.
Thơ làm ở Giang Đình
Một mình buồn đứng, ngắm thuyền câu.
Nước dâng, sáo thổi gợi thêm sầu.
Xế bóng hoàng hôn, thi hứng cạn.
Hiu hắt trời thu biếc một mầu.
Sự nghiệp công danh thành cõi mộng.
Giang hồ du ngoạn đỡ buồn đau.
Đi ở tự mình, không trói buộc,
Khác nào ngang dọc cánh chim âu.
264.
Sáng xuân
Thảnh thơi, nhà nhỏ giữa rừng cây.
Màu xanh của lá át màu mây.
Liếp mỏng nghiêng nghiêng che rét nhẹ.
Cánh hoa sương ướt, trời như say.
Lòng như mặt giếng, luôn thanh thản.
Bên rừng lưu luyến cánh mây bay.
Khói thông sắp hết, trà đang nguội.
Một tiếng chim kêu, tỉnh mộng ngày.
265.
Đầu hè
Nhà tranh, núi vắng, giấc mơ màng.
Gió thổi hàng cây, nắng nhạt vàng.
Chim én rủ nhau tìm tổ cũ.
Ve sầu đầu hạ hát âm vang.
Sen nở dưới khe không gợn bẩn.
Trúc mọc xanh tươi phía cuối làng.
Cành ngô phượng đậu, lâu thành biếng.
Tập sách trên bàn, gió lật trang.
266.
Trông về Thái Lăng 1)
Xế chiều, rừng bách ngát màu xanh.
Hòn đá to nghiêng cỏ bám quanh.
Gió thổi, núi buồn thêm ảm đạm.
Trên trời mây rách dạt trôi nhanh.
Hoa rụng bờ khe, mưa lất phất.
Ngoài đồng im bặt tiếng chim oanh.
Bát ngát cỏ xuân, xanh đến lạ.
Dùng dằng định bước, bước không đành.
1.
L¨ng vua TrÇn Anh T«ng.
PHẠM SƯ MẠNH
Ngày
sinh, ngày mất không rõ, tự Nghĩa Phu, hiệu Úy Trai, người tỉnh Hải Dương ngày
nay. Ông là học trò của Chu Văn An, đỗ thái học sinh vào đời Trần Minh Tông (1314 - 1329), từng
giữ nhiều chức quan trọng, nổi tiếng về văn học và đạo đức. Cùng bạn thân là Lê
Quát, ông đề nghị một số cải cách cuối đời Trần, nhưng không được nghe theo.
Tác phẩm: Hiệp Thạch tập (đến nay còn thất lạc), 30 bài thơ trong “Toàn Việt
thi lục” và một bài văn bia.
267.
Trên thuyền, tức sự làm thơ
Ba vua thay đổi vẫn làm quan.
Những mong lên núi sống an nhàn.
Đốt hương ngồi ngắm trăng sông Nhị.
Quê nhà chợt nhớ, nghĩ lan man.
268.
Đi ngang qua mộ An Phủ Nguyễn Sĩ Cố 1)
Hàng nghìn mẫu trúc rộng bao la.
Trước mồ An Phủ ngẫm xót xa.
Trong núi, nhà xưa ngồi uống rượu,
Nay ngựa dừng chân giữa bóng tà.
1. Chưa râ lµ ai.
269.
Đề chùa Cam Lộ 1)
Tia nắng bình minh gõ cửa thiền.
Bóng chùa dưới nước hiện dần lên.
Thơ cũ Mục Lăng nay đọc lại. 2)
Gió vờn sương trắng lẫn tóc đen.
1. Chưa râ ë ®©u.
2. Bµi th¬ nãi vÒ viÖc TrÇn Minh T«ng ®ưîc ch«n ë Môc L¨ng.
270. Qua động Hoàng Long
Phố Nha, núi Thạch 1) đứng bên sông.
Buồm căng, thuyền đến động Hoàng Long.
Núi núi kề nhau như chuỗi ngọc.
Bầu trời như nước, rất xanh trong.
1. Chưa rõ động Hoàng
Long, núi Thạch và phố Nha ở đâu, có lẽ là những địa danh gần quê tác giả.
271.
Lầu trên hồ ở chùa Đông Sơn 1)
Chùa cổ hồ xưa cỏ mọc dày.
Trúc thông kín núi, gió mưa bay.
Người già trong xóm giờ còn kể:
Thái sư 2) nam tiến ghé nơi này.
1. Chưa râ ë ®©u.
2. Tøc TrÇn NhËt DuËt, lóc ®ưa qu©n
®i ®¸nh Chiªm Thµnh.
272. Qua Tiêu Tương 1)
Tiêu Tương, Thanh Thảo ở kề nhau.
Thu về, phong rụng, lá vàng au.
Hai bà phi mất 2), cung không mở.
Chiều xế, chim kêu những gợi sầu.
1. Tiêu Tương, nơi hợp lưu
hai con sông Tiêu và Tương, phía bắc huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam. Thanh Thảo,
một hồ nước gần đó. Có lẽ Phạm Sư Mạnh làm bài này khi đi sứ Trung Quốc.
2. Tương truyền Nga Hoàng
và Nữ Anh là con gái vua Nghiêu và là vợ vua Thuấn. Khi vua Thuấn mất, hai bà
phi khóc thương ở bờ sông Tiêu cho đến chết.
273. Họa thơ sứ nhà Minh,
đề trạm Nhị Hà
Sứ
thần triều mới bước thong dong
Một mình chống gậy dạo ven sông.
Văn Lang thành cổ trông như núi
Sông Nhị phù sa thấm mát đồng.
Tản Viên núi đẹp, xanh cây lá.
Đền thờ ông Trọng 1) phủ mây hồng.
Đề thơ, mực ướt trên tường trạm.
Triều này chắc nỏi tiếng Tam Ung 2).
1. Tức Lý Ông Trọng, một
danh tướng Việt nam được Tần Thủy
Hoàng trọng dụng. Đền thờ ông ở Chèm, Hà Nội.
2. Trong Hán Thư, tam ung
là Bích Ung (nhà giảng học), Minh Đường (nhà ban hành chính lệnh) và Linh Đài
(nhà xem thiên văn. Ý câu này khen nhà Minh mở
mang văn hóa không kém các triều đại trước.
274. Thơ đề khi lên chơi
núi Thiên Kỳ
Đông Triều nổi tiếng đẹp xưa nay.
Bận, chưa cáo nghỉ để về đây.
Thèm nhìn ruộng lúa, cây che khuất.
Muốn bám xe rồng, mây cuốn bay
Gió, nước ngoài hiên, rêu ẩm ướt.
Trúc, hoa bên dậu, đá khô gầy.
Tiên Hoàng ngày trước từng lưu lại.
Giờ nhìn xuân vãn, thấy buồn lây.
275. Thơ đề ở tháp Báo
Thiên 1)
Đông tây trấn giữ, vững kinh thành.
Tháp cao sừng sững, chọc trời xanh.
Vững chãi non sông nhờ cột đỡ.
Mãi mãi không mòn đỉnh tháp canh.
Gió thổi, chuông kêu như ứng đáp.
Như đèn, sao sáng suốt năm canh.
Tháp làm bút vẽ, sông làm mực,
Những muốn làm thơ vịnh thắng danh.
1. Tháp Báo Thiên ở phường
Báo Thiên, huyện Thọ Xương thành Thăng Long, nay là phố Nhà Thờ ở Hà Nội. Vua
Lý Thánh Tông cho xây tháp này năm 1057, sau bị Vương Thông phá để lấy đồng làm
binh khí..
276.
Lên núi Dục Thúy,1) đề thơ
Được cùng vua theo hầu.
Thuyền đậu bến Nha Đầu.
Lên cao - đâu cũng biển.
Nước và trời như nhau.
Chùa chùa nơi Bồng Đảo. 2)
Buồm buồm chốn Doanh Châu 3).
Tuổi mới sáu mươi sáu.
Lòng hướng Phật từ lâu.
1.
Nói Non Nưíc ë Ninh B×nh.
2. Tư¬ng
truyÒn nh÷ng n¬i thÇn tiªn ë ngoµi biÓn Bét H¶i.
3.
Đảo Tam Thần, gồm các địa danh Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu ở biển
Bột Hải, được coi là chốn thần tiên.
277.
Đi chơi núi Phật Tích, ngẫu nhiên đề thơ
Leo lên đỉnh núi, khách làng văn
Ngắm cảnh, quên bao nỗi nhọc nhằn.
Gió thổi rừng thông thành sóng lạnh.
Mây vờn quanh núi tựa vành khăn.
Chín khúc nhạc Thiều 1) vang khắp núi.
Đỉnh non mây trắng tự Tam Thần 2)
Thôi, chuyện họ Từ 3) đừng nói nữa.
Ngâm thơ, thổi sáo, bước tần ngần.
1.
Tức nhạc của vua Thuấn. Vì nhạc có chín khúc nên gọi là "chín khúc nhạc
thiều".
2.
Đảo Tam Thần, gồm các địa danh Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu ở biển
Bột Hải, được coi là chốn thần tiên.
3.
Ý nói chuyện Từ Thức lên tiên.
278.
Miếu Hạng Vũ1) ở Ô Giang
Cả đời bàn mãi chuyện hưng vong.
Rượu thơm một chén viếng Trùng Đồng.2)
Giết kẻ đầu hàng3), còn bội ước.4)
Mưu đồ nghiệp bá thoắt thành không.
Trăng khóc anh hùng, soi đất Hạ.5)
Mây buồn việc nước, phủ Giang Đông.6)
Bao kẻ hơn người tài nhổ núi,7)
Mà xác thành tro dưới cỏ đồng.
1.
Tức Hạng Tịch, người đất Nhị Thế đời Tần.
2.
Nghĩa đen là mắt có hai con ngươi. Theo sử ký Tư Mã Thiên, Hạng Vũ là người
tướng mạo dị thường, mắt có hai con ngươi.
3.
Chỉ việc con Tần Thủy Hoàng là Tần Tử Anh đã đầu hàng rồi mà Hạng Vũ vẫn giết.
4.
Khi Lưu Bang và Hạng Vũ cất quân đánh Tần, vua Sở có giao hẹn là hễ ai tiến
vào cửa ải nhà Tần trước, người ấy sẽ làm vua. Kết quả Lưu Bang đến trước nhưng
lại bị Hạng Vũ đem quân đánh để giành ngôi.
5.
Thuộc huyện Linh Bích, tỉnh An Huy, Trung Quốc, là nơi Hạng Vũ bị Lưu Bang vây
hãm.
6.
Chỉ đất Sở cũ, thuộc hạ lưu sông Trường Giang.
7.
Lấy ý từ câu hát tuyệt mệnh của Hạng Vũ khi bị vây ở Cai Hạ.
279.
Đi kinh lý trong quận
Đậu thuyền bến đá ngược dòng sông.
Đón sứ thần lên, người rất đông.
Lô Thủy, Thao Giang dân tụ họp.
Văn Lang, 1) Thục Quốc 2) sử ghi công.
Nay nước nhà yên, dân một mối,
Dẫu đang lắm chuyện chửa xuôi dòng.
Ta vâng mệnh vua đi kinh lý,
Dẹp loạn, trừ gian vì việc công.
(1) Tên nước ta vào thời Hùng Vương.
(2) Tức Thục An Dương vương.
280.
Đi tuần ở châu Chân Đăng1)
Đất trời tạo dựng Tam Giang 2) lộ.
Chưa thấy ở đâu đẹp thế này.
Cổ lũy bao quanh trăm tộc thượng.
Chân Đăng to lớn phía miền tây.
Đá như tường chắn, ao làm lũy.
Nhà chòi ngất ngưởng tít trên cây.
Muốn lên Côn Luân thăm Huyền Phố,3)
Cưỡi mây, đạp gió tựa chim bay.
1.
Châu Chân Đăng, gồm lộ Quí Hòa và có lẽ cả lộ Tuyên Hóa đời Trần.
2.
Tức trấn Tam Giang nằm giữa sông Hồng,
sông Đà và sông Lô.
3.
Có hai cách hiểu. Một: Côn Luân, tên một dãy núi lớn ở Trung Quốc, tương
truyền ở đây có đỉnh Huyền Phố là nơi ở của thần tiên. Hai: Tức Loa Thành ở xã
Cổ Loa, Đông Anh, kinh đô của An Dương vương. Người nhà Đường gọi nơi này là
Côn Luân.
281.
Lên núi Thiên Kỳ,1) đề
thơ lưu niệm
Sông núi Đông Triều tựa cõi tiên.
Chẳng toan ở ẩn, bởi vua hiền.
Nay về thăm lại đồng xanh lúa.
Núi rồng mây phủ khó leo lên.
Lối trúc đường hoa toàn đá đẹp.
Nhà bên dòng nước, gió ngoài hiên.
Đây nơi tiên đế xưa du thưởng.
Xuân đến thường buồn, chẳng ngẫu nhiên.
1.
Tên núi ở Đông Triều.
282. Thơ đề ở động Bảo Phúc, huyện Hiệp Sơn
Được buổi đi chơi, rỗi việc công.
Động nằm sát biển, nước xanh trong.
Tử Phủ, Thanh Đô,1) kia, trên nước.
Núi ẩn trong mây xốp bập bồng.
Thu đến, Bạch Đằng thêm sinh khí.
Kỳ quan vũ trụ hiện đằng đông.
Ướm hỏi Cát Tiên 2) xem có thể
Cho ta một nửa núi này không?
1.
Nơi ở của Thiên Đế.
2.
Tức Cát Hồng, một đạo sĩ nổi tiếng đời Tần.
283.
Thơ đề núi Hoa Nham, Đông Triều
Như đóa hoa sen vút chọc trời,
Trấn giữ nghìn năm sát biển khơi.
Mây như cung điện tài điêu khắc,
Chùa tựa bình phong hoa thắm tươi.
Bắc phương - Vạn Kiếp như dương kích.
Xuân Thủy nam phương mộc sáng ngời.
Chống gậy chiều chiều lên ngắm cảnh.
Tinh hoa sông núi thấm vào người.
284.
Họa thơ "Đề trạm Nhị Hà" của sứ thần nhà Minh
Bài
một
Ao Chấn Tân soi, thấy mặt gầy.
Tay áo phất phơ trước gió bay.
Chiều xế, núi in hình xuống nước.
Ba sông cuồn cuộn đổ về đây.
Vạn dặm ruổi rong, đầu bạc trắng.
Làm quan, nhẩm tính, đã lâu ngày.
Lòng vẫn nhớ quê, hồn chợt hứng,
Khi đọc thơ ngài thấy tứ hay.
285.
Họa thơ "Đề trạm Nhị Hà" của sứ thần nhà Minh
Bài hai
Nước bạc từng ô, sáng giữa đồng.
Chiều thu, chống gậy bước thong dong.
Dập dờn trăng nổi sông Ngân Hán, 1)
Sông Nhị 2) hoàng hôn thoáng bóng rồng.
Nét chữ ngài đanh như thép bạc.
Mềm mại câu thơ tựa ráng hồng.
Trong trạm sứ thần thường rảnh rỗi,
Kể nhiều chuyện lạ khắp tây đông.
(1)
S«ng Ng©n Hµ.
(2) S«ng Hång ngµy nay.
286.
Đi chơi trên núi
Bài một
Mây tạnh, trời quang, lòng thảnh thơi.
Lên núi chiều thu dạo, nghỉ ngơi.
Bóng tùng cổ kính che tầm mắt.
Lững lờ suối lạnh cá đang bơi.
Đồng Long 1)
cuồn cuộn xuôi ra biển.
Hương Tượng 2)
núi cao đến chạm trời.
Cùng bạn đồng liêu vui ngắm cảnh.
Phủi rêu trên đá, viết thơ chơi.
1. Cã
lÏ ®©y lµ mét cöa biÓn ë NghÖ An.
2.
Tªn nói thuéc huyÖn PhØ Léc, nay lµ Can Léc, Hµ TÜnh.
287.
Đi chơi trên núi
Bài hai
Vốn vẫn thích châu hẻo lánh này.
Cùng nhau cưỡi ngựa dạo hôm nay.
Quan chức ở đời như hạt cát,
Mà việc như sông chảy suốt ngày.
Sống mãi kinh thành giờ bạc tóc.
Trên núi nhà tranh sách chứa đầy.
Những muốn xin vua, vua có hiểu,
Cho về ở ẩn giữa rừng cây?
LÊ QUÁT
Không rõ năm sinh, năm
mất, tự là Bá Quát, người huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, từng làm tới Thượng thư
Hữu bật nhập nội hành khiển. Học trò xuất sắc của Chu Văn An; còn lưu được 7
bài thơ.
288.
Tiễn Phạm Sư Mạnh đi sứ phương Bắc
Vượt mười hai ải, mấy dặm ngàn.
Mong người và ngựa được bình an.
Sứ Bắc, bác đi, tôi ở lại.
Kẻ được công danh, kẻ được nhàn.
289. Nỗi lòng
Bài một
Việc nhiều mà ốm, hóa ra nhàn,
Được ngồi yên tĩnh ngắm nhân gian.
Song Mai 1) gió thổi, màu hoa cúc
Ánh vàng lên tận mép lan can.
(1) CÇu Song Mai - chưa râ ë ®©u.
290.
Nỗi lòng
Bài hai
Đã mấy năm nay chán sự đời,
Nhớ nhà, buồn đọc Thức Vi 1) chơi.
Trời lạnh, giật mình, năm sắp hết.
Trong mưa gió thổi, cánh lan rơi.
(1) Tªn mét bµi th¬ trong Quèc Phong, Thi Kinh, nãi vÒ t©m tr¹ng nguêi
lưu l¹c
muèn trë vÒ quª hư¬ng
TRẦN NGUYÊN ĐÁN
Sinh năm 1325, mất 1390,
hiệu là Băng Hồ, quê lộ Thiên Trường, nay là Ninh Bình, là cháu tằng tôn của
Trần Quang Khải, và là ngoại tổ Nguyễn Trãi. Ông được bổ nhiệm làm quan rất
sớm, tới chức Tư đồ phụ chính. Cuối đời về ở ẩn tại núi Côn Sơn. Hiện còn lưu
được 51 bài thơ.
291. Thơ đề quán Huyền
Thiên
Bay lên trời đã khó.
Giúp vua hiền khó hơn.
Sáu chục năm vất vả,
Giờ ngẫm mình thấy buồn.
292. Viết vào tháng Giêng
năm Mậu Thân
Tóc bạc ba phần lòng vẫn trung.
Ngán nỗi việc đời cứ rối tung.
Ngẫm thẹn không bằng Tiên Nhược Thủy 1)
Bốn mươi, sống ẩn dưới cây tùng.
1. Danh sĩ người đời Tống.
293.
Kính họa vần thơ "Hoàng mai tức sự" của nhà vua
Năm tháng trôi qua, tóc bạc dần.
Tùng trúc ngoài vườn diễu đạo nhân.
Tể tướng bây giờ không quá bận,
Nhìn bóng cây đang nhích lại gần.
294.
Thơ làm vào tháng Giêng, năm Mậu Thân (1368)
Ba phần tóc bạc, chốn nhân gian,
Sự đời đang rối, khó an nhàn.
Chỉ tiếc không như Tiền Nhược Thủy, 1)
Tuổi đời bốn chục đã từ quan.
(1) Ngưêi ®êi Tèng, lµm quan ®Õn chøc §ång tri
khu mËt vµ xin tõ chøc n¨m 40 tuæi.
295.
Thơ làm trong đêm, đi thuyền về
Đất Biện phương đông, bắc - đất Yên, 1)
Dân thường bị giết, đói triền miên.
Mượn ánh đèn chài xem sách cổ.
Làm sao yên giấc ngủ trên thuyền?
(1) Tøc Yªn Kinh, nay lµ thµnh phè B¾c Kinh, BiÖn - tøc BiÖn Kinh,
nay lµ thµnh phè Khai Phong. §©y lµ hai kinh ®« ®êi Tèng.
296.
Thơ làm lúc đêm khuya
Đêm thu, gió lạnh thổi ngoài sân.
Hiu hắt đèn khuya lụi tắt dần.
Đôi chút ngâm nga lòng tĩnh lại.
Ngủ đi là hết nợ duyên trần.
297Đêm
không ngủ
Trong phủ thu buồn, chậm khắc canh.
Vườn cũ cây tùng vẫn biếc xanh.
Bao việc đang chờ, toàn việc gấp.
Thà bệnh còn hơn lúc bệnh lành.
298.
Thơ làm vào tháng Sáu năm Nhâm Dần (1362)
Hè hạn, bây giờ thu ngập úng.
Lúa khô, mạ thối, khổ muôn phần.
Đọc nghìn cuốn sách mà vô dụng.
Bạc đầu còn nợ nỗi thương dân.
299.
Tháng Chín, ngắm hoa cúc, họa bài thơ của vua
Hoa nở khắp nơi, rợp cấm thành, 1)
Đang mùa cúc đẹp tiết thu hanh.
Nhị ngọc ngậm sương đêm trĩu nặng.
Bông hoa nhuộm nắng rực trên cành.
Mừng tiết cuối thu trời thật đẹp,
Chớ phụ lời thề xưa yến oanh.
Nhà nghèo nhưng chẳng tham tiền bạc.
Sử còn nhắc mãi chuyện đồng tanh. 2)
(1) Thành vua ở.
(2) Theo sách Hậu Hán thư, Thôi Liệt vì có năm trăm đồng mà mua được chức Tư đồ. Từ đó có câu
"hơi đồng tanh" để chỉ việc mua quan bán tước.
300. Tức cảnh khi ở trên
núi
Mười năm quan các, phụ thư phòng.
Giờ hưu, chống gậy dạo rừng thông.
Khách tục không còn ai thỉnh giáo.
Hỏi thơ tỉnh thoảng có sư ông.
Thẹn mình không được như Bùi Độ.
Bắt chước Thanh Miêu cũng chẳng xong.
Cứ ngồi mà đợi điều mong ước,
Chắc nắm xương khô đã trắng đồng.
301.
Họa vần bài thơ "Thu hoài" của vua
Soi gương - việc nước khiến mau già.
Nhìn giấy đau đầu, chẳng thiết tha.
Đất nước thanh bình, trời đã tạnh.
Gió thổi trên lầu tựa sáo ca.
Sách nhiều như biển mà ngán đọc.
Tỉnh rượu, việc nhiều mới nhớ ra.
Ngoài ải Tiêu Quan 1) giờ tĩnh lặng.
Thanh đao chớm gỉ, gác trong nhà.
(1) Một ải quan trọng ở huyện Cố Nguyên, tỉnh Cam Túc.
302.
Cảm xúc đêm ba mươi tháng Chín
Song thưa nửa khép, đọng hương hoa.
Sông Ngân không sáng, ánh trăng tà.
Nấu cháo, trong niêu thơm gạo mới.
Lư cũ hương xông, đợi ngấm trà.
Sắc thu nghìn lạng không mua nổi.
Thời gian nhàn phí cứ trôi qua.
Cúc tàn, mai nở, mang ân mới.
Đèn đỏ, sách vàng, ấy nghiệp ta.
303.
Đỉnh Phượng Hoàng ở núi Chí Linh
Đỉnh cao Song Phượng vút trời xanh.
Núi Phượng Hoàng xưa vốn nổi danh.
Tháp ở Lân Phong soi bóng nước.
Suối bên Miết Thủy chảy yên lành.
Bậc đá cheo leo rêu phủ kín.
Sau mưa cầu gẫy, mốc lên nhanh.
Gió thổi, thông reo vang giữa núi.
Như phượng bay về tấu cửu thanh 1)
(1) Tức chín khúc nhạc thiều của vua Thuấn. Tương truyền mỗi lúc
cử nhạc đều có chim phượng bay đến.
304.
Tháp Bảo Nghiêm
Chín tầng vững chắc, đẹp như tranh,
Nơi thiêng hương khói Phật lòng lành.
Ban đêm gió thổi, buồn tiếng mõ.
Giữa ngày nắng dọi, nước long lanh.
Na xá 3) nghiêng nghiêng cây bút trắng.
Tăm Ma 4) yên vị chiếc trâm xanh.
Ai đem thất bảo tô lên tháp,
Công phu chạm trổ, khổ dân lành.
(3) (4) Chỉ nơi tu hành của nhà Phật, chưa rõ ở đâu.
305.
Mưa nhỏ
Mưa núi đầu xuân, ngày lại ngày,
Từ núi chui ra những đụn mây.
Mặt trời khi tối, khi sang sáng.
Màn mưa khi mỏng lại khi dày.
Khóm trúc cài trâm, mai ngậm nụ.
Để báo tiết trời luôn đổi thay.
Hương cháy trong lò tàn mấy lượt,
Mà ông hàng xóm vẫn đang cày.
Trong
núi ngẫu nhiên làm thơ
Ngựa béo không màng, chán áo lông. 1)
Thích về ở ẩn giữa rừng thông.
Gió thổi, ngồi yên nghe tiếng lá,
Đưa mắt về tây ngắm ráng hồng.
Mắt xanh, 2) chủ
tiếp người xanh tóc. 3)
Áo trắng 4) khách chờ có rượu không.
Đừng học Khuất Nguyên mà tự vẫn.
Ai tỉnh, ai say tự ở lòng.
1. Chỉ sự giàu
sang.
(2) Tương truyền Nguyễn Tịch đời nhà Tấn khi gặp bạn tri kỷ thì
mắt xanh lên, và trở nên trắng khi nhìn kẻ xấu.
(3) Chỉ người trẻ tuổi.
(4) Đào Tiềm người đời Tấn thích uống rượu và chơi hoa cúc. Một
lần không có rượu uống, ông đang hỏi hoa cúc thì bỗng có bạn là Vương Hoằng
mặc áo trắng đến chơi. Tác giả dùng điển tích này để nói về cảnh thú của người
ở ẩn.
305.
Tháng Chín, có người đến thăm, cùng làm thơ
Đầy tớ rung chuông báo có người.
Mừng được khách văn chợt ghé chơi.
Vườn đầy hoa đẹp, tha hồ ngắm.
Yên tĩnh cùng ngồi nghe lá rơi.
Đai rộng, áo chùng, già hợp cảnh,
Bốn ngựa, xe cao, tỉnh mộng đời.
Một chén gượng say, mình được gặp,
Ngại gì lau sậy có sương rơi.
306.
Mừng Chu Tiểu Ân 1) được bổ chức
tư
nghiệp ở trường Quốc tử giám
Việc học từ giờ chắc đổi thay.
Trường lớn ân vua đã có thầy.
Đức tựa Thái Sơn, kinh sử thạo.
Kính Lão, sùng Nho, chính sự hay.
Trẻ già cùng tắm sông Nghi Thủy, 2)
Ngày ông giày cỏ trở về đây.
Nghiêu Thuấn rũ xiêm mà trị nước,
Nhờ được Sào, Do3) giúp một tay.
(1) Tức Chu Văn An.
(2) Một con sông ở tỉnh Sơn Đông, quê của Khổng Tử.
3) Tức Sào Phủ và Hứa Do, hai ẩn sĩ đời Nghiêu Thuấn.
307.
Ngày thu
Bên sông, nhà lá, cỏ đầy sân.
Mùa thu, vườn nhỏ hứng vô ngần.
Mai nở, cúc đưa hương đệ tử.
Thông xanh, trúc mảnh giống công thần.
Cây rộn gió reo, lòng tĩnh lặng.
Đường dài, đất rộng chẳng chùn chân.
Phía tây cảnh sắc giờ thay đổi.
Vấn vương cá vược với rau thuần. 1)
(1) Tương truyền Trương Hàn người đời Tấn nhớ mùi vị canh rau
thuần và chả cá vược ở quê mà từ quan về nhà.
307.
Đề nhà quan diệu của Đạo Lục
Thái
Cực 1) ở Nguyệt Giản
Xe ngựa nhà ai chạy lối bên?
Thử đem điều ấy hỏi tầng trên.
Xuân hết, đào lê hương cũng hết.
Thu qua, thông cúc vẫn còn nguyên.
Sống chết lòng son này vẫn thế.
Mấy lần chim hạc trắng thành đen.2)
Doanh Châu, Bồng Đảo3) đâu không biết,
Nhưng rũ bụi trần, ta giống tiên.
1) Chưa rõ là ai.
(2) Theo sách Cổ Kim chú, chim hạc sống đến nghìn năm sẽ hóa thành
màu xanh, sống hai nghìn năm nữa lại hóa màu đen.
(3) Các địa danh nơi ở của thần tiên ở biển Bột Hải.
308.
Tuổi già đến
Những muốn về già được lãng quên.
Áo mũ chầu vua mãi cũng phiền.
Thu hết, cá tôm nương biển cả.1)
Già vui con cháu cảnh bên đèn.
Mắt kém, ban ngày lười đọc sách.
Rượu buồn, đêm ngủ giấc không yên.
Ngũ Lăng2)
ngày trước không màng tới.
Đêm mơ tiếng nỏ bắn không tên.3)
(1) Ngoài biển, vào dịp cuối thu là lúc sóng yên nước lặng, tôm cá
thường ra biển vào thời gian này để kiếm ăn. Ở đây tác giả ví mình muốn ở ẩn
lúc về già.
2) Năm tên đất ở Trung quốc, là An Lăng, Trường Lăng, Dương
Lăng, Miếu Lăng và Bình Lăng.
(3) Ý nói về già sức yếu, như nỏ không tên, chẳng được tích sự gì.
309.
Tiễn Long Nham1) về Diễn Châu2)
Bạc đầu còn bận việc trong kinh,
Để vắng bờ sông, nước dập dình.
Tôi vẫn làm quan nơi Bách phủ, 3)
Mà ông trở lại chốn Lai đình. 4)
Mắt xanh nhìn nhau cùng lưu luyến.
Núi biếc hồn thơ thật hữu tình.
Đi đi, đừng sợ nhiều mưa gió.
Tùng bách vườn xưa chẳng hại mình.
(1) Chưa rõ nguời nào.
(2) Phủ Diễn Châu, phía bắc Nghệ An, nay là huyện Diễn Châu.
(3) Đời nhà Hán thường trồng cây bách bên tòa Ngự sử, nên tòa này
thường được gọi là Bách phủ.
(4) Ngày xưa ở Trung quốc có nguời tên là Lão Lai Tử rất mực hiếu
thảo. Tương truyền đã bảy mươi tuổi, hàng ngày ông còn mặc áo hoa năm sắc, múa
trước sân như trẻ con, thỉnh thoảng lại ngã xoài giả vờ khóc để cha mẹ bật
cười vui vẻ. Sau này chữ Lai Đình được dùng để chỉ việc ở nhà còn bố mẹ già,
có khi để chỉ nguười con hiếu thảo.
310.
Hoa cúc đỏ
Chớm thu, người bệnh bớt ưu sầu.
Trời trong, mây trắng đuổi vờn nhau.
Rượu thơm Bành Trạch 1) đầy ly ngọc.
Suối mát Nam Dương 2) biếc một màu.
Hương thơm sắc đẹp, hoa này hiếm.
Cuối mùa, khí phách vẫn bền lâu.
Say rượu, hoa không làm đỏ mặt,
Trời đẹp, lẽ nào không tiếp nhau!
(1) Đào Tiềm người nước Tấn, quê ở Bành Trạch. Ông thích rượu và
hoa cúc, vì vậy các nhà thơ xưa thường dùng từ rượu Bành Trạch, chỉ rượu
ngon.
(2) Tên đất thuộc tỉnh Hà Nam có suối Cúc Đàm chảy qua, tương
truyền ai uống sẽ sống lâu.
311.
Trong núi, cảm hứng
Mười năm chính sự, ngọn đèn mờ. 1)
Chống gậy vừa đi vừa nghĩ thơ.
Chỉ có vị sư sang hỏi chữ.
Không ai thăm viếng, chẳng ai chờ.
Cấp phát Thanh miêu 2) e chẳng dám.
Lui về Lục Dã 3) chỉ trong mơ.
Đợi đến công thành, danh được toại,
E xương bạc trắng tự bao giờ.
(1) Chỉ tuổi già.
(2) Vương An Thạch đời nhà Tống thi hành
"Thanh miêu pháp", theo đó, nhà nuớc cho dân vay tiền lúc mạ còn
xanh, lúc lúa chín sẽ trả cả gốc và lãi.
(3) Tên biệt thự lúc về hưu của Bùi Độ, người đời Đường.
312.
Cảm xúc khi ở trong quân
Tay bút, tay gươm luôn đó đây.
Ra đi thấm thoắt đã trăm ngày.
Đất khách buồn nghe gà gáy sáng.
Dục về chim cuốc gọi đâu đây.
Mặc công danh đợi, còn chưa muộn.
Bạn bè phiêu bạt tựa làn mây.
Biển rộng, trời cao, nhàn tản quá.
Sóng yên, gió lặng, cánh chim bay.
313.
Dùng vần thơ của quan thiếu bảo Trương
Công 1), đề chùa Đại Minh ở núi
Phả Lại
Buổi loạn, thời gian trôi rất nhanh.
Gió thổi buồm căng cuộc dạo quanh.
Như cá kình kêu, chuông vọng núi.
Tháp nhô tựa kiếm chọc trời xanh.
Biên ải trăng soi, lòng khách chạnh.
Chùa xưa mưa nhỏ, khói yên lành.
Sự nghiệp bình Hoài 2) ghi vách núi.
Cúi soi xuống nước, tóc còn xanh.
(1) Chưa rõ là ai.
(2) Bùi Độ người đời Đường dẹp yên loạn lạc ở đất Hoài Thái, được
nhà vua sai Hàn Dũ làm bài Bình Hoài bi ký để ca ngợi.
314. Mùa thu, thả thuyền ra chơi ở Đông
Triều
Đầu
bạc hai ông, lại yếu già,
Chơi
thuyền, uống rượu, nước bao la.
Thủy
triều đang rút, ngăn dòng chảy.
Một
cánh chim bay giữa nắng tà.
Cảnh đẹp
mà buồn vì thế sự,
Nhiều
nỗi thăng trầm, nghĩ xót xa.
Mịch
La, Xích Bích 1) toàn chuyện cũ,
Sớm
muộn lại về với núi hoa.
1.
Mịch La là tên con sông ở Hồ Nam, nơi Khuất Nguyên trầm mình tự tử. Xích Bích, đoạn
sông Trường Giang chảy qua huyện Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc, nơi xẩy ra trận thủy
chiến giữa Chu Du và Tào Tháo. Tào Tháo đại bại.
315.
Ngẫu hứng đề thơ
Vốn thường vẫn biết có là không.
Có không, không có ở trong lòng.
Mọi cái ở đời đều có lý.
Xuân về đâu cũng có xuân phong.
Trà đặc, rượu ngon mời khách quý.
Trúc thẳng, mai gầy bạn lão ông.
Rỗi việc, soi gương mà luống thẹn.
Ốm già vẫn bám chức tam công
1)
(1) Ba chức lớn trong triều là Thái uý, Tư đồ và Tư không. Tác giả lúc này giữ chức Tư đồ.
316.
Đề sau tập thơ quan Lỗ Bạ 1)
Công danh, tài đức vượt Hy, Hiên 2).
Dân vui, nước thịnh, lắm người hiền.
Các quan văn võ đều hay chữ.
Thơ phú say mê cả thợ thuyền.
Ngang dọc đất trời lòng đã quyết.
Đánh Nam dẹp Bắc cứ triền miên.
Hết khảo thư văn, xem luyện võ.
Bao giờ bác được phút ngồi yên?
(1) Chưa rõ là ai.
(2) Tức Hiên Viên và Phục Hy, hai ông vua trong thần thoại Trung
Quốc.
317.
Thơ đề nơi chỗ ở cũ của Sùng Hư 1)
Áo quan tạm cởi để cùng ông
Gậy lê, giày cỏ dạo trên đồng.
Trước hiên mây tụ, trăng kề cửa.
Suối reo róc rách, trời xanh trong.
Tạm đóng cửa huyền vào cửa tĩnh.
Ở đời có sống cũng như không.
Được gặp sư huynh dù đã muộn,
Nhưng vẫn bao la sáng cõi lòng.
(1) Chưa rõ là ai.
318.
Gửi tặng quan Kiểm chính
Nguyễn
Ưng Long ở Nhị Khê 1)
Lạnh lẽo mưa phùn lẫn gió sương.
Quán trọ đìu hiu, khách vấn vương.
Bên dậu, cúc già còn giữ tiết.
Bờ khe, mai trắng nức mùi hương.
Rợ Hồ chưa đến Hoa Môn ải, 2)
Bùi Độ lăm le Lục Dã đường. 3)
Trăng non sao vội cày mây sớm,
Chức Tử vi lang 4) mở rộng đường.
(1) Tức Nguyễn Phi Khanh.
(2) Một cửa ải ở phía bắc Trung Quốc.
(3) Tên ngôi nhà lúc về hưu của Bùi Độ,
nhân vật nổi tiếng đời Đường.
(4) Chức quan ở tòa Tử vi sảnh đời Đường. Tác giả muốn nói tài
Nguyễn Phi Khanh đáng được giao chức trọng.
319. Họa vần bài thơ "Tân bình thư
sự" của
Phạm Sư Mạnh, quan An phủ
sứ, trấn Tân Bình
Chí sĩ đâu nề vượt biển xa,
Với cả lòng mình, cất tiếng ca.
Dầm mưa, gội nắng đền minh chúa.
Hang hùm, ổ rắn diệt trừ ma.
Nhật nguyệt đầy vơi, trông dễ thấy.
Người đời tốt xấu khó nhìn ra.
Từ lâu hẹn gặp nơi xa cách,
Ngâm trọn "Đình Vân" 1) trăng xế tà.
1) Một bài thơ tả nỗi nhớ bạn của Đào Tiềm, người đời Tấn.
320.
Tặng tiến sĩ
Khoa thi vua mở, chọn người hiền,
Mong ngày chim phượng vụt bay lên.
Ngựa ruổi đường hoa, quần áo gấm.
Bảng vàng trước cổng có ghi tên.
Ta yếu, già nua, về Lục Dã, 1)
Xin nhường lớp trẻ dịp thăng thiên.
Mong chẳng bao lâu dân được nghỉ.
Biên thùy hết giặc, nước bình yên.
1.
Chưa rõ ở đâu.
321. Họa vần bài thơ “Ban yến cho những người
đỗ tiến sĩ ở điện Quan Đức” của nhà vua
Ban mai, vườn cấm, bóng cây xiên.
Yến bày bát ngọc, lộc bề trên.
Các bậc đại khoa thơ xướng họa,
Mũ cài hoa ngự bậc danh hiền.
Ân cần huấn dụ, vua mong mỏi.
Vinh hoa, phú quí, mọi người khen.
Dẫu muốn chúc nhiều, không chúc hết,
Chúc cho đất nước được bình yên.
322. Tặng Chu Tiểu
Ẩn 1)
Từ lâu lòng nguội mộng công danh.
Giá sương, mai vẫn đẹp trên cành.
Mây trắng chồng cao, nhà khuất núi.
Ngựa đi mỏi mệt chốn kinh thành.
Trướng huệ bỏ không, chim oán giận 2).
Bánh xe buộc cỏ 3), cứu dân lành.
Nước đang còn thịnh, trời đang giúp,
Sao bác chịu già với núi xanh?
1.
Tức Chu Văn An.
2.
Bài Bắc Sơn di văn của Lý Hoa đời Tề có câu: “Huệ trường không hề dạ hạc oán”, nghĩa là trướng
huệ bỏ trống làm chim hạc ban đêm oán giận. Ở đây tác giả nói ngược lại, ý
khuyên Chu Văn An nên ra giúp nước.
3.
Bánh xe quấn cỏ bồ: Đời xưa các vua thường lấy cỏ quấn vào bánh xe để đón người
hiền tài. Xe đi êm tỏ ý kính trọng.
323. Họa vần thơ của
ông đồng tri phủ
hữu ty
Lê Mai Phương
Bác ngoại năm mươi, thế cũng già.
Việc đời đã trải, chán phù hoa.
Lạnh lùng sông Nhị, trăng thiên cổ.
Xóm vắng ngồi yên, ngắm bướm hoa.
Phúc họa đời mình không thiết nghĩ.
Chức nhỏ, buồn vui với nước nhà.
Chầu về, trà rượu xua lo lắng,
Dạy bầy con trẻ đọc ê a.
324. Dùng vần thơ
của quan đồng úy Hồng Châu
là Phạm
Công để đưa trình các quan đang chấm thi
Các ông vất vả, nghĩ mà thương.
Khó lòng sĩ tử dòm qua tường.
Không để chung chuồng gà với phượng.
Biết tìm từ đất đá hoa cương.
Có thêm Đồng Tử 1), hưng nhà Hán.
Lưu Phần 2) bỏ sót, yếu nhà Đường.
Đã có chiếu vua cho lấy rộng,
Nhưng trung phải xét trước văn chương.
1.
Tức Đổng Trọng Thư, một nhà nho lớn đời Hán Vũ Đế.
2.
Người đời nhà Đường, trong một khoa thi hương, Lưu Phần kịch liệt phê phán bọn
hoạn quan nên bị đánh hỏng.
325. Trên đường phủ Thanh
Hóa
Việc quân năm ngoái bắt qua đây.
Bây giờ lại đến,
sáng hôm nay.
Đang hạn, thấy mây đùn phía bắc.
Đang mùa sao Hỏa chạy về tây 1).
Tống Giang, sông hẹp, lơ thơ nước.
Đại Lợi 2), núi cao cỏ mọc dày.
Châu Ái bây giờ không giống trước.
Hỏi chuyện Đinh Lê ở đất này.
1.
Kinh Thi có câu: Thất nguyệt lưu hỏa, tức là Tháng Bảy sao Hỏa chạy về tây. Ở
đây tác giả dùng ý ấy để nói thời tiết đã sang tháng Bảy.
2. Tống Giang, Đại Lợi, các địa danh ở Thanh
Hóa.
TRẦN ĐÌNH THÂM
Không rõ năm sinh, năm
mất, hiệu là Hủ Phố, người huyện Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay, làm quan đến
chức Giám Tu Quốc sử, từng đi sứ sang Trung Quốc. Khi Hồ Qúy Ly lên ngôi, ông
giả điếc không ra làm quan. Hiện còn lại 2 bài thơ.
326. Thơ đề bức tranh tiễn biệt trên sông mùa thu
Trời tạnh, càng xanh cây bến sông.
Không ngừng sóng vỗ, nước càng trong.
Sầu hận xa nhau không nói hết.
Đành để trôi theo nước giữa dòng.
TRẦN CÔNG CỔNG
Không rõ năm sinh, năm
mất, người làng Phúc Đa, xã Thí Trú, huyện Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay, là
em ruột Trần Đình Thâm. Lưu được một bài thơ và một bài phú.
327.
Ngày xuân chơi chùa trên núi
Chiếc gậy đưa ta đến cửa thiền.
Đón người, hoa cỏ ngước nhìn lên.
Cỏ thơm, núi đẹp như tranh vẽ.
Cảnh chùa, cõi Phật thật bình yên.
TRẦN THUẤN DU
Chưa
rõ tiểu sử tác giả.
328. Chùa Bảo Sơn 1)
Chợt ghé thăm chùa nhân việc công.
Xin gửi lại đây một chút lòng.
Như giáo cọ nhau hai khóm trúc.
Như đoàn vệ sĩ, một hàng thông.
Mái uốn, thành rêu hàm ý cổ.
Hoa cỏ, chim trời cảnh núi sông.
Muốn đến An Dương thăm chốn cũ,
Mà nhìn chỉ thấy nước mênh mông.
(1) Chùa ở xã Đường Hào huyện Phù Ủng, nay thuộc tỉnh Hải Dương.
329.
Vịnh căn nhà đại ẩn ở phía tây thành
Bốn chục năm trời nghiệp với danh,
Được khen đại ẩn chốn đô thành.
Cho rượu, cho thơ, cho khách quý
Có hòn non bộ, cá, cây xanh.
Nhà nghèo không ngại, lòng thanh thản,
Chỉ mong chữ đạo giữ nguyên lành.
Đời chê ta vụng, không mưu chước?
Sống nhàn, hoa cỏ với chim oanh.
HỒ QUÝ LY
Người sáng lập nhà Hồ, sinh 1336, mất 1407, dời đô về Thanh Hóa,
đặt tên nước là Đại Ngu, tiến hành một loạt cải cách kinh tế, xã hội.
330.
Cảm hoài
Nhiều khi tưởng chết, vẫn nguyên lành.
Xa nhà, thổn thức suốt năm canh.
Quán Bắc ở lâu, đêm sợ mộng.
Ải Nam xa mãi, ngủ sao đành.
Cứu nước tài hèn, thua Lý Bật. 1)
Dời đô vụng kế, kém Bàn Canh. 2)
Chua xót bình vàng nay đã rạn.
Buồn đau chén ngọc vỡ tan tành.
(1) Một nhân vật đời Đường, từng làm tể tuớng, có tài trị nuớc
yên dân.
(2) Tên ông vua thứ 12 nhà Thuơng, quyết định dời đô đến đất Ân,
từ đó trở nên thịnh vượng. Ở đây Hồ Quý Ly lấy làm tiếc đã bỏ Thăng Long vào
xây dựng Tây Đô ở Thanh Hóa.
331. Trả lời người phương bắc hỏi
về phong tục nước An Nam
Nước An Nam, phong tục
Vốn rất tốt, rất thuần.
Lễ nhạc giống nhà Hán.
Giống nhà Đường áo quần.
Cá ngon, toàn vẩy nhỏ 1).
Rượu quí uống cả nhà.
Và cứ đầu năm mới
Đào mận đều ra hoa.
1. Trong bài phú Xích Bích của Tô Đông Pha có câu
“Cự khẩu tế lân trạng tự Tùng Giang chi lô”, nghĩa là cá miệng lớn, vẩy nhỏ,
giống như cá mè sông Tùng Giang. Ý nói loại cá ngon.
PHẠM NHÂN KHANH
Hiệu
Cổ Sơn, không rõ năm sinh, năm mất và quê quán, đỗ tiến sĩ vào đời Long Khánh
(1373 - 1377), từng đi sứ Trung Quốc, lúc về làm Giám tu quốc sử kiêm An phủ sứ
lộ Lạng Sơn. Có mười ba bài trong Toàn Việt thư lục.
332.
Thủ tuế 1)
Giã từ năm cũ, nốt đêm nay.
Không ngủ, đèn khêu đến rạng ngày.
"Tiễn nghèo", tục cũ giờ ôn lại,
Bắt chước người xưa, uống thật say.
Đông hết, trong vườn mai vẫn nở.
Sắp xuân, ngoài ngõ tuyết còn bay.
Nửa tỉnh, nửa không, trời hửng sáng,
Vừa khi viết hết tứ thơ này.
(1) Phong tục thời xưa, đêm 30 tết không ngủ.
333.
Chơi xuân
Mùa xuân, cưỡi ngựa dạo thong dong.
Mười dặm xung quanh một sắc hồng.
Lạc giữa thiên nhiên hoa nở rộ.
Tuyệt vời phong cảnh, thỏa mắt trông.
Chiều khách chơi xuân, gì cũng đẹp.
Khen cho tạo hóa khéo dày công.
Dừng ngựa, bâng quơ nhìn én lượn,
Bỗng dưng cảm thấy nhói trong lòng.
334.
Đêm thu
Giọt nước đồng hồ rơi suốt đêm.
Hơi thu ướt áo, thấm qua rèm.
Cỏ cây sương lạnh càng xơ xác.
Bốn phía đất trời thật tĩnh êm.
Bên sông, dãy núi mờ in bóng.
Con dế nỉ non khóc trước thềm.
Cảnh buồn như vậy, ai đôi lúc
Chẳng thoáng vu vơ thấy yếu mềm?
335.
Đêm thất tịch 1)
Ngưu Lang, Chức Nữ gặp đêm nay.
Lo bắc cầu trời, ô thước bay.
Khung cửi ngừng thoi, sương đã xuống,
Chờ lên xe gió vượt cầu mây.
Chỉ thoáng gặp nhau, rồi cách biệt.
Sang năm lại gặp, đúng nơi này.
Như níu giữ đêm đừng vội sáng,
Buồn buồn tiếng vượn hót đâu đây.
(1) §ªm mång b¶y th¸ng B¶y ©m lÞch, tư¬ng truyÒn lµ ®ªm Ngưu
Lang vµ Chøc N÷ ®ưîc gÆp nhau.
336.
Chữ nhạn 1)
Cuối thu rét ngọt, mưa lây rây.
Giữa trời giá lạnh nhạn đang bay.
Ngang dọc xếp hình thành các chữ,
Như tiễn bâng khuâng hết một ngày,
Như nửa bức thư nhờ cánh nhạn
Chuyển giùm theo gió giữa trời mây.
Giận mình không thể như Thương Hiệt, 2)
Nhạn viết chữ gì, nào có hay.
(1) Chim nh¹n xÕp thµnh hµng ngang däc bay trªn trêi, tr«ng như ch÷
viÕt.
(2) Tư¬ng truyÒn lµ quan viÕt sö cña Hoµng §Õ, ®· dùa vµo dÊu ch©n
chim nghÜ ra ch÷ viÕt Trung Quèc.
337.
Trúc non
Đầu vườn trồng khóm trúc ngà tơ
Để chờ năm mới bạn cùng thơ.
Gió thổi xạc xào rung tiếng ngọc.
Trăng rằm lốm đốm ánh vàng mơ.
Khí phách hiên ngang thân thẳng đứng.
Tấm lòng minh bạch chẳng mưu cơ.
Thấy trúc còn non, xin chớ lạ,
Rồi sẽ xanh cao, hãy cứ chờ.
338.
Tiễn quốc sư Lãm Sơn 1) về
núi
Xuống núi mấy ngày đã muốn lên,
Để lòng thanh thản với thiên nhiên,
Để uống trà thơm bên gốc bách,
Rửa chén hàng ngày trong suối tiên.
Ngâm vịnh thơ văn, tâm hướng đạo.
Điền viên vui thú, tấm lòng thiền.
Tiễn bác về rừng, mong phật pháp
Làm đời xanh tốt, nước bình yên.
(1) Chưa râ lµ ai.
CHU ĐƯỜNG ANH
Không rõ năm sinh, năm mất, hiệu là Liêu
Thủy. Không rõ cả quê quán, chỉ biết ông từng làm chức Chuyển vận sứ vào cuối
đời Trần. Tác phẩm còn lại gồm 2 bài thơ.
339.
Thơ đề tranh Đường Minh Hoàng tắm cho ngựa
Ngọc Hoa con ngựa được vua yêu,
Tắm, dắt vào cung giữa nắng chiều.
Giá vua thương người như thương ngựa,
Muôn dân chắc đỡ khổ hơn nhiều.
VŨ THẾ TRUNG
Không rõ ngày sinh, ngày
mất và quê quán, chỉ biết ông làm quan cuối đời Trần. Còn lại 4 bài thơ.
340.
Hoa lan trong núi
Hoa nở bên khe, mõm đá cao.
Hương thơm bay đến tận bờ rào.
Xuân đầy mây núi, mưa vừa tạnh.
Đốt quả thông già, đọc Ly Tao.
LƯU THƯỜNG
Sinh năm 1345, mất 1388,
chưa rõ quê quán. Theo sử chép thì vào năm 1388, do bị Hồ Quý Ly dèm pha, Trần
Nghệ Tông buộc Đế Nghiễn thắt cổ chết. Lưu Thường cùng Nguyễn Khoái và Nguyễn
Văn Nhi định cứu Đế Nghiễn, nhưng việc lộ, cả ba đều bị giết. Cũng năm ấy ông
viết bài thơ tuyệt mệnh này.
341. Thơ tuyệt mệnh
Mới tuổi bốn ba, đời đã tàn.
Trung nghĩa mà rồi bị giết oan.
Khi sống một lòng vì đại sự,
Thì nay phải chết, chẳng phàn nàn.
TRẦN QUAN
Không rõ năm sinh, năm mất
và quê quán, chỉ biết ông từng làm tới chức An Phủ sứ cuối đời Trần. Hiện chỉ
còn một bài thơ duy nhất này.
342.
Đề nơi quan xá
Hoàng Long, Chích Thợ 1) chìm trong sương.
Như khói, mây chiều nhẹ vấn vương.
Rỗi việc, lên thuyền xuôi ra biển.
Phía trước con chim trắng dẫn đường.
(1)
Tên địa dan ở Thanh Hóa..
LÊ LIÊM
Hiệu là Mai Hiên, sống vào
cuối đời Trần, chưa rõ ngày sinh, ngày mất và quê quán. Chỉ còn lại bài thơ này.
343.
Động Vũ Lâm 1)
Gió mưa nhè nhẹ, cỏ xanh đồng.
Hoa buồn soi bóng xuống dòng sông.
Người xưa đã khuất, giờ thong thả,
Nơi đây ta dạo, thảnh thơi lòng.
(1)
Ở Thanh Hóa, không rõ cụ thể nơi nào.
TẠ THIÊN HUÂN
Hiệu là Thoái Viên, làm
quan vào cuối đời Trần, tới chức Tả tham tư chính sự. Còn lưu được 14 bài thơ.
344.
Qua bến đò Phù Đổng 1)
Vung roi, ngựa sắt hý trên không.
Chuyện xưa theo nước chảy xuôi dòng.
Trăng sáng dửng dưng cùng thế cuộc,
Buồn buồn dẫn lối khách sang sông.
(1) Bến đò ở sông Đuống, nay
thuộc Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Đây là bài thơ đầu tiên được biết nhắc đến
sự tích Phù Đổng Thiên Vương.
345.
Tức sự
Chống gậy hàng ngày
dạo Thoái Viên.
Trong vườn hoa cỏ vẫn y nguyên.
Mỗi độ xuân sang như trẻ lại.
Cuối đời thêm gắn với thiên nhiên.
346.
Hoa lan
Một mình ngắm nguyệt xế lan can.
Dạo bước quanh vườn, bên khóm lan.
Đang lúc ngắm hoa, thơ chợt đến.
Ý thơ từ bút cứ tuôn tràn.
CHU
KHẮC NHƯỢNG
Không rõ năm sinh, năm mất, hiệu Vân Trai, người làng Sài Trang,
phủ Thương Hồng, đỗ tiến sĩ cuối đời Trần, làm quan đến chức Hộ bộ Tả thị lang.
347. Thơ đề chùa Vĩnh Hưng ở Sài Trang
Sài Trang cảnh đẹp như tiên giới,
Đông đúc xe người luôn lại qua.
Thật tiếc nhiều lần ta cũng đến,
Chưa lần nào thấy mộc lan hoa.
TRẦN NGẠC
Con của Trần Nghệ Tông,
không rõ năm sinh, mất năm 1391, được phong chức Thái úy Trang Định Vương, bị
Hồ Qúy Ly sai người hãm hại.
348.
Tặng Tư đồ Trần Nguyên Đán
Tôi thì tài hèn sức mọn.
Bác cũng không giỏi nhất đời.
Đều cùng già nua, ốm yếu.
Sao không về quê nghỉ ngơi?
PHẠM NHỮ DỰC
Không
rõ năm sinh, năm mất, tự Mạnh Thần, hiệu Bảo Khê, người làng Đa Dực (không rõ ở
đâu). Ông sống cùng thời với Nguyễn Phi Khanh. Đời Hồ Quí Ly làm giáo thụ huyện
Tân Sơn. Hiện còn 61 bài thơ trong Toàn Việt thi lục.
349.
Đàn hạnh 1)
Bao năm cây hạnh được vua trồng,
Đỡ rừng Nho Học vút trên không.2)
Gió văn khẽ thổi, hương thơm ngát,
Thấm mát mùa thơ khắp ruộng đồng.
Ban trưa lớp học cây che bóng.
Đêm khuya réo rắt nhạc trong phòng.
Trước sân gốc cối 3) còn nguyên đó,
Sáng ngời kim cổ khắp tây đông.
1) Tªn mét gß ®Êt trưíc
miÕu thê Khæng Tö ë S¬n §«ng, ®©y lµ nÒn trưêng
cò, n¬i Khæng Tö d¹y häc.
(2) ý nãi ®¹o Nho trưêng tån m·i m·i.
(3) Trưíc nhµ Khæng Tö cã trång gèc cèi (cèi tr¹ch) ngưêi
®êi sau thưêng dïng ch÷ "cèi tr¹ch" ®Ó ®èi víi "h¹nh
®µn".
350.
Nhà đọc sách ở Tú Giang
Sông Tú quanh thôn chảy lượn vòng.
Từ trên nhìn xuống, sát thư phòng.
Hoa mai, trang giấy, hồn người đọc
Hòa quyện trời xanh với nước trong.
Mũi ngà cài sách rung theo gió.
Nghiên mực mưa rơi, chảy mấy dòng.
Là chuyện thường tình, ai cũng hiểu:
Người ham đọc sách sẽ thành công.
351.
Chơi trăng trên cầu Tầm Mai 1)
Dòng nước xanh xanh sạch bụi trần.
Chiếc cầu nho nhỏ, khách chơi xuân.
Bên bờ bóng núi in mờ ảo.
Lộng lẫy Hằng Nga, đẹp bội phần.
Bóng cầu, bóng núi cùng đan quyện.
Trăng vàng trên sóng gợn lăn tăn.
Cảnh đẹp thế này ai vẽ được?
Thử dùng bút vẽ của thơ văn.
(1) Chưa rõ ở đâu.
352.
Thơ mừng dọn đến nhà mới
Lễ mừng nhà mới mới làm xong.
Tất cả gia tài - chiếc túi không.
Dưới trăng đàn mộc nằm bên gối.
Gương kề cửa sổ đón hương đồng.
Mượn lời Trương Lão khen không quá,1)
Vun trồng ân đức, giống Vu Công. 2)
Tân gia, được xếp hàng tân khách,
Mạn phép nôm na đọc mấy dòng.
(1) Trương Lão, tức Trương Mạnh, người đời Xuân Thu. Khi mới
quen Hiến Văn Tử, ông khen: "Mỹ tài luân yên! Mỹ tài hoán yên!" (Đẹp
thay đường kẻ! Đẹp thay mực thước!)
(2) Tức Vu Quốc Định, người đời Hán, rất công minh, liêm khiết.
Ông thường bảo thợ nề phải xây nhà lớn, tôn cao nền thì con cháu mới có ân
đức, hiển đạt.
353.
Gửi viên huyện thừa họ Quách 1)
Thấm thoắt chia tay đã khá lâu.
Chân trời, góc bể, nhớ thương nhau.
Gửi lời cho gió, lòng đau thắt.
Trong mộng nhớ nhung, thấm lệ sầu.
Tuổi già sức yếu đời không trọng,
Thì về ở ẩn, có sao đâu.
Hành tàng dụng xả 2) đều do số.
Bao giờ gặp lại, nói thêm sau.
(1) Chưa rõ là ai.
(2) S¸ch LuËn Ng÷ cã c©u: "Dung chi t¾c hµnh, x¶ chi t¾c
tµng", nghÜa lµ " Ngưêi ta dïng th× m×nh ra lµm,
ngưêi ta bá th× m×nh ë Èn"
354.
Gặp nhau ở đình bên ao sen
Tâm đầu ý hợp bấy lâu nay,
Xin uống vui chung cuộc gặp này.
Gió thổi, hương sen thơm dính áo.
Rượu hồng, hoa đỏ, sánh ngất ngây.
Toàn bậc Liêm Khê 1) và Dật Thiếu, 2)
Đủ mặt anh tài đang ở đây.
Chúng ta gặp mặt không vô cớ,
Vậy mời nâng chén, uống kỳ say.
(1) HiÖu cña Chu §«n Di, häc gi¶ ®êi Tèng, ngưêi
rÊt yªu hoa sen.
(2) Tù cña Vư¬ng Hy Chi, nhµ v¨n næi tiÕng ®êi nhµ TÊn.
355. Làm giáo thụ quận Tân An trọn ba
năm, dựng
được một nếp nhà tranh,
vừa làm xong thì gặp nạn binh hỏa, cảm vì việc ấy, ngẫu nhiên thành thơ
Làm quan giáo thụ mấy năm ròng,
Hết trọ nhà dân đến sở công.
Nhà lớn tất nhiên chưa dám nghĩ,
Vài gian nhà lá mới làm xong.
Chưa kịp nằm nghe mưa rả rích,
Thì ôi lửa cháy, thế là tong.
Cháy hết, bài thơ này sót lại.
Còn nhà, không lại vẫn hoàn không.
356. Ý xuân tức sự
Ngày nối tiếp ngày, hết tháng Ba.
Mùa xuân lộng lẫy cũng trôi qua.
Lơ thơ sót lại bông lau nhỏ,
Một tiếng chim kêu phía cuối nhà.
Mặt ao sương mỏng, xanh nhàn nhạt.
Khu vườn mưa tạnh, rộng thêm ra.
Đọc xong Chu Dịch, 1) lòng thanh thản,
Nghĩ thầm: Hay chẳng kém Nam Hoa. 2)
(1) Tương truyền Phục Hy bắt đầu vạch ra tám quẻ. Chu Văn Vương
nhân đó làm ra Chu Dịch.Vì thế Chu Dịch còn được gọi là Hy Kinh, tức sách của
Phục Hy.
(2) Một bộ sách của Trang Tử đời Chiến Quốc. Cũng còn gọi là sách
Trang Tử.
357.
Ông Lý Hạ Trai 1) tới thăm, làm bài thơ này đáp lại
Cuộc đời bèo bọt, có như không.
Vui sướng bất ngờ gặp lại ông.
Xa cách, nhiều lần mong Thúc Độ, 2)
Đêm nằm vẫn mộng thấy Chu Công. 3)
Bàn luận văn chương tình thêm nặng,
Hẹn nước, thề non giải nỗi lòng.
Bạn bè chỉ có thơ này tặng,
Hề gì Vị Bắc với Giang Đông. 4)
1) Tức Lý Tử Cấu (1400 - 1467), một sĩ phu có chí khí yêu nước,
không chịu ra làm quan cho giặc Minh.
(2)
Một danh sĩ đời Hán. Trần Phồn thường nói: "Chưa gặp được Hoàng Sinh
(tức Thúc Độ), thì tính biển lận vẫn còn"
(3) Nhà chính trị nổi tiếng nhà Chu. Khổng Tử nói: "Ta yếu lắm
rồi, đã lâu không nằm mơ thấy Chu Công".
(4) Đỗ Phủ nhớ Lý Bạch viết: "Cây mùa xuân ở Vị Bắc, Mây buổi
chiều ở Giang Đông", ý nói cách xa nhau.
358.
Cảnh vui thú nhà tranh
Ngoại thành, nhà lá một vài gian.
Người thưa, cây rậm, sống an nhàn.
Buổi tối ánh trăng vào sát cửa.
Ban ngày chim hót tận lan can.
Nhà ta ta ở, gì hơn thế?
Đọc sách, ngâm thơ, rượu uống tràn.
Đừng chê nhà lá, đời ô trọc,
Về nhà, buồn bực tự tiêu tan.
359.
Ở điếm Lô Hoa, 1) nghe
tiếng chày đập vải
Hoa lau nở trắng dọc bờ sông.
Một nếp nhà con, mấy khóm hồng.
Thuyền chài ai hát, khoan rồi nhặt.
Tiếng chày đập vải rộn thinh không.
Kẻ sĩ nằm nghe, thêm cảm hứng.
Chinh phụ buồn vui chẳng bận lòng.
Đang lúc nằm mơ đường sự nghiệp,
Gà gáy nhà bên, tỉnh giấc nồng.
(1) Chưa râ ë ®©u.
360.
Ngày lập xuân
Nắng hửng, sương tan, trời ấm dần.
Cày cấy xong rồi, đã lập xuân.
Dân làng đưa tiễn con trâu đất.
Trẻ đùa, chim én lượn ngoài sân.
Điều xấu, điều lành ai đoán trước?
Được mùa - mong muốn của nông dân.
Tôi, bác hôm nay mừng uống rượu,
Để báo quan trên, giống mọi lần.
361. Thơ đề trường học mới
Bốn bể bây giờ đã giống nhau,
Cho con học chữ, học từ đầu.
Lầu sách mới làm, cao chót vót.
Nhà giảng cao to, mát, sạch làu.
Trẻ mang áo mới, nhìn tươi tắn.
Rộn ràng viết chữ, đọc cùng nhau.
Chính ở nơi này lo khổ luyện,
Thành tài, xây dựng nước mai sau.
362. Làm thay người khác, mừng
viên bản quan họ Mạc sinh con trai
Chín chục ngày thu, mới bảy ngày.
Treo cung 1) vừa đúng sáng hôm nay.
Không khí vui tươi như suối chảy.
Tinh thần cao vút tựa trời mây.
Tiệc vui đủ khách cùng con cháu.
Ả đào múa hát đến là hay.
Ở đời gặp vui thì vui đã,
Hà tất chúc nhau dịp thế này.
1. Ngày xưa sinh con trai, người ta có tục treo cây cung lên bên
trái cửa.
363. Nhân phán quan họ Quách về kinh, tặng
mũ, đai, sách vở, làm bài thơ này để cảm
tạ
Năm trước đầu hè, mới tiễn ông,
Gặp lại bây giờ, thỏa ước mong.
Làm sứ, ông sang vùng Nam Lĩnh 1),
Tới cả Bắc Kinh 2), nhuốm bụi hồng.
Mừng ông phong độ như tiền bối.
Bình thường chuyện ấy, chuyện danh, công.
Tâm sự Bo diều sau hẵng nói,
Giờ nằm nghỉ đã, chuyện thong dong.
1. Tên chung chỉ vùng núi ở các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây,
Trung Quốc.
2. Nhà Minh có hai kinh đô là Bắc Kinh và Nam Kinh.
364. Giục châu Đông Triều nộp gỗ
Xây trường là việc lớn xưa nay,
Cội nguồn phong hóa, phải xây ngay.
Quan quận công tâm, lo trù tính,
Còn gỗ, các châu nộp đúng ngày.
Văn miếu 1) trong vùng nhiều cái lớn,
Nhưng nhiều cái dột, tường lung lay.
Hiện gỗ nhiều châu lo nộp đủ.
Sao gỗ châu ta chậm thế này?
1. Văn miếu ở đây tác giả dùng với nghĩa trường học.
365. Thơ vui làm khi bị sâu răng
Không gì khổ bằng khi răng đau.
Cái này cái khác cứ thay nhau.
Răng chưa kịp mở, hàm tê buốt.
Cả khi miệng móm, phải nhai rau.
Thân xác hom hem, trời bắt tội.
Ai bệnh như ta, bệnh đã lâu?
Chưa chết chỉ làm thằng Nguyên Nhưỡng 1).
Hà tất xin trời được sống lâu!
1. Nguyên Nhưỡng là một người đời Xuân Thu. Khi Khổng Tử đến
thăm, Nguyên Nhưỡng không giữ lễ, cứ ngồi chồm hỗm mà tiếp. Không Tử không bằng
lòng, nói: “Lúc bé không biết khiêm nhường, khi lớn sẽ không có gì khả thủ. Già
mà không chết, thật tai hại!”
366. Đêm ba mươi Tết, tránh giặc trong núi
Cùng đường, lánh nạn chốn rừng xanh.
Lại khi trời lạnh, áo mong manh.
Không rượu đồ tô 1) say đỡ rét.
Lính Hồ 2) dày đặc đóng xung quanh.
Phiêu bạt bao năm, nhà cách trở.
Giờ nhớ cháu con, nặng nghĩa tình.
Có vẻ lòng trời đang chán loạn:
Ra Giêng, dân chúng được yên lành?
1. Tên một loại rượu thuốc, người xưa hay uống vào dịp Tết để
trừ khí độc.
2. Ở đây chỉ quân Minh.
367. Gửi tri phủ họ Đào ở Tuyên Hóa 1)
Kinh đô vừa gặp, mới chia tay.
Mấy lần trong mộng thấy chim bay.
Tiết xuân, trời đẹp, mang điềm tốt.
Vắng người, tâm sự với ai đây?
Đầu khe, vó ngựa hằn trên cỏ.
Ao sen vàng võ mảnh trăng gầy.
Quân tử giúp người đang thiếu thốn 2).
Đạt nhân 3) chắc hiểu được tình này.
1. Nằm ở địa phận Hà Giang, Tuyên Quang và một phần Phú Thọ ngày
nay.
2. Sách Luận Ngữ của Khổng Tử có câu: “Quân tử chu cấp bất kế
phu”, nghĩa là người quân tử giúp đỡ kẻ khó.
3. Đạt nhân là người thông đạt, không câu nệ hình thức và vượt
lên trên phàm tục.
LÊ LỢI
Anh hùng dân tộc, sinh năm
1381, mất 1433, dấy binh khởi nghĩa ở Lam Sơn, chống giặc Minh trong mười năm,
giải phóng đất nước và lên ngôi vua, trị vì 6 năm, thọ 51 tuổi, được táng ở Hữu
Lăng, Lam Sơn, Thanh Hóa.
368. Thân chinh đi dẹp giặc ở châu Thái
Nguyên
Chỉnh
quân, không ngại vượt đường xa.
Mong
dân sơn cước sống yên hòa.
Vẫn
thế xưa nay phường phản nghịch
Đất
trời trừng trị, quyết không tha.
Ân
phúc cho ai trung, trọng nghĩa.
Tấm
thân khó giữ, kẻ gian tà.
Tín
trung với nước, lòng không đổi,
Tên
tuổi lưu danh với nước nhà.
369. Thân chinh đánh dẹp Diệu Cát Hãn 1) ở châu Phục Lễ
Giặc
kia đừng hòng thoát.
Dân
mong vua bao ngày.
Thời
nào cũng có phản
Sơn
cước yên từ nay.
Núi
sông liền một dải.
Nay
ta viết thơ này
Cho
khắc lên núi đá,
Trấn
giữ cả miền Tây.
1). Diêu Cát Hãn người dân tộc Thái vùng
Thập Châu, nay thuộc Sơn La, Lai Châu, Điện Biên. Sau khi Lê Lợi đánh đuổi quân
Minh, một số thủ lĩnh bộ tộc chưa quy hàng, trong đó có Diêu Cát Hãn.
370. Đánh dẹp Diệu Cát Hãn, trở về qua
đường đê Long Thủy
Sá gì
đường hiểm, sá gì công.
Già
cả nhưng ta chẳng nản lòng.
Dũng
khí xua tan mây, gió độc.
Lòng
sáng tràn đầy cả núi sông.
Cần
kế lâu dài lo xã tắc.
Liệu
phương chuẩn bị giữ biên phòng.
Nghe
đồn thác dữ ba trăm ngọn,
Nay
thấy trôi xuôi nước một dòng.
LÊ THÁI TÔNG
Sinh năm 1423, mất 1442, húy là Nguyên Long,
con trai thứ hai của Lê Lợi, bản chất thông minh nhưng ham chơi bời, lúc lên
làm vua mới 11 tuổi, ở ngôi được 9 năm, thọ 20 tuổi.
371. Thân chinh đi dẹp
giặc ở Võ Linh Hương 1)
Non xa giặc cỏ dám ra tay.
Làm nhọc đại binh đi mấy ngày.
Quân tướng chỉnh tề, luôn giữ lệnh.
Tiết trời ấm áp, lá xanh cây.
Vì dân, điếu phạt quân tàn bạo.
Xong việc binh đao, lo cấy cày.
Bờ cõi yên bình, trời lắng bụi,
Dân tình an lạc sống từ nay.
1). Có sách chép là Võ Hợp
Hương, tên một làng chưa rõ ở đâu, chắc ở vùng miền núi.
NGUYỄN PHI KHANH
Sinh năm 1356, mất 1429,
cha Nguyễn Trãi, tự Phi Khanh, hiệu Nhị Khê, người Chi Ngại, Phương Sơn, nay
thuộc huyện Chí Linh, Hải Hưng, xuất thân nghèo khổ, từng làm gia sư trong nhà
Trần Nguyên Đán, về sau lấy con gái ông ta; đỗ tiến sĩ năm 1374. Do xuất thân
bình dân nên không được làm quan, đến đời Hồ Quý Ly mới được trọng dụng. Khi
quân Minh đánh bại triều Hồ, ông cùng nhiều người khác bị bắt sang Trung Quốc
và chết ở đấy. Tác phẩm gồm "Nhị Khê thi tập", "Nguyễn Phi Khanh
thi văn tập", "Thanh hư động ký"...
372.
Trong thuyền, ngẫu hứng thành thơ
Bao năm lam chướng chốn quê người,
Nỗi nhớ quê nhà chẳng chút vơi.
Nay rũ bụi trần, già, thoát tục,
Nhìn sông, nhìn núi, lại nhìn trời.
373.
Tặng tiên sinh họ Phạm ở Đông Triều 1)
Như trong quán trọ sống cùng nhau,
Người đời ai sống
lẻ, bao lâu?
Nay bác đến đây, làm mấy chén,
Hơn nhận nghìn thư tận đẩu đâu.
(1)
Chưa rõ là ai, có thể là Phạm Nhân Khanh.
374.
Mưa đêm ở Hoàng Giang 1)
Mưa thu trên bến liễu
Rơi xuống mui
thuyền tre.
Đèn khi mờ khi tỏ.
Lòng ngổn ngang trăm bề.
(1)
Khúc sông Hồng chảy qua thành phố Nam Định.
375.
Tiếng chuông sớm ở Hóa Thành 1)
Tiếng chuông chùa thong thả
Vọng từ xa tới thuyền.
Sông mênh mông, trăng xế.
Trời sáng dần, nước
lên.
(3)
Mét ®¬n vÞ hµnh chÝnh thêi TrÇn, nay lµ vïng Nam §Þnh.
376.
Ở chùa Thiên Thánh Hựu Quốc, 1)
dậy sớm
Cảnh chùa thơ mộng tựa Bồng Lai.
Nhạc trời đêm ngủ vọng bên tai.
Sáng dậy, đầu xuân, lười, rỗi việc,
Nhìn hoa mới nở mép sân ngoài.
(1) Chưa râ ë ®©u.
377.
Đêm thu
Buồn mới, buồn xưa nào đã quên.
Nỗi lòng nam bắc ngủ không yên.
Thu đến mà lòng vương vấn mãi.
Trăng buồn đơn độc sáng ngoài hiên.
378.
Trung thu, ngắm trăng cảm hoài
Trung thu, lại vẫn sống phương xa.
Trăng thanh gió mát, buồn lòng ta.
Hứng thơ còn đó, vần chưa hết.
Ngong
ngóng Lầu Nam nỗi nhớ nhà.
379.
Trong thuyền, ở Thiên Trường 1)
Bài một
Triệu Khánh phía nam, vịnh - phía tây.
Theo suối, thuyền đi dưới bóng cây.
Gió xuân cái buồn không xua được,
Còn xui tiếng cuốc vọng về đây.
(1) Mét ®¬n vÞ hµnh chÝnh thêi TrÇn, nay lµ vïng Nam §Þnh.
380.
Trong thuyền, ở Thiên Trường
Bài hai
Nắng xuân, thuyền nhỏ giữa mênh mông.
Đêm vẫn còn mơ chốn gác hồng.
Phiêu bạt bốn năm, nhiều bệnh tật.
Chưa được về quê, buồn não lòng.
381. Ở quán xá miền sông Thao
Gió đông đưa nắng dọi lên hè.
Lá xanh, hoa đỏ,
sắc xuân khoe.
Đôi tiếng chim rừng kêu khắc khoải,
Cứ ngỡ như vườn thôn Nhị Khê.
382.
Giấc mơ xuân ở Đông Ngàn 1)
Sông Lô, xóm nhỏ phía bờ đông.
Nhà tối vì trời mưa bãi sông.
Đưa tiễn xuân đi, con chim cuốc
Chốc chốc lại kêu trong khóm hồng.
(1)
Nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
383.
Trong núi
Sau mưa, cây tỏa khói, trời chiều
Nhuộm hồng mây trắng lượn phiêu diêu.
Tỉnh dậy, không hay xuân sớm muộn.
Trong rừng có tiếng đỗ quyên kêu.
384.
Cảnh xuân ở xóm bên sông
Mùa xuân khắp xóm rợp cây xanh.
Một dòng suối nhỏ uốn quanh quanh.
Mưa tạnh, bờ đê vương khói nhạt.
Đỗ quyên vui hót
rộn trên cành.
385.
Thơ đề ở chùa Tiên Du 2)
Núi sông Thiên Đức - đế đô xưa.
Danh lam thắng cảnh đẹp như mơ.
Cõi tiên sao phải tìm đâu nhỉ?
Khắp nơi dấu tích vẫn chưa mờ.
(2)
Ở núi Tiên Du, nay thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh.
386. Chuông sớm ở Hóa Động
Tiếng
chuông chùa thong thả
Từ xa
vọng đến thuyền.
Sông
mênh mông, bàng bạc.
Trời
sáng, nước triều lên.
387.
Lánh giặc trong núi
Trong núi suốt ngày say, ngắm hoa.
Một mình đóng cửa, tránh can qua.
Hai năm loạn lạc mình lo chạy,
Để mẹ sáu mươi sống ở nhà.
Đất trời gió bụi ta nhàn nhã.
Lam chướng núi rừng dạ xót xa.
Canh cánh nỗi lòng, đêm khó ngủ.
Nhìn sao Ngưu Đẩu ngóng trời xa.
388.
Xem đánh cờ vây
Bên hiên, nhàn nhã thú thanh tao.
Hai vị chơi cờ đua thấp cao.
Thoạt nghe lách cách như mưa đá.
Mới nhìn ngang dọc tựa trăng sao.
Bên được, bên thua, tranh lấn đất.
Hàng dọc, hàng ngang cố vượt rào.
Mọi việc như cờ cần tính trước.
Chẳng ván nào chơi giống ván nào.
389.
Theo tướng công Băng Hồ 1)
đi
chơi sông Xuân Giang
Trời quang, mây sáng, cảnh thần tiên.
Hơn hẳn ngày xưa Thắng liễu xuyên 2)
Lục hồng, tần trắng, thơ cao hứng.
Quần áo lượt là thật có duyên.
Đừng nhắc thi nhân nơi Thái Thạch. 3)
Nghĩ tới Giang Nam 4) bậc sĩ hiền.
Tiếng mái chèo khua, khoan lại nhặt.
Người, gió, lời ca chung một thuyền.
(1)
Tức Trần Nguyên Đán.
(2) Một cảnh đẹp được nhắc đến trong thơ
Trình Minh Đạo đời Tống.
(3) Tên đất ở huyện Đương Đồ, tỉnh An
Huy, là nơi Lý Bạch lúc say thấy trăng liền vồ bắt.
(4)
Chỉ Trần Đăng, người Đông
Hán, một kẻ sĩ hồ hải nổi tiếng.
390.
Chiều thu, từ trên thành nhìn ra
Kinh thành tháng chín, lá vàng rơi.
Vệt nắng xiên ngang đọng giữa trời.
Chim hồng ly biệt bay theo gió.
Trăng xuyên kẻ lá, rụng tơi bời,
Trong bốn mùa, thu - thi hứng nhất.
Già lão buồn đau nhất kiếp người.
Trước cảnh điêu tàn sau chiến sự,
Trời lạnh vời trông, luống ngậm ngùi.
391.
Thú quê nhà
Quanh nhà rào nhọn tựa muôn chông.
Nhà nhỏ bên chùa, cạnh mé sông.
Mưa tạnh, ao chuôm ran tiếng ếch.
Én bay làm rụng cánh hoa hồng.
Nhàn nhã, vườn xuân vui uống rượu.
Đời đẹp, vô lo, kéo giấc nồng.
Tỉnh dậy, đi chơi cùng lũ trẻ.
Gặp ai cũng nói chuyện nhà nông.
392.
Chơi núi Phật Tích, đối diện
với
dòng sông, ngẫu hứng làm thơ
Nửa đời vướng bụi, phụ thiên nhiên.
Đến tận bây giờ chưa được yên.
Đời dẫu trăm năm mà nháy mắt.
Một phút vui chơi hơn núi tiền.
Cái thú hoa, sông, giờ chính ngọ,
Sông Nghi 1) gió
mát cảnh thần tiên.
Bên suối dừng chân tìm cảnh vắng.
Nhìn núi bâng khuâng nhớ thánh hiền.
(1) T¨ng §iÒm tõng nãi: "T¾m ë s«ng Nghi, høng giã ë ®µi Vò
Vu, ca vÞnh mµ vÒ..."
393.
Khiển hứng ngày thu
Đình hòe 1)
làm khách, phận chim hồng.
Tóc rối đầy sương, tựa cỏ bồng.
Gió thu lá rụng bay ngang mặt.
Mưa dầm, đóng cửa, mắt buồn trông.
Nóng lạnh ở đời tùy tay quạt.
Phiền muộn xui ta cạn chén nồng.
Bên song tỉnh giấc, trưa ngồi dậy,
Ngâm giảng thơ văn, dạy tiểu đồng.
(1) ChØ n¬i ë cña TÓ tưíng.
394.
Cái thú quê nhà
Sau loạn còn may sót mái nhà.
Trẻ thơ sáu tuổi đọc ê a.
Buổi trưa ngủ dậy, vườn im ắng.
Chim hót, đầy thềm phủ xác hoa.
Ngâm thơ, đọc sách, lòng thư thái.
Thân nhàn, tâm trí chẳng lo xa.
Không học người đời tham dục vọng,
Sống ẩn nơi này hợp ý ta.
395.
Đợt rét đầu xuân
Sương mù dày đặc, gió và mây.
Đợt rét đầu xuân đã mấy ngày.
Thương xuân, ủ rũ chim không hót.
Nước mưa như ngọc dính trên cây.
Thư phòng tĩnh mịch, tha hồ đọc.
Việc đời để đấy, ngủ kỳ say.
Mong ta có thể làm tia nắng,
Sưởi ấm mùa xuân cả nước này.
396.
Thơ vịnh núi Côn Sơn,
trình
chủ nhân động Thanh Hư 1)
Đẹp sánh Đồ Cầu, 2) núi ở đây.
Những mong được đến sống nơi này.
Dấu giày Linh Vận 3) in
rêu xám.
Tử Du 4) thuyền buộc giữa làn mây.
Bận việc, thời gian trôi vùn vụt.
Đêm nằm mơ dạo dưới rừng cây.
Nhân đây đề vịnh Thanh Hư động,
Dẫu còn chưa đạt tứ thơ hay.
(1).
Chỉ Trần Nguyên Đán.
(2)
Tên ấp thuộc nước Lỗ.
(3)
Tức Tạ Linh Vận, nhà thơ lớn thời Nam Bắc triều, thường hay đi chơi thăm cảnh
sông núi.
(4) Tên tự của Vương Hy Chi, người đời Tấn. Có lần trong đêm tuyết
Tử Du mở cửa uống rượu, rồi bỗng nhớ tới bạn là Đới Quí ở Diệm Khê, bèn cưỡi
thuyền đi thăm. Nhưng khi thuyền tới nơi thì Tử Du quay về ngay. Có người hỏi
tại sao, ông đáp: "Còn hứng thì đến, hết hứng thì về, hà tất phải gặp
mặt".
397.
Xóm nhỏ
Vài gian nhà cổ sát bờ ao.
Hoa lau, hương cỏ, hứng thơ cao.
Sương nặng đè lên hai lớp ngói.
Vầng dương đã mọc quá hàng rào.
Đau ốm, ngoài vườn đầy thảo dược.
Buồn đời, uống rượu, chẳng làm sao.
Coi thường mọi việc, lòng thanh thản,
Hồn thả theo hương gió ngọt ngào.
398.
Đêm thu dậy sớm, gửi Kiểm chính Hồng Châu 1)
Bâng khuâng, phòng vắng ngước nhìn ra.
Nghe mưa lá chuối phía sau nhà.
Ngõ Gấm 2)
trăng tàn, chuông đã điểm.
Xóm Đông 3)vó
ngựa gõ xa xa.
Thơ muốn hay hơn, nên đổi điệu.
Bệnh tình chưa ngớt, thuốc còn pha.
Sai trẻ quét sân, chờ ông đến,
Cùng ngồi nói chuyện những ngày qua.
(1) Tøc NguyÔn H¸n Anh, em ®ång hao cña t¸c gi¶.
(2) Xãm nhµ quan.
(3) Tªn mét xãm ë kinh ®«.
399.
Quán khách
Rượu ngon tự rót uống an nhàn.
Chạnh lòng vượn hạc 1) buổi gian nan.
Ngoài cửa có cây, khách dễ kiếm.
Nhà tranh tô điểm khóm hoa lan.
Một đợt mưa mai, thơ gợi hứng.
Nửa giường gió thổi, giấc miên man.
Chuyện dở, chuyện hay không nghĩ đến,
Tỉnh dậy thắp hương, dạo khúc đàn.
(1) Loµi vưîn h¹c thưêng kh«ng ë yªn mét chç, nªn ngưêi xa
cã c©u "viªn t©m h¹c ý" chỉ người
thÝch ngao du, kh«ng thiÕt c«ng danh.
400.
Dùng vần thơ lưu biệt của Trịnh Sinh 1) để
từ biệt
Bầu rượu tôi mang gió thổi xiêu.
Theo bác trăng đi, lạnh mái chèo.
Phụng dưỡng mẹ cha, tròn chữ hiếu.
Thói đời danh lợi nhớ đừng theo.
Xưa ước về thăm sông núi cũ,
Hải hồ nay được chuyến phiêu diêu.
Nhớ nhau, mai chẳng tìm nhau được.
Trời Nam mây phủ, nhạn bay nhiều.
(1) Chưa râ lµ ai.
401.
Chơi núi Côn Sơn
Núi như chiếc cột đỡ trời mây.
Bụi trần không vướng, cách xa đây.
Sau mưa suối chảy càng thêm mạnh.
Tiêu tan lam chướng, hết sương dày.
Cõi tục trăm năm như giấc mộng.
Ta cũng thành tiên, nhàn nửa ngày.
Hết hứng, vào chùa xin tạm nghỉ.
Chuông chiều giục nguyệt mọc trên cây.
402.
Từ phủ Thiên Trường,
lênh
đênh ra cửa biển, gặp gió
Bên thuyền, rồng cuộn sóng, phun mây.
Tháng Tư biển động suốt đêm ngày.
Ngoài biển sóng gầm như giã gạo.
Trên bờ gió thổi, ngả nghiêng cây.
Một chiếc thuyền đơn, hai mái tóc.
Muôn trùng nghiêng ngả tấm lòng ngay.
Nếu chẳng là quan vì việc nước,
Đã khỏi long đong cảnh thế này.
403.
Tháng Chín, trong bữa tiệc
tại
nhà tướng công Băng Hồ
Dưới mũ sa đen tóc rối bay.
Vào phủ tướng công ngày lại ngày.
Đời dài, mấy bận vui Trùng Cửu? 1)
Ba tháng mùa thu, nhất tháng này.
Đang vui chẳng nhẽ hoa không có?
Muốn được giải sầu cần uống say.
Mơ mơ tỉnh tỉnh, nhân ngày đẹp.
Cười hát một mình trước gió tây.
(1) Tøc tiÕt Trïng Cöu, ngµy chÝn th¸ng ChÝn ©m lÞch.
404.
Ở quê, xúc động trước cảnh hạn hán,
gửi
trình tướng công Băng Hồ
Đồng ruộng cháy khô, đỏ một màu.
Thôn quê đói khổ cậy vào đâu?
Khắp nơi hạn hán đồng khô nẻ.
Mưa trời có đợi, chắc còn lâu.
Đã thế, tham quan còn vơ vét,
Người người cơ cực cảnh buồn đau.
Thơ này viết tạm thay tờ tấu,
Vì đang ốm nặng, chửa về chầu.
405.
Trên đường, nơi đất khách
Trượng phu không chịu nhục xưa nay.
Lệ đầm vạt áo lúc chia tay.
Nhá nhem Kiến Lĩnh, 1) tìm quán ngủ.
Xuất phát Trường Châu 2) mới rạng
ngày.
Trời đất còn may chưa bỏ đạo.
Non sông chưa nỡ bỏ thân này.
Nếu giúp được đời bằng chút khổ,
Chẳng ngại đường xa, tớ lẫn thầy.
(1) (2)
Tªn ®Þa danh, chưa râ ë ®©u.
406.
Sáng thu, xúc cảm thành thơ
Chuông sớm chùa bên báo rạng ngày.
Qua mành, tia nắng dọi, lung lay.
Đất người thức giấc, buồn tư lự.
Đốt lò hương sớm, cứ ngồi ngây.
Thu muộn, ngoài sân nhìn lá rụng.
Âm thầm nhỏ lệ, đếm chim bay.
Đại đông, 1) thơ cổ ba lần đọc.
Cuộc đời đã vậy, tính sao đây?
(1) Tªn mét bµi th¬ trong phÇn TiÓu Nh· cña Kinh Thi.
407.
Đậu thuyền cạnh lăng họ Nguyễn 1)
Trên sông Thiên Đức 2) đậu thuyền con.
Mộ hoang họ Nguyễn đã thành cồn.
Lẫm liệt khí thiêng còn phảng phất.
Bên sông đền cổ vẫn đang còn.
Nhưng khí rồng bay 3) thì chẳng có.
Cột hoa chim đậu, 4) cũng khô mòn.
Ngẫm việc trăm năm, buồn đứng lặng.
Một mình trơ trọi giữa hoàng hôn.
(1)
NguyÔn gia, tøc nhµ Lý. Khi nhµ TrÇn lªn ng«i, ®æi nhµ Lý thµnh nhµ NguyÔn.
(2)
Nay lµ s«ng §uèng.
(3)
Nh¾c l¹i viÖc Lý Th¸i Tæ dêi ®« tõ Hoa Lư ra Th¨ng Long thÊy cã rång vµng hiÖn
lªn.
(4) ChiÕc cét cao, trªn ®Ønh cã thanh gç, dùng ë n¬i ®« héi. §ã lµ
dÊu hiªu nhµ vua s½n sµng thu nhËn ý kiÕn cña nh©n d©n trong nưíc,
vµ lµ vËt tưîng trưng cho sù thÞnh vưîng
cña triÒu ®¹i.
408. Đêm ba mươi tết, dùng vần của Đỗ
Phủ,
cùng các bạn ngồi chung
bàn tiệc, làm thơ
Tiễn đưa năm cũ ở quê người.
Tuyết như hoa trắng, vẫn còn rơi.
Cây khô, con quạ ngồi run rẩy.
Đám cỏ ngoài sân báo tiết trời.
Thời gian níu giữ, đèn thay bấc.
Giải sầu, cốc rượu cứ đầy vơi.
Mỗi sáng vào chầu, lo chải chuốt.
Ngắm tóc hoa râm, ngẫm sự đời.
409.
Nhân tiết trung thu, xúc cảm thành thơ
Sóng trăng như sóng biển bao la.
Lưa thưa mây đọng giải Ngân Hà.
Ao nhỏ sau mưa đầy ánh nguyệt.
Chạnh buồn man mác khách quê xa.
Xin nhờ trăng sáng cao trên ấy
Soi thấu đời này cảnh xót xa.
Mong sao mãi mãi dân no ấm,
Để được thăm chơi khắp nước nhà.
410.
Đêm thu lưu biệt quan kiểm chính Hồng Châu
Tôi về Nhị Khê bắc.
Bác ở lại nơi này.
Tiễn nhau, sương ướt áo.
Mặt trời hồng khuất mây.
Gạt lệ, trao thơ tặng.
Uống rượu, buồn chia tay.
Hẹn nhau đêm rằm tới.
Dưới trăng uống thật say.
411.
Cảm hứng ở xóm núi
Ba mươi năm lẻ sống hư danh.
Về quê, quên hết chuyện không lành.
Trùm khăn đi giữa nơi đồng nội.
Hong tóc ngồi chơi chốn thác ghềnh.
Phù du chuyện cũ cho quên hết.
Sự đời thay đổi, rất mong manh.
Ai bảo thôn quê buồn, tẻ nhạt?
Quanh nhà dậu mướp đã rờn xanh.
412.
Xóm quê
Trúc ba hàng đang đợi.
Già tính chuyện quay về.
Chiều thu ngồi uống rượu.
Tha thẩn dạo làng quê.
Trời rộng, chim bay lượn.
Trăng mọc phía bờ khe.
Chợt nghe chuông chiều điểm,
Dục trẻ khép cổng tre.
413.
Thơ đề chùa Huyền Thiên
Chùa tiên cao ngất chín tầng mây.
Đường lên dây níu, khói sương bay.
Buổi trưa thanh vắng, chim không hót.
Suối cũ hai bờ rợp bóng cây.
Già tìm học đạo, trời luôn biết.
Quan nhàn, mộ Phật mới về đây.
Nếu gặp Xích Tùng, xin nhắn hộ,
Rằng tôi cũng muốn sống nơi này.
414.
Cuối thu
Chẳng gì oan trái hoặc buồn đau,
Mà cảnh cuối thu cũng gợi sầu.
Gió lạnh, cúc tàn phai trước cửa.
Não nùng mưa gió suốt đêm thâu.
Thu tiếc cho ta, trôi rất chậm,
Tuổi già ập tới, chẳng chờ lâu.
Tỉnh mộng Vi Viên, 1) đầu đã bạc.
Cá vược, rau thuần lỡ hẹn nhau.
(1) Tªn gäi toµ Trung Thư, ý
nãi giÊc méng lµm quan.
415. Trong khi ốm, nhớ vần thơ "Đêm
thu"
của kiểm chính Hồng Châu
Nguyễn Hán Anh 1)
Hương tàn, tỉnh mộng khách đường xa.
Ngọn đèn heo hắt sáng bên ta.
Xào xạc lá vàng rơi trước ngõ.
Bên hiên bàng bạc dải Ngân Hà.
Trăng sáng đa tình soi bóng nước.
Xuân về điểm xuyết bức tranh hoa.
Không thể buồn vì cơn ốm nhẹ,
Tỉnh dậy ngâm thơ, hát váng nhà.
(1) NguyÔn H¸n Anh vµ NguyÔn Phi Khanh ®Òu lµ con rÓ cña TrÇn Nguyªn
§¸n. Hång Ch©u lµ ®¬n vÞ hµnh chÝnh thêi TrÇn vµ Hå.
416.
Tiễn thái học sinh Nguyễn Hán Anh 1) về Hồng Châu
Trò chuyện đêm qua được ít thôi.
Sáng nay người ngựa đã đi rồi.
Lòng ngóng về đông nơi suối nước.
Mắt nhìn trời bắc vợi xa xôi.
Thương con chim thước sân hòe vắng.
Nhớ mãi chim hồng sống lẻ loi.
Chanh thơm, nếp trắng, vừa cất rượu.
Nợ đời chỉ tiếc nặng lòng tôi.
(1) Chưa rõ là ai.
417.
Theo tướng công Băng Hồ đi chơi sông Xuân Giang
Trời xuân, mây bập bồng.
Mái chèo khua trên sông.
Khí phách nơi hồ hải.
Chùa miếu gửi tấm lòng.
Thơ viết về chim, cá,
Hoa cỏ và suối trong.
Chơi chán, quay thuyền lại.
Vách núi mặt trời hồng.
418.
Đáp lại bài thơ "Cái rét
mùa
xuân" của thái học sinh Đạo Khê
Khắp thành mưa bụi cứ lây rây.
Lạnh lẽo gió xuân thổi suốt ngày.
Ý muốn làm quan như khói mỏng.
Mối tình đất khách nhẹ như mây.
Lưu thủy, cao sơn 1) giờ lỡ nhịp.
Giấc mơ cờ thắm chẳng còn hay.
Chỉ thương trăm họ dân kêu khổ,
Áo rách, nhà phên lạnh thế này.
(1) Nước
chảy, non cao: Xưa nghe Bá Nha gảy đàn thanh thót, Chung Tử Kỳ nói: "Chí
của anh đang ở trên núi cao". Khi nghe gảy tiếng trầm, lại nói: "Chí
của anh nơi nước chảy". Khi Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn vì cho rằng trên
đời chẳng con ai biết nghe đàn ông nữa.
419. Mừng quan triệu doãn kinh đô Nguyễn
Công được bổ đi làm kinh lược sứ ở Vân Đồn 1)
Vua ban chiếu chỉ, bác lên đường
Làm kinh lược sứ chốn mù sương.
Đông Triều, phần nửa dân ta thán.
Vân Đồn tro khói vẫn còn vương.
Ra tay cứu nước, lo tìm kế.
Mở lòng nhân nghĩa, giúp dân thường.
Bây giờ văn trị 2) mong chưa muộn.
Vua còn bận việc ở biên cương.
1. Xưa gọi là châu Vân Đồn, thuộc phủ Hải Phòng,,
nay nằm trên đất Quảng Ninh.
2. Trị nước, cứu đời bằng nhân nghĩa và phương pháp
hòa bình.
420. Mùa hè năm Giáp Tí (1384) hạn
lớn, vua
có sắc cho các lộ cầu mưa, chưa cầu trời đã
mưa
Cây héo, đất khô, hạn khắp nơi.
Thì bỗng có mưa, cây tốt tươi.
Vua quan chuẩn bị, chưa cầu đảo,
Trời đã cho mưa, mát mặt người.
Con vật dân gian, rồng phun nước 1).
Thiên tử cầu mưa cứu giúp đời.
Cần chi thân xác phơi ngoài chợ 2) ?
Chỉ có cái tâm thấu đến trời.
1. Rồng là biểu tượng của nhà vua. Tác giả nói rồng
phun nước là hàm chỉ ông vua có đức, khiến trời đất phù hộ.
2. Nghi lễ cầu mưa thời xưa. Kinh Lễ có câu: “Trời
lâu không mưa, ta muốn đem thân hình gầy còm ra đứng giữa nắng, mong trời
thương xót mà cho mưa xuống.
421. Tiễn Vũ Thích Chi đi
sứ Trung Quốc
Mây sứ năm màu phủ khắp nơi.
Khí tiết, nghĩa trung dọi sáng đời
Trạm mai 1) xuân đến, dồn vó ngựa.
Cuối đông, Hoài Thủy 2) tuyết đầy trời.
Vũ trụ có nam và có bắc.
Ngày khi có nắng, lúc mưa rơi.
Nâng chén hôm nay đưa tiễn bác,
Gửi trong chén rượu chút tình người.
1. Chỉ các trạm trên đường của người đi
sứ.
2. Tên một con sông ở Trung Quốc.
422. Thơ làm lúc phụng
chiếu vua đi Trường An 1)
Vũ Lâm 2) một dải, biếc màu xanh.
Việc vua đâu dám tiếc thân mình.
.Khói nhạt sau mưa trên núi vắng.
Tuyết tan, trời ấm chốn đô thành.
Chiếu Đường 3) cảm động, thần dân khóc.
Lệnh Hán 4) lão phu chống gậy bình.
Ngẫm thẹn ân vua chưa báo đáp,
Quyết đem tài mọn giúp dân lành.
1.
Địa danh thuộc tỉnh Ninh Bình.
2.
Một vùng ở huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
3.
Đường Đức Tông do dùng gian thần mà mất cơ nghiệp. Khi khôi phục được nhà
Đường, ông đọc chiếu buộc tội mình rồi tự trói mình trước các quan, sau đó dùng
người có tài và chăm lo việc nước.
4.
Từ thời Hán Vũ Đế, các vua Hán quí trọng người già, hàng năm ra lệnh tổ chức lễ
dưỡng lão ở nhà Thái Học.
423. Cảm xúc sau khi xem
thi ở Thiên Trường 1)
Đến xem sĩ tử, vượt đường xa,
Nằm trong “tầm ngắm” 2) đại văn khoa.
Gió xuân vườn ngự, hoa lay động.
Mưa khắp bầu trời, liễu thướt tha.
Bên bến, đưa tin đôi cá chép 3).
Thuyền con trói chặt khách bôn ba.
Đã quá nửa xuân xa phụ mẫu.
Day dứt sáng nay nỗi nhớ nhà.
1.
Tức phủ Thiên Trường xưa, nay thuộc khu vực Nam Định.
2. Câu này mượn ý của Đường Thái Tông
nói với những người mới đỗ tiến sĩ: “Tất cả anh hùng trong thiên hạ đều đã nằm
trong tầm cung của ta”.
3.
Nhạc Phủ có đoạn viết: “Có người khách từ xa đến chơi, cho một đôi cá chép. Gọi
trẻ ra mổ làm thịt thì thấy trong bụng cá có bức thư”.
424. Qua chơi Động Đình, họa theo vần
thơ của Nhị Khê
Dẫu
trẻ nhưng anh giỏi, lắm tài.
Còn
thôi, thơ phú hẩm hiu hoài.
Việc
đời không tính thua hay được.
Chuyện
giàu, danh vọng, bỏ ngoài ta.
Ở ẩn,
an nhàn là tốt nhất.
Hơn
khen, chê cá ngắn hay dài 1).
Nếu
không ngại cảnh nghèo, thanh bạch,
Mời
anh năng tới, chuyện lai rai.
1). Lấy nghĩa chữ ở Hán Thư, ý nói đừng
trên sông mà khen chê cá là mua việc bàn suông vô ích.
425. Tháng Chín ở thôn quê, uống rượu
một mình
Một
mình uống rượu ở làng quê.
Nỗi
lòng sâu kín nói ai nghe.
Thu
nhạt, lối đi cây cỏ mọc.
Hoa
mai nở muộn, mưa dầm dề.
Long
Sơn 1) tụ họp, lòng mong muốn.
Bành
Trạch 2) từ lâu đã muốn về.
Thân
này trót ở Trung thư 3) sở.
Rối
bời mọi việc giống trong mơ.
1). Tên núi ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc.
Nhân ngày tết Trùng Dương, Mạnh Gia đến dự tiệc ở đấy, say rượu với bạn bè, gió
thổi bay mất dải mũ mà không biết.
2). Nơi ở ẩn của Đào Tiềm,
3). Nơi Nguyễn Phi Khanh làm việc ở kinh
đô.
426. Tiễn quan hành nhân Đỗ Tông Chu đi
sứ
Mùa
xuân, đưa tiễn bác, hồi lâu
Nhớ
cảnh khoa trường thi, gặp nhau.
Nay
bác là quan hành nhân sứ 1),
Tôi ở
Trung thư giống thuở nào.
Qua
đèo Ngũ Lĩnh, lên yên ngựa.
Ngũ
Hồ 2) khi đến, xuống thuyền câu.
Trượng
phu đâu dễ buồn ly biệt.
Vỗ
gươm cười lớn, ngẩng cao đầu.
1). Một chức quan trong sứ bộ triều đình thơi xưa.
2). Tên các địa danh ở Trung Quốc mà đoàn sứ bộ ta đi
qua.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét