Thứ Hai, 16 tháng 3, 2020

Việt Nal Lược Sử

TRUYỀN THUYẾT VỀ LÊ LỢI

Xung quanh vua Lê Lợi
Và cuộc khởi nghĩa này
Có khá nhiều truyền thuyết
Được lưu truyền xưa nay.

Truyện kể rằng Lê Lợi,
Khi chưa dựng sơn hà,
Có bạn tên là Thận,
Như anh em một nhà.

Thận làm nghề chài lưới,
Một hôm đi ra sông,
Thấy đáy nước phát sáng,
Rất nghi hoặc trong lòng.

Ông quăng lưới bắt cá,
Mãi không thấy cá đâu,
Chỉ vớt được thanh sắt
Dài một thước, sỉn màu.

Định vứt đi, nhưng tiếc,
Ông đem nó về nhà,
Vứt vào trong góc tối,
Đêm phát sáng chói lòa.

Một hôm Lê Lợi đến,
Thấy lạ, hỏi sự tình.
Rồi xin thanh sắt ấy
Đem nó về nhà mình.

Ông cho người rửa sạch,
Đánh bóng lớp gỉ đen,
Thấy trên đó chữ “Lợi”
Và hai chữ “Thuận Thiên”.

Hôm sau, bước ra cửa,
Thấy vỏ gươm bằng vàng,
Ông sụp lạy xuống đất
Rất cung kính, mà rằng:

“Nếu đây là gươm báu
Trời ban cho Lợi này,
Thì hãy làm phép lạ,
Cho nhập làm một ngay!”      

Ông giơ thanh sắt nhỏ
Trước mặt mình, bất ngờ
Thanh sắt thành gươm sáng
Cho vào vỏ rất vừa.

Đêm hôm ấy bất chợt
Mưa gió to rất lâu.
Sáng dậy, vợ Lê Lợi
Khi đi ra vườn rau

Thấy bốn vết chân lớn,
Rất rộng và rất dài
Bà gọi chồng, muốn hỏi
Dấu chân này của ai.

Rồi hai người lại thấy
Chiếc ấn ngọc đắt tiền,
Trên mặt có chữ “Lợi”
Và hai chữ “Thuận Thiên”.

Về sau, lên ngôi báu,
Vua dùng hai chữ này
Làm niên hiệu Đại Việt.
“Thuận ý trời” là đây.

Lê Lợi liền vội vã
Đem nó giấu trong nhà,
Mừng được trời giao ấn,
Lo đại sự quốc gia.

Theo truyền thuyết, Lê Lợi
Luôn mang gươm theo mình,
Dùng nó chém đầu địch,
Đuổi hết giặc nhà Minh.

Khi công thành danh toại,
Vua Lê Lợi một lần
Đi thuyền rồng du ngoạn
Trên mặt hồ Thủy Quân.

Bỗng Rùa Vàng xuất hiện,
Đòi gươm báu, và hồ
Đổi tên thành Hoàn Kiếm,
Ngay trong lòng thủ đô.

*
Truyền thuyết cũng kể lại,
Lê Lợi thời kỳ đầu,
Một lần bị giặc đuổi,
Phải chạy vào rừng sâu.

Ở đấy ông bất chợt
Thấy có một xác người,
Một cô gái, trên cỏ,
Khuôn mặt vẫn còn tươi.

Ông dùng gươm đào huyệt,
Đắp cho nàng nấm mồ,
Khấn, mong nàng phù hộ
Giúp ông dựng cơ đồ.

Khi quân Minh đuổi đến,
Ông trốn vào hốc cây.
Bầy chó cứ sục sạo
Rất lâu bên cây này.

Giặc sinh nghi, dùng kiếm
Đâm xuyên cây, trúng người.
Lê Lợi phải lấy áo
Lau kiếm sạch máu tươi.

Rồi chúng lấy lửa đốt.
Và từ thân cây già
Bất chợt một con cáo
Lông màu trắng chạy ra.

Bầy chó ùa theo đuổi.
Giặc bỏ đi vội vàng.
Lê Lợi may thoát chết,
Sụp lạy trước mộ nàng.

Nàng đã hóa thành cáo,
Chạy trước mặt đám đông,
Để thu hút bầy chó
Và giải cứu cho ông.

Về sau ông lập miếu
Thờ nàng như thờ thần,
Còn truy tặng danh hiệu
Là Hồ Ly Phu Nhân.

Nơi Lê Lợi thoát chết
Bây giờ là cánh đồng,
Có tên là Đồng Chó
Bên cạnh một dòng sông.

Ngày nay con sông ấy
Được gọi là sông Chu,
Nằm không xa Bái Thượng,
Nơi thường nhiều sương mù.

*
Khi hay tin Lê Lợi
Đang chiêu quân đánh Tàu,
Trần Nguyên Hãn cải dạng
Thành một anh bán dầu         

Vào Đông Đô tìm cách
Gặp Nguyễn Trãi tiên sinh,
Người đang bị giam lõng,
Kiểm soát bởi quân Minh.

Rồi sau khi bàn luận,
Hai người trốn khỏi thành,
Lặn lội tìm minh chúa
Trong núi rừng xứ Thanh.

Được Nguyễn Trãi hiến kế
Với kế hoạch “Bình Ngô”,
Lê Lợi mời hai vị
Tham gia dựng cơ đồ.

Nguyễn Trãi sai lấy mật
Viết lên nhiều lá cây
Mọc bên sông gần đấy
Tám chữ nho thế này:

Lê Lợi là hoàng đế
Chữ “Lê Lợi vi quân”,
Bầy tôi là Nguyễn Trãi,
Chữ “Nguyễn Trãi vi thần”.

Tất nhiên kiến thấy mật
Liền bu đến rất đông.
Chúng ăn, đục xuyên lá,
Lá rơi xuống dòng sông.

Những chiếc lá có chữ
Nước cuốn đi khắp nơi,
Dân chúng nhặt lên đọc,
Nghĩ đó là ý trời.

Nhờ những chiếc lá ấy,
Người tìm đến đông dần,
Cùng tham gia khởi nghĩa,
Vì “Lê Lợi vi quân”.

*
Lại nữa, một lần nọ,
Giặc đuổi gấp phía sau,
Lê Lợi thấy hai cụ
Đang tát nước ruộng sâu,

Liền nhảy ào xuống ruộng,
Cởi áo, để ngực trần,
Giả làm người mò cá
Như con nhà nông dân.

Giặc kéo đến liền hỏi:
Thấy ai chạy qua không?
Hai cụ đáp: Không biết.
Chúng tôi mải làm đồng.

Thấy Lê Lợi có vẻ
Muốn nghe chuyện, bà già
Quát: Mày lo mò cá
Rồi còn sớm về nhà!

Giặc nghe thế, tưởng thật,
Liền bỏ đi, hai người
Mời về nhà nghỉ tạm,
Lúc ấy đã tối trời.

Trước bữa cơm giản dị,
Hai cụ lạy rồi thưa:
“Chúng tôi, lúc nguy khốn,
Có thất lễ với vua...”

Lê Lợi lạy rất thấp,
Cảm ơn hai cụ già.
Lúc thành vương, quay lại,
Vất vả tìm đến nhà

Thì hai cụ đã chết.
Để ghi nhớ ân sâu,
Ông cho lập miếu cúng,
Còn thụy phong tước hầu.


16
KHỞI NGHĨA LAM SƠN

Vốn là một hào kiệt
Của vùng đất Lam Sơn,
Lê Lợi thấy giặc ác
Mà nung nấu căm hờn.

Ông quyết định khởi nghĩa,
Chiêu mộ người hiền tài.
Nhiều người đã hưởng ứng
Trong Hội thề Lũng Nhai.

Một Hội thề lịch sử,
Sống mãi với non sông.
Tất cả thề giết giặc,
Trên và dưới một lòng.

*
Năm Một Bốn Một Sáu,
Một buổi sáng ban mai,
Lê Lợi và các tướng
Mở Hội Thề Lũng Nhai.

Cùng mười tám vị khác
Chung chí hướng như mình,
Lê Lợi tế trời đất,
Thề chống lại giặc Minh.

Thề có trời chứng dám,
Mười chín người khác nhau,
Nay qui tụ làm một,
Đặt vận nước lên đầu.

Mười chín vị hào kiệt,
Từ gần và từ xa,
Thề thương yêu, đoàn kết
Như anh em một nhà.

Rằng chúng tôi, Lê Lợi,
Cùng Nguyễn Trãi, Lê Ninh,
Đinh Lễ, Lê Nhân Chú,
Trịnh Khả, Lê Văn Ninh...

Thề một lòng giết giặc,
Thề cứu giúp dân lành.
Ai có lòng dạ khác
Sẽ chết bởi thần linh.

Hội thề ấy lịch sử
Đã thu hút nhều người
Về Lam Sơn tụ nghĩa,
Quyết hành đạo thay trời.

Nó cũng là cơ sở,
Bước quan trọng ban đầu
Để Lam Sơn khởi nghĩa
Khoảng gần hai năm sau.

*
Lúc đầu, cuộc khởi nghĩa
Gặp rất nhiều khó khăn.
Phải ba lần lên núi,
Thiếu vũ khí, đói ăn.

Năm Một Bốn Một Tám
Giặc bao vây nghĩa quân
Lê Lai phải liều chết
Để Lê Lợi thoát thân.

*
Theo Đại Việt thông sử,
Quan Nội hầu Lê Lai
Là người tính cương trực,
Có chí và có tài.

Năm Một Bốn Một Tám,
Vua phất ngọn cờ đào,
Bị thua ở Mường Một,
Phải chạy về Trịnh Cao.

Đó là nơi hẻo lánh,
Nhiều thú dữ, ít dân.
Giặc bao vây tứ phía,
Tình thế hiểm nguy dần.

Nghĩa quân thì lính ít,
Lương thực thiếu bất ngờ.
Ở lại sẽ chết hết.
Làm thế nào bây giờ?

Đó là điều day dứt,
Làm phiền lòng Lê Lai,
Khiến bồi hồi nhớ lại
Ngày Hội thề Lũng Nhai.

Cuối cùng ông đề nghị
Đức vua cởi áo bào
Để ông mặc, ra trận,
Mở đường huyết xem sao.

Và rồi, đóng giả chúa,
Cưỡi voi phủ lụa vàng,
Ông cùng năm trăm lính,
Xông vào giặc, thét vang:

“Ta là vua Lê Lợi,
Quyết chiến cùng chúng mày!
Đứa nào không muốn sống,
Hãy nhanh chóng ra đây!”

Rồi tả xung, hữu đột,
Ông chém giết hồi lâu,
Cho đến khi đuối sức,
Bị giặc bắt, chém đầu.

Trong khi đó, Lê Lợi
Và binh tướng của ông
Thoát vây, sau lãnh đạo
Cuộc khởi nghĩa thành công.

Cảm vì lòng trung nghĩa,
Vua Lê Lợi cho người
Tìm xác ông chôn cất,
Lập miếu thờ suốt đời.

*
Để củng cố lực lượng,
Năm Một Bốn Hai Ba
Lê Lợi cho người gặp
Đề nghị giặc tạm hòa.

Quân Minh đã chấp nhận.
Ông quay lại Lam Sơn,
Tuyển binh, tích lương thực,
Vẫn nung nấu căm hờn.

Nhưng quân Minh trở mặt
Tháng Mười Hai năm sau.
Và một giai đoạn mới
Của khởi nghĩa bắt đầu.

*
Nghe theo lời Nguyễn Chích,
Lê Lợi và các quan
Năm hăm bốn, quyết định
Đem quân đánh Nghệ An.

Vào tháng Mười năm ấy,
Ông chiếm đồn Đa Căng.
Ở Trà Lân, xứ Nghệ,
Quân giặc phải ra hàng.

Nhân đà thắng, Lê Lợi
Đánh, mở rộng địa bàn.
Sau chưa đầy một tháng
Giải phóng toàn Nghệ An.

Rồi tháng Tám năm tiếp,
Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân
Đem một đội quân mạnh
Nhằm phía Nam, tiến dần.

Quân khởi nghĩa nhanh chóng
Đánh tan quân nhà Minh,
Thế chẻ tre, giải phóng
Thuận Hóa và Tân Bình.

Vậy là trong mười tháng
Lê Lợi cùng nghĩa quân
Làm chủ từ Thanh Hóa
Đến tận đèo Hải Vân.

*
Tháng Chín năm Hai Sáu,
Đang thừa thắng, quân ta
Quyết định sẽ Bắc Tiến,
Theo ba mũi đánh ra.

Một mũi chiếm Tây Bắc
Ngăn viện binh Trung Hoa.
Mũi thứ hai giải phóng
Vùng đất sông Nhị Hà.

Mũi này sẽ ngăn giặc
Rút về từ Nghệ An.
Mũi thứ ba, mũi chính,
Tiến thẳng ra Đông Quan.

Được nhân dân ủng hộ.
Cả ba mũi thành công.
Giặc Minh bị cô lập,
Chốt trong thành Thăng Long.

*
Năm Một Bốn Hai Sáu,
Vương Thông, tướng nhà Minh,
Sang Đông Quan tiếp viện
Cùng năm vạn chiến binh.

Hắn quyết đánh Cao Bộ,
Thuộc Chương Mỹ ngày nay.
Các tướng của Lê Lợi
Biết trước âm mưu này,

Nên đã sớm ra lệnh
Lên kế hoạch phục binh
Ở Tốt Động, Chúc Động,
Lặng lẽ chờ quân Minh.

Cuối cùng, khi chúng đến
Nghĩa quân liền xông ra,
Phá tan đội hình giặc,
Gươm và giáo sáng lòa.

Quân Đại Việt thắng lớn,
Bắt mười nghìn quân Minh.
Giết tại trận Trần Hiệp,
Là thượng thư bộ Hình.

Các tướng khác bị giết
Có Lý Đằng, Lý Lương.
Vương Thông may chạy thoát,
Phải liều chết mở đường.

*
Tháng Mười, năm Hai Bảy,
Hai tướng giỏi nhà Minh,
Từ biên giới tràn xuống
Cùng mười vạn viện binh.

Một đạo do tướng giỏi
Là Liễu Thăng cầm đầu
Tiến theo đường xứ Lạng,
Quyết đánh mau, thắng mau.

Đạo khác, tướng Mộc Thạnh,
Từ Vân Nam kéo sang,
Cũng hùng hổ không kém,
Tiến theo đường Hà Giang.

Bộ chỉ huy Lê Lợi
Quyết chặn chân Liễu Thăng.
Tìm cách tiêu diệt chúng,
Không cho xuống đồng bằng.

Tướng nghĩa quân, Trần Lựu,
Được lệnh dụ Liễu Thăng
Đưa vào ổ phục kích
Của ta ở Chi Lăng.

Kết quả, trong trận ấy
Liễu Thăng bị chém đầu.
Tướng Lưu Nhân, Lê Sát
Bắt sống vạn lính Tàu.

Sau khi Liễu Thăng chết,
Tướng Lương Minh lên thay.
Rồi hắn cũng bị giết
Khi chưa kịp ra tay.

Quân ta giỏi phục kích,
Diệt ba vạn quân Minh.
Lý Khánh phải tự tử,
Hắn - thượng thư bộ Binh.

Số lính giặc còn lại
Co cụm ở Xương Giang.
Ta đánh từ nhiều hướng.
Rốt cục, chúng đầu hàng.

Tướng Thôi Tụ, Hoàng Phúc
Cũng đầu hàng quân ta.
Hay tin, tướng Mộc Thạnh
Sợ, rút về Trung Hoa.

*
Sau thất bại của tướng
Mộc Thạnh và Liễu Thăng,
Vua Minh phải tuyên bố
Bãi binh - tức đầu hàng.

Theo tinh thần dân tộc:
Quyết chiến nhưng thân hòa.
Thắng giặc vẫn trải chiếu
Cho chúng rút về nhà,

Năm Một Bốn Hai Bảy,
Lê Lợi và Vương Thông
Cùng nhất trí gặp mặt
Ở Đông Quan, sông Hồng.

Cuộc gặp ấy được gọi
Là Hội thề Đông Quan,
Tức là một thỏa thuận
Để giặc rút an toàn

Trong thời gian năm tháng,
Không cướp bóc của dân,
Không tiến hành chiến sự
Dọc đường chúng rút quân.

Về phần mình, Đại Việt,
Để cho chúng được yên,
Cung cấp đủ lương thực,
Xe ngựa và tàu thuyền.

Các tướng giặc kéo đến
Đứng trước dinh Bồ Đề,
Lạy tạ tướng Đại Việt
Rồi lủi thủi ra về.

Hội thề - Hiệp định ấy
Cho phép mười nghìn quân
Của giặc Minh sót lại
Rút về nước dần dần.

Một trang sử chói lọi.
Một “Hội thề” vinh quang.
Ta, cháu con, phải nhớ,
Để sống cho đàng hoàng.


17
LÊ THÁNH TÔNG (1442 – 1497)

Sau khi giành độc lập,
Đánh đuổi giặc nhà Minh,
Lê Lợi lo xây dựng
Bộ máy nhà nước mình.

Vua nắm mọi quyền lực,
Việc hành chính, việc quân.
Giúp việc vua luôn có
Các quan lớn đại thần.

Triều đình có sáu bộ,
Là bộ Lại, bộ Binh,
Rồi Công, bộ Lễ,
Bộ Hộ và bộ Hình.

Nước chia làm năm Đạo.
Dưới đạo là Phủ, Châu.
Rồi tiếp đến làng, xã.
Mỗi triều có khác nhau.

Quân đội được tổ chức
Kiểu “ngụ binh ư nông”.
Tức thời chiến đánh giặc.
Thời bình về làm đồng.

Lê Thánh Tông cho soạn
Trọn vẹn bộ Luật Hình,
Còn gọi Luật Hồng Đức,
Rõ ràng và nghiêm minh.

Kinh tế được phát triển,
Hài hòa Nông, Công, Thương.
Khai phá đất ven biển.
Nạo vét sông, mở đường.

Lê Lợi cho xây lại
Quốc Tử Giám, trường công,
Cũng là trường đại học
Đầu tiên ở Thăng Long.

Ở các Đạo và Lộ
Có trường riêng của mình.
Ai cũng có quyền học
Và ghi tên thí sinh.

Nhưng có hai đối tượng
Không được học làm quan.
Đó là bọn tội phạm
Và những người hát, đàn.

Là vì vào thời ấy,
Chính quyền quan niệm sai,
Gọi những người đàn hát
Là “xướng ca vô loài”.

Nội dung được giảng dạy -
Sách Đạo Nho giáo điều.
Phật Giáo và Đạo Giáo
Bị hạn chế rất nhiều.

Kỳ thi ở Đạo, Lộ
Được gọi là thi Hương.
Người đậu, thành Hương Cống,
Cũng là bậc khác thường.

Cao hơn là thi Hội,
Tổ chức ở Kinh Thành.
Ai đậu kỳ thi ấy
Được tham dự thi Đình.

Thi Đình chọn tiến sĩ,
Với ba ngôi hàng đầu
Là Trạng Nguyên, Bảng Nhãn
Và Thám Hoa xếp sau.

Những người đậu tiến sĩ
Được nhà vua tặng quà,
Ban áo mũ, tước phẩm,
Vinh quy thăm mẹ cha.

Thời Lê sơ tổ chức
Hăm sáu khoa thi Đình,
Chọn gần nghìn tiến sĩ
Trong vô vàn thí sinh.

Mà thi thời ấy khác,
Khác hẳn thi bây giờ.
Mỗi người một lều chõng,
Và chỉ thi văn, thơ…

Đây là giai đoạn hiếm
Phát triển của non sông,
Đặc biệt dưới triều đại
Của vua Lê Thánh Tông.

Bây giờ ông sẽ kể
Câu chuyện ông vua này.
Một vua hiền, tài giỏi
Loại hiếm có xưa nay.

*
Lê Thánh Tông hoàng đế,
Tên thật Lê Tư Thành,
Một nhà văn hóa lớn,
Một ông vua anh minh.

Ngài đã đưa dân tộc
Lên một kỷ nguyên vàng
Của thời đại phong kiến,
Một trang sử vẻ vang.

Ngài tiến hành cải cách
Nhiều lĩnh vực, nhiều ngành,
Còn mở mang bờ cõi,
Chiếm kinh đô Chiêm Thành.

Mẹ Ngài suýt bị hại
Vì chỉ là tiệp dư,
Nếu không có Nguyễn Trãi
Và Thị Lộ nhân từ.

Hai mẹ con được họ
Đưa đến chùa Huy Văn,
Nay Đống Đa, Hà Nội,
Lánh nạn, sống thanh bần.

Ngẫu nhiên do phe cánh,
Mà Ngài được lên ngôi,
Niên hiệu là Quang Thuận,
Năm Một Bốn Sáu mươi.

Vua liền cho xét lại
Vụ án Lệ Chi Viên.
Minh oan cho Thị Lộ,
Phục danh người đức hiền.

Ngài phục danh, lập miếu
Thờ Nguyễn Trãi ân nhân.
Con cái Trần Nguyên Hãn
Và các vị công thần

Trước từng theo Lê Lợi,
Bị kẻ xấu giết oan,
Giờ được cấp ruộng đất
Và mời ra làm quan.

Những ai trước đổi họ
Thành họ Lê, bây giờ
Có thể dùng họ cũ
Mà không bị nghi ngờ.

Ngài cho sắp xếp lại
Các chức quan trong triều.
Ai đến sáu lăm tuổi
Đều thôi chức, về hưu. 

Lệ cha truyền con nối
Các chức tước xưa nay
Cũng bị Ngài hủy bỏ.
Nhiều người ghét việc này.

Quan phải là người giỏi.
Mở thi chọn nhân tài.
Giỏi mới làm được việc -
Đó là lệnh của Ngài.

Vua đặc biệt chú trọng
Làm ruộng và chăn tằm,
Bắt khai hoang, thêm vụ,
Để có ăn quanh năm.

Ngài còn ra chỉ dụ
Tổ chức lễ hạ điền,
Tức xuống ruộng cày cấy.
Quan phải làm đầu tiên.

Ở mỗi đạo, tức tỉnh,
Vua lập nhà Tế Sinh
Nuôi người già đơn độc,
Cấp thuốc lúc bệnh tình.

Ở nơi nào có dịch,
Quan phải đến tận nơi
Bốc thuốc và châm cứu
Cho từng nhà, từng người.

Thời ấy dân mộ Phật,
Thường có lệ quyên tiền
Xây thêm chùa, vua nói
Đó là điều không nên.

Rằng mộ Phật là tốt,
Nhưng nên mộ trong lòng,
Để tiền làm việc khác,
Nhất là những việc công.

Ngài còn cấm người sống
Khi tổ chức ma chay
Không bày trò đàn sáo
Và ăn uống suốt ngày.

Ngài nói, đã nhận lễ
Thì phải cho rước dâu,
Không bắt người ta đợi
Đến ba bốn năm sau.

Để cư xử đúng mực,
Ngài đặt hăm bốn điều,
Các quan phải giảng giải,
Làm trước để dân theo.

Vua bắt mười hai đạo
Vẽ bản đồ đạo nhà,
Có ghi rõ sông núi,
Thành bản đồ quốc gia.

Ngài đích thân xuống chiếu
Yêu cầu Ngô Sĩ Liên
Viết Đại Việt Sử Ký
Mười lăm quyển, nhiều thiên.

Năm quyển thời Bắc Thuộc.
Mười quyển từ Ngô Quyền
Đến vua Lê Thái Tổ,
Viết theo dạng biên niên.

Vua rất trọng giáo dục,
Khuyến khích học Ngũ Kinh,
Thường đứng làm chủ khảo
Trong các kỳ thi Đình.

Ngài lập lệ danh xướng,
Đọc tên các ông Nghè.
Ai đậu thì ở lại,
Ai trượt phải ra về.

Các ông Nghè, Tiến sĩ
Được Ngài mời vào cung,
Ban áo mũ, dự tiệc,
Thật vinh dự vô cùng.

Rồi vinh qui, mũ lọng,
Họ trở về quê nhà,
Cảm ơn thầy dạy dỗ,
Bái tổ tiên, mẹ cha.

Lê Thánh Tông cổ xúy
Việc thi cử, học hành.
Rất nhiều người đỗ đạt
Rồi thành công, thành danh.

Ông là người khởi xướng
Việc dựng bia ghi tên
Các tiến sĩ Văn Miếu,
Để khích lệ người hiền.

Vua cho xây thư viện
Ở khu Thái Học đường,
Ngay phía sau Văn Miếu,
Vốn xưa là ngôi trường.

Ngài còn xây ký túc
Cho người xa tới đây.
Việc ăn ở và học
Ở ngay trong khu này.

Lê Thánh Tông hoàng đế
Còn là một nhà thơ.
Hơn thế, nhà thơ lớn,
Được yêu đến bây giờ.

Thơ Ngài đẹp, ý nhị,
Uyên thâm mà trữ tình,
Như bức tranh thủy mặc,
Ý và lời lung linh.

Cùng hăm bảy vị khác,
Ngài lập Hội Tao Đàn
Gồm nhị thập bát tú,
Câu lạc bộ thơ quan.

Vua tôi thường xướng họa.
Quan có Thân Nhân Trung,
Đỗ Nhuận và Thái Thuận...
Thật tao nhã vô cùng.            

Rất ham mê văn học,
Nhưng không quên việc binh,
Vua nhắc phải luyện võ
Ngay cả trong thời bình.

Ngài mở hội thi võ,
Cứ ba năm một lần.
Ai trượt bị giáng chức,
Ai đỗ được thăng quan.

Nhờ thế mà tướng sĩ
Rất ham mê tập tành,
Vừa khỏe, vừa đắc dụng
Khi đất nước chiến tranh.

Gây sự với Đại Việt,
Năm một bốn bảy không,
Cùng mười vạn quân thủy,
Vua Chiêm Thành tấn công.

Hắn còn lén sai sứ
Sang cầu cứu nhà Minh.
Cùng hai mươi vạn lính,
Ngài quyết đánh Chiêm Thành.

Tháng Ba năm bảy mốt
Ngài chiếm được Đồ Bàn.
Kinh đô Chiêm thất thủ,
Lính chết hàng chục ngàn.

Ngài nhập vào Đại Việt
Cả miền Bắc nước Chiêm,
Mãi đến tận vùng đất
Nay là tỉnh Phú Yên.

Năm một bốn bảy chín,
Lại có loạn Ai Lao.
Ngài sai Lê Thọ Vực
Năm hướng đánh sang Lào.

Quân Đại Việt đại thắng.
Ai Lao và Chiêm Thành
Đều chấp nhận cống nạp.
Đất nước được hòa bình.

Một đóng góp quan trọng
Của vua Lê Thánh Tông
Là Bộ luật Hồng Đức,
Biên soạn rất dày công.

So với các luật trước,
Luật này tốt hơn nhiều,
Gồm mười ba chương lớn
Và hơn bảy trăm điều.

Nền tảng của bộ luật
Là tư tưởng Đạo Nho,
Luôn lấy dân làm gốc
Để xây dựng cơ đồ.

Một, giữ nghiêm phép nước.
Hai, chống giặc ngoại xâm.
Ba, chấn hưng nông nghiệp.
Bốn, lo công, thương, lâm.

Năm, bài trừ tham nhũng.
Sáu, bảo vệ thuần phong.
Bảy, bênh vực phụ nữ.
Tám, xét xử khoan hồng.        

Ngài nói: “Luật bình đẳng
Với tất cả mọi người,
Với dân chúng cả nước,
Cả ta và các ngươi”.

Có lần Ngài cách chức
Một đô đốc, quan to,
Chỉ vì con người ấy
Có hành vi côn đồ.

Năm một bốn chín bảy
Lê Thánh Tông qua đời,
Hưởng thọ năm lăm tuổi,
Sự nghiệp vẫn sáng ngời.

Là anh hùng dân tộc,
Là một vị anh quân,
Một nhà chiến lược lớn
Với tâm hồn thi nhân,

Vua chấn hưng văn hóa,
Mở mang đất nước mình.
Trong nhị thập bát tú,
Là vì sao lung linh.


18
CÁC NHÂN VẬT NỔI TIẾNG ĐỜI LÊ SƠ

Hôm nay ông sẽ kể
Về một người tài ba,
Là thi hào Nguyễn Trãi,
Làm vẻ vang nước nhà.

Ông là nhà quân sự,
Nhà chính trị đại tài,
Một anh hùng dân tộc,
Có số phận bi ai.

Tiếp đến ông sẽ kể,
Dẫu qua loa vài lời,
Về một số nhân vật
Để tiếng tốt cho đời.


NGUYỄN TRÃI (1380 – 1442)

Khi nói đến Nguyễn Trãi,
Là nói đến người hiền,
Một nhà văn hóa lớn
Và vụ Lệ Chi Viên.        

Ông xuất thân cao quí,
Con của Nguyễn Phi Khanh,
Cháu ngoại Trần Nguyên Đán,
Rất giỏi đường học hành.

Ông sinh ở Chí Ngại,
Huyện Chí Linh, Hải Dương,
Sau chuyển về Thường Tín,
Sống cuộc sống dân thường.

Khi nhà Hồ thành lập,
Bố ông ra làm quan,     
Đứng đầu Quốc Tử Giám,
Được xem là công thần.

Cùng lúc ấy Nguyễn Trãi
Thi đỗ Thái học sinh,
Được bổ làm Chính Chưởng
Nhờ uyên bác, thông minh.

Khi nhà Hồ sụp đổ,
Cùng nhiều quan hàng đầu
Bố ông bị giặc bắt
Rồi đưa về nước Tàu.

Từ Một Bốn Không Bảy
Ông phiêu bạt đó đây.
Không ai biết Nguyễn Trãi
Làm gì thời gian này.    

Năm Một Bốn Một Sáu,
Trong Hội thề Lũng Nhai,
Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi,
Anh tài gặp anh tài.

Ông đã trình Lê Lợi
Ba lời khuyên Bình Ngô,
Hết lòng giúp minh chúa        
Xây dựng lại cơ đồ.

Ông là quân sư giỏi,
Một nhà ngoại giao tài,
Người có công rất lớn
Đưa Lê Lợi lên ngai.

Khi công thành danh toại,
Triều nhà Lê, tiếc thay,
Bắt đầu chia phe cánh,
Mâu thuẫn tăng hàng ngày.

Năm Một Bốn Hai Chín,
Trần Nguyên Hãn quyên sinh
Khi Lê Lợi xuống chiếu
Bắt giam người bạn mình.

Nghe lời bọn xu nịnh,
Vua giết bạn thứ hai
Là tướng Phạm Văn Xảo,
Liêm khiết và có tài.

Rồi nhiều công thần khác,
Liên quan hai người này,
Cũng bị giết thê thảm,
Kêu trời, trời có hay.

Đại công thần Nguyễn Trãi
Cũng bị vua giam cầm,
Xem thường, không sử dụng
Và quên lãng nhiều năm.

Khi Lê Thái Tổ mất,
Lê Thái Tông lên thay,
Nguyễn Trãi được trọng dụng,
Dạy cho ông vua này.   

Nhưng rồi lại phe cánh,
Lại chước quỉ mưu ma,
Nguyễn Trãi lại thất sủng
Vì những lời gièm pha.

Năm Một Bốn Ba Tám,
Ông lui về Côn Sơn,
Điền trang của ông ngoại,
Giữa rừng thông xanh rờn.

Và rồi cuối cùng đến
Cái án được lưu truyền
Như tiếng kêu oan ức -
Vụ án Lệ Chi Viên.

Năm Bốn Hai, tháng Chín,
Hai mươi tuổi, Thái Tông
Cùng một đoàn bộ xậu,
Đi tuần ở miền Đông.

Đến Chí Linh, Nguyễn Trãi
Mời vua ghé chơi chùa.
Lúc về, nàng Thị Lộ
Ông cho theo hầu vua.

Nguyễn Thị Lộ lúc ấy
Đã bốn mươi tuổi đời,
Là thiếp của Nguyễn Trãi,
Đa tình và xinh tươi.

Phần vì đẹp, khéo nói,
Phần vì tài văn chương,
Bà được vua gần gũi
Và yêu quí khác thường.

Giữa đường vua dừng lại
Ở quán Lệ Chi Viên,
Tức là quán Vườn Vải,
Nghỉ ngơi và định thiền.

Đêm hôm ấy, bất chợt
Vua đổ bệnh, qua đời.
Chỉ một mình Thị Lộ
Luôn túc trực bên người.

Đến nay vẫn chưa biết
Vì sao vua băng hà.
Chỉ hai người, vua chết
Bên bà, hay trên bà?    

Rồi bà và Nguyễn Trãi
Bị buộc tội tày trời,
Lệnh tru di tam tộc,
Giết ba họ, ba đời.

Mười mấy ngày sau đó,
Lệnh đã được thi hành.
Nguyễn Trãi cùng ba họ
Bị nhà Lê hành hình.

Một anh hùng dân tộc,
Một khai quốc công thần
Đã bị giết thế đấy,
Vô lý và bất nhân.

Ngẫm mà thương số phận
Của các bậc đại thần
Cái thời mông muội ấy,
Cái thời vua hôn quân.

Phù vua và cứu chúa,
Để đưa vua lên ngai.
Vua nhỏ nhen, quay lại
Giết các bậc hiền tài.    

Sau khi Nguyễn Trãi chết,
Các tác phẩm của ông
Bị đốt sạch, phá sạch -
Một cảnh tượng đau lòng.

Những áng thơ tuyệt đẹp
Của một đại thi nhân
Bị biến thành tro bụi
Như xưa ở nước Tần.

Hăm hai năm sau đó,
Lê Thánh Tông lên ngôi,
Minh oan cho Nguyễn Trãi,
Nhưng cũng việc đã rồi.

*
Có truyền thuyết kể lại,
Bố ông, Nguyễn Phi Khanh,
Xưa làm nghề dạy học,
Định cuốc vườn cỏ gianh.

Đêm ông mơ, bất chợt
Có một người đàn bà
Dẫn theo một lũ trẻ
Đến nằn nì xin tha.

Bà xin ông hoãn lại
Thư thư một vài ngày
Để bà tìm chỗ mới
Đi khỏi khu vườn này.

Sáng dậy ông đã thấy,
Lúc dọn vườn, học trò
Giết chết một bầy rắn.
Ông giật mình, thấy lo.

Tối ấy, khi đọc sách
Có con rắn để rơi
Từ trên xà giọt máu,
Rơi xuống đúng chữ “đời”.

Giọt máu trên cuốn sách
Thấm xuống đúng ba trang.
Ông lờ mờ chợt hiểu,
Ngồi lặng yên, bàng hoàng.

Về sau con rắn ấy,
Với ý định trả thù,
Biến thành Nguyễn Thị Lộ,
Đưa ba họ vào tù.         

Khi bà Nguyễn Thị Lộ
Bị dìm chết dưới sông,
Bà lại thành con rắn,
Lẩn trốn dưới đám rong.

Theo các nhà sử học,
Truyền thuyết này lạ đời.
Do nhà Lê bịa đặt
Để lừa dối mọi người.

Sự thật thì vụ án
Do nhà Lê gây ra
Do tranh giành quyền lực
Trong nội bộ hoàng gia.

Chỉ oan cho Thị Lộ,
Phi lý và bất ngờ.
Một vụ án oan khuất.
Đau đến tận bây giờ.


TRẦN NGUYÊN HÃN (? – 1429)

Một trong mười chín vị
Dự Hội thề Lũng Nhai,
Ông là một danh tướng,
Có đức và có tài.

Ông chiến đấu dũng cảm,
Không quản ngại hy sinh
Giúp chủ tướng Lê Lợi
Đánh bại giặc nhà Minh.

Thế mà đời oan nghiệt,
Khi kháng chiến thành công,
Chính vị chủ tướng ấy
Đã nỡ lòng giết ông.

Lời thề Lũng Nhai ấy,
Hỡi ôi nay còn đâu?
Thương cho Trần Nguyên Hãn
Dưới chín suối ngậm sầu.

Xuất thân, Trần Nguyên Hãn
Là dòng dõi họ Trần,
Chắt của Trần Quang Khải,
Nguyễn Trãi - bà con gần.

Ông sinh ở Lập Thạch,
Tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay.
Có một số học giả
Không nhất trí điều này.

Sách cũ có kể lại
Ông gánh dầu bán rong,
Tìm người chung chí hướng
Bàn kế cứu non sông.

Cuối cùng Trần Nguyên Hãn
Và Nguyễn Trãi tiên sinh
Hội tụ với Lê Lợi
Cùng chống giặc nhà Minh.

“Tang Thương Ngẫu Lục” chép
Rằng Nguyễn Trãi và ông
Lần đầu gặp Lê Lợi      
Rất không vui trong lòng

Khi thấy vị chủ tướng
Xé thịt ăn bằng tay,
Nhồm nhoàm và thô lỗ,
Nên họ bỏ đi ngay.

Lần thứ hai, khi đến
Thấy Lê Lợi mải mê
Đọc binh thư không chán,
Họ ở lại, không về.

Hai ông được trọng dụng.
Nguyễn Trãi làm quân sư.
Nguyên Hãn làm soái tướng
Gian khổ chẳng hề từ.

Khi còn ở Thuận Hóa,
Ông đánh bại quân Minh,
Dù quân chúng áp đảo,
Trong trận đánh Tân Bình.

Sau đó là chiến thắng
Trong trận Đông Bộ Đầu
Khi ông và Lê Lợi
Đánh ra Bắc cùng nhau.

Ông cũng là chủ soái
Trận đánh thành Xương Giang,
Một trận đánh quyết định
Khiến giặc phải đầu hàng.

Về chức, sau Lê Lợi,
Trần Nguyên Hãn thứ hai,
Cao hơn cả Nguyễn Trãi,
Tạm gác chuyện đức, tài.

Trong danh sách Đại Việt
Ở Hội thề Đông Quan,
Ông chỉ sau Lê Lợi
Khi hai bên nghị bàn.

Năm Một Bốn Hai Chín,
Ông xin phép nhà vua
Được lui về trí sĩ,
Bên vườn thuốc, sân chùa.

Có sách bảo ông nói,
Rằng Lê Lợi bề ngoài
Giống Việt vương Câu Tiễn,
Nên khó ở với ngài.

Câu Tiễn mép như quạ,
Ranh ma, không thực lòng.
Có thể ông nói thế.
Cũng có thể là không.

Hơn thế, vua khó chịu
Khi thấy ông xây nhà
To đẹp như phủ đệ
Mà nghĩ chắc gian tà.

Vua nghi ông phản nghịch,
Nên ra lệnh bắt ông.
Giữa đường ông tự tử
Bằng cách nhảy xuống sông.

Trước khi chết ông nói:
“Hoàng thượng đã cùng ta
Xưa vào sinh ra tử,
Nay nghe lời gièm pha

Mà bắt ta phải chết.
Hỏi trời, trời biết không?”
Trời chưa kịp đáp lại
Thì nước đã dìm ông.

Về sau, Trần Nguyên Hãn
Được nhà Lê minh oan.
Nhưng con cháu nhất mực
Không chịu ra làm quan.

Lê Lợi là minh chủ,
Có lúc đã không minh,
Nhưng nhân dân yêu quí
Vị tướng giỏi của mình.

Nhiều nơi trong cả nước,
Nhất là vùng Sơn Đông,
Nơi ông đã tự tử,
Dựng đền thờ thờ ông.


NGÔ SĨ LIÊN (thế kỷ 15)

Nhà sử học nổi tiếng,
Ông là người hiền tài,
Thi và đậu tiến sĩ
Năm Một Bốn Bốn Hai.

Ông người làng Chúc Lý,
Huyện Chương Mỹ ngày nay,
Chết, thọ chín tám tuổi,
Tuổi hiếm vào thời này.

Ông là tác giả chính
Bộ Sử ký Toàn Thư
Của đất nước Đại Việt,
Gồm hàng chục vạn từ.

Bộ sử mười lăm quyển,
Gồm từ thời Hồng Bàng
Đến Một Bốn Hai Bảy,
Sử nước nhà vẻ vang.

Như nhiều chí sĩ khác
Sống cùng thời với ông,
Ông theo, giúp Lê Lợi
Cho đến khi thành công.

Nhờ ăn nói tài giỏi,
Ông được vua nhiều lần
Gặp giặc Minh, thương thuyết,
Thay mặt cho nghĩa quân.

Ông và Nguyễn Nhữ Soạn,
Em Nguyễn Trãi Tiên sinh
Được giao việc ghi chép
Việc đời và việc binh.


LƯƠNG THẾ VINH (1441 – 1496)

Lương Thế Vinh đỗ Trạng
Năm Một Bốn Sáu Ba,
Học giỏi, hiểu biết rộng,
Lịch thiệp và tài hoa.

Ông là nhà toán học
Nổi tiếng thời Lê sơ,
Viết Đại Thành Toán Pháp,
Giá trị đến bây giờ.

Ông nghiên cứu về Phật,
Viết Thiền Môn Giáo Khoa,
Về triết lý Phật Giáo
Trong lịch sử nước nhà.

Ông còn viết thơ vịnh
Lúc nghỉ ngơi, an nhàn.
Là một trong hăm tám
Tinh tú Hội Tao Đàn.

Là con người xuất chúng
Với trí tuệ phi thường,
Được nhân dân trìu mến
Gọi ông là Trạng Lường.

*
Ông sinh ở Thiên Bản,
Huyện Vụ Bản bây giờ,
Năm Một Bốn Bốn Một.
Nhỏ, đã biết làm thơ.

Ông nổi tiếng nghịch ngợm
Giỏi về môn thả diều.
Sáng dạ, học rất khá,
Dù thường không học nhiều.

Một lần đang chơi bóng.
Bóng rơi xuống hố sâu,
Không thể lấy lên được,
Mọi người đứng nhìn nhau.

Ông lặng lẽ lấy nước
Đổ xuống hố, tất nhiên,
Nước làm quả bóng nổi.
Chỉ cúi xuống nhặt lên.

*
Có truyền thuyết kể lại,
Sứ nhà Minh, Chu Hy,
Nghe tiếng ông tài giỏi,
Không tin, nhưng hiếu kỳ,

Bèn thách ông có thể
Cân con voi được không.
Ông cho voi bước xuống
Chiếc thuyền lớn trên sông,

Rồi đánh dấu ngấn nước.
Đưa voi lên, rồi thay
Con voi bằng đá hộc,
Đúng đến ngấn nước này.

Bây giờ thì đơn giản,
Cân đống đá là xong.
Sứ Minh nhìn, phục lắm,
Nhưng còn muốn thử ông.

Hắn chỉ một trang giấy
Trong cuốn sách khá dày,
Rồi nhờ ông đo thử
Độ dày tờ giấy này.

Ông đã làm việc đó
Rất nhanh và dễ dàng,
Bằng cách đo cả cuốn
Rồi chia cho số trang.

Vị sứ thần kiêu ngạo,
Chỉ còn biết thở dài:
“Nước Nam tuy nhỏ bé,
Mà thật lắm người tài.

Năm Một Bốn Chín Sáu
Lương Thế Vinh qua đời,
Hưởng thọ năm lăm tuổi.
Một con người tuyệt vời.


18
MẠC ĐĂNG DUNG (1483 – 1541)

Thời Lê Sơ thịnh trị
Kéo dài mấy mươi năm
Rất tiếc đã kết thúc
Cuối thế kỷ mười lăm.

Cũng bắt đầu từ đó
Nhà Lê suy thoái dần.
Vua quan lo hưởng lạc,
Không quan tâm đến dân.

Như vua Lê Uy Mục,
Đêm nào cũng tiệc tùng,
Khi uống say, cầm kiếm
Rồi chém giết lung tung.

Nội bộ thì chia rẽ,
Các phe phái tranh quyền.
Công thần xưa bị giết,
Lòng dân rất không yên.

Dười triều Lê Tương Dực,
Trịnh Duy Sản cầm đầu
Một phe phái hiếu chiến,
Suốt mười năm đánh nhau.

Năm Một Năm Một Bảy
Dân chết đói đầy đường,
Thậm chí ở vựa lúa
Kinh Bắc và Hải Dương.

Có nhiều cuộc khởi nghĩa.
Bắt đầu là Nguyễn Tuân
Năm Một Năm Một Một,
Thu hút hàng vạn dân.

Có lần quân khởi nghĩa
Đi thành đoàn rất đông,
Từ Sơn Tây kéo xuống
Uy hiếp thành Thăng Long.

Chỉ một năm sau đó,
Trịnh Hưng và Lê Hy
Nổi lên ở xứ Nghệ,
Sau lan ra Bắc Kỳ.

Ở vùng núi Tam Đảo,
Năm Một Năm Một Năm,
Phùng Chương dấy khởi nghĩa,
Cũng gây được tiếng tăm.

Nhưng quan trọng hơn cả
Là Trần Cảo, Quảng Ninh,
Năm Một Năm Một Sáu,
Với rất nhiều nghĩa binh.

Đầu họ được cạo trọc,
Chỉ chừa ba chỏm con,
Gọi là Quân Ba Chỏm,
Danh tiếng nổi như cồn.

Quân và tướng Ba Chỏm
Đã ba lần tấn công,
Trong đó một lần thắng,
Chiếm được thành Thăng Long.

Vua Lê phải bỏ chạy
Vào Thanh Hóa thoát thân,
Rồi tổ chức chiếm lại,
Cuộc khởi nghĩa tắt dần.

Các cuộc khởi nghĩa ấy
Sớm muộn, bị dập tan.
Nhưng chính chúng đã khiến
Nhà Lê chóng suy tàn.

*
Trong bối cảnh tranh chấp
Các phe phái cung đình,
Cùng loạn lạc, khởi nghĩa,
Bất mãn của dân tình,

Xuất hiện một nhân vật,
Có khí phách anh hùng,
Vốn là một võ tướng.
Đó là Mạc Đăng Dung.

Ông nhanh chóng tiêu diệt
Các thế lực bất bình,
Giữ chức ngang tể tướng,
Nắm hết mọi quyền hành.

Năm Một Hai Năm Bảy,
Ông tiếm ngôi, xưng vương.
Bây giờ ông kể chuyện
Về người này phi thường.

*
Theo truyền thuyết kể lại,
Thì xưa Mạc Đăng Dung
Vốn dòng dõi quyền quí
Nhưng sau thành bần cùng.

Ông làm nghề đánh cá,
Bố mẹ nghề chèo đò.
Bến sông ấy rất rộng,
Thường sóng lớn, gió to.

Có một thầy địa lý,
Nghe đâu là người Tàu,
Được hai người cứu sống,
Nên mang nặng ân sâu.

Để trả ơn, họ mách
Phải táng mộ ông bà
Vào chỗ có long mạch,
Sau sẽ thành vương gia.

Mạc Đăng Dung lập tức
Đem cốt tổ tiên mình
Táng vào nơi được chỉ,
Mong có ngày hiển vinh.

Năm sau, thầy địa lý
Quay lại và bảo ông
Đem một quan tiền mới,
Tức đúng một trăm đồng

Ra ngồi trên con dốc
Cách không xa bến đò,
Thấy ai vác chữ “khẩu”
Trên lưng mình, thì cho.

Ông chờ mãi, chỉ thấy
Một ông lão ra sông,
Đeo trên vai chiếc dặm.
Ông cho ba mươi đồng.

Chiều tối, ông lão ấy
Quay về, ông lại cho
Thêm ba lăm đồng nữa,
Rồi đi xuống chèo đò.

Tối về, nghe kể lại,
Thầy địa lý lầm bầm:
“Vậy nhà ông chỉ được
Làm vua sáu lăm năm.”

*
Đức vua Mạc Thái Tổ
Tên húy Mạc Đăng Dung,
Quê nơi nay là đất
Huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

Theo các tài liệu sử,
Ông là cháu bảy đời
Một trạng nguyên nổi tiếng -
Mạc Đỉnh Chi hơn người.

Ông thời bé nghèo khổ,
Chuyên chài lưới kiếm ăn,
Sau lớn lên, khỏe mạnh,
Đỗ “Lực sĩ xuất thân.”

Rồi thành quân túc vệ
Vào thời nhà Hậu Lê,
Đời vua Lê Uy Mục,
Đang rối ren trăm bề.

Nhờ thông minh, tài giỏi,
Được hoàng gia tin yêu,
Ông nhanh chóng thăng chức
Thành quan lớn trong triều.

Nhà Hậu Lê thời ấy
Yếu hèn và rối tung,
Và dần dần quyền lực
Vào tay Mạc Đăng Dung.

Năm Một Năm Hai bảy,
Ông tiếm ngôi nhà Lê,
Lấy hiệu Mạc Thái Tổ,
Lúc thọ địch bốn bề.

Ông đúc tiền Thông Bảo,
Lo chấn chỉnh triều đình.
Thành Hải Dương được chọn
Làm kinh đô - Dương Kinh.

Năm Một Năm Hai Bảy
Ông nhường con ngai vàng.
Mạc Thái Tông kế vị,
Ông thành Thái thượng hoàng.

Năm Một Năm Bốn Mốt
Mạc Đăng Dung băng hà,
Hưởng thọ năm chín tuổi,
Và trước lúc đi xa

Ông dặn Mạc Phúc Hải
Không lập đàn ma chay,
Mà lo việc xã tắc,
Xây dựng nước sau này.

Như thầy địa lý nọ
Có lần đã lầm bầm,
Các vua Mạc cai trị
Tất cả sáu lăm năm.

*
“Toàn thư” nói nhà Mạc
Đem đất đai nước mình,
Gồm hai châu Quy, Thuận,
Nhục nhã dâng nhà Minh.

Thực ra hai châu ấy
Thủ lĩnh Nùng Trí Cao
Và anh, Nùng Trí Hội,
Dâng Tống từ đời nào.

Người đời sau xác nhận
Ông chỉ nhường ngoại bang
Năm hang động không lớn
Thuộc vùng đất Cao Bằng.

Mà rồi năm hang ấy
Vốn không phải đất mình,
Mà do Đại Việt lấn,
Giờ trả lại nhà Minh.

Ông còn bị chê trách
Vì tự trói, đầu hàng,
Dâng cho giặc đồ cống
Cùng hai bức tượng vàng.

Vì sao ông làm vậy?
Vì nhà Lê, hai lần,
Cầu nhà Minh đánh Mạc,
Mất nước và khổ dân.

Thấy lực mình đang yếu,
Muốn tránh cảnh can qua,
Vua Mạc đành nén nhục,
Quì gối xin giảng hòa.

Nhục, một mình vua chịu,
Mang tiếng xấu với đời,
Nhưng dân tình thoát khỏi
Cảnh máu chảy, đầu rơi.        

Sau cái nhục lần ấy,
Tự trói mình xin hòa,
Ông xấu hổ, lâm bệnh
Một năm rồi băng hà.

Giống như Trần Thủ Độ
Và cả Hồ Quý Ly,
Ông tiếm ngôi người khác,
Hoàn toàn không khác gì.

Vua các triều đại trước
Đã mục ruỗng, yếu hèn.
Theo qui luật lịch sử
Thì triều khác sẽ lên.

Tuy nhiên, có điều khác:
Truất ngôi Lê Cung Hoàng,
Mạc Đăng Dung không giết
Các đại thần quy hàng.

Ông cũng không hề giết
Một ai trong hoàng gia.
Một sự kiện hiếm có
Trong lịch sử nước nhà.

Những di sản kiến trúc
Và văn hóa Lê Sơ
Ông không hề phá hủy,
Nên còn mãi đến giờ.

*
Đức vua Mạc Thái Tổ
Có một thanh Long Đao
Bây giờ còn giữ được,
Thật quí giá nhường nào.

Cháu con ông giữ nó
Suốt năm trăm năm qua,
Nay thờ ở Kiến Thụy
Như vật báu quốc gia.

Đao dài hai mét rưỡi,
Nặng gần ba mươi cân,
Cán làm bằng sắt rỗng
Có chạm hình long vân.

Thanh đao của Quan Vũ
Được nói đến nhiều lần,
Tức Long Đao Yển Nguyệt,
Cũng chỉ ba bảy cân.

Châu Á giờ chỉ có
Hai long đao thế này.
Đao kia thuộc nước Tống,
Ở Trung Quốc ngày nay.


19
NAM BẮC TRIỀU VÀ ĐÀNG TRONG,
ĐÀNG NGOÀI

Khi vua Lê bị phế,
Hầu hết các cựu thần
Đều đi theo nhà Mạc
Hay bỏ chạy thoát thân.

Nguyễn Kim, một tướng cũ,
Rời bỏ xứ Bắc Hà
Vào Tây Bắc Thanh Hóa
Năm Một Năm Ba Ba.

Ông tìm được dòng dõi
Của vua Lê, và ông
Tôn lên thành vua mới,
Gọi là Lê Trang Tông.

Được vua Lào, Sạ Đẩu,
Cho mượn đất Sầm Châu
Để làm căn cứ tạm.
Và một thời gian sau,

Ông đánh chiếm Thanh Hóa,
Mở rộng đất, dần dần
Lập nên một triều mới,
Đóng đô ở Thọ Xuân.

Với danh nghĩa diệt Mạc
Để khôi phục nhà Lê,
Ông tiến hành cuộc chiến
Gây hậu quả nặng nề.

Cuộc chiến ấy được gọi
Chiến tranh Nam - Bắc triều.
Sáu mươi năm dai dẳng,
Làm đất nước tiêu điều.

Hàng tướng Dương Chấp Nhất
Đầu độc ông, Nguyễn Kim,
Năm Bốn Lăm, sau đó
Trịnh Kiểm lên cầm quyền.

Trịnh Kiểm là con rể,
Một vị tướng có tài,
Quyết tiếp tục đeo đuổi
Cuộc chiến tranh kéo dài.

Năm Một Năm Bốn Sáu
Mạc Hiến Tông qua đời.
Triều đình Mạc chia rẽ
Khi chọn người kế ngôi.

Nam Triều nhân cơ hội
Chiếm Nghệ An nhẹ nhàng.
Năm Bảy Hai, Thuận Hóa
Rơi vào tay Nguyễn Hoàng.

Nguyễn Hoàng là con thứ
Của Nguyễn Kim, về sau
Lập nên các chúa Nguyễn
Miền Nam thời kỳ đầu.

Nhưng rồi Trịnh Kiểm chết
Năm Một Năm Bảy Mươi.
Con, Trịnh Tùng, Trịnh Cối
Đánh nhau để giành ngôi.

Trịnh Cối sang hàng Mạc.
Trịnh Tùng lên thay cha.
Cuộc chiến cứ dai dẳng,
Hết đánh rồi lại hòa.

Cuối cùng nó chấm dứt
Năm Một Năm Chín Hai.
Thành Thăng Long bị chiếm.
Nhà Mạc thua, chạy dài,

Lên Cao Bằng cố thủ,
Sống chung với người Man.
Năm Một Sáu Bảy Bảy
Mới chấm dứt hoàn toàn.


TRỊNH - NGUYỄN PHÂN TRANH

Sau khi Nguyễn Kim chết,
Rể, Trịnh Kiểm lên thay.
Ông cũng là đầu mối
Cuộc phân tranh sau này

Giữa hai họ Trịnh, Nguyễn,
Giữa miền Bắc, miền Nam,
Làm đất nước chia cắt
Suốt hơn một trăm năm.

Ông mồ côi từ bé,
Quê Vĩnh Lộc, xứ Thanh.
Thời nhỏ nghèo, khổ cực,
Cũng chẳng được học hành.

Ông là người có hiếu,
Làm thuê nuôi mẹ già.
Sau lớn lên, kiếm sống,
Lưu lạc ra Bắc Hà.

Ông đầu quân làm lính
Cho tướng quân Nguyễn Kim,
Có tài và dũng cảm,
Được Nguyễn Kim rất tin.

Alexandre De Rhodes kể:
“Một lần bị bao vây,
Tướng Nguyễn Kim tuyên bố
Với các tướng thế này:

Ai mở dám đường máu
Cứu được ta, về sau
Ta sẽ gả con gái
Và cho ghi công đầu.”

Trịnh Kiểm liền phi ngựa
Xông vào giặc, tung hoành,
Luôn tả xung, hữu đột,
Cứu được chúa của mình.

Nguyễn Kim, y lời hứa,
Gả con gái cho ông,
Tin yêu, giao trọng trách,
Lập được nhiều chiến công.”

Ông là người độc ác,
Nỡ giết cả Nguyễn Uông,
Tức là giết anh vợ,
Mà không chút xót thương.

Cũng lo anh vợ giết
Mà Nguyễn Hoàng, người em,
Xin vào đánh Thuận Hóa,
Theo lời Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Đất Thuận Hóa lúc ấy
Hoang vu và xa xăm,
Do nhà Mạc quản lý.
Kiểm đồng ý, mong thầm

Hoàng sẽ bị giết chết.
Thế mà không, Nguyễn Hoàng
Không những không bị giết,
Còn bám trụ vững vàng.

Hoàng đánh bại quân Mạc,
Thu phục được lòng dân,
Mở rộng vùng chiếm đóng,
Thanh thế càng lớn dần.

Ông bắt đầu bất chấp
Các lệnh từ Thăng Long.
Tự mình cai quản xứ
Sau gọi là Đàng Trong.

*
Một cuộc chiến tranh mới
Thế là đã hình thành.
Chiến trường ác liệt nhất
Là Hà Tĩnh, Quảng Bình.

Từ Một Sáu Hai Bảy
Đến Một Sáu Bảy Hai
Có bảy lần đánh lớn,
Ác liệt và kéo dài.

Nhân dân rất cơ cực
Vì binh đao, mất mùa.
Hai bên đánh nhau mãi,
Nhưng bất phân thắng thua.

Cuối cùng tạm hòa hoãn.
Đất nước chia làm hai.
Sông Gianh là ranh giới
Đàng Trong và Đàng Ngoài.

*
Ngay sau khi kết thúc
Nam, Bắc Triều chiến tranh,
Trịnh Tùng xây phủ Chúa
Ngay bên cạnh triều đình.

Tùng nắm hết quyền lực.
Vua làm vì, làm hề.
Một dạng cai trị mới -
Chúa Trịnh và vua Lê.

Ở Đàng Trong, đất mới,
Bắt đầu từ Nguyễn Hoàng,
Kiểu cha truyền con nối,
Liên tục và vững vàng,

Các chúa Nguyễn cai trị,
Khai khẩn thêm đất đai.
Tình trạng chia cắt ấy
Cứ mặc nhiên kéo dài

Cho đến khi Nguyễn Huệ
Diệt Đàng Ngoài, Đàng Trong,
Cuối thế kỷ mười tám,
Mới thống nhất non sông.

*
Vậy là ông kể hết,
Dẫu chỉ một đôi điều
Về cuộc chiến được gọi
Giữa Nam và Bắc Triều.

Sau đó là giai đoạn
Chúa Trịnh, Nguyễn phân tranh.
Một trăm năm đất nước
Chia cắt bởi sông Gianh.


20
ĐẠO THIÊN CHÚA,
CHỮ QUỐC NGỮ VÀ CHỮ NÔM

Giữa thế kỷ Mười Sáu,
Từ châu Âu, thương gia
Đến làm ăn, buôn bán
Ở nhiều cảng nước ta.

Bắt đầu các giáo sĩ
Một số nước phương Tây
Đến Đại Việt truyền đạo
Cũng vào thời gian này.

Theo sử sách ghi lại,
Giáo sĩ Bồ Đào Nha
Có mặt sớm hơn cả,
Năm Một Năm Ba Ba.

Đó là đạo Thiên Chúa
Ở Giê-ru-xa-lem.
Chúa Giê-su sáng lập
Cách đây hai nghìn năm.

Đạo có ba nhánh lớn
Là Cơ-đốc, Tin Lành
Và Thiên Chúa Chính thống,
Được truyền bá rất nhanh.

Không ít vua Đại Việt
Ngăn cản nó, không thành.
Các giáo sĩ kiên nhẫn
Làm công việc của mình.

Dần dần đạo Thiên Chúa
Được nhiều người tin theo.
Số con chiên thờ Chúa
Và hành lễ càng nhiều.

Theo số liệu chính thức,
Ở nước ta hiện nay
Tám phần trăm dân số
Là tín đồ đạo này.

Chủ yếu đạo Cơ Đốc,
Tòa thánh ở Rô-ma.
Tín ngưỡng được nhà nước
Tôn trọng ở nước ta.

*
Với các nhà truyền đạo,
Các chúa Nguyễn Đàng Trong
Có tỏ ra ưu ái
Hơn Đàng Ngoài Thăng Long.

Ông nhớ vua Nguyễn Ánh
Nói một câu rất hay
Về đạo Cơ Đốc Giáo.
Đại khái ý thế này:

“Đạo Cơ Đốc tốt đẹp,
Rất hợp với lòng ta.
Nhưng ta không theo được,
Vì một lẽ, đó là

Theo đạo này, thật tiếc,
Chỉ một vợ một chồng.
Ta thì muốn hơn thế,
Dẫu ta nói thực lòng,

Rằng cai trị một nước
Dễ, đơn giản hơn nhiều
So với việc quản lý
Mấy bà vợ ta yêu.”


CHỮ QUỐC NGỮ

Thời ấy, các giáo sĩ,
Để truyền đạo của mình,
Đã chép âm tiếng Việt
Bằng chữ cái La-tinh.

Đây là việc không dễ,
Một quá trình lâu dài,
Có nhiều người góp sức,
Không riêng một mình ai.

Trước hết là giáo sĩ
Fran-si-sco Pi-na,
A-ma-ran, tiếp đến
Là cha Bac-bô-za.

Năm Một Sáu Năm Một
Từ điển Việt - La-tinh
Alexandre de Rodes soạn
Được in và lưu hành.

Ông mượn tiếng Hy Lạp
Các dấu Sắc, Ngã, Huyền
Để diễn tả âm ngữ
Rồi cho đánh lên trên.

Thấy thế vẫn chưa đủ,
Ông tự mình nghĩ ra
Các dấu Nặng và Hỏi
Cho hợp với tiếng ta.

Nhờ thế, chữ Quốc Ngữ
Được hoàn thiện, bấy giờ
Nó được dùng ghi chép
Các văn bản nhà thờ.

Tuy vậy, nhờ có cuốn
Từ điển Việt - Bồ - La,
Hơn trăm năm sau đó
Chữ quốc ngữ nước ta

Mới trở nên hoàn thiện,
Gần giống như ngày nay.
Một chữ viết thuận lợi,
Dễ sử dụng hàng ngày.

Nhân tiện, ông muốn kể
Đôi điều về cuộc đời
Cha Alexandre de Rodes,
Theo ông, rất tuyệt vời.

Ông vốn là người Pháp,
Sinh Một Năm Chín Ba.
Sau lớn, ông nhập đạo,
Dòng Tên ở Rô-ma.

Năm Một Sáu Một Chín
Giáo Hoàng đã phái ông
Đến Đông Dương truyền đạo,
Chủ yếu ở Đàng Trong.

Năm Một Sáu Hai Bốn,
Cùng các cha thừa sai,
Ông đi ra miền Bắc,
Truyền đạo ở Đàng Ngoài.

Bị vua Lê trục xuất
Năm Một Sáu Ba Mươi,
Ông sang Ma Cao sống
Trong suốt mười năm trời.

Sau đó ông được cử
Quay lại xứ Đàng Trong,
Năm Bốn Lăm, lần nữa
Người ta trục xuất ông.

Cuối đời, ông được phái
Truyền đạo ở I-ran.
Chết, thọ sáu ba tuổi
Ở thành Ix-pha-han.

Năm kia ông có việc
Sang I-ran mấy ngày.
Dù bận, nhưng có đến
Viếng mộ ông nơi này.


CHỮ NÔM

Đó là chữ Quốc Ngữ,
Được dùng đã nhiều năm.
Trước chúng ta đã có
Ngôn ngữ riêng, Quốc Âm.

Quốc Âm là thứ chữ
Mà bình thường người ta
Gọi chữ Nôm cho tiện.
Suốt nhiều thế kỷ qua

Các triều vua Đại Việt
Đã dùng thứ chữ này
Làm ngôn ngữ chính thức
Trong ghi chép hàng ngày.

Đó là thứ chữ viết
Được chính quyền, nhân dân
Dựa vào chữ người Hán
Mà phát triển dần dần.

Lúc đầu chỉ đơn giản
Mượn chữ Hán tượng hình,
Gọi là chữ “giả tá”,
Để ghi lại tiếng mình.

Sau đó hai chữ Hán
Được ghép lại, để thành
Một chữ Nôm hai nửa,
Gọi là chữ “hài thanh”.

Nửa chữ gợi hiểu ý.
Nửa chữ gợi đọc âm.
Tuy cồng kềnh một chút,
Nhưng tránh được hiểu lầm.

Hiện các nhà khoa học
Chưa thống nhất với nhau
Việc chữ Nôm chính thức
Hình thành đã bao lâu.

Người thì nói lâu lắm,
Có từ thời Hùng Vương.
Có người nói khiêm tốn,
Mới từ thời nhà Đường.

Hiện ta còn giữ được
Văn bản Nôm rất nhiều,
Cả sử, văn, thơ phú
Của các đời, các triều.

Vua Quang Trung ra lệnh
Các văn bản quốc gia
Không được viết chữ Hán,
Mà viết bằng chữ ta.

Chữ Nôm trong văn học
Được sử dụng cũng nhiều.
Nguyễn Du đã dùng nó
Viết áng thơ Truyện Kiều.

Vậy là chữ Quốc Ngữ
Làm chữ Nôm lu mờ
Và rơi vào quên lãng.
Kể cũng tiếc, bây giờ

Chỉ các nhà nghiên cứu
Và sinh viên khoa văn
Mới học nó để đọc
Và tra cứu khi cần.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét