TRUYỀN
THUYẾT VỀ LÊ LỢI
Xung quanh vua Lê Lợi
Và cuộc khởi nghĩa này
Có khá nhiều truyền
thuyết
Được lưu truyền xưa
nay.
Truyện kể rằng Lê Lợi,
Khi chưa dựng sơn hà,
Có bạn tên là Thận,
Như anh em một nhà.
Thận làm nghề chài
lưới,
Một hôm đi ra sông,
Thấy đáy nước phát
sáng,
Rất nghi hoặc trong
lòng.
Ông quăng lưới bắt cá,
Mãi không thấy cá đâu,
Chỉ vớt được thanh sắt
Dài một thước, sỉn
màu.
Định vứt đi, nhưng
tiếc,
Ông đem nó về nhà,
Vứt vào trong góc tối,
Đêm phát sáng chói
lòa.
Một hôm Lê Lợi đến,
Thấy lạ, hỏi sự tình.
Rồi xin thanh sắt ấy
Đem nó về nhà mình.
Ông cho người rửa
sạch,
Đánh bóng lớp gỉ đen,
Thấy trên đó chữ “Lợi”
Và hai chữ “Thuận
Thiên”.
Hôm sau, bước ra cửa,
Thấy vỏ gươm bằng
vàng,
Ông sụp lạy xuống đất
Rất cung kính, mà
rằng:
“Nếu đây là gươm báu
Trời ban cho Lợi này,
Thì hãy làm phép lạ,
Cho nhập làm một
ngay!”
Ông giơ thanh sắt nhỏ
Trước mặt mình, bất
ngờ
Thanh sắt thành gươm
sáng
Cho vào vỏ rất vừa.
Đêm hôm ấy bất chợt
Mưa gió to rất lâu.
Sáng dậy, vợ Lê Lợi
Khi đi ra vườn rau
Thấy bốn vết chân lớn,
Rất rộng và rất dài
Bà gọi chồng, muốn hỏi
Dấu chân này của ai.
Rồi hai người lại thấy
Chiếc ấn ngọc đắt
tiền,
Trên mặt có chữ “Lợi”
Và hai chữ “Thuận
Thiên”.
Về sau, lên ngôi báu,
Vua dùng hai chữ này
Làm niên hiệu Đại
Việt.
“Thuận ý trời” là đây.
Lê Lợi liền vội vã
Đem nó giấu trong nhà,
Mừng được trời giao
ấn,
Lo đại sự quốc gia.
Theo truyền thuyết, Lê
Lợi
Luôn mang gươm theo
mình,
Dùng nó chém đầu địch,
Đuổi hết giặc nhà
Minh.
Khi công thành danh
toại,
Vua Lê Lợi một lần
Đi thuyền rồng du
ngoạn
Trên mặt hồ Thủy Quân.
Bỗng Rùa Vàng xuất
hiện,
Đòi gươm báu, và hồ
Đổi tên thành Hoàn
Kiếm,
Ngay trong lòng thủ
đô.
*
Truyền thuyết cũng kể
lại,
Lê Lợi thời kỳ đầu,
Một lần bị giặc đuổi,
Phải chạy vào rừng
sâu.
Ở đấy ông bất chợt
Thấy có một xác người,
Một cô gái, trên cỏ,
Khuôn mặt vẫn còn
tươi.
Ông dùng gươm đào
huyệt,
Đắp cho nàng nấm mồ,
Khấn, mong nàng phù hộ
Giúp ông dựng cơ đồ.
Khi quân Minh đuổi
đến,
Ông trốn vào hốc cây.
Bầy chó cứ sục sạo
Rất lâu bên cây này.
Giặc sinh nghi, dùng
kiếm
Đâm xuyên cây, trúng
người.
Lê Lợi phải lấy áo
Lau kiếm sạch máu
tươi.
Rồi chúng lấy lửa đốt.
Và từ thân cây già
Bất chợt một con cáo
Lông màu trắng chạy
ra.
Bầy chó ùa theo đuổi.
Giặc bỏ đi vội vàng.
Lê Lợi may thoát chết,
Sụp lạy trước mộ nàng.
Nàng đã hóa thành cáo,
Chạy trước mặt đám
đông,
Để thu hút bầy chó
Và giải cứu cho ông.
Về sau ông lập miếu
Thờ nàng như thờ thần,
Còn truy tặng danh
hiệu
Là Hồ Ly Phu Nhân.
Nơi Lê Lợi thoát chết
Bây giờ là cánh đồng,
Có tên là Đồng Chó
Bên cạnh một dòng
sông.
Ngày nay con sông ấy
Được gọi là sông Chu,
Nằm không xa Bái
Thượng,
Nơi thường nhiều sương
mù.
*
Khi hay tin Lê Lợi
Đang chiêu quân đánh
Tàu,
Trần Nguyên Hãn cải
dạng
Thành một anh bán dầu
Vào Đông Đô tìm cách
Gặp Nguyễn Trãi tiên
sinh,
Người đang bị giam
lõng,
Kiểm soát bởi quân
Minh.
Rồi sau khi bàn luận,
Hai người trốn khỏi
thành,
Lặn lội tìm minh chúa
Trong núi rừng xứ
Thanh.
Được Nguyễn Trãi hiến
kế
Với kế hoạch “Bình
Ngô”,
Lê Lợi mời hai vị
Tham gia dựng cơ đồ.
Nguyễn Trãi sai lấy
mật
Viết lên nhiều lá cây
Mọc bên sông gần đấy
Tám chữ nho thế này:
Lê Lợi là hoàng đế
Chữ “Lê Lợi vi quân”,
Bầy tôi là Nguyễn
Trãi,
Chữ “Nguyễn Trãi vi
thần”.
Tất nhiên kiến thấy
mật
Liền bu đến rất đông.
Chúng ăn, đục xuyên
lá,
Lá rơi xuống dòng sông.
Những chiếc lá có chữ
Nước cuốn đi khắp nơi,
Dân chúng nhặt lên
đọc,
Nghĩ đó là ý trời.
Nhờ những chiếc lá ấy,
Người tìm đến đông
dần,
Cùng tham gia khởi
nghĩa,
Vì “Lê Lợi vi quân”.
*
Lại nữa, một lần nọ,
Giặc đuổi gấp phía
sau,
Lê Lợi thấy hai cụ
Đang tát nước ruộng
sâu,
Liền nhảy ào xuống
ruộng,
Cởi áo, để ngực trần,
Giả làm người mò cá
Như con nhà nông dân.
Giặc kéo đến liền hỏi:
Thấy ai chạy qua
không?
Hai cụ đáp: Không
biết.
Chúng tôi mải làm
đồng.
Thấy Lê Lợi có vẻ
Muốn nghe chuyện, bà
già
Quát: Mày lo mò cá
Rồi còn sớm về nhà!
Giặc nghe thế, tưởng
thật,
Liền bỏ đi, hai người
Mời về nhà nghỉ tạm,
Lúc ấy đã tối trời.
Trước bữa cơm giản dị,
Hai cụ lạy rồi thưa:
“Chúng tôi, lúc nguy
khốn,
Có thất lễ với vua...”
Lê Lợi lạy rất thấp,
Cảm ơn hai cụ già.
Lúc thành vương, quay
lại,
Vất vả tìm đến nhà
Thì hai cụ đã chết.
Để ghi nhớ ân sâu,
Ông cho lập miếu cúng,
Còn thụy phong tước
hầu.
16
KHỞI NGHĨA LAM SƠN
Vốn là một hào kiệt
Của vùng đất Lam Sơn,
Lê Lợi thấy giặc ác
Mà nung nấu căm hờn.
Ông quyết định khởi
nghĩa,
Chiêu mộ người hiền
tài.
Nhiều người đã hưởng
ứng
Trong Hội thề Lũng
Nhai.
Một Hội thề lịch sử,
Sống mãi với non sông.
Tất cả thề giết giặc,
Trên và dưới một lòng.
*
Năm Một Bốn Một Sáu,
Một buổi sáng ban mai,
Lê Lợi và các tướng
Mở Hội Thề Lũng Nhai.
Cùng mười tám vị khác
Chung chí hướng như
mình,
Lê Lợi tế trời đất,
Thề chống lại giặc
Minh.
Thề có trời chứng dám,
Mười chín người khác
nhau,
Nay qui tụ làm một,
Đặt vận nước lên đầu.
Mười chín vị hào kiệt,
Từ gần và từ xa,
Thề thương yêu, đoàn
kết
Như anh em một nhà.
Rằng chúng tôi, Lê
Lợi,
Cùng Nguyễn Trãi, Lê
Ninh,
Đinh Lễ, Lê Nhân Chú,
Trịnh Khả, Lê Văn
Ninh...
Thề một lòng giết
giặc,
Thề cứu giúp dân lành.
Ai có lòng dạ khác
Sẽ chết bởi thần linh.
Hội thề ấy lịch sử
Đã thu hút nhều người
Về Lam Sơn tụ nghĩa,
Quyết hành đạo thay
trời.
Nó cũng là cơ sở,
Bước quan trọng ban
đầu
Để Lam Sơn khởi nghĩa
Khoảng gần hai năm
sau.
*
Lúc đầu, cuộc khởi
nghĩa
Gặp rất nhiều khó
khăn.
Phải ba lần lên núi,
Thiếu vũ khí, đói ăn.
Năm Một Bốn Một Tám
Giặc bao vây nghĩa
quân
Lê Lai phải liều chết
Để Lê Lợi thoát thân.
*
Theo Đại Việt thông
sử,
Quan Nội hầu Lê Lai
Là người tính cương
trực,
Có chí và có tài.
Năm Một Bốn Một Tám,
Vua phất ngọn cờ đào,
Bị thua ở Mường Một,
Phải chạy về Trịnh
Cao.
Đó là nơi hẻo lánh,
Nhiều thú dữ, ít dân.
Giặc bao vây tứ phía,
Tình thế hiểm nguy
dần.
Nghĩa quân thì lính
ít,
Lương thực thiếu bất
ngờ.
Ở lại sẽ chết hết.
Làm thế nào bây giờ?
Đó là điều day dứt,
Làm phiền lòng Lê Lai,
Khiến bồi hồi nhớ lại
Ngày Hội thề Lũng
Nhai.
Cuối cùng ông đề nghị
Đức vua cởi áo bào
Để ông mặc, ra trận,
Mở đường huyết xem
sao.
Và rồi, đóng giả chúa,
Cưỡi voi phủ lụa vàng,
Ông cùng năm trăm
lính,
Xông vào giặc, thét
vang:
“Ta là vua Lê Lợi,
Quyết chiến cùng chúng
mày!
Đứa nào không muốn
sống,
Hãy nhanh chóng ra
đây!”
Rồi tả xung, hữu đột,
Ông chém giết hồi lâu,
Cho đến khi đuối sức,
Bị giặc bắt, chém đầu.
Trong khi đó, Lê Lợi
Và binh tướng của ông
Thoát vây, sau lãnh
đạo
Cuộc khởi nghĩa thành
công.
Cảm vì lòng trung
nghĩa,
Vua Lê Lợi cho người
Tìm xác ông chôn cất,
Lập miếu thờ suốt đời.
*
Để củng cố lực lượng,
Năm Một Bốn Hai Ba
Lê Lợi cho người gặp
Đề nghị giặc tạm hòa.
Quân Minh đã chấp
nhận.
Ông quay lại Lam Sơn,
Tuyển binh, tích lương
thực,
Vẫn nung nấu căm hờn.
Nhưng quân Minh trở
mặt
Tháng Mười Hai năm
sau.
Và một giai đoạn mới
Của khởi nghĩa bắt
đầu.
*
Nghe theo lời Nguyễn
Chích,
Lê Lợi và các quan
Năm hăm bốn, quyết
định
Đem quân đánh Nghệ An.
Vào tháng Mười năm ấy,
Ông chiếm đồn Đa Căng.
Ở Trà Lân, xứ Nghệ,
Quân giặc phải ra
hàng.
Nhân đà thắng, Lê Lợi
Đánh, mở rộng địa bàn.
Sau chưa đầy một tháng
Giải phóng toàn Nghệ
An.
Rồi tháng Tám năm
tiếp,
Trần Nguyên Hãn, Lê
Ngân
Đem một đội quân mạnh
Nhằm phía Nam, tiến
dần.
Quân khởi nghĩa nhanh
chóng
Đánh tan quân nhà
Minh,
Thế chẻ tre, giải
phóng
Thuận Hóa và Tân Bình.
Vậy là trong mười
tháng
Lê Lợi cùng nghĩa quân
Làm chủ từ Thanh Hóa
Đến tận đèo Hải Vân.
*
Tháng Chín năm Hai
Sáu,
Đang thừa thắng, quân
ta
Quyết định sẽ Bắc
Tiến,
Theo ba mũi đánh ra.
Một mũi chiếm Tây Bắc
Ngăn viện binh Trung
Hoa.
Mũi thứ hai giải phóng
Vùng đất sông Nhị Hà.
Mũi này sẽ ngăn giặc
Rút về từ Nghệ An.
Mũi thứ ba, mũi chính,
Tiến thẳng ra Đông
Quan.
Được nhân dân ủng hộ.
Cả ba mũi thành công.
Giặc Minh bị cô lập,
Chốt trong thành Thăng
Long.
*
Năm Một Bốn Hai Sáu,
Vương Thông, tướng nhà
Minh,
Sang Đông Quan tiếp
viện
Cùng năm vạn chiến
binh.
Hắn quyết đánh Cao Bộ,
Thuộc Chương Mỹ ngày
nay.
Các tướng của Lê Lợi
Biết trước âm mưu này,
Nên đã sớm ra lệnh
Lên kế hoạch phục binh
Ở Tốt Động, Chúc Động,
Lặng lẽ chờ quân Minh.
Cuối cùng, khi chúng
đến
Nghĩa quân liền xông
ra,
Phá tan đội hình giặc,
Gươm và giáo sáng lòa.
Quân Đại Việt thắng
lớn,
Bắt mười nghìn quân
Minh.
Giết tại trận Trần
Hiệp,
Là thượng thư bộ Hình.
Các tướng khác bị giết
Có Lý Đằng, Lý Lương.
Vương Thông may chạy
thoát,
Phải liều chết mở
đường.
*
Tháng Mười, năm Hai
Bảy,
Hai tướng giỏi nhà
Minh,
Từ biên giới tràn
xuống
Cùng mười vạn viện
binh.
Một đạo do tướng giỏi
Là Liễu Thăng cầm đầu
Tiến theo đường xứ
Lạng,
Quyết đánh mau, thắng
mau.
Đạo khác, tướng Mộc
Thạnh,
Từ Vân Nam kéo sang,
Cũng hùng hổ không
kém,
Tiến theo đường Hà
Giang.
Bộ chỉ huy Lê Lợi
Quyết chặn chân Liễu
Thăng.
Tìm cách tiêu diệt
chúng,
Không cho xuống đồng
bằng.
Tướng nghĩa quân, Trần
Lựu,
Được lệnh dụ Liễu
Thăng
Đưa vào ổ phục kích
Của ta ở Chi Lăng.
Kết quả, trong trận ấy
Liễu Thăng bị chém
đầu.
Tướng Lưu Nhân, Lê Sát
Bắt sống vạn lính Tàu.
Sau khi Liễu Thăng
chết,
Tướng Lương Minh lên
thay.
Rồi hắn cũng bị giết
Khi chưa kịp ra tay.
Quân ta giỏi phục
kích,
Diệt ba vạn quân Minh.
Lý Khánh phải tự tử,
Hắn - thượng thư bộ
Binh.
Số lính giặc còn lại
Co cụm ở Xương Giang.
Ta đánh từ nhiều
hướng.
Rốt cục, chúng đầu
hàng.
Tướng Thôi Tụ, Hoàng
Phúc
Cũng đầu hàng quân ta.
Hay tin, tướng Mộc
Thạnh
Sợ, rút về Trung Hoa.
*
Sau thất bại của tướng
Mộc Thạnh và Liễu
Thăng,
Vua Minh phải tuyên bố
Bãi binh - tức đầu
hàng.
Theo tinh thần dân
tộc:
Quyết chiến nhưng thân
hòa.
Thắng giặc vẫn trải
chiếu
Cho chúng rút về nhà,
Năm Một Bốn Hai Bảy,
Lê Lợi và Vương Thông
Cùng nhất trí gặp mặt
Ở Đông Quan, sông
Hồng.
Cuộc gặp ấy được gọi
Là Hội thề Đông Quan,
Tức là một thỏa thuận
Để giặc rút an toàn
Trong thời gian năm
tháng,
Không cướp bóc của
dân,
Không tiến hành chiến
sự
Dọc đường chúng rút
quân.
Về phần mình, Đại
Việt,
Để cho chúng được yên,
Cung cấp đủ lương
thực,
Xe ngựa và tàu thuyền.
Các tướng giặc kéo đến
Đứng trước dinh Bồ Đề,
Lạy tạ tướng Đại Việt
Rồi lủi thủi ra về.
Hội thề - Hiệp định ấy
Cho phép mười nghìn
quân
Của giặc Minh sót lại
Rút về nước dần dần.
Một trang sử chói lọi.
Một “Hội thề” vinh
quang.
Ta, cháu con, phải
nhớ,
Để sống cho đàng
hoàng.
17
LÊ THÁNH TÔNG (1442 –
1497)
Sau khi giành độc lập,
Đánh đuổi giặc nhà
Minh,
Lê Lợi lo xây dựng
Bộ máy nhà nước mình.
Vua nắm mọi quyền lực,
Việc hành chính, việc
quân.
Giúp việc vua luôn có
Các quan lớn đại thần.
Triều đình có sáu bộ,
Là bộ Lại, bộ Binh,
Rồi Công, bộ Lễ,
Bộ Hộ và bộ Hình.
Nước chia làm năm Đạo.
Dưới đạo là Phủ, Châu.
Rồi tiếp đến làng, xã.
Mỗi triều có khác
nhau.
Quân đội được tổ chức
Kiểu “ngụ binh ư
nông”.
Tức thời chiến đánh
giặc.
Thời bình về làm đồng.
Lê Thánh Tông cho soạn
Trọn vẹn bộ Luật Hình,
Còn gọi Luật Hồng Đức,
Rõ ràng và nghiêm
minh.
Kinh tế được phát
triển,
Hài hòa Nông, Công,
Thương.
Khai phá đất ven biển.
Nạo vét sông, mở
đường.
Lê Lợi cho xây lại
Quốc Tử Giám, trường
công,
Cũng là trường đại học
Đầu tiên ở Thăng Long.
Ở các Đạo và Lộ
Có trường riêng của
mình.
Ai cũng có quyền học
Và ghi tên thí sinh.
Nhưng có hai đối tượng
Không được học làm
quan.
Đó là bọn tội phạm
Và những người hát,
đàn.
Là vì vào thời ấy,
Chính quyền quan niệm
sai,
Gọi những người đàn
hát
Là “xướng ca vô loài”.
Nội dung được giảng
dạy -
Sách Đạo Nho giáo điều.
Phật Giáo và Đạo Giáo
Bị hạn chế rất nhiều.
Kỳ thi ở Đạo, Lộ
Được gọi là thi Hương.
Người đậu, thành Hương
Cống,
Cũng là bậc khác
thường.
Cao hơn là thi Hội,
Tổ chức ở Kinh Thành.
Ai đậu kỳ thi ấy
Được tham dự thi Đình.
Thi Đình chọn tiến sĩ,
Với ba ngôi hàng đầu
Là Trạng Nguyên, Bảng
Nhãn
Và Thám Hoa xếp sau.
Những người đậu tiến
sĩ
Được nhà vua tặng quà,
Ban áo mũ, tước phẩm,
Vinh quy thăm mẹ cha.
Thời Lê sơ tổ chức
Hăm sáu khoa thi Đình,
Chọn gần nghìn tiến sĩ
Trong vô vàn thí sinh.
Mà thi thời ấy khác,
Khác hẳn thi bây giờ.
Mỗi người một lều
chõng,
Và chỉ thi văn, thơ…
Đây là giai đoạn hiếm
Phát triển của non
sông,
Đặc biệt dưới triều
đại
Của vua Lê Thánh Tông.
Bây giờ ông sẽ kể
Câu chuyện ông vua
này.
Một vua hiền, tài giỏi
Loại hiếm có xưa nay.
*
Lê Thánh Tông hoàng
đế,
Tên thật Lê Tư Thành,
Một nhà văn hóa lớn,
Một ông vua anh minh.
Ngài đã đưa dân tộc
Lên một kỷ nguyên vàng
Của thời đại phong
kiến,
Một trang sử vẻ vang.
Ngài tiến hành cải
cách
Nhiều lĩnh vực, nhiều
ngành,
Còn mở mang bờ cõi,
Chiếm kinh đô Chiêm
Thành.
Mẹ Ngài suýt bị hại
Vì chỉ là tiệp dư,
Nếu không có Nguyễn
Trãi
Và Thị Lộ nhân từ.
Hai mẹ con được họ
Đưa đến chùa Huy Văn,
Nay Đống Đa, Hà Nội,
Lánh nạn, sống thanh
bần.
Ngẫu nhiên do phe
cánh,
Mà Ngài được lên ngôi,
Niên hiệu là Quang
Thuận,
Năm Một Bốn Sáu mươi.
Vua liền cho xét lại
Vụ án Lệ Chi Viên.
Minh oan cho Thị Lộ,
Phục danh người đức
hiền.
Ngài phục danh, lập
miếu
Thờ Nguyễn Trãi ân
nhân.
Con cái Trần Nguyên
Hãn
Và các vị công thần
Trước từng theo Lê
Lợi,
Bị kẻ xấu giết oan,
Giờ được cấp ruộng đất
Và mời ra làm quan.
Những ai trước đổi họ
Thành họ Lê, bây giờ
Có thể dùng họ cũ
Mà không bị nghi ngờ.
Ngài cho sắp xếp lại
Các chức quan trong
triều.
Ai đến sáu lăm tuổi
Đều thôi chức, về hưu.
Lệ cha truyền con nối
Các chức tước xưa nay
Cũng bị Ngài hủy bỏ.
Nhiều người ghét việc
này.
Quan phải là người
giỏi.
Mở thi chọn nhân tài.
Giỏi mới làm được việc
-
Đó là lệnh của Ngài.
Vua đặc biệt chú trọng
Làm ruộng và chăn tằm,
Bắt khai hoang, thêm
vụ,
Để có ăn quanh năm.
Ngài còn ra chỉ dụ
Tổ chức lễ hạ điền,
Tức xuống ruộng cày
cấy.
Quan phải làm đầu
tiên.
Ở mỗi đạo, tức tỉnh,
Vua lập nhà Tế Sinh
Nuôi người già đơn
độc,
Cấp thuốc lúc bệnh
tình.
Ở nơi nào có dịch,
Quan phải đến tận nơi
Bốc thuốc và châm cứu
Cho từng nhà, từng
người.
Thời ấy dân mộ Phật,
Thường có lệ quyên
tiền
Xây thêm chùa, vua nói
Đó là điều không nên.
Rằng mộ Phật là tốt,
Nhưng nên mộ trong
lòng,
Để tiền làm việc khác,
Nhất là những việc
công.
Ngài còn cấm người
sống
Khi tổ chức ma chay
Không bày trò đàn sáo
Và ăn uống suốt ngày.
Ngài nói, đã nhận lễ
Thì phải cho rước dâu,
Không bắt người ta đợi
Đến ba bốn năm sau.
Để cư xử đúng mực,
Ngài đặt hăm bốn điều,
Các quan phải giảng
giải,
Làm trước để dân theo.
Vua bắt mười hai đạo
Vẽ bản đồ đạo nhà,
Có ghi rõ sông núi,
Thành bản đồ quốc gia.
Ngài đích thân xuống
chiếu
Yêu cầu Ngô Sĩ Liên
Viết Đại Việt Sử Ký
Mười lăm quyển, nhiều
thiên.
Năm quyển thời Bắc
Thuộc.
Mười quyển từ Ngô
Quyền
Đến vua Lê Thái Tổ,
Viết theo dạng biên
niên.
Vua rất trọng giáo
dục,
Khuyến khích học Ngũ
Kinh,
Thường đứng làm chủ
khảo
Trong các kỳ thi Đình.
Ngài lập lệ danh
xướng,
Đọc tên các ông Nghè.
Ai đậu thì ở lại,
Ai trượt phải ra về.
Các ông Nghè, Tiến sĩ
Được Ngài mời vào
cung,
Ban áo mũ, dự tiệc,
Thật vinh dự vô cùng.
Rồi vinh qui, mũ lọng,
Họ trở về quê nhà,
Cảm ơn thầy dạy dỗ,
Bái tổ tiên, mẹ cha.
Lê Thánh Tông cổ xúy
Việc thi cử, học hành.
Rất nhiều người đỗ đạt
Rồi thành công, thành
danh.
Ông là người khởi
xướng
Việc dựng bia ghi tên
Các tiến sĩ Văn Miếu,
Để khích lệ người
hiền.
Vua cho xây thư viện
Ở khu Thái Học đường,
Ngay phía sau Văn
Miếu,
Vốn xưa là ngôi
trường.
Ngài còn xây ký túc
Cho người xa tới đây.
Việc ăn ở và học
Ở ngay trong khu này.
Lê Thánh Tông hoàng đế
Còn là một nhà thơ.
Hơn thế, nhà thơ lớn,
Được yêu đến bây giờ.
Thơ Ngài đẹp, ý nhị,
Uyên thâm mà trữ tình,
Như bức tranh thủy
mặc,
Ý và lời lung linh.
Cùng hăm bảy vị khác,
Ngài lập Hội Tao Đàn
Gồm nhị thập bát tú,
Câu lạc bộ thơ quan.
Vua tôi thường xướng
họa.
Quan có Thân Nhân
Trung,
Đỗ Nhuận và Thái
Thuận...
Thật tao nhã vô cùng.
Rất ham mê văn học,
Nhưng không quên việc
binh,
Vua nhắc phải luyện võ
Ngay cả trong thời
bình.
Ngài mở hội thi võ,
Cứ ba năm một lần.
Ai trượt bị giáng
chức,
Ai đỗ được thăng quan.
Nhờ thế mà tướng sĩ
Rất ham mê tập tành,
Vừa khỏe, vừa đắc dụng
Khi đất nước chiến
tranh.
Gây sự với Đại Việt,
Năm một bốn bảy không,
Cùng mười vạn quân
thủy,
Vua Chiêm Thành tấn
công.
Hắn còn lén sai sứ
Sang cầu cứu nhà Minh.
Cùng hai mươi vạn
lính,
Ngài quyết đánh Chiêm
Thành.
Tháng Ba năm bảy mốt
Ngài chiếm được Đồ
Bàn.
Kinh đô Chiêm thất
thủ,
Lính chết hàng chục
ngàn.
Ngài nhập vào Đại Việt
Cả miền Bắc nước
Chiêm,
Mãi đến tận vùng đất
Nay là tỉnh Phú Yên.
Năm một bốn bảy chín,
Lại có loạn Ai Lao.
Ngài sai Lê Thọ Vực
Năm hướng đánh sang
Lào.
Quân Đại Việt đại
thắng.
Ai Lao và Chiêm Thành
Đều chấp nhận cống
nạp.
Đất nước được hòa
bình.
Một đóng góp quan
trọng
Của vua Lê Thánh Tông
Là Bộ luật Hồng Đức,
Biên soạn rất dày
công.
So với các luật trước,
Luật này tốt hơn nhiều,
Gồm mười ba chương lớn
Và hơn bảy trăm điều.
Nền tảng của bộ luật
Là tư tưởng Đạo Nho,
Luôn lấy dân làm gốc
Để xây dựng cơ đồ.
Một, giữ nghiêm phép
nước.
Hai, chống giặc ngoại
xâm.
Ba, chấn hưng nông
nghiệp.
Bốn, lo công, thương,
lâm.
Năm, bài trừ tham
nhũng.
Sáu, bảo vệ thuần
phong.
Bảy, bênh vực phụ nữ.
Tám, xét xử khoan
hồng.
Ngài nói: “Luật bình
đẳng
Với tất cả mọi người,
Với dân chúng cả nước,
Cả ta và các ngươi”.
Có lần Ngài cách chức
Một đô đốc, quan to,
Chỉ vì con người ấy
Có hành vi côn đồ.
Năm một bốn chín bảy
Lê Thánh Tông qua đời,
Hưởng thọ năm lăm
tuổi,
Sự nghiệp vẫn sáng
ngời.
Là anh hùng dân tộc,
Là một vị anh quân,
Một nhà chiến lược lớn
Với tâm hồn thi nhân,
Vua chấn hưng văn hóa,
Mở mang đất nước mình.
Trong nhị thập bát tú,
Là vì sao lung linh.
18
CÁC NHÂN VẬT NỔI TIẾNG
ĐỜI LÊ SƠ
Hôm nay ông sẽ kể
Về một người tài ba,
Là thi hào Nguyễn
Trãi,
Làm vẻ vang nước nhà.
Ông là nhà quân sự,
Nhà chính trị đại tài,
Một anh hùng dân tộc,
Có số phận bi ai.
Tiếp đến ông sẽ kể,
Dẫu qua loa vài lời,
Về một số nhân vật
Để tiếng tốt cho đời.
NGUYỄN
TRÃI (1380 – 1442)
Khi nói đến Nguyễn
Trãi,
Là nói đến người hiền,
Một nhà văn hóa lớn
Và vụ Lệ Chi Viên.
Ông xuất thân cao quí,
Con của Nguyễn Phi
Khanh,
Cháu ngoại Trần Nguyên
Đán,
Rất giỏi đường học
hành.
Ông sinh ở Chí Ngại,
Huyện Chí Linh, Hải
Dương,
Sau chuyển về Thường
Tín,
Sống cuộc sống dân
thường.
Khi nhà Hồ thành lập,
Bố ông ra làm quan,
Đứng đầu Quốc Tử Giám,
Được xem là công thần.
Cùng lúc ấy Nguyễn
Trãi
Thi đỗ Thái học sinh,
Được bổ làm Chính
Chưởng
Nhờ uyên bác, thông
minh.
Khi nhà Hồ sụp đổ,
Cùng nhiều quan hàng
đầu
Bố ông bị giặc bắt
Rồi đưa về nước Tàu.
Từ Một Bốn Không Bảy
Ông phiêu bạt đó đây.
Không ai biết Nguyễn
Trãi
Làm gì thời gian này.
Năm Một Bốn Một Sáu,
Trong Hội thề Lũng
Nhai,
Nguyễn Trãi gặp Lê
Lợi,
Anh tài gặp anh tài.
Ông đã trình Lê Lợi
Ba lời khuyên Bình
Ngô,
Hết lòng giúp minh
chúa
Xây dựng lại cơ đồ.
Ông là quân sư giỏi,
Một nhà ngoại giao
tài,
Người có công rất lớn
Đưa Lê Lợi lên ngai.
Khi công thành danh
toại,
Triều nhà Lê, tiếc
thay,
Bắt đầu chia phe cánh,
Mâu thuẫn tăng hàng
ngày.
Năm Một Bốn Hai Chín,
Trần Nguyên Hãn quyên
sinh
Khi Lê Lợi xuống chiếu
Bắt giam người bạn
mình.
Nghe lời bọn xu nịnh,
Vua giết bạn thứ hai
Là tướng Phạm Văn Xảo,
Liêm khiết và có tài.
Rồi nhiều công thần
khác,
Liên quan hai người
này,
Cũng bị giết thê thảm,
Kêu trời, trời có hay.
Đại công thần Nguyễn
Trãi
Cũng bị vua giam cầm,
Xem thường, không sử
dụng
Và quên lãng nhiều
năm.
Khi Lê Thái Tổ mất,
Lê Thái Tông lên thay,
Nguyễn Trãi được trọng
dụng,
Dạy cho ông vua này.
Nhưng rồi lại phe
cánh,
Lại chước quỉ mưu ma,
Nguyễn Trãi lại thất
sủng
Vì những lời gièm pha.
Năm Một Bốn Ba Tám,
Ông lui về Côn Sơn,
Điền trang của ông
ngoại,
Giữa rừng thông xanh
rờn.
Và rồi cuối cùng đến
Cái án được lưu truyền
Như tiếng kêu oan ức -
Vụ án Lệ Chi Viên.
Năm Bốn Hai, tháng
Chín,
Hai mươi tuổi, Thái
Tông
Cùng một đoàn bộ xậu,
Đi tuần ở miền Đông.
Đến Chí Linh, Nguyễn
Trãi
Mời vua ghé chơi chùa.
Lúc về, nàng Thị Lộ
Ông cho theo hầu vua.
Nguyễn Thị Lộ lúc ấy
Đã bốn mươi tuổi đời,
Là thiếp của Nguyễn
Trãi,
Đa tình và xinh tươi.
Phần vì đẹp, khéo nói,
Phần vì tài văn
chương,
Bà được vua gần gũi
Và yêu quí khác
thường.
Giữa đường vua dừng
lại
Ở quán Lệ Chi Viên,
Tức là quán Vườn Vải,
Nghỉ ngơi và định
thiền.
Đêm hôm ấy, bất chợt
Vua đổ bệnh, qua đời.
Chỉ một mình Thị Lộ
Luôn túc trực bên
người.
Đến nay vẫn chưa biết
Vì sao vua băng hà.
Chỉ hai người, vua
chết
Bên bà, hay trên bà?
Rồi bà và Nguyễn Trãi
Bị buộc tội tày trời,
Lệnh tru di tam tộc,
Giết ba họ, ba đời.
Mười mấy ngày sau đó,
Lệnh đã được thi hành.
Nguyễn Trãi cùng ba họ
Bị nhà Lê hành hình.
Một anh hùng dân tộc,
Một khai quốc công
thần
Đã bị giết thế đấy,
Vô lý và bất nhân.
Ngẫm mà thương số phận
Của các bậc đại thần
Cái thời mông muội ấy,
Cái thời vua hôn quân.
Phù vua và cứu chúa,
Để đưa vua lên ngai.
Vua nhỏ nhen, quay lại
Giết các bậc hiền tài.
Sau khi Nguyễn Trãi
chết,
Các tác phẩm của ông
Bị đốt sạch, phá sạch
-
Một cảnh tượng đau
lòng.
Những áng thơ tuyệt
đẹp
Của một đại thi nhân
Bị biến thành tro bụi
Như xưa ở nước Tần.
Hăm hai năm sau đó,
Lê Thánh Tông lên
ngôi,
Minh oan cho Nguyễn
Trãi,
Nhưng cũng việc đã
rồi.
*
Có truyền thuyết kể
lại,
Bố ông, Nguyễn Phi
Khanh,
Xưa làm nghề dạy học,
Định cuốc vườn cỏ
gianh.
Đêm ông mơ, bất chợt
Có một người đàn bà
Dẫn theo một lũ trẻ
Đến nằn nì xin tha.
Bà xin ông hoãn lại
Thư thư một vài ngày
Để bà tìm chỗ mới
Đi khỏi khu vườn này.
Sáng dậy ông đã thấy,
Lúc dọn vườn, học trò
Giết chết một bầy rắn.
Ông giật mình, thấy
lo.
Tối ấy, khi đọc sách
Có con rắn để rơi
Từ trên xà giọt máu,
Rơi xuống đúng chữ
“đời”.
Giọt máu trên cuốn
sách
Thấm xuống đúng ba
trang.
Ông lờ mờ chợt hiểu,
Ngồi lặng yên, bàng
hoàng.
Về sau con rắn ấy,
Với ý định trả thù,
Biến thành Nguyễn Thị
Lộ,
Đưa ba họ vào tù.
Khi bà Nguyễn Thị Lộ
Bị dìm chết dưới sông,
Bà lại thành con rắn,
Lẩn trốn dưới đám
rong.
Theo các nhà sử học,
Truyền thuyết này lạ
đời.
Do nhà Lê bịa đặt
Để lừa dối mọi người.
Sự thật thì vụ án
Do nhà Lê gây ra
Do tranh giành quyền
lực
Trong nội bộ hoàng
gia.
Chỉ oan cho Thị Lộ,
Phi lý và bất ngờ.
Một vụ án oan khuất.
Đau đến tận bây giờ.
TRẦN
NGUYÊN HÃN (? – 1429)
Một trong mười chín vị
Dự Hội thề Lũng Nhai,
Ông là một danh tướng,
Có đức và có tài.
Ông chiến đấu dũng
cảm,
Không quản ngại hy
sinh
Giúp chủ tướng Lê Lợi
Đánh bại giặc nhà
Minh.
Thế mà đời oan nghiệt,
Khi kháng chiến thành
công,
Chính vị chủ tướng ấy
Đã nỡ lòng giết ông.
Lời thề Lũng Nhai ấy,
Hỡi ôi nay còn đâu?
Thương cho Trần Nguyên
Hãn
Dưới chín suối ngậm
sầu.
Xuất thân, Trần Nguyên
Hãn
Là dòng dõi họ Trần,
Chắt của Trần Quang
Khải,
Nguyễn Trãi - bà con
gần.
Ông sinh ở Lập Thạch,
Tỉnh Vĩnh Phúc ngày
nay.
Có một số học giả
Không nhất trí điều
này.
Sách cũ có kể lại
Ông gánh dầu bán rong,
Tìm người chung chí
hướng
Bàn kế cứu non sông.
Cuối cùng Trần Nguyên
Hãn
Và Nguyễn Trãi tiên
sinh
Hội tụ với Lê Lợi
Cùng chống giặc nhà
Minh.
“Tang Thương Ngẫu Lục”
chép
Rằng Nguyễn Trãi và
ông
Lần đầu gặp Lê Lợi
Rất không vui trong
lòng
Khi thấy vị chủ tướng
Xé thịt ăn bằng tay,
Nhồm nhoàm và thô lỗ,
Nên họ bỏ đi ngay.
Lần thứ hai, khi đến
Thấy Lê Lợi mải mê
Đọc binh thư không
chán,
Họ ở lại, không về.
Hai ông được trọng
dụng.
Nguyễn Trãi làm quân
sư.
Nguyên Hãn làm soái
tướng
Gian khổ chẳng hề từ.
Khi còn ở Thuận Hóa,
Ông đánh bại quân
Minh,
Dù quân chúng áp đảo,
Trong trận đánh Tân Bình.
Sau đó là chiến thắng
Trong trận Đông Bộ Đầu
Khi ông và Lê Lợi
Đánh ra Bắc cùng nhau.
Ông cũng là chủ soái
Trận đánh thành Xương
Giang,
Một trận đánh quyết
định
Khiến giặc phải đầu
hàng.
Về chức, sau Lê Lợi,
Trần Nguyên Hãn thứ
hai,
Cao hơn cả Nguyễn
Trãi,
Tạm gác chuyện đức,
tài.
Trong danh sách Đại
Việt
Ở Hội thề Đông Quan,
Ông chỉ sau Lê Lợi
Khi hai bên nghị bàn.
Năm Một Bốn Hai Chín,
Ông xin phép nhà vua
Được lui về trí sĩ,
Bên vườn thuốc, sân
chùa.
Có sách bảo ông nói,
Rằng Lê Lợi bề ngoài
Giống Việt vương Câu
Tiễn,
Nên khó ở với ngài.
Câu Tiễn mép như quạ,
Ranh ma, không thực
lòng.
Có thể ông nói thế.
Cũng có thể là không.
Hơn thế, vua khó chịu
Khi thấy ông xây nhà
To đẹp như phủ đệ
Mà nghĩ chắc gian tà.
Vua nghi ông phản
nghịch,
Nên ra lệnh bắt ông.
Giữa đường ông tự tử
Bằng cách nhảy xuống
sông.
Trước khi chết ông
nói:
“Hoàng thượng đã cùng
ta
Xưa vào sinh ra tử,
Nay nghe lời gièm pha
Mà bắt ta phải chết.
Hỏi trời, trời biết
không?”
Trời chưa kịp đáp lại
Thì nước đã dìm ông.
Về sau, Trần Nguyên
Hãn
Được nhà Lê minh oan.
Nhưng con cháu nhất
mực
Không chịu ra làm
quan.
Lê Lợi là minh chủ,
Có lúc đã không minh,
Nhưng nhân dân yêu quí
Vị tướng giỏi của
mình.
Nhiều nơi trong cả
nước,
Nhất là vùng Sơn Đông,
Nơi ông đã tự tử,
Dựng đền thờ thờ ông.
NGÔ
SĨ LIÊN (thế kỷ 15)
Nhà sử học nổi tiếng,
Ông là người hiền tài,
Thi và đậu tiến sĩ
Năm Một Bốn Bốn Hai.
Ông người làng Chúc
Lý,
Huyện Chương Mỹ ngày
nay,
Chết, thọ chín tám
tuổi,
Tuổi hiếm vào thời
này.
Ông là tác giả chính
Bộ Sử ký Toàn Thư
Của đất nước Đại Việt,
Gồm hàng chục vạn từ.
Bộ sử mười lăm quyển,
Gồm từ thời Hồng Bàng
Đến Một Bốn Hai Bảy,
Sử nước nhà vẻ vang.
Như nhiều chí sĩ khác
Sống cùng thời với
ông,
Ông theo, giúp Lê Lợi
Cho đến khi thành
công.
Nhờ ăn nói tài giỏi,
Ông được vua nhiều lần
Gặp giặc Minh, thương
thuyết,
Thay mặt cho nghĩa
quân.
Ông và Nguyễn Nhữ
Soạn,
Em Nguyễn Trãi Tiên
sinh
Được giao việc ghi
chép
Việc đời và việc binh.
LƯƠNG
THẾ VINH (1441 – 1496)
Lương Thế Vinh đỗ
Trạng
Năm Một Bốn Sáu Ba,
Học giỏi, hiểu biết
rộng,
Lịch thiệp và tài hoa.
Ông là nhà toán học
Nổi tiếng thời Lê sơ,
Viết Đại Thành Toán
Pháp,
Giá trị đến bây giờ.
Ông nghiên cứu về
Phật,
Viết Thiền Môn Giáo
Khoa,
Về triết lý Phật Giáo
Trong lịch sử nước
nhà.
Ông còn viết thơ vịnh
Lúc nghỉ ngơi, an
nhàn.
Là một trong hăm tám
Tinh tú Hội Tao Đàn.
Là con người xuất
chúng
Với trí tuệ phi
thường,
Được nhân dân trìu mến
Gọi ông là Trạng
Lường.
*
Ông sinh ở Thiên Bản,
Huyện Vụ Bản bây giờ,
Năm Một Bốn Bốn Một.
Nhỏ, đã biết làm thơ.
Ông nổi tiếng nghịch
ngợm
Giỏi về môn thả diều.
Sáng dạ, học rất khá,
Dù thường không học
nhiều.
Một lần đang chơi
bóng.
Bóng rơi xuống hố sâu,
Không thể lấy lên
được,
Mọi người đứng nhìn
nhau.
Ông lặng lẽ lấy nước
Đổ xuống hố, tất
nhiên,
Nước làm quả bóng nổi.
Chỉ cúi xuống nhặt
lên.
*
Có truyền thuyết kể
lại,
Sứ nhà Minh, Chu Hy,
Nghe tiếng ông tài
giỏi,
Không tin, nhưng hiếu
kỳ,
Bèn thách ông có thể
Cân con voi được
không.
Ông cho voi bước xuống
Chiếc thuyền lớn trên
sông,
Rồi đánh dấu ngấn
nước.
Đưa voi lên, rồi thay
Con voi bằng đá hộc,
Đúng đến ngấn nước
này.
Bây giờ thì đơn giản,
Cân đống đá là xong.
Sứ Minh nhìn, phục
lắm,
Nhưng còn muốn thử
ông.
Hắn chỉ một trang giấy
Trong cuốn sách khá
dày,
Rồi nhờ ông đo thử
Độ dày tờ giấy này.
Ông đã làm việc đó
Rất nhanh và dễ dàng,
Bằng cách đo cả cuốn
Rồi chia cho số trang.
Vị sứ thần kiêu ngạo,
Chỉ còn biết thở dài:
“Nước Nam tuy nhỏ bé,
Mà thật lắm người tài.
Năm Một Bốn Chín Sáu
Lương Thế Vinh qua
đời,
Hưởng thọ năm lăm
tuổi.
Một con người tuyệt
vời.
18
MẠC ĐĂNG DUNG (1483 –
1541)
Thời Lê Sơ thịnh trị
Kéo dài mấy mươi năm
Rất tiếc đã kết thúc
Cuối thế kỷ mười lăm.
Cũng bắt đầu từ đó
Nhà Lê suy thoái dần.
Vua quan lo hưởng lạc,
Không quan tâm đến
dân.
Như vua Lê Uy Mục,
Đêm nào cũng tiệc
tùng,
Khi uống say, cầm kiếm
Rồi chém giết lung
tung.
Nội bộ thì chia rẽ,
Các phe phái tranh
quyền.
Công thần xưa bị giết,
Lòng dân rất không
yên.
Dười triều Lê Tương
Dực,
Trịnh Duy Sản cầm đầu
Một phe phái hiếu
chiến,
Suốt mười năm đánh
nhau.
Năm Một Năm Một Bảy
Dân chết đói đầy
đường,
Thậm chí ở vựa lúa
Kinh Bắc và Hải Dương.
Có nhiều cuộc khởi
nghĩa.
Bắt đầu là Nguyễn Tuân
Năm Một Năm Một Một,
Thu hút hàng vạn dân.
Có lần quân khởi nghĩa
Đi thành đoàn rất
đông,
Từ Sơn Tây kéo xuống
Uy hiếp thành Thăng
Long.
Chỉ một năm sau đó,
Trịnh Hưng và Lê Hy
Nổi lên ở xứ Nghệ,
Sau lan ra Bắc Kỳ.
Ở vùng núi Tam Đảo,
Năm Một Năm Một Năm,
Phùng Chương dấy khởi
nghĩa,
Cũng gây được tiếng
tăm.
Nhưng quan trọng hơn
cả
Là Trần Cảo, Quảng
Ninh,
Năm Một Năm Một Sáu,
Với rất nhiều nghĩa
binh.
Đầu họ được cạo trọc,
Chỉ chừa ba chỏm con,
Gọi là Quân Ba Chỏm,
Danh tiếng nổi như
cồn.
Quân và tướng Ba Chỏm
Đã ba lần tấn công,
Trong đó một lần
thắng,
Chiếm được thành Thăng
Long.
Vua Lê phải bỏ chạy
Vào Thanh Hóa thoát
thân,
Rồi tổ chức chiếm lại,
Cuộc khởi nghĩa tắt
dần.
Các cuộc khởi nghĩa ấy
Sớm muộn, bị dập tan.
Nhưng chính chúng đã
khiến
Nhà Lê chóng suy tàn.
*
Trong bối cảnh tranh
chấp
Các phe phái cung
đình,
Cùng loạn lạc, khởi
nghĩa,
Bất mãn của dân tình,
Xuất hiện một nhân
vật,
Có khí phách anh hùng,
Vốn là một võ tướng.
Đó là Mạc Đăng Dung.
Ông nhanh chóng tiêu
diệt
Các thế lực bất bình,
Giữ chức ngang tể
tướng,
Nắm hết mọi quyền
hành.
Năm Một Hai Năm Bảy,
Ông tiếm ngôi, xưng
vương.
Bây giờ ông kể chuyện
Về người này phi
thường.
*
Theo truyền thuyết kể
lại,
Thì xưa Mạc Đăng Dung
Vốn dòng dõi quyền quí
Nhưng sau thành bần cùng.
Ông làm nghề đánh cá,
Bố mẹ nghề chèo đò.
Bến sông ấy rất rộng,
Thường sóng lớn, gió
to.
Có một thầy địa lý,
Nghe đâu là người Tàu,
Được hai người cứu
sống,
Nên mang nặng ân sâu.
Để trả ơn, họ mách
Phải táng mộ ông bà
Vào chỗ có long mạch,
Sau sẽ thành vương
gia.
Mạc Đăng Dung lập tức
Đem cốt tổ tiên mình
Táng vào nơi được chỉ,
Mong có ngày hiển
vinh.
Năm sau, thầy địa lý
Quay lại và bảo ông
Đem một quan tiền mới,
Tức đúng một trăm đồng
Ra ngồi trên con dốc
Cách không xa bến đò,
Thấy ai vác chữ “khẩu”
Trên lưng mình, thì
cho.
Ông chờ mãi, chỉ thấy
Một ông lão ra sông,
Đeo trên vai chiếc
dặm.
Ông cho ba mươi đồng.
Chiều tối, ông lão ấy
Quay về, ông lại cho
Thêm ba lăm đồng nữa,
Rồi đi xuống chèo đò.
Tối về, nghe kể lại,
Thầy địa lý lầm bầm:
“Vậy nhà ông chỉ được
Làm vua sáu lăm năm.”
*
Đức vua Mạc Thái Tổ
Tên húy Mạc Đăng Dung,
Quê nơi nay là đất
Huyện Kiến Thụy, Hải
Phòng.
Theo các tài liệu sử,
Ông là cháu bảy đời
Một trạng nguyên nổi
tiếng -
Mạc Đỉnh Chi hơn
người.
Ông thời bé nghèo khổ,
Chuyên chài lưới kiếm
ăn,
Sau lớn lên, khỏe
mạnh,
Đỗ “Lực sĩ xuất thân.”
Rồi thành quân túc vệ
Vào thời nhà Hậu Lê,
Đời vua Lê Uy Mục,
Đang rối ren trăm bề.
Nhờ thông minh, tài
giỏi,
Được hoàng gia tin
yêu,
Ông nhanh chóng thăng
chức
Thành quan lớn trong
triều.
Nhà Hậu Lê thời ấy
Yếu hèn và rối tung,
Và dần dần quyền lực
Vào tay Mạc Đăng Dung.
Năm Một Năm Hai bảy,
Ông tiếm ngôi nhà Lê,
Lấy hiệu Mạc Thái Tổ,
Lúc thọ địch bốn bề.
Ông đúc tiền Thông
Bảo,
Lo chấn chỉnh triều
đình.
Thành Hải Dương được
chọn
Làm kinh đô - Dương
Kinh.
Năm Một Năm Hai Bảy
Ông nhường con ngai
vàng.
Mạc Thái Tông kế vị,
Ông thành Thái thượng
hoàng.
Năm Một Năm Bốn Mốt
Mạc Đăng Dung băng hà,
Hưởng thọ năm chín
tuổi,
Và trước lúc đi xa
Ông dặn Mạc Phúc Hải
Không lập đàn ma chay,
Mà lo việc xã tắc,
Xây dựng nước sau này.
Như thầy địa lý nọ
Có lần đã lầm bầm,
Các vua Mạc cai trị
Tất cả sáu lăm năm.
*
“Toàn thư” nói nhà Mạc
Đem đất đai nước mình,
Gồm hai châu Quy,
Thuận,
Nhục nhã dâng nhà
Minh.
Thực ra hai châu ấy
Thủ lĩnh Nùng Trí Cao
Và anh, Nùng Trí Hội,
Dâng Tống từ đời nào.
Người đời sau xác nhận
Ông chỉ nhường ngoại
bang
Năm hang động không
lớn
Thuộc vùng đất Cao
Bằng.
Mà rồi năm hang ấy
Vốn không phải đất
mình,
Mà do Đại Việt lấn,
Giờ trả lại nhà Minh.
Ông còn bị chê trách
Vì tự trói, đầu hàng,
Dâng cho giặc đồ cống
Cùng hai bức tượng
vàng.
Vì sao ông làm vậy?
Vì nhà Lê, hai lần,
Cầu nhà Minh đánh Mạc,
Mất nước và khổ dân.
Thấy lực mình đang
yếu,
Muốn tránh cảnh can
qua,
Vua Mạc đành nén nhục,
Quì gối xin giảng hòa.
Nhục, một mình vua
chịu,
Mang tiếng xấu với
đời,
Nhưng dân tình thoát
khỏi
Cảnh máu chảy, đầu
rơi.
Sau cái nhục lần ấy,
Tự trói mình xin hòa,
Ông xấu hổ, lâm bệnh
Một năm rồi băng hà.
Giống như Trần Thủ Độ
Và cả Hồ Quý Ly,
Ông tiếm ngôi người
khác,
Hoàn toàn không khác
gì.
Vua các triều đại
trước
Đã mục ruỗng, yếu hèn.
Theo qui luật lịch sử
Thì triều khác sẽ lên.
Tuy nhiên, có điều
khác:
Truất ngôi Lê Cung
Hoàng,
Mạc Đăng Dung không
giết
Các đại thần quy hàng.
Ông cũng không hề giết
Một ai trong hoàng gia.
Một sự kiện hiếm có
Trong lịch sử nước
nhà.
Những di sản kiến trúc
Và văn hóa Lê Sơ
Ông không hề phá hủy,
Nên còn mãi đến giờ.
*
Đức vua Mạc Thái Tổ
Có một thanh Long Đao
Bây giờ còn giữ được,
Thật quí giá nhường
nào.
Cháu con ông giữ nó
Suốt năm trăm năm qua,
Nay thờ ở Kiến Thụy
Như vật báu quốc gia.
Đao dài hai mét rưỡi,
Nặng gần ba mươi cân,
Cán làm bằng sắt rỗng
Có chạm hình long vân.
Thanh đao của Quan Vũ
Được nói đến nhiều
lần,
Tức Long Đao Yển
Nguyệt,
Cũng chỉ ba bảy cân.
Châu Á giờ chỉ có
Hai long đao thế này.
Đao kia thuộc nước
Tống,
Ở Trung Quốc ngày nay.
19
NAM BẮC TRIỀU VÀ ĐÀNG
TRONG,
ĐÀNG NGOÀI
Khi vua Lê bị phế,
Hầu hết các cựu thần
Đều đi theo nhà Mạc
Hay bỏ chạy thoát
thân.
Nguyễn Kim, một tướng
cũ,
Rời bỏ xứ Bắc Hà
Vào Tây Bắc Thanh Hóa
Năm Một Năm Ba Ba.
Ông tìm được dòng dõi
Của vua Lê, và ông
Tôn lên thành vua mới,
Gọi là Lê Trang Tông.
Được vua Lào, Sạ Đẩu,
Cho mượn đất Sầm Châu
Để làm căn cứ tạm.
Và một thời gian sau,
Ông đánh chiếm Thanh
Hóa,
Mở rộng đất, dần dần
Lập nên một triều mới,
Đóng đô ở Thọ Xuân.
Với danh nghĩa diệt
Mạc
Để khôi phục nhà Lê,
Ông tiến hành cuộc
chiến
Gây hậu quả nặng nề.
Cuộc chiến ấy được gọi
Chiến tranh Nam - Bắc
triều.
Sáu mươi năm dai dẳng,
Làm đất nước tiêu
điều.
Hàng tướng Dương Chấp
Nhất
Đầu độc ông, Nguyễn
Kim,
Năm Bốn Lăm, sau đó
Trịnh Kiểm lên cầm
quyền.
Trịnh Kiểm là con rể,
Một vị tướng có tài,
Quyết tiếp tục đeo
đuổi
Cuộc chiến tranh kéo
dài.
Năm Một Năm Bốn Sáu
Mạc Hiến Tông qua đời.
Triều đình Mạc chia rẽ
Khi chọn người kế
ngôi.
Nam Triều nhân cơ hội
Chiếm Nghệ An nhẹ
nhàng.
Năm Bảy Hai, Thuận Hóa
Rơi vào tay Nguyễn
Hoàng.
Nguyễn Hoàng là con
thứ
Của Nguyễn Kim, về sau
Lập nên các chúa
Nguyễn
Miền Nam thời kỳ đầu.
Nhưng rồi Trịnh Kiểm
chết
Năm Một Năm Bảy Mươi.
Con, Trịnh Tùng, Trịnh
Cối
Đánh nhau để giành
ngôi.
Trịnh Cối sang hàng
Mạc.
Trịnh Tùng lên thay
cha.
Cuộc chiến cứ dai
dẳng,
Hết đánh rồi lại hòa.
Cuối cùng nó chấm dứt
Năm Một Năm Chín Hai.
Thành Thăng Long bị
chiếm.
Nhà Mạc thua, chạy
dài,
Lên Cao Bằng cố thủ,
Sống chung với người
Man.
Năm Một Sáu Bảy Bảy
Mới chấm dứt hoàn
toàn.
TRỊNH
- NGUYỄN PHÂN TRANH
Sau khi Nguyễn Kim
chết,
Rể, Trịnh Kiểm lên
thay.
Ông cũng là đầu mối
Cuộc phân tranh sau
này
Giữa hai họ Trịnh,
Nguyễn,
Giữa miền Bắc, miền
Nam,
Làm đất nước chia cắt
Suốt hơn một trăm năm.
Ông mồ côi từ bé,
Quê Vĩnh Lộc, xứ
Thanh.
Thời nhỏ nghèo, khổ
cực,
Cũng chẳng được học
hành.
Ông là người có hiếu,
Làm thuê nuôi mẹ già.
Sau lớn lên, kiếm
sống,
Lưu lạc ra Bắc Hà.
Ông đầu quân làm lính
Cho tướng quân Nguyễn
Kim,
Có tài và dũng cảm,
Được Nguyễn Kim rất
tin.
Alexandre De Rhodes kể:
“Một lần bị bao vây,
Tướng Nguyễn Kim tuyên
bố
Với các tướng thế này:
Ai mở dám đường máu
Cứu được ta, về sau
Ta sẽ gả con gái
Và cho ghi công đầu.”
Trịnh Kiểm liền phi
ngựa
Xông vào giặc, tung
hoành,
Luôn tả xung, hữu đột,
Cứu được chúa của
mình.
Nguyễn Kim, y lời hứa,
Gả con gái cho ông,
Tin yêu, giao trọng
trách,
Lập được nhiều chiến
công.”
Ông là người độc ác,
Nỡ giết cả Nguyễn
Uông,
Tức là giết anh vợ,
Mà không chút xót
thương.
Cũng lo anh vợ giết
Mà Nguyễn Hoàng, người
em,
Xin vào đánh Thuận
Hóa,
Theo lời Nguyễn Bỉnh
Khiêm.
Đất Thuận Hóa lúc ấy
Hoang vu và xa xăm,
Do nhà Mạc quản lý.
Kiểm đồng ý, mong thầm
Hoàng sẽ bị giết chết.
Thế mà không, Nguyễn
Hoàng
Không những không bị
giết,
Còn bám trụ vững vàng.
Hoàng đánh bại quân
Mạc,
Thu phục được lòng
dân,
Mở rộng vùng chiếm
đóng,
Thanh thế càng lớn
dần.
Ông bắt đầu bất chấp
Các lệnh từ Thăng
Long.
Tự mình cai quản xứ
Sau gọi là Đàng Trong.
*
Một cuộc chiến tranh
mới
Thế là đã hình thành.
Chiến trường ác liệt
nhất
Là Hà Tĩnh, Quảng
Bình.
Từ Một Sáu Hai Bảy
Đến Một Sáu Bảy Hai
Có bảy lần đánh lớn,
Ác liệt và kéo dài.
Nhân dân rất cơ cực
Vì binh đao, mất mùa.
Hai bên đánh nhau mãi,
Nhưng bất phân thắng
thua.
Cuối cùng tạm hòa
hoãn.
Đất nước chia làm hai.
Sông Gianh là ranh
giới
Đàng Trong và Đàng
Ngoài.
*
Ngay sau khi kết thúc
Nam, Bắc Triều chiến
tranh,
Trịnh Tùng xây phủ
Chúa
Ngay bên cạnh triều
đình.
Tùng nắm hết quyền
lực.
Vua làm vì, làm hề.
Một dạng cai trị mới -
Chúa Trịnh và vua Lê.
Ở Đàng Trong, đất mới,
Bắt đầu từ Nguyễn
Hoàng,
Kiểu cha truyền con
nối,
Liên tục và vững vàng,
Các chúa Nguyễn cai
trị,
Khai khẩn thêm đất
đai.
Tình trạng chia cắt ấy
Cứ mặc nhiên kéo dài
Cho đến khi Nguyễn Huệ
Diệt Đàng Ngoài, Đàng
Trong,
Cuối thế kỷ mười tám,
Mới thống nhất non
sông.
*
Vậy là ông kể hết,
Dẫu chỉ một đôi điều
Về cuộc chiến được gọi
Giữa Nam và Bắc Triều.
Sau đó là giai đoạn
Chúa Trịnh, Nguyễn
phân tranh.
Một trăm năm đất nước
Chia cắt bởi sông
Gianh.
20
ĐẠO THIÊN CHÚA,
CHỮ QUỐC NGỮ VÀ CHỮ
NÔM
Giữa thế kỷ Mười Sáu,
Từ châu Âu, thương gia
Đến làm ăn, buôn bán
Ở nhiều cảng nước ta.
Bắt đầu các giáo sĩ
Một số nước phương Tây
Đến Đại Việt truyền
đạo
Cũng vào thời gian này.
Theo sử sách ghi lại,
Giáo sĩ Bồ Đào Nha
Có mặt sớm hơn cả,
Năm Một Năm Ba Ba.
Đó là đạo Thiên Chúa
Ở Giê-ru-xa-lem.
Chúa Giê-su sáng lập
Cách đây hai nghìn
năm.
Đạo có ba nhánh lớn
Là Cơ-đốc, Tin Lành
Và Thiên Chúa Chính
thống,
Được truyền bá rất nhanh.
Không ít vua Đại Việt
Ngăn cản nó, không
thành.
Các giáo sĩ kiên nhẫn
Làm công việc của
mình.
Dần dần đạo Thiên Chúa
Được nhiều người tin
theo.
Số con chiên thờ Chúa
Và hành lễ càng nhiều.
Theo số liệu chính
thức,
Ở nước ta hiện nay
Tám phần trăm dân số
Là tín đồ đạo này.
Chủ yếu đạo Cơ Đốc,
Tòa thánh ở Rô-ma.
Tín ngưỡng được nhà
nước
Tôn trọng ở nước ta.
*
Với các nhà truyền
đạo,
Các chúa Nguyễn Đàng
Trong
Có tỏ ra ưu ái
Hơn Đàng Ngoài Thăng
Long.
Ông nhớ vua Nguyễn Ánh
Nói một câu rất hay
Về đạo Cơ Đốc Giáo.
Đại khái ý thế này:
“Đạo Cơ Đốc tốt đẹp,
Rất hợp với lòng ta.
Nhưng ta không theo
được,
Vì một lẽ, đó là
Theo đạo này, thật
tiếc,
Chỉ một vợ một chồng.
Ta thì muốn hơn thế,
Dẫu ta nói thực lòng,
Rằng cai trị một nước
Dễ, đơn giản hơn nhiều
So với việc quản lý
Mấy bà vợ ta yêu.”
CHỮ
QUỐC NGỮ
Thời ấy, các giáo sĩ,
Để truyền đạo của
mình,
Đã chép âm tiếng Việt
Bằng chữ cái La-tinh.
Đây là việc không dễ,
Một quá trình lâu dài,
Có nhiều người góp
sức,
Không riêng một mình
ai.
Trước hết là giáo sĩ
Fran-si-sco Pi-na,
A-ma-ran, tiếp đến
Là cha Bac-bô-za.
Năm Một Sáu Năm Một
Từ điển Việt - La-tinh
Alexandre de Rodes
soạn
Được in và lưu hành.
Ông mượn tiếng Hy Lạp
Các dấu Sắc, Ngã,
Huyền
Để diễn tả âm ngữ
Rồi cho đánh lên trên.
Thấy thế vẫn chưa đủ,
Ông tự mình nghĩ ra
Các dấu Nặng và Hỏi
Cho hợp với tiếng ta.
Nhờ thế, chữ Quốc Ngữ
Được hoàn thiện, bấy
giờ
Nó được dùng ghi chép
Các văn bản nhà thờ.
Tuy vậy, nhờ có cuốn
Từ điển Việt - Bồ -
La,
Hơn trăm năm sau đó
Chữ quốc ngữ nước ta
Mới trở nên hoàn
thiện,
Gần giống như ngày
nay.
Một chữ viết thuận
lợi,
Dễ sử dụng hàng ngày.
Nhân tiện, ông muốn kể
Đôi điều về cuộc đời
Cha Alexandre de
Rodes,
Theo ông, rất tuyệt
vời.
Ông vốn là người Pháp,
Sinh Một Năm Chín Ba.
Sau lớn, ông nhập đạo,
Dòng Tên ở Rô-ma.
Năm Một Sáu Một Chín
Giáo Hoàng đã phái ông
Đến Đông Dương truyền
đạo,
Chủ yếu ở Đàng Trong.
Năm Một Sáu Hai Bốn,
Cùng các cha thừa sai,
Ông đi ra miền Bắc,
Truyền đạo ở Đàng
Ngoài.
Bị vua Lê trục xuất
Năm Một Sáu Ba Mươi,
Ông sang Ma Cao sống
Trong suốt mười năm
trời.
Sau đó ông được cử
Quay lại xứ Đàng
Trong,
Năm Bốn Lăm, lần nữa
Người ta trục xuất
ông.
Cuối đời, ông được
phái
Truyền đạo ở I-ran.
Chết, thọ sáu ba tuổi
Ở thành Ix-pha-han.
Năm kia ông có việc
Sang I-ran mấy ngày.
Dù bận, nhưng có đến
Viếng mộ ông nơi này.
CHỮ
NÔM
Đó là chữ Quốc Ngữ,
Được dùng đã nhiều
năm.
Trước chúng ta đã có
Ngôn ngữ riêng, Quốc
Âm.
Quốc Âm là thứ chữ
Mà bình thường người
ta
Gọi chữ Nôm cho tiện.
Suốt nhiều thế kỷ qua
Các triều vua Đại Việt
Đã dùng thứ chữ này
Làm ngôn ngữ chính
thức
Trong ghi chép hàng
ngày.
Đó là thứ chữ viết
Được chính quyền, nhân
dân
Dựa vào chữ người Hán
Mà phát triển dần dần.
Lúc đầu chỉ đơn giản
Mượn chữ Hán tượng
hình,
Gọi là chữ “giả tá”,
Để ghi lại tiếng mình.
Sau đó hai chữ Hán
Được ghép lại, để
thành
Một chữ Nôm hai nửa,
Gọi là chữ “hài
thanh”.
Nửa chữ gợi hiểu ý.
Nửa chữ gợi đọc âm.
Tuy cồng kềnh một
chút,
Nhưng tránh được hiểu
lầm.
Hiện các nhà khoa học
Chưa thống nhất với
nhau
Việc chữ Nôm chính
thức
Hình thành đã bao lâu.
Người thì nói lâu lắm,
Có từ thời Hùng Vương.
Có người nói khiêm
tốn,
Mới từ thời nhà Đường.
Hiện ta còn giữ được
Văn bản Nôm rất nhiều,
Cả sử, văn, thơ phú
Của các đời, các
triều.
Vua Quang Trung ra
lệnh
Các văn bản quốc gia
Không được viết chữ
Hán,
Mà viết bằng chữ ta.
Chữ Nôm trong văn học
Được sử dụng cũng
nhiều.
Nguyễn Du đã dùng nó
Viết áng thơ Truyện
Kiều.
Vậy là chữ Quốc Ngữ
Làm chữ Nôm lu mờ
Và rơi vào quên lãng.
Kể cũng tiếc, bây giờ
Chỉ các nhà nghiên cứu
Và sinh viên khoa văn
Mới học nó để đọc
Và tra cứu khi cần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét