Thứ Hai, 16 tháng 3, 2020

Truyện Ngắn



HẢO NHẠN

Lúc ấy chiến tranh mới bắt đầu. Trong một đơn vị pháo cao xạ đóng ở làng N. tỉnh Quảng Bình có anh sinh viên người Hà Nội mới học hết năm thứ ba khoa văn tổng hợp thì nhập ngũ. Anh được phân công làm anh nuôi và ngày nào cũng xuống chợ Cồn trong rừng phi lao sát biển mua thực phẩm.
Đường tới chợ phải qua một cánh đồng rộng và một nghĩa trang nhỏ đủ các mộ mới cũ xen nhau. Mấy lần anh để ý thấy có bà lão xách nước từ xa đến tưới cho cây chuối trồng ngay trên một ngôi mộ còn mới. Điều này làm anh thắc mắc, vì thường thì nghĩa trang không là nơi thích hợp để trồng loại cây này, lại trồng ngay trên mộ.
Mới đến đây được bốn tháng nhưng anh cựu sinh viên thủ đô đã kịp quen và yêu một o dân quân địa phương có cái tên hơi lạ và kiểu cách là Hảo Nhạn. Tất nhiên yêu bí mật vì kỷ luật quân dân thời ấy nghiêm lắm. Anh đem chuyện này hỏi o Nhạn thì được biết ở đây có lệ khi người đàn bà chửa chết, người ta trồng lên mộ một cây chuối rồi nóng lòng chờ nó nở hoa để yên tâm “dưới ấy” mẹ tròn con vuông. Con dâu bà cụ kia mới chết khi đang có bầu năm tháng. Chồng cô cũng bộ đội và đang ở tận bên Lào.
Một lần, ngẫu nhiên anh và Nhạn gặp nhau cạnh nghĩa trang đúng lúc máy bay đến bắn phá. Hai người vội chui xuống một trong nhiều hầm trú ẩn được đào dọc đường xuống chợ. Không hiểu vô tình hay cố ý, chúng phóng một quả tên lửa đúng nghĩa trang, tạo thành một hố khá lớn, làm tung tóe gỗ quan tài, mảnh tiểu sành và cả xương người. Còn cây chuối kia thì bị mảnh đạn chém đứt ngang. Đúng lúc ấy, giữa tiếng máy bay còn gầm rú, họ thấy bà cụ kia từ đâu hớt hải chạy tới. Hồi lâu bà ôm nửa thân chuối non còn lại, vuốt ve nó như ru trẻ, rồi bất chợt bà đứng thẳng người, chỉ tay vào chiếc máy bay đang lượn trên đầu, tru tréo điều gì đó một cách giận dữ. Thì ra bà đang chửi thằng Mỹ giết cháu bà. Chửi tục lắm. Bà cứ quay người theo hướng hắn bay mà chửi. Xong một câu, bà vén váy, vén cao lên tận bụng trắng hếu rồi vỗ vào “cái ấy” của mình. Các bà già nông thôn ít ai mặc đồ lót.
Anh thư sinh thủ đô và cả o Nhạn xấu hổ không dám nhìn, nghĩ vừa thương vừa buồn cười.
Bỗng nhiên Nhạn quay sang hỏi anh:
- Nhỡ em chết, anh có trồng cho em một cây chuối trên mộ không?
- Đừng nói gở. Chết làm sao được. Vả lại nếu chết, chắc gì em đang có bầu.
Nhạn im lặng một chốc rồi nói:
- Hình như em có rồi đấy.
Anh nhíu mày và dù cố giấu, vẫn lộ vẻ bối rối.
- Bậy.
- Thật mà. - Nhạn nhìn anh nghiêm túc. - Anh sẽ trồng chứ? Anh không muốn con chúng ta ra đời à, cả khi không may em phải chết?
- Em chỉ khéo đùa. - Anh ôm hôn cô, một phần để cô không nhìn thấy mặt mình lúc ấy. - Đùa gì nghe mà khiếp.
- Ừ thì em chỉ nói thế thôi. Anh sợ à?
- Không. Tất nhiên là không. Tất nhiên anh sẽ trồng một cây chuối thật khỏe, để nó trổ không phải một mà hai hoa một lúc. Bố mẹ anh thích có nhiều cháu. -  Anh cười.
- Tham thế! -  Nhạn cũng cười theo.
Hai người lại hôn nhau. Khi hết máy bay, họ chui lên khỏi hầm và mỗi người đi một hướng.
Không ngờ một tháng sau Nhạn chết thật, do ngẫu nhiên trúng đạn pháo từ tàu Mỹ ngoài biển câu vào. Thêm một tháng nữa thì đơn vị anh chuyển vào Nam.

                                                  * 
Anh bộ đội - sinh viên ngày ấy từ lâu đã là một nhà văn nổi tiếng. Vốn đồng nghiệp, lại chơi thân với nhau, ông kể tôi nghe chuyện này, khi bị bệnh nặng nằm viện hơn nửa năm chưa khỏi và biết có lẽ không còn được sống lâu nữa. Ông đã không trồng cho o Nhạn người yêu của ông một cây chuối trên mộ cô như đã hứa. Ông đã không tạo cơ hội cho đứa con của ông, có thể hai, được lọt lòng mẹ, trên hay dưới đất không quan trọng. Đơn giản vì lúc ấy ông hèn nhát không dám để mọi người biết sự thật. Ông định thú nhận mấy lần mà không dám. Nhưng ông đau lắm. Đau mà không dám nói to, không dám chửi, vén váy lên mà chửi như bà cụ nọ. Suốt chừng ấy năm ông chỉ còn biết chua xót tự trách mình. Có lần ông bảo tôi ông sợ nhất khi chết mà lòng không thanh thản.
Kia, ông đang nằm kia, bất động, nhăn nhúm trên chiếc giường bệnh viện. Mỗi tuần hai lần đều đặn vào chiều thứ tư và chủ nhật tôi đến thăm ông và thường ngồi ở đấy suốt buổi, lúc ông tỉnh và nói được thì nói chuyện với ông, còn không thì tôi ngồi đọc sách. Có lẽ cuộc sống của ông đang được đếm từng ngày. Mặt ông xám ngoét, các nếp nhăn hằn sâu, đôi mày nhíu lại vì đau và căng thẳng. Suốt hai giờ liền tôi không thấy ông trở mình, không nói lời nào, nhưng nhìn thái dương thỉnh thoảng giật giật, tôi biết ông còn sống.
Bỗng trong phòng xuất hiện một người đàn bà mặc đồ đen, trùm khăn đen, khoảng bốn mươi tuổi. Tôi thầm ngạc nhiên không hiểu bà ta vào từ lúc nào. Một người lạ tôi chưa hề gặp. Cả bề ngoài cũng lạ, không ra thành thị cũng chẳng nông thôn. Không gầy, thậm chí hơi đẫy đà, nhưng không hiểu sao tôi cứ có cảm giác như rất nhẹ, như không phải người thật và có thể nhìn xuyên qua được.
Bà kia không nhìn tôi, dù lúc ấy chỉ mình tôi trong phòng. Bà đi thẳng đến giường bệnh, quỳ xuống nâng bàn tay nhăn nheo của ông rồi âu yếm áp lên má mình. Ông tỉnh dậy ngay, nét mặt rạng rỡ như chờ ai từ lâu và bây giờ người ông chờ đã đến. Ông đưa mắt nhìn tôi. Tôi đoán ông muốn hai người được nói chuyện riêng nên lặng lẽ bước ra ngoài.
Khoảng mươi phút sau, người kia ra khỏi phòng, cũng lặng lẽ và nhẹ nhàng như khi đến, rồi đột nhiên biến mất, dù chưa đi hết hành lang bệnh viện.
Ông vẫy tay, ra hiệu tôi lại gần.
- Con tôi đấy! Con o Nhạn đấy! Mẹ nó bảo về nói họ đã tha lỗi cho tôi.  - Giọng ông thều thào nhưng nghe rất rõ. - Tôi biết mà. Tôi biết thế nào cũng được tha thứ. Hảo Nhạn, cảm ơn em. Cảm ơn con...
Rồi ông nhắm mắt. Bên khóe môi đọng lại cái gì như một nụ cười rất mỏng và yếu ớt. Như có phép lạ, khuôn mặt ông bỗng dãn ra, thư thái và ửng hồng. Tôi đứng ngây, ngạc nhiên nhìn.
Cũng có thể do quá xúc động, tôi không nhận thấy lúc ấy xế chiều và những tia nắng cuối ngày đã dọi vào phòng.
Hà Nội, 2002.


SỐ PHẬN MỘT THIÊN TÀI

Suy cho cùng, tự hắn làm hỏng cuộc đời hắn. Được trời phú cho bộ óc thông minh, tỉnh táo như người ta, hắn đã có thể là người thành đạt mọi mặt. Giữa lúc chiến tranh ác liệt nhất, bao người cùng tuổi phải ra trận thì hắn được gửi đi Liên Xô, học ngay tại trường Đại học Lômônôxôp danh tiếng, đúng cái ngành thời ấy chưa phổ biến nhưng đầy triển vọng là tin học. Hắn học giỏi, của đáng tội. Còn là sinh viên năm thứ ba, hắn đã có một loạt bài in trên tạp chí chuyên ngành của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, dấu hiệu chắc chắn của sự xuất chúng, nếu không thành thiên tài thì bét ra cũng là một nhân vật tầm cỡ trong giới mình, nếu biết phát triển đúng hướng tài năng của hắn. Tiếc thay, hắn đã chọn sai hướng nên rốt cục mới đến nông nỗi này.
Số là vào những năm cuối đại học, không hiểu ai xui hay do nguyên cớ gì mà bỗng dưng hắn đâm ra rất mê thơ. Nếu biết dừng ở đấy thì chẳng sao. Yêu thơ là điều vô hại và có thể còn làm cuộc sống thêm phần mơ mộng. Đằng này, thay cho việc tập trung nghiên cứu khoa học, hắn dành toàn bộ thời gian nghiền ngẫm, nhấm nháp hàng đống thơ, cả thơ ta lẫn thơ tây. Xong phần đọc, hắn chuyển sang viết. Viết ngày, viết đêm. Về số lượng có thể gọi vô địch. Vô địch cả về tốc độ lẫn sự kiên nhẫn.
Trong khoa học mọi thứ rạch ròi và dễ đánh giá, nhưng văn thơ lại là chuyện khác. Không quan tâm người đời đánh giá thế nào, không mảy may nghi ngờ sự thành công sau này, hắn cắm cúi viết. Lúc ấy hắn còn trẻ, chỉ thấy tương lai toàn màu hồng mà không muốn nghĩ tới những tai ương có thể đến, nhất là khi quyết tâm dấn thân vào "sự nghiệp thơ văn vĩ đại".
Tổn thất đầu tiên của cái "sự nghiệp" ấy là do bỏ bễ học hành, hắn không được ở lại học tiếp để lấy bằng tiến sĩ, điều trước đó ai cũng coi như chuyện đương nhiên. Hắn chỉ tốt nghiệp loại bình thường, rồi lên đường về nước như người khác, nhưng không vì thế mà hắn buồn. Hắn được phân làm việc tại một Viện nghiên cứu đúng ngành học. Cả lần này, đáng lẽ tập trung nghiên cứu chuyên môn, hắn lại dành hết thời gian cho thơ, không ngó ngàng gì đến công việc được giao, thành ra chẳng bao lâu đã bị đuổi việc. May còn giữ được một chỗ nằm trong khu tập thể Viện.
Hắn dồn dập gửi đến tất cả các báo, các tạp chí cả ở trung ương lẫn địa phương từng tập dày thơ hắn viết, nhiều đến mức người ta nghĩ hắn là anh tâm thần, và do đó ngại nhận thơ hắn, chưa nói đến đọc. Không loại trừ khả năng trong đấy có những bài hay, nhưng có ai đọc đâu mà biết. Họa hoằn lắm, chắc do thương tình, người ta mới đăng một vài bài, làm hắn sướng rơn, càng quyết tâm hơn trong việc đeo đuổi sự nghiệp. Cuộc đời các thiên tài, nhất là trong lĩnh vực thơ ca, bao giờ chẳng gặp trắc trở. Sau này mọi người sẽ hiểu, sẽ đánh giá đúng chân giá trị của ta. Hắn tin chắc như vậy và lại cắm cúi viết, viết liên tục không ngừng nghỉ.
Có một nàng sinh viên khoa văn Tổng hợp, cũng lãng mạn và viển vông không kém, dường như hiểu hắn. Nàng say sưa đọc hết những gì hắn viết và tuyên bố rằng hắn là "một thiên tài vượt tầm thời đại nên chưa được thừa nhận". Nàng tin vào sự nghiệp của hắn, tin đến mức xin được làm vợ rồi đưa hắn về ở chung nhà với bố mẹ, lấy tiền bố mẹ nuôi hắn tiếp tục làm thơ. Họ có với nhau một đứa con. Bao lo toan cuộc sống tất nhiên đổ lên đầu nàng, lúc ấy đang làm nghề đánh máy thuê. Đánh máy cho người thì ít, cho chồng thì nhiều.
Phải công nhận vợ hắn là người phụ nữ lý tưởng, một tấm gương sáng chói trong việc phụng sự chồng đeo đuổi sự nghiệp. Nhưng ở đời mọi cái đều có giới hạn. Dần dần, cả người vợ "lý tưởng" ấy cũng bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và thoáng chút nghi ngờ về tương lai thiên tài của chồng. Quan trọng hơn cả là nàng ấm ức tiếc những bao tải thơ hắn chất trong nhà (vì không đủ giá sách) không phải những bao gạo có thể nuôi sống gia đình, rằng giá chồng  bớt làm thơ chút ít để giúp nàng kiếm sống thì sẽ tốt hơn. Nàng lựa lời nói với hắn điều ấy, tất nhiên hắn không chịu, thậm chí còn chê nàng dung tục. Cuộc sống văn xuôi hàng ngày cứ thế gậm nhấm dần chất thơ lãng mạn một thời rất bay bổng trong tâm hồn nàng, kèm theo cả sự hoài nghi về tương lai của người chồng vĩ đại. Rồi một sáng đẹp trời, khi giọt kiên nhẫn cuối cùng biến mất sau một trận cãi nhau, nàng tuyên bố ly dị và lịch sự mời hắn ra khỏi nhà cùng những bao tải thơ của hắn.
Với sự dũng cảm của một thiên tài bị hắt hủi, hắn lẳng lặng ra đi không một lời oán trách, không tiền, không nghề nghiệp và cũng không chỗ đặt lưng ban đêm.
Từ đấy hắn thành thằng vô gia cư, ngủ vật vạ nay đây mai đó, lúc gầm cầu, lúc xó chợ. Vì là nhà thơ, lại nhà thơ thiên tài, hắn rất sĩ. Không bao giờ hắn ngửa tay xin ai cái gì. Không bao giờ hắn nhờ bạn bè hoặc vợ con giúp đỡ. Hắn nhận làm những việc lặt vặt để khỏi chết đói, nếu có việc và người ta chịu thuê hắn. Cái nhu cầu ăn của hắn ít lắm, vì hắn sống bằng những áng thơ luôn đầy ắp trong đầu. Mọi người tỏ vẻ ái ngại, còn hắn thì thầm cười giễu chất thực dụng ngu dốt của họ.                                         
Một hôm, nhặt được tờ báo cũ ai vứt bên đường, hắn ngồi xuống lơ đãng đọc, chủ yếu để quên đi cái bụng đói đang giày vò. Tờ báo có một bài dài nói về tập đoàn phần mềm Microsoft và người sáng lập nó, Bill Gates, cũng là người giàu nhất hành tinh hiện nay, có kèm theo cả địa chỉ e-mail của ông ta.
Hắn tư lự hồi lâu, nhớ lại cái chuyên môn xa xưa của hắn, rồi bất chợt nảy ra một ý tưởng rất độc đáo. Hắn chạy vội đến nhà một người quen có máy vi tính và đánh đi một bức thư điện tử như sau:
"Thưa ông Bill Gates,
Tôi viết thư này cho ông với tư cách người nghèo nhất thế giới gửi người giàu nhất thế giới. Ấy là nói về vật chất chứ về tinh thần chưa hẳn ông đã giàu hơn tôi. Tôi không có ý đinh xin tiền hay nhờ ông giúp đỡ, đừng ngại. Đơn giản tôi nghĩ trong hơn sáu tỉ người đang sống trên trái đất, tôi và ông là hai người đặc biệt ở hai cực của thước đo vật chất. Ông không nghĩ chỉ riêng điều ấy cũng đáng cho ta có đôi lời trao đổi hay sao? Tôi tò mò muốn biết ông có thực sự hạnh phúc hay không với khoản gia tài gần trăm tỉ đô-la của ông, cũng như ông có muốn biết tôi thực sự cảm thấy bất hạnh hay không khi đã nhiều ngày nay tôi chẳng có đồng xu nào trong túi và hiện đang rất đói. Là nhà kinh doanh, ông đã đạt đến tột đỉnh của sự giàu có. Là nhà thơ, tôi đang phấn đấu vươn tới đỉnh vinh quang của mình. Tôi sẽ rất biết ơn nếu ông chia sẻ phần nào bí quyết thành công của ông với tôi, một người đang gặp khó khăn trên con đường đã chọn.
Kính thư,

N.G.V

người nghèo nhất thế giới".
Xong, hắn ôm bụng đói lê bước về ngủ dưới chân cầu Long Biên.
*   
Ngay chiều hôm ấy, một người Âu đứng tuổi ăn mặc lịch sự đến tìm hắn khi hắn đang nằm còng queo dưới chân cầu, suýt ngất xỉu vì đói. Người đàn ông cúi đầu thật thấp, cung kính nói với hắn:
- Thưa ông, tôi là trợ lí thứ nhất, đồng thời là đại diện được ủy quyền của ông Bill Gates, người vừa hân hạnh nhận được thư ông cách đây đúng ba giờ...
- Thư nào? Thư tôi gửi cho ông Bill Gates?
- Vâng, đúng thế, thưa ông. Thư của người nghèo nhất thế giới gửi người giàu nhất thế giới.
- À, tôi nhớ ra rồi, - hắn dụi mắt. - Tôi vừa gửi xong, sao ông có thể từ Mỹ đến đây nhanh thế, mà rồi bằng cách nào ông tìm được tôi ở đây? Hay ông là ma quỷ có phép lạ?
- Không, chúng tôi cũng người trần như ông thôi, nhưng chúng tôi có cái này còn hơn cả các phép lạ ngày xưa trong chuyện cổ tích, - ông kia mỉm cười, móc từ túi áo ra chiếc máy vi tính nhỏ chỉ bằng lòng bàn tay. - Là người đứng đầu tập đoàn phần mềm hùng mạnh nhất thế giới, ông Bill Gates tự cho phép mình được sử dụng một loại computer đặc biệt với những chương trình phần mềm đặc biệt, siêu mạnh, siêu chức năng mà ông sẽ không bao giờ cho sản xuất hàng loạt, và chỉ dùng trong những trường hợp hết sức cần thiết như lần này, khi quyết định cử tôi đến đây gặp ông. Đích thân ông Bill Gates lập trình rồi bấm vào cái nút này, - ông ta chỉ một chấm đỏ trên chiếc máy. - Thế là tôi được gửi đến đây bằng người thật, như ông gửi thư và ảnh khắp thế giới qua loại computer bình thường bày bán ở cửa hàng. Còn bằng cách nào tìm được ông thì là công việc bình thường của những chiếc máy đời thấp. Tôi nghĩ ông đang đói. Trước khi chúng ta bắt đầu nói chuyện, ông nên ăn chút ít và chấn chỉnh lại vẻ ngoài của mình. Ông cho phép tôi được giúp đỡ?
Hắn gật đầu. Ông kia bấm bấm gì đấy lên bàn phím chiếc máy tí hon. Mấy phút sau, một chiếc Cadilac dài thuỗn màu đen bóng lộn chở đến chiếc bàn con phủ khăn trắng muốt cùng những món ăn cần thiết, hai chiếc ghế bọc da thật, một bộ com-lê mới toanh kèm theo sơ mi, cà vạt, đồ lót và một thùng nước nóng để tắm rửa. Tất cả đều mang nhãn hiệu Khách sạn Hilton. Hai nhân viên phục vụ đi theo ô tô, một tây một ta, đều đeo phù hiệu Hilton trên ngực và cổ thắt nơ màu đỏ.
- Ông chủ tôi rất cảm kích trước bức thư của ông, - ông trợ lí cao cấp của Bill Gates nói khi hắn tắm rửa, thay quần áo xong và hai người cùng ngồi ăn ngay trên chỗ hắn vừa nằm sau khi được các nhân viên khách sạn Hilton dọn dẹp và trải thảm. - Ông ấy thích làm bạn và giúp đỡ những người nghèo nhất thế giới, mỗi năm một người, thường thì do hệ thống vi tính toàn cầu của chúng tôi phát hiện. Năm ngoái là một phụ nữ Xu-đăng. Ông Bill Gates tặng bà ấy tiền, khá nhiều, tiếc rằng số tiền đó chẳng làm bà ta giàu hơn hay hạnh phúc hơn. Còn ông là trường hợp đặc biệt, do vậy đích thân tôi đến gặp chứ không phải đại diện Microsoft ở nước sở tại như thường lệ. Tôi biết ông là nhà thơ, có thể là nhà thơ xuất chúng, để tôi cho máy tính kiểm tra lại. Hơn nữa, công bằng mà nói, chính ông đã góp phần không nhỏ giúp ông chủ tôi trở thành người như ngày nay...
Hắn ngừng ăn, nhìn khách vẻ không hiểu.
Ông kia nói tiếp:
- Với sự đồng ý của ông Bill Gates, tôi xin được phép tiết lộ điều này. Những ý tưởng thiên tài của ông trong một bài báo đăng trên tờ tạp chí chuyên ngành Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô khi ông mới là sinh viên năm thứ ba ở Matxcơva đã được ông Bill Gates và bạn ông, lúc ấy cũng sinh viên như ông ở Đại học Havard, phát triển làm cơ sở phát triển chương trình MS-DOS nổi tiếng, tiền thân của các chương trình Windows sau này.
- Nghĩa là ông ấy đã ăn cắp bản quyền của tôi?
- Trên phương diện pháp lý thì không, nhưng về tình cảm, quả ông Bill Gates luôn có cảm giác mắc nợ ông, và đây là cơ hội lý tưởng để ông ấy trả món nợ đó. Tôi được trao toàn quyền thay mặt ông chủ tôi đáp ứng mọi yêu cầu giúp đỡ của ông, nếu có.
Hắn ngồi im hồi lâu không đáp.
- Cho phép tôi được tò mò. Tôi muốn biết vì sao ông quyết định từ bỏ con đường khoa học mà ông đã khởi đầu hết sức tốt đẹp?
- Tôi có một sự nghiệp khác còn tốt đẹp hơn để đeo đuổi, đó là thơ.
- Tôi tôn trọng sự lựa chọn của ông mà tôi cho là đúng đắn, vì ông là một người thông minh. À mà nhân tiện, ông có thể vui lòng cho tôi đo chỉ số thông minh IQ của ông được không? Ông Bill Gates nhờ tôi làm việc này, nếu ông không phản đối, tất nhiên. Cảm ơn ông. Xin ông đặt ngón tay trỏ vào nút này. Thế, thế. Trời ơi - 250! Như ông biết, 120 đã được coi là thông minh, thế mà IQ của ông những 250, trong khi của ông Bill Gates là180, tổng thống Bill Clinton - 163 và thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ là gần 200. Xin ông chờ cho một phút để tôi báo tin này với ông chủ. Xong rồi, cảm ơn. Vậy thưa ông, xin vui lòng cho biết tôi có thể làm gì để giúp ông?
Thấy hắn vẫn ngồi im không đáp, ông đại diện Microsoft nói:
- Có lẽ ông cần nghỉ ngơi chút ít chăng? -  Rồi ông ta lại bấm vào một nút nào đấy trên chiếc máy vi tính. Năm phút sau một chiếc Cadilac khác xuất hiện. Nó có màu trắng như thuyết, cũng sáu cửa và mới cứng. Trong xe có giường, bồn vệ sinh, bàn làm việc và chiếc bồn tắm mini.
- Tôi đã đặt chỗ vô thời hạn cho ông ở khách sạn Hilton, - ông ta nói khi hai người ngồi trên xe. - Nghe nói đó là khách sạn tốt nhất ở Hà Nội, không hiểu đúng không? Tôi còn mua bao tất cả các chương trình hòa nhạc ở Nhà Hát Lớn cạnh đấy để lúc rỗi ông đến nghe giải trí. Mọi chi phí sinh hoạt ở khách sạn này và ở Việt Nam nói chung, ông chỉ việc kí vào hóa đơn thanh toán. Phần còn lại sẽ có người lo. Còn đây là số tài khoản hãng chúng tôi, trường hợp ông cần tiền chi tiêu ở những nơi, những việc không có hóa đơn thanh toán.
Khi xe đỗ trước cửa khách sạn và một cô nhân viên mặc áo dài màu hồng đẹp như tiên đang định đưa hắn lên phòng nghỉ thì ông kia nói thêm, với vẻ nhún nhường và cung kính cố ý, khiến ngay lập tức hắn trở thành một VIP trong con mắt tất cả mọi người:
- Thưa ông, tôi có mang từ Mỹ sang một chiếc vi tính chuyên dụng hiện để trên phòng ông. Đây là password để ông nói chuyện với tôi qua màn hình. Còn đây là một password khác mà tôi hy vọng chỉ những lúc thật cần thiết ông mới sử dụng, vì nó sẽ bắt tôi ngay lập tức phải xuất hiện trước mặt ông bằng xương bằng thịt, cho dù lúc ấy tôi đang ở đâu và làm gì. Thú thật với ông, tôi chẳng mấy thú vị khi bị gọi theo cách này, hơn nữa nó không phải không gây đôi chút đau đớn. Chúc ông nghỉ ngơi thoải mái và suy nghĩ kỹ về điều tôi hỏi ông lúc nãy. Còn bây giờ, với sự cho phép của ông, tôi xin được đi dạo một chốc quanh phố phường Hà Nội để biết thêm về thủ đô xinh đẹp của nước ông, nhân tiện tìm hiểu xem tình hình vi phạm bản quyền phần mềm Microsoft ở đây như thế nào. Xin hẹn ông tối nay gặp lại.
*   
Tám giờ tối, cô áo hồng xinh đẹp bấm chuông, bảo nếu hắn đã sẵn sàng thì xin mời xuống phòng ăn khách sạn để dùng bữa, có người đang đợi. Cô ta cố mỉm cười thật duyên để gây cảm tình với ông khách giàu có, nhưng hắn chẳng thèm chú ý. Bây giờ trông hắn thật ấn tượng. Chừng ấy năm sống ở nước ngoài giúp hắn có được phong thái vừa trang trọng vừa tế nhị. Bộ quần áo đặt mua qua máy vi tính vừa vặn một cách đáng kinh ngạc. Mấy tiếng nghỉ ngơi và bữa ăn đủ chất buổi trưa làm hắn tươi tỉnh trở lại. Hắn nhìn vào gương lần nữa trước khi rời phòng với vẻ hài lòng. Mái tóc chải mượt, râu ria nhẵn nhụi, làn da trơn mịn, phải chú ý lắm mới nhận thấy dấu vết những đợt đói kéo dài trước đó.
Ông trợ lý của Bill Gates vội nhỏm dậy khi thấy hắn ở chân cầu thang, và tiến lên mấy bước để đón hắn. Chính ông ta cũng tỏ vẻ ngạc nhiên trước sự thay đổi bề ngoài của hắn. Ông ta nói:
- Xin hân hạnh được báo ông biết rằng ông chủ tôi rất hài lòng về cuộc gặp của chúng ta hôm nay, cũng như về những thông tin mới ông ấy có được liên quan đến ông. Ông ấy hy vọng sẽ hân hạnh trực tiếp gặp và nói chuyện với ông vào thời điểm thích hợp. Thế nào, ông nghỉ ngơi thoải mái chứ? Ông có gì phàn nàn về tiện nghi và phục vụ ở khách sạn này không?
- Không, cảm ơn, mọi thứ đều tốt. Tôi cũng nhờ ông chuyển lời cảm ơn của tôi tới ông Bill Gates. Tôi sẽ rất vinh dự được gặp ông ấy khi điều kiện cho phép, - hắn lịch sự đáp.
Người phục vụ mang các món ăn và rượu đến. Hai người vừa ăn vừa thong thả nói chuyện.
- Tôi có thêm một tin vui nữa để thông báo cho ông. Các máy vi tính siêu thông minh của chúng tôi đã thẩm định tất cả những bài thơ ông sáng tác từ trước đến nay, ngoại trừ những bài ông chưa kịp viết lên giấy. Xin ông đừng hỏi chúng tôi làm việc này bằng cách nào. Đấy là công việc của các chuyên gia bình thường, ông khỏi bận tâm. Kết quả thật đáng ấn tượng. Trong lĩnh vực thơ, thành tựu ông đạt được là không thể phủ nhận, cả vế số lượng lẫn chất lượng. Chúng tôi đã so sánh tác phẩm của ông với tác phẩm các nhà thơ được giải Noben, và nhất trí đi đến kết luận rằng, xét về mọi phương diện - tư tưởng, hình thức, thi pháp,  - ông không hề thua kém chút nào, nếu không muốn nói còn vượt trội...
- Cảm ơn ông, - hắn đáp một cách khiêm tốn.
- Xin được hỏi ông một câu, có thể không thật tế nhị lắm. Ông đã cho đăng bao nhiêu bài trong số hơn mười nghìn bài ông sáng tác?
- Tôi mới chỉ được in không quá mười bài.
- Chỉ mười bài trong số mười nghìn bài trong mười năm? Xin lỗi, thế mỗi bài ông nhận được bao nhiêu tiền nhuận bút?
- Quy ra tiền Mỹ khoảng hai đô-la. Ấy là bây giờ, trước kia còn ít hơn.
Ông kia ngồi im một lúc rồi thở dài:
- Bây giờ thì tôi hiểu vì sao một thiên tài như ông lại trở thành người nghèo nhất thế giới. Ở nước chúng tôi cũng chẳng nhiều người sống được nhờ sáng tác thơ, nhưng hai mươi đô-la trong mười năm, lại với một người như ông thì quả ngoài sức tôi tưởng tượng. Sao ông không cho đăng nhiều hơn?
- Thì tôi vừa nói chỉ được in... - hắn cười ngượng ngập.
- Lúc nãy vào hiệu sách, tôi thấy có rất nhiều thơ bày bán. Không lẽ ở Việt Nam còn nhiều nhà thơ khác giỏi hơn ông?
- Cái ấy tôi không biết. Nhưng người ta in được vì họ có tiền. Ở đây ai có tiền cũng in được thơ, in bao nhiêu tùy thích và nghiễm nhiên thành nhà thơ. Còn tôi thì...
- Vâng, vâng, tôi hiểu, - ông kia vội cắt ngang. - Bây giờ ông có tiền, ông sẽ in các tác phẩm thiên tài của ông, đúng thế chứ?
- Vâng, nếu được các ông cho phép.
- Và ông sẽ trở nên nổi tiếng và giàu có?
- Nổi tiếng thì chưa biết, nhưng chắc chắn tôi sẽ lại nghèo đói. - Thấy ông kia có vẻ không hiểu, hắn nói thêm: - Vì ở đây không ai mua thơ. Người ta bỏ tiền in chỉ để chứng tỏ mình là nhà thơ. Tuy nhiên tôi không thuộc loại này.
Họ im lặng, không nói gì thêm về thơ. Hình như cả hai đều muốn chuyển sang đề tài khác.
- Vậy xin cho biết, chúng tôi có thể làm được gì để giúp ông? - ông kia lên tiếng trước. - Để ông tham khảo, tôi mạn phép gợi ý hai điều sau. Xin ông cân nhắc và cho biết ý kiến. Ông Bill Gates có nhã ý muốn mời ông sang Mỹ làm cố vấn kỹ thuật hoặc phụ trách bộ phận nghiên cứu và chế tạo của hãng Microsoft, với chức vụ và lương tương đương phó tổng giám đốc. Còn nếu ông vì lý do nào đấy muốn ở lại Việt Nam, hãng chúng tôi sẽ giúp đỡ cả thiết bị, kỹ thuật lẫn tài chính để biến ông thành "vua phần mềm" ở Việt Nam, cũng có nghĩa là người giàu nhất ở nước ông. Xin ông hãy coi đây như tiền trả món nợ do ông Bill Gates sử dụng ý tưởng của ông ngày nào.
Hắn ngồi im hồi lâu không nói gì. Ông kia kiên nhẫn chờ. Cuối cùng hắn đáp một cách uể oải:
- Cảm ơn các ông. Mặc dù cả hai đề nghị của các ông đều rất cám dỗ, nhưng đó không phải những gì tôi mong muốn đạt được. Nếu không, tôi đã chẳng từ bỏ khoa học.
- Phải thừa nhận ông nói đúng. Vậy lần nữa xin được hỏi: Ông muốn gì?
- Tôi muốn có những sáng tác thơ hay hơn và được mọi người hiểu đúng giá trị của chúng. Tôi muốn một, hai trăm năm nữa người ta vẫn đọc thơ tôi như chúng tôi đang đọc thơ của thi hào Nguyễn Du chẳng hạn.
Đến lượt ông kia ngồi im.
- Điều thứ nhất, chúng tôi có thể giúp ông được, - ông kia lên tiếng  khi thấy tiếp tục giữ im lặng là bất tiện. - Với tài năng sẵn có của ông, cộng  công nghệ siêu việt của chúng tôi, ông sẽ sáng tác được những bài thơ bất hủ đáng lưu danh muôn đời. Ngay chốc nữa, tôi sẽ yêu cầu các chuyên gia của chúng tôi giải mã thi pháp nhà thơ Nguyễn Du ông vừa nói, rồi lập riêng một chương trình phần mềm đặc biệt để ông sử dụng khi sáng tác. Tôi xin cam đoan trước rằng thơ ông sẽ không thua kém thơ Nguyễn Du. Còn điều thứ hai, tức là việc giúp ông trở thành nổi tiếng và có thơ được đưa vào sách giáo khoa cho học sinh học hàng trăm năm sau thì thú thật, với trình độ tin học hiện nay, rất tiếc chúng tôi chưa làm nổi, vì đây là vấn đề xã hội phức tạp với các đặc trưng truyền thống, chính trị, tâm lí cũng phức tạp không kém. Chúng tôi quả chưa hiểu mấy về văn hóa, tập quán và cách nghĩ của người Việt Nam, nên khó có thể lập được một chương trình phù hợp với ông trong vấn đề này. Nếu ông là người Mỹ, sống ở Mỹ, mọi việc sẽ đơn giản hơn nhiều.
Ông kia ngừng lời, rót sâm banh và họ lại chạm cốc.
- Vậy coi như chúng ta đã thỏa thuận, - ông ta nói. - Ông sẽ ở khách sạn Hilton này hoặc bất kì khách sạn nào khác ông muốn, bao lâu tùy thích. Đừng ngần ngại chi tiền cho việc in thơ và những khoản chi tiêu khác. Ngay tuần tới ông sẽ có chương trình phần mềm sáng tác thơ đạt chất lượng hay bằng hoặc hơn Nguyễn Du. Tôi tin ông sẽ thành công trong sự nghiệp này của mình, mặc dù trong thâm tâm, tôi lấy làm tiếc ông đã không chấp nhận một trong hai đề nghị thiết thực và rất khả thi trên của chúng tôi. Tôi đã thu xếp mọi chuyện với khách sạn, chỉ phiền ông mỗi tháng một lần kí vào các biên lai thanh toán. Tiền mặt ông sẽ rút ở chi nhánh ngân hàng Citibank phố bên. Tôi đã dặn họ không được hạn chế số tiền ông rút mỗi lần, đặc biệt không bao giờ được hỏi rút nhằm mục đích gì. Bất kỳ lúc nào ông cũng có thể gặp tôi bằng cách sử dụng password đầu, tức là qua màn hình vi tính. Chỉ lưu ý ông trường hợp tối cần thiết mới sử dụng password thứ hai. Ông biết đấy, tôi chẳng còn trẻ, và nếu có bị xé nhỏ thành hàng tỉ phân tử để trong nháy mắt vượt hàng vạn cây số đến với ông, thì đương nhiên phải là vì những lý do xác đáng. Đấy, đấy, xin lỗi ông, ông Bill Gates biết chúng ta xong việc, đang gọi tôi về gấp để dự một cuộc họp quan trọng. Chào ông. Chúc ông thành công!...
"Chúc ông thành công. Hẹn... gặp... lại..." - tiếng nói của ông đại diện Microsoft nhỏ dần, nhỏ dần. Bản thân ông ta cũng đang teo lại, trở nên trong suốt và từ từ biến mất như làn khói mỏng ngay trước mặt hắn.
- Tội nghiệp ông già, - hắn lẩm bẩm, ngồi thêm chốc nữa để uống nốt cốc sâm-banh rồi bỏ lên phòng, không quên để lại tờ giấy bạc một trăm đô-la tiền "boa" cho nhân viên phục vụ.
   *
Suốt cả năm sau đó hắn sống một cuộc sống đế vương thực sự. Cuối mỗi tháng người ta đưa hắn ký các hóa đơn thanh toán, gồm mười bốn nghìn đô tiền phòng (hắn ở phòng kiểu căn hộ ba buồng - buồng ngủ, buồng khách và buồng làm việc), năm nghìn đô tiền ăn và khoảng ngần ấy tiền thuê ô tô, giặt là, báo chí, điện thoại và Internet. Cũng mỗi tháng một lần hắn đến Citibank rút mười lăm, hai mươi nghìn đô để in thơ và tiêu vặt. Lúc đầu hắn cũng ngại tiêu quá nhiều tiền của người khác, nhưng khốn nỗi, ông đại diện kia cứ thỉnh thoảng bật máy nói chuyện với hắn, hỏi thăm cái này cái nọ và lần nào cũng phàn nàn hắn chi tiền quá khiêm tốn. Có hôm rỗi rãi, ông còn tán chuyện hồi lâu với hắn. Ông cho biết Bill Gates, người giàu nhất hành tinh mà chẳng cảm thấy hạnh phúc hơn những người nghèo; tháng trước vợ chồng ông ta cãi nhau to suýt đâm đơn li dị chỉ vì một con chó nhỏ nào đấy, vân vân... "Ông biết không, - ông ta nói, - ông chủ tôi đã viết di chúc cho đăng trên báo, rằng sau khi chết ông sẽ hiến 95% tổng số tài sản của mình cho các hoạt động từ thiện. Thành ra ông đừng quá bận tâm về các khoản tiền ông chi. Cứ coi như ứng trước số tiền 95% kia, vì thực sự công việc ông đang làm cũng đầy tính nhân văn cao cả".
Phải nói rằng hắn không hề có ý khoe khoang sự giàu có của mình. Hắn ít ra ngoài, mà có đi đâu, bao giờ cũng bắt lái xe kéo hết rèm che cửa. Cần mua bán hay giao dịch việc gì, hắn đều nhờ nhân viên khách sạn, những người luôn hăm hở giúp hắn vì lần nào cũng được "boa" một vài chục đô. Trong khách sạn, hắn trở thành nhân vật nổi tiếng và bí ẩn. Thấy hắn từ xa, ít nhất luôn có ba nam nhân viên chạy đến tranh nhau mở cửa hoặc kéo ghế mời ngồi, mười cô xinh đẹp cùng một lúc mỉm cười thật duyên và cúi chào thật thấp. Còn ông chủ khách sạn thì cứ sau mỗi câu nói với hắn lại thêm chữ "thưa ngài" rất cung kính. Nhưng nhiệt tình nhất và cũng có lẽ xấn xổ nhất vẫn là cô gái mặc áo dài màu hồng đẹp như tiên hắn gặp hôm mới tới khách sạn. Rõ ràng nàng luôn tìm cách "tấn công" hắn, đôi khi hơi lộ liễu. Nhiều hôm nàng tự nhiên gõ cửa phòng hắn, giả vờ hỏi có cần gì không rồi nấn ná ở lại rất lâu, khéo léo phô bày những bộ phận khêu gợi nhất của cơ thể mình. Nhưng hắn không màng tới nàng hay bất kỳ một người đàn bà nào khác, chỉ suốt ngày hí húi làm thơ. Thấy để khách ngồi mãi không được tiếp cũng bất tiện, hắn đứng dậy khỏi bàn làm việc, khen nàng xinh và như thể vô tình, nhét vào túi nàng tờ mười đô-la. Nàng chào hắn rồi đi ngay. Từ đấy thành lệ, mỗi ngày nàng đến chào hắn ba lần, và để tống nàng đi, lần nào hắn cũng chi mười đô. "Đồ xin đểu" - hắn lẩm bẩm khi chỉ còn lại một mình. "Xin đểu" là từ hắn học được ở chợ Đồng Xuân thuở hàn vi.
Trong vòng một năm ấy, hắn in tổng cộng đúng năm mươi tập thơ, mỗi tập không dưới năm trăm trang. Toàn loại giấy tốt, bìa đẹp. Hắn luôn chi gấp đôi số tiền nhà xuất bản yêu cầu nên chẳng hề gặp khó khăn trong việc biên tập và xin giấy phép. Không ai thêm bớt của hắn một chữ. Cũng chẳng nhà xuất bản nào tìm hiểu hắn là ai, chỉ đơn giản "làm việc" với đại diện của hắn.
Lúc in những tập đầu, hắn hồi hộp lắm. Hồi hộp chờ đợi các báo đăng bài giới thiệu thơ hắn, có thể ca ngợi hắn như một "hiện tượng". Nhưng hắn chờ mãi, chờ mãi mà chẳng thấy động tĩnh gì. Hắn loáng thoáng biết rằng bây giờ muốn được người khác viết bài về mình thì hoặc phải nhờ thân quen, hoặc chi tiền thuê viết, phần lớn dưới dạng quà cáp, ăn nhậu. Chi tiền thì hắn không ngại, nhưng là người tự trọng, hắn không cho phép mình làm việc này. Hắn vẫn tin thơ hắn hay. Thông minh, lại chịu khó đọc thơ người khác, nên khi so sánh, hắn dễ dàng nhận ra điều đó. Vả lại, công bằng mà nói, thơ hắn không dở, hay nữa là khác, dù có thể chưa đến mức thiên tài như hắn tưởng. Ấy là nói "có thể" chứ biết đâu hắn thực sự đã là thiên tài hoặc sau này sẽ thành thiên tài. Chưa ai dám chắc điều đó. Vậy vì sao người ta im lặng, cứ như không hề có việc hắn đã in năm mươi tập thơ dày bày bán khắp nơi. Hắn gửi e-mail nhờ ông bạn ở Microsoft giải thích. Hai ngày sau hắn nhận được thư trả lời.
"Thưa ông,
Các cộng sự của tôi đã tiến hành điều tra vấn đề ông yêu cầu. Xin được trung thực báo ông biết những ý kiến sơ bộ của chúng tôi như sau:
Như đã hân hạnh có dịp bày tỏ ý kiến của mình về ông, tôi xin khẳng định lần nữa rằng thơ ông đã đạt đến trình độ siêu việt, nghĩa là ông hoàn toàn không có lỗi trong việc người ta không đọc hoặc nói về chúng. Lý do nằm ở những khía cạnh hoàn toàn khác, không liên quan đến văn học. Theo chỗ chúng tôi biết, thị trường thơ nước ông hiện nay rất không bình thường. Một trong những lý do dẫn tới hiện tượng này chính là điều ông đã nói, rằng bây giờ hễ ai có tiền đều có thể in thơ và mặc nhiên trở thành nhà thơ. Sự buông lỏng giám sát chất lượng ấy đã làm người đọc mất phương hướng, cuối cùng thờ ơ với thơ, ý tôi muốn nói thơ dở, tất nhiên. Và nạn nhân của cả núi thơ hổ lốn, nhảm nhí ấy là những người như ông với những tác phẩm có giá trị thực sự. Xin ông đừng trách người đọc nếu họ không chịu bỏ ra mấy ngày bới lục cả đống thơ đang bày bán để tìm mua một tập thơ đích thực như thơ ông. Họ đã bị lừa nhiều lần, nên phản ứng tẩy chay của họ hiện nay đối với thơ là dễ hiểu. Từng làm công tác tiếp thị mấy chục năm, tôi biết rõ tâm lý người tiêu dùng.
Theo thống kê ban đầu (có thể chưa đầy đủ) của chúng tôi, tổng cộng đến nay, mặc dù đã xuất bản hơn mười tháng, trong số 43.000 bản của 43 tập thơ ông viết, ngoài hơn chục cuốn bị hư hỏng khi vận chuyển, mới chỉ bán được 21 bản, mặc dù giá thơ ông chỉ bằng 50% thơ người khác. Riêng ngày hôm qua cụ thể bán được hai cuốn. Một cuốn do cô thủ thư mua cho thư viện huyện, sau đó yêu cầu người bán hàng chữa giá thành gấp đôi. Số tiền thừa, cô ta đem mua năm quyển vở cho con. Cuốn khác được một cô sinh viên khoa văn mua, phần vì giá rẻ, sách đẹp, phần vì cô còn giữ được tâm hồn mơ mộng đáng quý như phu nhân trước đây của ông. Cũng hôm qua, tại một cửa hàng sách bên bờ hồ Hoàn Kiếm, các nhân viên của tôi đã tận mắt nhìn thấy một vị quan chức đáng kính thuộc ngành văn hóa sau khi cầm mấy tập thơ của ông lên tay, ngó nghiêng một chốc rồi khinh khỉnh ném xuống, buông một câu không văn hóa chút nào: "Một thằng ngu lắm tiền rửng mỡ!". Riêng các nhà phê bình và các nhà thơ (cả thật lẫn rổm), tôi xin khẳng định chắc chắn chưa một người nào đọc thơ ông, thậm chí cả khi được tặng không chứ chưa nói đến việc bỏ tiền mua. Vậy rốt cục, người đã đọc thơ ông chỉ có ông, các nhân viên của tôi, vợ cũ của ông và một số rất ít các biên tập viên có lương tâm ở những nhà xuất bản ông in sách.
Sự thật thường phũ phàng, nhưng đó là những điều bổn phận bắt tôi phải thông báo ông biết. Còn quyết định tiếp theo thế nào hoàn toàn tùy ông.
Chúc ông thành công.
Kính thư.
J.F.C."
Bức thư làm hắn buồn. Đó là sự thật cay đắng mà muốn hay không, hắn vẫn phải thừa nhận. Tuy nhiên, với nghị lực và sự bướng bỉnh đặc trưng của các thiên tài, hắn không hề nản chí. Số phận bảy tập còn lại đang in không còn làm hắn quan tâm. Hắn quyết định sẽ tiếp tục viết, viết thật hay, hay đến mức người ta không thể không chú ý. Hắn tự an ủi mình rằng sau này, năm mươi năm hay một trăm năm nữa, hắn sẽ được "phát hiện" và nổi tiếng hệt như trường hợp nhạc sĩ thiên tài Đức Sêbastian Bach và nữ thi sĩ người Mỹ Emily Dickinson.
Thế là, với chương trình phần mềm sáng tác thơ đặc biệt được Microsoft lập riêng cho hắn, hắn lại ngày đêm cắm cúi bên chiếc máy vi tính và viết ra những vần thơ lai láng.
Chương trình này quả là điều kỳ diệu của ngành tin học, đến mức chính hắn cũng phải ngạc nhiên thán phục. Nó giúp hắn dễ dàng tìm vần, tìm ý, bố cục, kích thích cảm hứng, chữa lỗi chính tả và nhắc hắn lúc nào nên nghỉ ngơi chút ít để lấy lại sự tỉnh táo cho trí óc.
Trong vòng chưa đầy một tuần, hắn viết xong bản trường ca dài 600 trang, về cuộc đời chìm nổi của một phụ nữ xinh đẹp, có tài có đức nhưng bị cuộc đời vùi dập. Nàng ngoan cường cưỡng lại số phận và cuối cùng đã giành được hạnh phúc cho mình. Một trường ca có hậu, trong đó cái ác thắng cái thiện, có giá trị tố cáo và phản ánh hiện thực của cả thời đại. Một tác phẩm hoàn hảo về mặt nghệ thuật, độc đáo về bút pháp, sâu lắng về nội dung. Hắn rất hài lòng, đến mức tối hôm ấy hắn cho phép mình chuyện gẫu mấy câu với cô gái áo hồng trước khi tống nàng đi bằng cách cho tiền, không phải mười mà một trăm đô-la.
Tuy nhiên, sáng hôm sau đọc lại, hắn thấy hình như có điều gì không ổn. Đọc lại lần nữa, hắn đã hiểu. Cái tác phẩm tuyệt vời này của hắn chẳng qua chỉ là sự mô phỏng Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du. Nó là kết quả của chương trình sáng tác thơ mà hãng Microsoft cam đoan sẽ giúp hắn đạt ngang tầm cụ Nguyễn. "Không, không thể tiếp tục thế này được! - hắn nghĩ. - Đây là một dạng đạo văn không hơn không kém. Một thiên tài không thể ăn cắp thơ của một thiên tài khác. Không, không đời nào!" Hắn bấm nút xóa sạch không thương tiếc cả 600 trang bản trường ca mới viết. Rồi buồn bã tắt máy tính, hắn nằm vật xuống đi-văng.

                                                  *
Suốt mấy ngày liền hắn không viết câu nào. Một hiện tượng lạ trong đời hắn. Nhưng rồi ý chí vươn lên mạnh mẽ cũng thắng. Hắn bắt đầu viết trở lại, tất nhiên không còn dùng cái chương trình mà hắn gọi là "khốn nạn" kia nữa. Thậm chí hắn tránh xa cả chiếc máy vi tính. Hắn bò lổm ngổm trên sàn nhà với tập giấy trắng và cây bút chì. Hắn muốn được viết trong trạng thái thật tự nhiên, "như cụ Nguyễn Du ngày xưa từng viết", mặc dù cụ thể ngày ấy cụ viết thế nào, hắn không biết. Hắn chỉ biết lúc này hắn viết rất khổ sở.
Lần đầu tiên hắn vắt óc nghĩ suốt nửa ngày mà chẳng lóe ra được ý thơ nào. Hắn cảm thấy bị gò bó, mặc dù hoàn toàn được tự do, không thiếu thốn cái gì, không bị ai quấy rầy. Vô cớ, hắn cảm thấy khó chịu với căn hộ khách sạn sang trọng hắn đang ở, với bộ com-lê hắn đang mặc, thậm chí với cả tập đô-la dày cộp trong túi. Hắn nằm ngửa, mắt trân trân nhìn lên trần nhà và nhớ lại những ngày lang thang trên phố, bụng rỗng nhưng đầu luôn đầy ắp những ý thơ tuyệt diệu. "Sao dạo ấy mình vô tư, thanh thản và làm thơ dễ thế, nhanh thế!" - hắn chép miệng. Còn bây giờ...
Đúng lúc ấy, cô áo hồng xinh đẹp mà hắn gọi là "đồ xin đểu" xuất hiện với nụ cười thường trực như mọi ngày.
- Ồ, anh không làm việc sao mà nằm thế, lại nằm trên sàn nhà, - nàng dịu dàng nói với vẻ trách móc âu yếm.
- Anh, anh cái con c... Cút đi! Đồ xin đểu! - hắn giận dữ quát to, thầm ngạc nhiên sao mình có thể thô lỗ đến thế. Còn nàng kia thì trợn tròn mắt, lấy tay che miệng và vội vã chạy ra khỏi phòng.
Sự xuất hiện không đúng lúc của cô gái càng làm hắn thêm khó chịu, và từ khó chịu, hắn chuyển sang tức giận thực sự, dù chẳng rõ nguyên cớ gì.
Bỗng hắn đứng bật dậy, mở máy vi tính và gõ mạnh lên bàn phím password thứ hai mà vị đại diện cao cấp của tỉ phú Bill Gates dặn chỉ sử dụng trong những trường hợp tối cần thiết. "Cho lão chết!" - hắn lẩm bẩm.
Một phút sau, ông già tội nghiệp kia xuất hiện, mặt bơ phờ, hoảng sợ. Ông ta ngồi phịch xuống ghế, vừa lau mồ hôi trán vừa hổn hển thở.
- Ông có nghĩ rằng ông thật sự cần thiết phải gọi tôi theo cách này không, thưa ông? - ông ta hỏi, vẫn với vẻ lịch sự nghề nghiệp cố hữu.
- Có, - hắn đáp cộc lốc.
- Vậy tôi có thể làm được gì cho ông, thưa ông?
- Tôi không cần ông làm gì cả. Hôm nay vừa tròn một năm kể từ ngày tôi gặp ông lần trước. Tôi cảm ơn ông và ông Bill Gates đã giúp đỡ tôi suốt thời gian ấy. Ông nói ông chủ ông mỗi năm giúp một người nghèo nhất thế giới, vậy bây giờ tôi xin nhường cho người khác...
- Nhưng thưa ông, - ông kia vội ngắt lời hắn, - ông là trường hợp ngoại lệ. Ông Bill Gates nợ ông...
- Hãy nói với ông ấy rằng nếu quả có nợ tôi thì coi như đã trả xong sòng phẳng. Đây, xin giao lại ông chìa khóa phòng khách sạn, máy vi tính cùng cái chương trình chết tiệt kia của ông, cả đồ đạc, cả tiền đây nữa. Tất cả. Tôi không giữ lại bất kì cái gì.
- Xin ông hãy bình tĩnh. Nếu chúng tôi không thể giúp ông đạt được điều mong muốn trong lĩnh vực văn thơ, thì tôi tin chắc chúng ta sẽ thành công nếu ông chấp nhận một trong hai đề nghị đầu tiên của tôi. Điều này có lợi cho ông và cho cả hãng chúng tôi. Xin ông cân nhắc thật cẩn thận.
- Không. Cảm ơn. Tôi muốn được trở lại là người như tôi vốn có trước khi gặp ông, - hắn nói một cách dứt khoát, rồi làm một động tác ra hiệu đến đây câu chuyện chấm dứt.
- Nếu thế thì thực tình chúng tôi rất lấy làm tiếc. Dẫu sao...
- Ông có thể giúp tôi một việc nhỏ được không? - hắn cắt ngang.
- Xin sẵn sàng, - ông kia vội đáp.
- Vậy thì nhờ ông, bằng cái máy vạn năng kia của ông, hãy kiếm lại cho tôi bộ quần áo cũ trước đây tôi vẫn mặc.
Ông kia thở dài, miễn cưỡng bấm bấm vào chiếc computer bé xíu. Còn hắn thì lặng lẽ đứng nhìn, nét mặt thản nhiên pha chút đắc thắng.
Một chốc sau, hắn bước ra khỏi khách sạn Hilton sang trọng trong bộ quần áo rách sờn của một tay bụi đời chính hiệu. Cả khách sạn trố mắt ngạc nhiên nhìn theo, nhưng hắn không thèm để ý.
   *   
Từ đấy hắn lại tiếp tục sống cuộc đời vô gia cư lang thang nay chỗ này mai chỗ nọ, ngủ vật vạ lúc bến xe, lúc bãi chợ. Tuy nhiên nơi người ta hay nhìn thấy hắn nhất vẫn là chân cầu Long Biên. Những lúc không phải lo kiếm cái ăn, hắn thường ngồi hàng giờ hí hoáy dùng bút chì viết gì đấy trên những tờ giấy người ta bỏ đi còn trắng một mặt mà hắn nhặt được.
Cũng chính ở đây, một buổi chiều nọ, tỉnh dậy sau giấc ngủ dài bên chân đê, hắn chợt nhớ lại những ngày đế vương ở khách sạn Hilton với những bữa ăn thừa mứa, những tập đô-la dày, những chiếc ô tô bóng loáng, và tất nhiên cả cô áo hồng mà hắn đã đối xử có phần không lịch sự lắm. Ngẫm cảnh lúc này, khi hắn chưa có gì cho vào bụng suốt từ sáng đến giờ, hắn bỗng thấy tiêng tiếc. "Sao lúc ấy mình không mang theo mấy nghìn đô-la nhỉ? - hắn nghĩ. - Ừ, sao lại thế nhỉ? Mình đâu có phải thằng ngốc. Hay tất cả rốt cục chỉ là một giấc mơ? Không, không thể mơ được. Mình còn nhớ rõ ràng mọi chuyện. Nhớ lão đại diện Microsoft, cô ả “xin đểu”, năm mươi tập thơ dày giấy tốt và cả những tờ đô-la mình "boa" cho mọi người. Không, không thể mơ được. - Hắn lẩm bẩm thành tiếng. - Nhưng nếu không phải mơ thì những tập thơ kia bây giờ ở đâu? Ở hiệu sách chứ còn đâu nữa! Cả cô nàng kia cũng đang ở khách sạn. Không tin, cứ tới những nơi đó mà kiểm tra."
Thế là, bán tín bán nghi, hắn lững thững đi về phía khách sạn Hilton. Ở đấy, từ ngoài nhìn vào, hắn thấy một cô gái mặc áo dài màu hồng đứng bên quầy lễ tân. Hắn "Ê” một tiếng và khẽ hất đầu. Cô kia nhìn ra, thấy hắn nhưng không tỏ dấu hiệu đã từng quen biết. "Đồ đĩ! (hắn mới học thêm cái từ tục tĩu này ở bọn du côn bãi Phúc Xá). Bây giờ biết người ta không tiền thì lờ đi hả?" Rồi hắn bỏ đi ra cửa hàng sách Tràng Tiền. Hắn nói tên mấy tập thơ hắn đã in nhưng cô bán hàng bảo không biết, không thấy.
- Có thể trước đây có nhưng bây giờ bán hết rồi.
- Những năm mươi tập cơ mà? -  hắn nói.
- Năm mươi tập cũng bán hết chứ sao? Anh là tác giả à?
- Vâng.
- Thế thì chắc chắn bán hết rồi. Thơ của anh hay lắm. Người ta tranh nhau mua hết veo cả năm mươi tập ngay sau khi bày lên giá sách, - cô bán hàng cố lấy vẻ nghiêm túc, nhưng cuối cùng vẫn phải phì cười.
"Đồ lợn cái vú xệ!" - hắn thầm rủa. Không hiểu câu chửi đầy màu sắc này hắn nghe được đâu đó hay chính hắn do giận quá mà nghĩ ra.
Sau khi đưa mắt rà khắp lượt các quầy không thấy gì, hắn bỏ đi, không cần biết đi đâu. Tới chỗ bà bán nước, hắn thấy một tờ giấy in thơ được xé ra để gói bánh rán ai đấy ăn xong vứt xuống đường. Hắn nhặt lên xem. Tờ giấy loại tốt, in đẹp, nhưng hắn đọc hồi lâu mà không nhớ nổi có phải thơ mình không. Thế là rốt cuộc, hắn chẳng biết chính xác cái quãng thời gian đế vương kia là chuyện có thật hay chỉ một giấc mơ đẹp.
   *   
Bẵng đi một thời gian, không ai thấy bóng hắn đâu cả. Có người nói hắn được đưa vào nhà thương điên Châu Quỳ. Có người nói hắn đã chết. Cũng có người cam đoan vừa thấy hắn hôm kia ở ga Giáp Bát, lưng đeo một bì vải nhựa rất to nhưng có vẻ không nặng lắm,.
Bản thân tôi, người kể câu chuyện này, cũng từng viết và in ngót nghìn trang thơ nhưng không ai thèm đọc. Một hôm tình cờ gặp hắn, cám cảnh, tôi định đến bắt chuyện rồi mời hắn một bữa cơm bụi, nhưng không hiểu sao, thấy có người lại gần, hắn liền bỏ chạy như ma đuổi.
Có nhiều khả năng hắn, con người thông minh nhường ấy, thậm chí có thể một thiên tài, đã chết thật, và cả bao tải thơ thiên tài ấy cùng chết theo hắn. Ít hiy vọng năm mươi năm hoặc một trăm năm sau có bà đồng nát nào đó khi bới tìm trong các đống giấy lộn bỗng phát hiện thấy di cảo của hắn và trả lại cho hắn cái danh tiếng hắn xứng đáng được hưởng.
                                                                       Hà Nội, 12.1.2001


BẠCH NGỌC

Một người bạn trẻ đã kể tôi nghe câu chuyện này. Chuyện xảy ra với chính anh ta, lạ lùng và khó tin đến mức nếu không được trực tiếp nghe từ miệng một người đứng đắn và mẫu mực như anh thì tôi nhất quyết sẽ cho là chuyện nhảm nhí, và tất nhiên chẳng mất công đem kể ra đây.
“Thưa thầy, chuyện quả đúng như thế ạ. - Anh gọi tôi bằng “thầy” vì trước đó có theo học lớp tiếng Anh của tôi một thời gian. Tôi làm nghề tay trái này đã lâu, nhờ nó mà kiếm đủ sống để nuôi gia đình và tiếp tục đeo đuổi cái nghiệp văn chương bạc bẽo, vất vả này. - Em sợ lắm. Thầy có cho đấy là tai họa và có thể làm hại cả cuộc đời em sau này không?”
Tôi không trả lời câu hỏi khó khăn này của anh. Đúng ra tôi có trả lời, chốc nữa đọc phần cuối các bạn sẽ thấy. Bây giờ cho phép tôi kể lại một cách ngắn gọn cái chuyện kỳ cục ấy đã xảy ra thế nào. Vì lý do tế nhị, tôi xin không dùng tên thật của anh, mà chỉ tạm gọi một cách chung chung là X.
Chuyện thế này.
   *   
Hôm ấy là một trong những buổi chiều thứ bảy mà X. luôn mong đợi. Anh đang trên đường từ Bát Tràng về Hà Nội. Anh không còn trẻ nhưng chưa vợ, khá đẹp trai và dân Hà Nội gốc. X. được phân công dạy cấp ba ở đây với lời hứa sau ba năm sẽ chuyển về nội thành, thế mà tới nay đã quá gấp đôi cái thời hạn ấy rồi mà chẳng thấy người ta động tĩnh gì. Làng nghề truyền thống nổi tiếng cả nước này đã làm anh ngấy tận cổ bởi cái chất giở ông giở thằng, giở nông thôn giở thành thị và những lò gốm đen xỉn bẩn thỉu của nó.
Không giống những chiều thứ bảy khác chỉ mong hết tiết để vù về nhà, lần này anh thấy chẳng hứng thú chút nào, lại buồn nữa. Chẳng vì sao mà vẫn thấy buồn, thậm chí anh không phóng xe nhanh để sớm về nhà. Hay vì thời tiết?
Mà thời tiết lúc đó thì quả là chán thật. Đã cuối thu, suốt ngày trời mưa lất phất, những cơn mưa như thật như đùa, chỉ đủ làm mặt đường nhớp nháp và phủ một màng mỏng nhầy nhầy lên tay và mặt. Thỉnh thoảng gió lạnh thổi từ phía sông Hồng càng tăng thêm vẻ buồn tẻ và sự khó chịu vô cớ. Trời chưa tối nhưng âm u, xa xa đã thấp thoáng một vài chấm đèn. Phía ngoài đê, sát sông, chỉ thấy những đám mờ mờ không rõ là làng hay bãi ruộng.
Khi cách cầu Chương Dương khoảng vài kilômét, X. bỗng thấy có cô gái đứng sát bờ đê giơ tay xin đi nhờ. Việc này vẫn xảy ra và nói chung anh thường cho đi. Tuy nhiên hôm nay, trong tâm trạng ủ ê vô cớ, anh chẳng muốn chút nào. Anh đã định cho xe phóng qua như chắc nhiều người khác từng làm trước đó, vậy mà khi đến gần người kia bỗng dưng anh đỗ lại, cứ như không phải anh mà ai đó vô hình đang điều khiển chiếc nó.
Đó là một cô gái khoảng hăm hai, hăm ba tuổi và rất xinh, với vẻ mặt buồn buồn, nhợt nhạt nhưng có sức hấp dẫn lạ lùng. Dẫu đang nhập nhoạng tối, anh vẫn nhận ra điều ấy. Người cô dong dỏng cao, có lẽ hơi gầy. Mọi cái ở cô đều toát lên vẻ tử tế, sạch sẽ của người xuất thân từ gia đình giàu có và nền nếp - từ đôi khuyên vàng, chiếc nơ buộc tóc màu xanh da trời rất hợp, chuỗi hạt đeo quanh chiếc cổ thanh tú và chiếc áo trắng, rất trắng và sạch, đến mức anh lấy làm ngạc nhiên sao giữa ngày mưa gió thế này mà nó không hề dây bẩn, dù chỉ một vết nhỏ.
“Anh cho em đi nhờ một quãng, được không ạ?” - cô nói, khẽ khàng và e lệ không chút giả tạo.
Chưa hết sững sờ trước vẻ đẹp khác thường của cô gái, X. lúng túng mỉm cười rồi gật đầu. Cô lên xe, anh có cảm giác như xe không nặng thêm chút nào. Cả hai cùng im lặng. Chiếc xe lăn bánh đều đều dọc bờ đê, nhưng trống ngực X. đập mạnh và rất nhiều ý nghĩ vấn vương trong đầu. Cô ta là người thế nào nhỉ? Sao xinh và có vẻ con nhà giàu như vậy lại phải xin nhờ xe? Ở cô ta có cái gì lạ lùng và lành lạnh. Cái lạnh ấy bây giờ anh cảm thấy ngay sau lưng, vì tự lúc nào cô gái đã ngồi xịch lại rất gần. Cả hơi thở nhẹ sát gáy anh cũng lạnh. Là giáo viên dạy văn giàu óc tưởng tượng, X. hình dung đủ chuyện, và thấy sờ. Nhưng sợ gì khi đang đi cùng xe với anh là một cô gái trẻ đẹp, có thể nói đẹp nhất xưa nay anh từng gặp? Cô gái ấy đang ngồi sát sau lưng, hai tay ôm người anh... Đúng, ôm khá chặt. Không hiểu sao mãi lúc này anh mới nhận thấy điều đó. Anh bối rối thực sự, nhưng không nói gì.
Tới nhà nghỉ “Nắng Chiều” thì bỗng chiếc xe chạy chậm lại rồi dừng hẳn. Chiếc Dream ngoại mới mua nửa tháng trước đó. “Chắc hết xăng”, anh nghĩ, nhưng mở ra thấy còn đầy. Lạ thật.
“Sao vậy anh?” - cô gái hỏi.
“Chắc hỏng vặt cái gì đó. Tôi chữa xong ngay bây giờ”, anh đáp, thoáng bối rối.
Cô gái đứng cạnh, nhìn X. hý hoáy sửa khóa xăng và bu-gi hồi lâu nhưng chiếc xe vẫn không chịu nổ.
“Hay chị chịu khó đi bộ một quãng đến đằng kia gọi tắc-xi vậy?” - anh nói, không phải không có ý tiếc.
“Không sao, em chờ. Em thích nhìn anh chữa xe. - Cô ngập ngừng một lát rồi nói thêm: - Em thấy mến anh...”
X. nhìn cô ngạc nhiên, chưa hiểu cô nói thế nghĩa là gì. May lúc ấy trời đã tối nên cô không thấy anh đỏ mặt. Rồi cô gái lại gần, âu yếm đặt một tay lên vai anh.
“Anh dễ thương thật đấy. Anh có thích em không?” - cô nhìn thẳng vào mắt anh.
“Thích”, anh nói như bị ai xui khiến, cũng nhìn vào mắt cô. Đôi mắt bây giờ không lạnh mà đang ánh lên những tia cháy bỏng.
“Thế anh có... có muốn em không?” cô gái ngượng ngùng nói rồi đưa mắt về phía nhà nghỉ “Nắng Chiều”.
“Thì ra là gái làm tiền, - anh nghĩ, hơi thoáng thất vọng. - Một cô gái lạ lùng”.
Được giáo dục trong một gia đình rất khuôn phép, xưa nay X. chưa lần nào đặt chân vào các nhà nghỉ mà anh xem là nơi không xứng đáng và nên bắt đóng cửa từ lâu. Còn tiếp xúc, chứ chưa nói là quan hệ, với các cô gái bán hoa thì cả trong ý nghĩ anh cũng chẳng dám. Thế mà bây giờ có người trơ trẽn mời chào anh, xinh đẹp, tử tế nhưng vẫn thuộc hạng ấy. Anh lúng túng nhìn cô gái, thầm xấu hổ khi thấy mọi cố gắng chống đỡ của anh đều bất lực trước cái nhìn say đắm và có cả vẻ van xin trong đôi mắt cô.
“Có chứ, - cuối cùng anh lên tiếng, cố lấy giọng vui vẻ để tỏ ra mình cũng biết ăn chơi. - Một người như em ai chẳng muốn.”
Rồi hai người dắt xe đi xuống nhà nghỉ “Nắng Chiều” ngay dưới chân đê.
    *    
“Anh hôn em đi!”
X. áp môi mình vào đôi môi đang hé mở đợi chờ. Anh thoáng giật mình vì thấy nó rất lạnh.
“Cảm ơn anh”.
“Cảm ơn? - anh ngạc nhiên tự hỏi. - Cô này kì cục thật”.
“Anh có thể hôn vào mắt em được không?”
Anh lại áp môi vào mắt cô, từng mắt một. Chúng cũng lạnh.
“Cảm ơn anh. Anh biết không, anh là người đàn ông đầu tiên hôn em đấy, - cô gái nói. Đôi mắt được hôn giờ trông rạng rỡ. - Thật mà. Anh không tin à? Nhưng điều đó chẳng quan trọng. Quan trọng là em đã được một người đàn ông hôn. Chắc em nói thế, anh thấy lạ lắm nhỉ?”
Quả X. thấy lạ, nhưng không nói gì. Anh vòng tay ôm chặt cô rồi đẩy về phía chiếc giường. Người cô cũng rất lạnh, nhưng lúc này X. không còn băn khoăn đến điều ấy.
“Cảm ơn anh,” cô gái lại nói khi hai người mặc quần áo.
Lại cảm ơn. Kỳ thật. Hay đàn bà mỗi lần sau chuyện ấy ai cũng nói cảm ơn? Anh móc túi, có bao nhiêu tiền đưa hết cho cô gái.
“Ấy chết, sao anh làm thế? - cô hoảng hốt kêu lên. - Em không phải loại người anh tưởng đâu.” Rồi cô rùng mình, đưa hai tay ôm mặt xấu hổ. Hình như khóc.
“Vậy em là ai?” - X. ngỡ ngàng hỏi sau một chốc im lặng.
“Em là Ngọc, Bạch Ngọc. Em tốt nghiệp Đại học Quốc gia năm ngoái, đang theo khóa cao học, định sang năm đi Anh học tiếp nhưng bây giờ thì đành thôi...”
“Vì sao?” anh tò mò hỏi. Anh tin những điều cô nói. Một người như cô chắc không biết nói dối.
Bạch Ngọc không đáp. Lần nữa cô ngước nhìn anh đắm đuối với đôi môi chờ đợi. Anh cúi xuống. Chúng vẫn lạnh. Bạch Ngọc lần nữa lại nói “cảm ơn”.
“Em có thể cho anh địa chỉ của em được không?”
“Được, - cô nói và khẽ cúi đầu thở dài, - tuy chẳng để làm gì”.
X. nhét vội vào túi mảnh giấy Bạch Ngọc đưa cho, rồi hai người bước ra khỏi phòng.
Chiếc xe lúc nãy tự nhiên chết máy, bây giờ vừa bấm đề đã nổ ngay, nhưng X. không nhận thấy điều kỳ lạ đó vì còn chưa hết ngạc nhiên với những gì mới xảy ra.
“Anh đưa em về nhà nhé?”
Bạch Ngọc lặng lẽ gật đầu. Cô bảo anh đi về phía xã Bồ Đề chứ không qua bên kia cầu Chương Dương như anh tưởng. Tới rìa làng N. cô xuống xe, cảm ơn và nói cô muốn đi bộ một mình. X. đứng yên chăm chú nhìn theo, không nhận thấy để mất hút cô từ lúc nào. Dọc đường về nhà, anh băn khoăn tự hỏi sao một người như Bạch Ngọc lại sống ở cái làng nghèo nàn ấy. Mọi chuyện có vẻ kỳ lạ và đáng ngờ...
   *   
“Sáng hôm sau em tìm đến nhà Bạch Ngọc theo địa chỉ cô ấy cho, - X. kể tiếp. - Đó là một biệt thự kiểu Pháp xinh xắn ở khu Ba Đình, cùng phố với mấy sứ quán nước ngoài. Em dò hỏi thì biết đó là nhà một ông bộ trưởng mới về hưu, có cô con tên là Bạch Ngọc chết vì tai nạn ô tô cách đấy ba ngày, chôn ở nghĩa địa làng N. xã Bồ Đề, vốn quê gốc của ông. Để chắc chắn hơn, em còn dò hỏi tuổi tác, trường học và vẻ ngoài của Bạch Ngọc. Tất cả đều đúng. Thầy thấy có lạ không?”
“Sau đó cậu tìm đến nghĩa địa, đúng không?”
“Vâng ạ. Ở đấy có ngôi mộ mới với tấm bia đá cùng ảnh chụp, ghi rõ họ tên. Hà Bạch Ngọc, ngày sinh... ngày mất... Em thấy như cô ấy nheo mắt mỉm cười với em, thậm chí còn nói ‘Cảm ơn!’ Em ngạc nhiên và sợ quá...”
X. im lặng, chắc chờ tôi lên tiếng an ủi.
“Hóa ra người đàn bà đầu tiên em gần gũi không phải người mà là ma, - anh ngước nhìn tôi không dấu nổi vẻ lo lắng. - Tại sao cô ấy làm thế? Tại sao lại chọn em? Thầy có cho đấy là tai họa, và có thể làm hỏng cả cuộc đời em không?”
Quả thực đây là câu hỏi không dễ trả lời, nhưng cuối cùng tôi vẫn trả lời nó theo cách tôi cho là tốt nhất:
“Tớ nghĩ không. Bạch Ngọc là người tốt nên chắc không bao giờ làm hại cậu. Vả lại, cô ấy còn chịu ơn cậu...”
“Chịu ơn em?”
“Vâng. Cô ấy chẳng luôn miệng cảm ơn cậu đấy sao? Như tất cả các cô gái khác, Bạch Ngọc không muốn chết mà chưa được biết cảm giác hạnh phúc cái hôn của một người đàn ông. Đó là nỗi sợ thầm kín, có thể vớ vẩn, nhưng rất thật và rất con gái. Cậu đã mang đến hạnh phúc ấy cho Bạch Ngọc. Chắc chắn cô ấy sẽ phù trợ cậu”.
X. có vẻ yên tâm hơn.
“Nhưng hôn và ngủ với ma thì chẳng là điều dễ chịu. Nếu việc này xảy ra với thầy, chắc thầy không nói thế!”
“Cậu rõ vớ vẩn. - tôi cười đáp. - Già và béo như tớ thì có ma nào nó thèm để ý!”
   *   
Thấm thoắt đã gần chục năm trôi qua. X. lấy vợ, có con, và dường như rất hài lòng với hạnh phúc của mình. Mọi việc đều tốt đẹp. Tôi thầm mừng vì lời nói an ủi chiếu lệ ngày nào hóa ra đúng. Tết Thanh Minh năm nào tôi và X. cũng ra nghĩa địa làng N. thắp cho Bạch Ngọc mấy nén hương. Từ lâu X. không còn bị ám ảnh bởi đôi môi giá lạnh của cô, nhưng anh vẫn một mực bắt tôi tuyệt đối giữ kín mọi chuyện. Tôi không nghĩ tôi vi phạm lời hứa với anh bằng cách viết truyện ngắn này vì suy cho cùng, không người nào ngoài anh và tôi biết X. là ai.
Hà Nội, 28. 4. 2002


MA QUỈ TRONG LÒNG TA

Tháng trước ở phường B. thị trấn Ðức Giang, huyện Gia Lâm, nơi tôi về nghỉ hưu mấy năm nay, đã xẩy ra một vụ trọng án có nhiều tình tiết rất kỳ lạ, có thể nói bí ẩn không sao giải thích nổi, đến mức cuối cùng người ta quay sang cho rằng nhất định phải có yếu tố thần linh ma quỷ trong vụ này. Thần linh, ma quỷ là gì thì chẳng ai biết, chẳng ai nhìn thấy bao giờ, khoa học chính thống có thái độ gần như phủ nhận, thế mà ai cũng thích nói, thích nghe, nhiều khi tranh cãi nẩy lửa về đề tài này. Ðề tài muôn thuở của những người rỗi rãi và thường yếu bóng vía. Vụ án ở Ðức Giang là cái cớ tốt để người ta quay lại với nó.

          - Ai bảo không có ma? Có quá đi chứ. Nhiều nữa là khác, - một trong mấy người đang ngồi uống bia ở quán Hải Xồm, hùng hổ nói, bàn tay múp míp vuốt vuốt cái đầu hói đến tận gáy. - Chỉ những người học vấn ít mới không tin chuyện ma. Ma là cả một thế giới có thật tồn tại ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Chừng nào khoa học hình sự chưa tiếp cận được cái thế giới ma ấy thì vụ Ðức Giang vừa rồi còn lâu mới sáng tỏ
.
          - Ma với quỷ quái gì! - một người khác bác lại không kém phần hăng hái. - Hiện trường giả đấy. Thế mới cao tay.

          Vài người nữa chen vào, thế là cả nhóm tự lúc nào không biết chuyển sang nói chuyện ma, người bảo có, người không rất sôi nổi như phần lớn các cuộc tán gẫu vô bổ khác bên cốc bia. Ðể minh họa, người ta đem ra kể đủ chuyện, của mình và của người khác, ai cũng cam đoan là có thật nhưng ai cũng biết là bịa. Có thể câu chuyện dưới đây cũng vậy, tuy nó được kể trong một trường hợp khác, cụ thể là trong một lần chúng tôi, mấy ông già về hưu kinh tế khá giả, tới khu vui chơi Cầu Ðôi ở Ðông Anh câu cá thể thao , tức là ăn uống nhiều, tán gẫu nhiều, câu ít, mà có câu được con nào lại thả ngay xuống nước con ấy. Một trò giải trí mà theo cách nhìn nhận thẳng thắn của nhiều người là ngớ ngẩn và mang tính trưởng giả.

          Theo yêu cầu của người kể, tôi sẽ không nói tên ông ra đây, vả lại điều ấy không quan trọng với người đọc. Chỉ cần biết đó là một người đã đứng tuổi, một cựu quan chức cao cấp đáng kính về nhiều phương diện.

                                                                 *   
Lúc ấy là những năm đầu Mỹ mở rộng chiến tranh ra Miền Bắc. Cách Phủ Lý độ mấy cây số về phía Nam có một ngôi chùa nhỏ bình thường, cả cái tên cũng bình thường, chùa Dền. Trong chùa chỉ có một ông sư già trụ trì và một ni-cô trẻ do thất tình hay vì lý do nào đấy vừa mới xuống tóc đi tu. Cầu Phủ Lý bị máy bay đánh phá nhiều lần nên chùa Dền cũng chịu vạ lây, may chưa lần nào bom rơi trúng chùa, và người dân các làng lân cận vẫn tới hương khói đều đặn. Ông sư đã già nhưng còn khỏe, ngoài giờ chay tịnh, ông giúp ni-cô trồng trọt trên mảnh đất hai sào sau chùa. Hai người sống nhờ vào nó, chứ đồ tế lễ của người cúng viếng chẳng là bao vì bản thân họ còn chưa kiếm đủ ăn.

           Một đêm nọ, lúc ấy đã khuya, nhà sư đang ngồi lần tràng hạt như thường lệ trong phòng riêng của mình thì chợt thấy có ai đi ngang qua cửa sổ. Trời mưa phùn dai dẳng đã mấy ngày liền.  Chắc mình nhầm, - ông nghĩ. - Ai có thể tới đây vào giờ này, mà vào thế nào được khi cổng chùa đã đóng? Ni-cô thì càng không vì cô ấy luôn đi ngủ sớm. Ông quay lại với công việc buồn tẻ của mình, định chốc nữa cũng sẽ lên giường. Tuy nhiên, chỉ mấy phút sau cái bóng ấy lại xuất hiện, lần này bước chậm hơn như cố ý để ông nhìn thấy, và ông đã kịp nhận ra đó là một người phụ nữ.  Lạ thật,  - ông bỏ chuỗi tràng hạt xuống chiếu, lòng chưa hết ngờ vực. Khi  người ấy đi ngang lần nữa thì ông đứng dậy, mở cửa bước ra ngoài.

           Mưa đang nặng hạt. Gió từ cánh đồng vắng bên cạnh thổi mạnh, làm những giọt nước lớn rơi xuống mặt và cổ nhà sư. Tiếng côn trùng râm ran khắp nơi. Trời tối nên ông không nhìn thấy gì.

           - A di đà Phật. Ai đấy?  - ông hỏi. Không có tiếng đáp. Khi ông định quay vào thì chợt thấy có cái gì trăng trắng bên gốc nhãn già đối diện. Ðúng là cái bóng lúc nãy.  - Ai đấy?  - ông tiến thêm mấy bước nữa, hỏi to.

Vẫn không trả lời, cái bóng màu trắng lặng lẽ bước đi. Vị sư già đi theo, khi ông bất ngờ đứng lại, nó cũng đứng lại. Hình như nó muốn dẫn ông đi đâu đấy. Lúc này, do đã quen với bóng tối và nhìn kỹ hơn, ông biết đó là một phụ nữ mặc đồ trắng suốt từ chân đến đầu. Là người tu hành lâu năm, lại già, nên ông không sợ, chỉ thấy tò mò, nghĩ bụng một khi có người đến gọi ông thế này thì chắc phải việc hệ trọng. Thế là ông cũng lặng lẽ đi theo. Người đàn bà bước ra ngoài qua chiếc cổng con để mở sau chùa mà ông nhớ rất rõ đã được cài then cẩn thận từ lúc trời chưa tối.
Một chốc sau họ tới đồng Vạc. Cánh đồng lúc này vừa thu hoạch khoai lang xong, lổn nhổn đất bị xới tung, gặp mưa lâu ngày dính bết dưới chân. Người đàn bà áo trắng rõ ràng đang muốn dẫn vị sư già đi theo mình. Ði đâu ông không biết, vì họ không đi đường chính mà men theo các bờ ruộng nhỏ. Gặp chỗ trơn khó đi, người kia cố ý dừng lại chờ.

           Cuối cùng, nơi họ tới hóa ra là nghĩa địa làng Hưng Dũng, cách chùa Dền gần một cây số. Ðến đây chợt nhà sư không thấy người đàn bà kia nữa. Ðang ngơ ngác không hiểu vì sao thì bỗng có tia chớp khan lóe lên. Ông nhìn thấy nghĩa địa có mấy ngôi mộ mới, nhiều que hương cháy chưa hết, chắc vì mưa. Trên một trong những ngôi mộ đó ông thấy có cái bọc trắng. Mấy giây sau ông nghe có tiếng trẻ mới sinh đang khóc ở đấy.

           - A di đà Phật!  - vị sư già chắp hai tay trước ngực. Ông đưa mắt nhìn quanh khi có tia chớp khác. Vẫn không thấy người đàn bà áo trắng bí ẩn kia đâu. Thế là ông rõ: Người ấy dẫn ông đến đây vì đứa bé này. Nhưng sao bà ta không tự bế nó vào chùa? Xưa nay không ít trường hợp người ta làm thế lúc cùng quẫn. Mà sao đứa bé lại nằm đây, giữa đêm hôm mưa gió thế này? Nó là con nhà ai?...

           Nhà sư đứng hồi lâu dưới trời mưa với những câu hỏi như thế trong đầu. Ðạo của kẻ tu hành là cứu nhân độ thế, cho dù hoàn cảnh thế nào. Thế là ông cúi xuống bế đứa bé lên tay rồi quay về chùa. Ông chạm vào người nó thấy lạnh buốt. Nó thôi không khóc nữa, nhưng hơi thở rất yếu. Ông đoán nó mới sinh được vài ngày, có thể vài giờ. Ôm chặt đứa bé vào lòng, ông cố đi thật nhanh, chỉ sợ nó chết khi chưa kịp về đến chùa. Lúc này ông lại nhìn thấy người đàn bà áo trắng lặng lẽ đi phía trước, rõ ràng để dẫn đường. Mấy lần ông cố ý rảo bước để hỏi mà không lần nào đuổi kịp, cho đến khi tới gần chùa thì cái bóng trắng ấy biến mất hẳn.

           Vị sư già gọi ni-cô dậy pha sữa cho đứa bé rồi làm những gì họ có thể làm để cứu nó. Sáng hôm sau ông cho cô vào làng Hưng Dũng hỏi xem hư thực thế nào, thì được người ta cho biết tuần trước có chiếc xe đâu từ Thanh Hóa ra Hà Nội, lúc qua đây không may trúng tên lửa máy bay Mỹ. Cả năm người trên xe đều chết và được chôn ở nghĩa địa làng, trong đấy có một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi đang bụng to vượt mặt, chắc sắp đến ngày sinh. Ni-cô được sư cụ dặn trước không nói gì về việc ông nhặt đứa trẻ ngoài nghĩa địa nên không người nào biết nó là ai, càng không thể nghĩ nó là con của người đàn bà đã bị chôn xuống đất những mấy ngày trước đó.

           Nó là một đứa bé gái, được nuôi lớn bằng tình yêu của hai nhà tu hành và bằng sữa của một bà nông dân mới sinh con trong làng mà ni-cô một ngày hai lần bế tới xin bú nhờ. Năm tháng trôi qua, nó lớn lên chẳng khác mấy những đứa trẻ bình thường, hơn thế lại xinh, cái xinh đẹp của cô bé có dáng người gầy gò thanh tú, nước da rất trắng với đôi mắt to đượm buồn. Vẻ buồn ấy càng tăng thêm khi suốt ngày im lặng, vì nó bị câm, câm từ lúc mới lọt lòng.

           Cô bé cứ thế lớn lên trong cảnh chùa u tịch cùng vị sư già. Người con gái thất tình kia hoàn tục từ lâu và nghe nói đã tìm thấy lại hạnh phúc. Vì câm nên cô bé chẳng bao giờ hỏi bố mẹ mình là ai, cũng chẳng ai có thể cho cô biết điều ấy. Thời gian lặng lẽ trôi qua, cũng lặng lẽ như thế cô bé lớn lên thành cô gái xinh đẹp có thể nói nhất nhì cả vùng Phủ Lý. Nhưng cô và vị sư già của cô chẳng quan tâm đến vẻ đẹp trần tục ấy, vì mọi cái đã được quyết định - cô sẽ suốt đời là người của Phật để một ngày không xa thay sư cụ trông coi ngôi chùa này...

            Thế mà một việc tầy đình đã xẩy ra, làm đảo lộn tất cả. Số là năm cô mười bảy tuổi, một thằng khốn nạn nào đó cưỡng hiếp cô, và cô đã treo cổ tự tử ngay sau đó. Vị sư già thấy thế ngất đi, chứng đau tim vốn có lâu nay cũng làm ông chết theo. Do vậy người ta không bao giờ biết được tên khốn nạn nỡ làm hại cuộc đời cô bé khốn khổ kia là ai...

                                                                  *     
 Tôi chính là tên khốn nạn đó!  - Người kể im lặng một lúc rồi khẽ nói thêm, không quay sang nhìn mọi người đang chăm chú lắng nghe, phần nào hơi sững sờ trước câu tự thú chân thành ấy. Ông cũng không tỏ ra xúc động và hình như từ lâu đã chuẩn bị cho cuộc nói chuyện này.

            Chúng tôi im lặng chờ nghe tiếp vì biết một khi ai đó đã bắt đầu câu chuyện xám hối của mình thì chắc chắn không bao giờ dừng lại giữa chừng.

          - Lúc ấy tôi đã là một người đàn ông trưởng thành, gần bốn mươi tuổi, một cán bộ có cỡ ở Phủ Lý. Thế mà tôi nỡ làm cái điều tội lỗi ấy. Vì sao thì có lẽ chẳng cần nói ra đây, vì tự thân việc đó sẽ mang tính nguỵ biện. Tất nhiên có yếu tố hoàn cảnh, có rượu, có giây phút mềm yếu dẫn đến sa ngã như người ta thường nói, nhưng tôi đủ tỉnh táo để tự biết tôi là thằng khốn nạn. Tiếc rằng tôi chưa bao giờ đủ dũng cảm để tự nộp mình đền tội...

          -  Sao bây giờ bỗng dưng ông đem ra kể? - ai đó lên tiếng hỏi. - Ông giữ kín nó hàng chục năm nay và tất nhiên có thể làm vậy với những năm còn lại
.
         - Thì một phần cũng vì cái vụ Ðức Giang này và những chuyện ma quỷ của các vị. Tuy nhiên, lý do chính là tôi không thể tiếp tục im lặng được nữa. Tôi không thể mang nó xuống mồ cùng cái chết. Mà tôi sắp chết rồi. Bác sĩ bảo giỏi lắm chỉ kéo dài thêm dăm tháng. Tôi bị ung thư cuống họng. Vợ con chưa biết đâu nhưng chẳng bao lâu nữa sẽ biết. Việc này thì được, còn cái việc kia thì tôi muốn giấu họ. Vì họ thôi chứ chẳng phải vì tôi. Ðiều ấy dễ hiểu. Kể ra được thế này, tôi nhẹ hẳn người, dù có thể bây giờ các vị đang khinh bỉ tôi. Chẳng sao. Tôi đáng bị khinh bỉ và trừng phạt. Các vị thấy đấy, hóa ra tôi, một con người thậm chí còn được coi là người tốt, mà lại xấu hơn cả ma. Ma, nếu có thể gọi người đàn bà đáng thương kia là ma, còn cố gắng đẻ con cả sau khi chết và đưa nó ra khỏi mồ nhờ người đời nuôi hộ. Vậy mà tôi đang tâm giết nó...

       - Ông có tin vào ma quỷ không? Vào cái người ta hay gọi là ân oán chẳng hạn?  - một người nữa hỏi.

         - Không! - ông kia đáp vẻ dứt khoát. - Lúc đầu quả tôi có tin và rất sợ. Tôi sợ hồn ma mẹ con cô câm và vị sư già sẽ bắt tội tôi. Tôi thấp thỏm chờ đợi những tai họa ghê gớm. Cuối cùng chẳng có chuyện gì xẩy ra, và như các vị biết, tôi được thăng quan tiến chức, vợ con, kinh tế bình thường như mọi người. Nghĩa là chẳng có ân oán hay ma quỉ nào cả. Nếu có chỉ có ma quỉ trong lòng ta. Chính ma quỉ đã xúi tôi gây tội ác và rồi ma quỉ đã bắt tôi trả giá âm thầm suốt bao năm nay. Không nói các vị cũng biết tôi đã ân hận, đau khổ nhường nào, nhất là khi luôn phải lo che giấu điều ấy. Năm nào rằm tháng Giêng tôi cũng lén về Phủ Lý thắp hương cho mẹ con cô ấy và vị sư già. Vâng, tôi nghĩ thế đấy. Không có ma quỉ nào ở đời này cả. Chỉ có ma quỉ trong lòng mỗi chúng ta mà thôi. Trong các vị cũng có, nhưng may các vị thắng được chúng, còn tôi thì không.
Hà Nội, 8.5.2002


BÀI CA BUỒN

Nếu đời người là một bài ca như có nhà thơ ngớ ngẩn nào đấy từng ví, thì cuộc đời Cái Nụ là một bài ca buồn. Buồn, đau đớn và đầy nước mắt. Cuộc đời, hay chính xác hơn, người đời, thật tàn nhẫn với nó, tàn nhẫn ngay từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến tận lúc chết.
Mẹ nó, một cô gái nông thôn chất phác và cả tin trót đẻ ra nó mà chẳng có chồng. Đẻ rồi băng huyết chết, không chịu khai bố nó là ai, chắc lại vì chất phác tin vào những lời năn nỉ xin giữ bí mật của hắn. Thế mà sau đấy bố nó, một thằng đàn ông đểu cáng và hèn nhát nào đó đang sống ngay trong làng (cô gái tội nghiệp kia chưa bao giờ quen biết ai ngoài làng, chưa bao giờ đi đâu khỏi làng) đã không chịu đón nó về nuôi. Rốt cục bà ngoại nó, một bà già bán hàng xén độc thân mắc chứng hen xuyễn nặng, thở cứ kêu o o như muỗi, phải nhận lấy việc bất đắc dĩ này.
Vì được sinh ở đời không ai hoan nghênh, Cái Nụ (chẳng biết ai đặt cho nó cái tên dân dã này) đã bị cuộc đời vùi dập ngay từ trong nụ, và vì thế, nó đã phải khóc rất nhiều. Khóc vì thiếu sữa mẹ, vì bị bà đánh (không do ác, mà vì khổ quá thành cáu bẳn đến lú lẫn), vì đói ăn, vì năm lên mười, bà chết để lại mình nó bơ vơ, buộc chính quyền xã phải dùng vũ lực bắt một người bà con xa mà nó gọi là ông trẻ ở làng bên nhận về nuôi. Ở đây nó còn phải khóc nhiều hơn vì bị ông trẻ thường xuyên đánh đập, thường xuyên bỏ đói, và khi nó mười lăm tuổi thì bị hắn thường xuyên cưỡng hiếp, cho đến một hôm nó ôm mặt khóc, bỏ nhà ra đi giữa trời mưa gió. Đi lên thành phố, tất nhiên, vì nó và những đứa trẻ tội nghiệp không nơi nương tựa như nó còn biết đi đâu ngoài cái gọi là thành phố vừa hấp dẫn vừa đáng sợ ấy?
Ở thành phố, tất nhiên, nó cũng không thoát được đường mòn dẫn vào chiếc bẫy luôn giăng sẵn chờ những đứa con gái nông thôn cùng cảnh ngộ. Lúc đầu nằm vật vạ ở bến xe, ga tàu, ăn xin, ăn cắp, rồi rửa bát, bế em đâu đó, rồi bị bà chủ đánh, ông chủ hiếp, rồi khi lớn hơn và thạo đời hơn chút ít thì ra đứng đường làm gái điếm với tâm hồn và cái mặt còn ngây thơ nhưng phải làm bộ cong cớn, mỏ đỏ, mắt xanh, thỉnh thoảng còn phì phèo điếu thuốc để rồi ôm họng ho rũ rượi. Đại khái nó đã trải qua tất cả những bước ấy, may còn chưa bập vào ma tuý. Vậy là ngay từ ngày đầu lên thành phố, nó đã phải hát tiếp bài ca cuộc đời bằng tiếng khóc, lúc tức tưởi, lúc âm thầm chua xót.
Kia, nó đang đứng kia, lặng lẽ khóc trên vỉa hè đường phố Nguyễn Văn Cừ, cách chân cầu Chương Dương khoảng vài chục mét, là nơi nó ngủ qua đêm đã mấy hôm nay do không có tiền thuê tiếp một chỗ đặt lưng ở Bãi Phúc Xá.
Trời đang mưa. Những sợi mưa ngắn, ngắt quãng rơi xiên, nhìn rất rõ dưới ánh đèn đường vàng vọt.
Hình như đêm đã khuya vì phố mỗi lúc một vắng người. Cái Nụ ý thức rất lờ mờ về thời gian. Nó không có đồng hồ, cả những chiếc đồng hồ điện tử vỏ nhựa giá chỉ mươi nghìn đồng. Thay vào đó, nó có cái dạ dày rất nhạy như những người thường xuyên đói ăn khác. Cả ngày hôm nay nó mới chỉ ăn nửa chiếc bánh mì khô cứng mà nó thận trọng để dành từ tối qua. Kinh nghiệm dạy nó bao giờ cũng phải đề phòng trường hợp xấu nhất. Nó đoán trời đã khuya vì bụng đang đói cồn cào. Nó tới đứng đây từ lúc mới chập tối mà chưa ai thèm để ý. Trời mưa thường vắng khách, hơn nữa nó không thể cạnh tranh nổi với những cô điếm đồng nghiệp nhanh nhảu và trâng tráo. Cái hy vọng được ai đấy đón đi mỗi lúc một xa vời. Bây giờ nó chỉ thầm mong có người đưa vào bụi rậm, gầm cầu hay đâu cũng được, làm cái họ muốn làm rồi cho nó một hay thậm chí nửa chiếc bánh mì. Nó cứ đứng thế, nước mắt hòa lẫn nước mưa, đờ đẫn, tuyệt vọng nhìn xuống mặt đường nhão nhoét để chốc chốc những chiếc ô tô hoặc xe máy phóng vụt qua, té bẩn lên người...
Về khuya, trời trở lạnh. Bộ quần áo mỏng trên người ướt sũng từ lâu. Chốc chốc nó lại ôm cổ ho rũ rượi khi có đợt gió từ phía sông Hồng thổi tới. Hình như nó bị cảm, người run bần bật. Nó lạnh. Rất lạnh. Cái lạnh cũng đáng sợ như cái đói. Nó những muốn bỏ chạy về chỗ của nó ở gầm cầu, nằm cuộn tròn người cho đỡ lạnh, nhưng cái hy vọng biết đâu chốc nữa có khách cứ giữ chân nó lại. Nửa chiếc bánh mì mơ ước kia vẫn còn là miếng mồi hấp dẫn, dù mỗi lúc một xa tầm với.
Mưa rả rích. Đường phố vắng tanh, chốc chốc mới có một vài người co ro phóng xe đi qua. Các cô điếm khác hoặc nhờ gặp khách đã đi, hoặc quá ế ẩm đã bỏ về. Còn Cái Nụ thì vẫn kiên nhẫn chờ. Bây giờ nó đã bỏ gốc cây quen thuộc chuyển sang đứng dưới cột đèn đường trơ trụi, không phải vì muốn người ta dễ nhìn thấy, mà đầu óc đẫn đờ vì đói và rét mách nó ngọn đèn vàng trên cao kia có thể làm nó ấm lên một chút. Nó thôi nhìn xuống lòng đường, hai tay ôm chặt bộ ngực lép kẹp, tựa hẳn người vào cột đèn. Nó cảm thấy hình như ánh đèn làm nó ấm hơn thật.
             *                             
“Nào, đi thôi, cô bé!”
Cái Nụ giật mình mở mắt khi có ai khẽ chạm vào người. Nó đã ngủ thiếp, cũng có thể vì đói mà ngất đi từ lúc nào. Đó là một người đàn ông mặc áo khoác đen dài quá gối, cổ quấn khăn, đầu đội chiếc mũ kéo sụp xuống tận mắt nên nó không nhìn thấy mặt, không biết già hay trẻ, nhưng căn cứ vào giọng nói rất nhỏ nhẹ, nó đoán là người tử tế. Tất nhiên những điều này chẳng hề quan trọng.
Người đàn ông mở cửa chiếc ô tô bóng loáng đỗ cạnh rồi nhẹ nhàng giúp nó vào trong. Đây là lần đầu nó được một người sang trọng như thế cần đến. Nó không xấu nhưng chẳng có gì nổi bật, lại quá bé, bộ mặt luôn ngơ ngác, buồn rười rượi và chẳng  biết ăn nói. Có thể đấy là một lợi thế ở nó mà nó không biết.
Trong xe ấm hơn nhưng rất tối. Nó lấy làm lạ khi thấy xe không bật đèn, không cả tiếng máy nổ. Xe rẽ sang bờ đê về hướng Bát Tràng, được một quãng lại rẽ phải, hình như ra phía sông. Điều này càng lạ vì nó biết ở đây không có con đường nào ô tô đi được. Nó nhìn ra ngoài thấy tối om, nghe có tiếng gì như tiếng lá ngô quệt vào xe. Hình như có cả tiếng nước chảy mạnh. Một chốc sau xe dừng. Người đàn ông đưa nó vào một tòa biệt thự rất đẹp thắp đèn sáng trưng cả ba tầng, nhưng tịnh không một tiếng động và chắc cũng không có người. Nó đứng ngây vì ngạc nhiên. Cách đây không lâu nó được một khách nghèo dẫn ra khu này, nơi chỉ có những ruộng ngô mọc cao quá đầu chứ không hề có nhà hoặc người ở.
“Cháu vào tắm rửa đi”, người kia chỉ cho nó buồng vệ sinh sáng loáng với bồn tắm, rồi bỏ sang phòng bên. Nước ấm làm nó đỡ lạnh và tỉnh ngủ. Nó nhìn vào tấm gương lớn, thầm xấu hổ với thân hình gày còm, nước da xanh tái và đôi vú nhỏ, bên trái còn in rõ vết cắn của một thằng choai choai hôm nọ. Hôm ấy hắn quịt tiền, lại còn dọa đánh. Nó cảm thấy như có lỗi với người đàn ông tốt bụng đã đưa nó về đây, định bụng chốc nữa sẽ cố làm ông thật hài lòng.
Tắm xong, người đàn ông dẫn nó vào phòng ăn. Nó ngơ ngác đưa mắt nhìn quanh. Nó từng thấy nhiều ngôi nhà đẹp ở thành phố này, nhưng chỉ từ bên ngoài. Không ngờ mọi cái bên trong có thể đẹp và sang trọng đến thế. Bỗng dưng nó sợ, đến mức không để ý nhận thấy bộ quần áo ướt của nó trở nên khô ráo từ bao giờ, lại thoang thoảng mùi thơm như vừa mới được giặt sạch. Người đàn ông chỉ cho nó chiếc ghế cạnh cái bàn lớn hình bầu dục phủ khăn ăn trắng toát đầy những món ngon lành mà phần lớn nó mới thấy lần đầu. Ông kia ngồi xuống chiếc ghế đối diện nhưng không ăn gì.
Đó là một ông già có khuôn mặt đôn hậu, mái tóc bạc gần hết, chiếc khăn len nửa đỏ nửa đen che kín cổ. Người ông đậm nhưng nước da tai tái. Dưới đôi lông mày rậm cũng đốm bạc, hai mắt ông nhìn nó một cách chăm chú như có ý khiển trách, nhưng cách cư xử của ông tự nhiên, khiến nó thấy yên tâm, đỡ sợ.
“Cháu bao nhiêu tuổi?”
“Dạ em... em hai mươi ạ”, nó ấp úng đáp. Từ trước tới nay khi đàn ông đến với nó, người ta luôn xưng anh em, bất kể tuổi tác.
Ông già lặng im, chỉ nhìn nó nghiêm khắc hơn.
“Dạ, cháu mười sáu ạ”.
“Thế bố mẹ, gia đình cháu ở đâu? - ông hỏi tiếp, đôi mắt hiền từ   khích lệ. - Nhưng cháu ăn đi. Vừa ăn vừa kể”.
Và Cái Nụ đã kể hết cho ông nghe về cuộc đời đau buồn của nó. Ông là người đầu tiên hỏi nó điều này. Nghe xong, ông trầm ngâm một lúc rồi nói, giọng vẫn nhỏ nhẹ như khi đánh thức nó dậy trên đường phố giữa trời mưa:
“Tội nghiệp cháu. Bác cũng khổ, nhưng khổ theo cách khác. Vả lại, bác người lớn, lại là đàn ông”.
Rồi ông giục nó vào phòng ngủ. Nó hiểu, vội đứng dậy đi về phía căn phòng ông chỉ.
“Cháu cầm thêm quả táo này khi đói còn ăn”, ông nói, ấn vào tay nó một quả táo thật lớn màu đỏ rực.
Nó nhanh chóng cởi hết quần áo rồi nằm chờ. Cửa phòng để mở. Tuy nhiên, nó chờ mãi vẫn không thấy người đàn ông kia vào. Điều này làm nó ngạc nhiên, thậm chí hơi buồn. Nó biết cái duy nhất đàn ông cần ở nó là gì, và họ chỉ đến với nó vì cái ấy. Hơn nữa nó muốn sòng phẳng. Đêm nay nó chỉ dám mong nửa chiếc bánh mì, thế mà bây giờ được ăn no, tắm giặt, lại ở trong ngôi nhà sang trọng này...
Chăn ấm và bữa ăn ngon làm nó thiếp đi. Sáng hôm sau tỉnh dậy, nó thấy mình nằm ở chỗ cũ dưới gầm cầu Chương Dương, bên cạnh là quả táo to màu đỏ. Nó lờ mờ cố nhớ lại những gì xảy ra đêm trước và nghĩ chắc mình nằm mơ. Thế còn quả táo? Cả mùi xà phòng thơm thoang thoảng của bộ quần áo mới giặt đang mặc trên người? Bán tín bán nghi, nó chạy vội lên đê, nhìn về phía người đàn ông bí ẩn đưa nó tới đêm trước. Chẳng có gì ngoài một màu xanh ngắt của cánh đồng ngô bát ngát. Không có đường đi, không có ngôi nhà nào hết.
Quả táo dẫu to cũng chỉ đủ nó quên đi cái đói trong chốc lát. Đêm đến nó lại ra đứng dưới cột đèn đường như mọi lần, cũng với chỉ một mơ ước đổi cả tấm thân mình để lấy chỉ nửa chiếc bánh mì.
Trời vẫn mưa, gió lạnh vẫn thổi và người đời vẫn thản nhiên hờ hững đi qua hoặc té bùn bẩn lên người nó. Và rồi thật lạ, cũng đúng giờ hôm trước, ông già và chiếc xe ô tô bóng lộn của ông lại đến, đưa nó đi về biệt thự sang trọng kia. Lần này và cả mấy lần liên tiếp sau đó, ông không nói nhiều, chỉ bảo nó tắm, ăn và đi ngủ. Hôm nào ông cũng bắt nó cầm thêm cái gì đấy trước khi lên giường. Nó quen dần, bớt lo sợ và luôn làm theo những gì ông yêu cầu. Bên ông nó thấy yên tâm, trong lòng dấy lên cái gì đấy khác lạ mà nó không biết định nghĩa rằng đó là hạnh phúc. Nó biết ơn ông, nhiều khi những muốn ôm cổ ông mà khóc, hoặc quỳ xuống chân ông để bộc lộ thứ tình cảm mới mẻ ấy. Nhưng nó không dám. Nó chỉ biết im lặng như đứa trẻ nhút nhát lạc vào nơi trang nghiêm bí ẩn.
Một hôm, khi hai người ngồi bên bàn ăn, nó đánh bạo lên tiếng:
“Bác sống một mình à?”
“Vâng”, ông già đáp.
“Bác là người đầu tiên và duy nhất trên đời này thương yêu cháu thực sự”.
“Ừ, bác biết. Tội nghiệp cháu”. Ông chăm chú nhìn nó hồi lâu như muốn nói thêm điều gì nhưng sau lại thôi. Cuối cùng ông bảo nó, giọng xa xăm, buồn buồn: “Nhưng bác không là người”.
Cái Nụ ngước nhìn, không hiểu.
Ông già cúi xuống, như thể buộc lại dây giày. Chiếc đầu lốm đốm tóc bạc của ông bỗng nhiên rơi xuống sàn nhà, lăn mấy vòng. Chiếc khăn len màu xanh đỏ cũng tuột theo, để lộ chiếc cổ bị chém đứt ngang.
Cái Nụ đưa cả hai tay bịt miệng để khỏi kêu thét lên.
“Trời ơi, bác là ma!”
Ông già, hay đúng hơn, cái thân người không đầu thong thả đứng dậy, cúi nhặt chiếc đầu đặt vào chỗ cũ, quàng khăn quanh cổ và lại ngồi xuống ghế, nhếch mép cười bảo nó:
“Vâng. Cháu bảo cuối cùng đã gặp được người thương yêu cháu. Hóa  không phải là người, mà là ma. Bác nói ‘tội nghiệp cháu’ là vì vậy. Quả đúng cháu khổ thật. Bác cũng khổ, cũng đau lắm. Người ta chém đứt đầu bác thế đấy. Bây giờ chắc cháu sợ bác lắm nhỉ?”
Nó không nói nên lời vì còn chưa hết bàng hoàng.
“Đừng lo, bác không làm gì hại cháu đâu, - ông già nói tiếp. - Tiếc rằng bác chẳng giúp được gì nhiều cho cháu”.
Sau đấy cả hai người ngồi im. Rồi Cái Nụ bỗng dưng ôm mặt khóc tấm tức, như thể trên dương gian nó khóc với người đời chưa đủ còn xuống đây khóc với ma. Nó khóc lâu lắm, khóc vì nghĩ tới cảnh đêm đêm đứng giữa trời mưa dưới cột đèn cùng cái đói, cái lạnh và những tia bùn bẩn người ta té lên người nó... Ông già lặng lẽ ngồi bên, không an ủi cũng chẳng khích lệ. Cuối cùng, nó ngước lên nhìn ông, vẻ cương quyết:
“Bác cho cháu xuống đây với bác được không?”
“Bác là ma. Ma không đầu. Cháu không sợ à?”
“Không. Là ma, nhưng bác tốt bụng. Bác là người... là con ma đầu tiên thực sự thương yêu cháu. Bên bác, cháu cảm thấy no hơn, ấm hơn và đỡ sợ hơn...”
“Nhưng ở dưới này cũng không tốt hơn như cháu tưởng đâu”.
“Không sao. Cứ cho cháu ở với bác. Cháu muốn có ai đó bên cạnh để khi cần có thể giúp cháu, người hay ma cũng được”.
Ông già không nói gì, chỉ gật đầu rồi lẳng lặng đứng dậy đi sang phòng bên.
                                          *                                          
Một sáng sớm nọ, đội tuần tra xã Bồ Đề phát hiện thấy có một cô gái chết dưới cột đèn đường thứ ba, bên phải, tính từ đầu phía bắc cầu Chương Dương. Cô gái nằm còng queo trên vỉa hè nhớp nháp, hai tay ôm chặt ngực như thể lạnh lắm. Cao trên đầu cô, ngọn đèn đường không hiểu sao không sáng nữa, trong khi cả dãy đèn tương tự vẫn tỏa thứ ánh sáng vàng vọt, yếu ớt nhưng dẫu sao vẫn gây được cảm giác ấm áp trong một ngày mưa lạnh thế này.
“A, con ca-ve ấy mà! - một anh tay đeo băng đỏ có hàng ria mép lún phún trên khuôn mặt bóng nhẫy vì bia, vừa nói vừa lấy mũi giày đạp đạp vào người cô gái xem đã chết hẳn chưa. - Con này tôi thấy đứng ở đây nhiều lần rồi. Chết vì chích quá liều. Đáng đời!”
Một người khác nhiều tuổi hơn cúi xuống nhìn:
“Trông mặt chẳng đến nỗi. Chắc con nhà tử tế. Ăn chơi, đua đòi cho lắm vào. Sướng chưa!”
Hà Nội, 16.5.2002


 BƯỚM TRẮNG

“Con gái tao xinh và ngoan thế, mày không lấy, sau chỉ lấy ma! Chỉ lấy được ma thôi nhé!”
Lão rít qua hàm răng vàng khè, một chiếc nhô hẳn ra ngoài môi như  răng phù thủy.
Xuân Sinh lúng túng không biết nói gì. Lão là bố cô gái hàng xóm quả ngoan và xinh thật. Hai người chơi thân từ nhỏ và thích nhau. Không phải anh “không muốn lấy” như lão nói, mà đơn giản còn quá trẻ chưa nghĩ đến chuyện ấy. Còn gia đình anh thì vốn gia giáo, chê nhà lão dân tứ chiếng và đặc biệt ác cảm với cái vẻ ngoài đáng sợ của lão. Hơn thế, lão còn chủ động đánh tiếng gả con gái cho anh. Dơ! Và bị nhà anh thẳng thừng từ chối. Bẽ mặt với xóm giềng, lão đem vợ con đi đâu mất. Trước khi đi còn cố tình tìm Xuân Sinh để ném vào mặt anh cái câu giận dữ kia.  
Còn Xuân Sinh thì lúc ấy quả thực không biết nên xử sự thế nào. Tất nhiên anh buồn vì đột nhiên cô bạn gái đi mất, nhưng rồi, như thường vẫn thế với tuổi trẻ, chẳng bao lâu anh quên hẳn chuyện này. Hết phổ thông, đang chuẩn bị lên thủ đô học khoa văn Tổng hợp theo đúng nguyện vọng thì chiến tranh nổ ra, và như nhiều trai làng khác anh lên đường ra trận làm lính lái xe sau một khóa đào tạo gấp ở Sơn Tây. Cuối năm 67 anh được điều vào Nam, chuẩn bị khí tài cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân sắp tới. Đơn vị anh làm nhiệm vụ trung chuyển từ trạm N. đến trạm X., phải qua một cung đường cheo leo trên núi mà cánh lái xe gọi là Cổng Trời, chỉ cần chệch lái một chút là lăn xuống vực, và đã từng có nhiều xe lăn xuống vực.
Trên Cổng Trời có trạm giao liên, sau này chiến tranh ác liệt còn thêm đội công binh, chủ yếu là nữ. Mặc dù ở mép vực có chôn hàng cột xi măng quét vôi trắng, ban đêm xe qua đây vẫn phải có người khoác dù trắng đi trước làm xi-nhan. Do qua lại nhiều lần, Xuân Sinh quen một trong những cô gái làm nhiệm vụ này, là Bạch Điệp, mọi người gọi là Bướm Trắng, lúc đầu đùa, sau dần thành quen. Cô khá xinh, da trắng và luôn nhí nhảnh như con bướm. Nhiều đêm thấy cô đi trước xe, gió thổi tung tấm dù trắng, Xuân Sinh cũng thấy cô giống bướm, một con bướm trắng khổng lồ và đáng yêu.
Vì xe không được phép dừng ở Cổng Trời, một tuần, mươi ngày họ mới gặp nhau một lần, khi xe vẫn lăn bánh, chàng trên ca-bin, nàng đứng phía dưới giơ tay vẫy, nhiều lắm chỉ trao đổi được đôi ba câu. Thế mà dần dần họ mến nhau rồi yêu nhau lúc nào không biết. Tức là kiểu yêu thời chiến, biết thế, để thế chứ chẳng nói ra miệng. Lần nào có xe Sinh, Bướm Trắng cũng xin được dẫn đường, dù không phải ca mình.
Một đêm nọ như mọi lần, tiểu đội xe Xuân Sinh vượt Cổng Trời chở đạn vào Nam. Bướm Trắng đi trước dẫn đường. Tới chỗ nguy hiểm nhất, bất chợt có máy bay đến phóng hai quả rốc-két làm lóe sáng cả một vùng, khói lửa mù mịt. Một đoạn đường bị sạt lở, nhưng chỉ mấy phút sau đoàn xe lại vội đi tiếp vì biết chắc chiếc máy bay kia còn quay lại. Sinh thầm mừng vì thấy Bướm Trắng lại xuất hiện trước xe và nhờ cô, anh cùng đồng đội vượt Cổng Trời an toàn. “Một vụ bắn phá bình thường như rất nhiều vụ trước đấy”, anh nghĩ.
Tuy nhiên, Xuân Sinh rất ngạc nhiên khi mấy ngày sau quay lại không thấy Bướm Trắng chờ anh như thường lệ. Hỏi thì được báo cô đã hy sinh, đúng vào lần máy bay phóng rốc-ket mà anh nghĩ là rất bình thường ấy.
“Không thể thế được, - anh kêu to. - Chính cô ấy dẫn xe chúng tôi qua Cổng Trời an toàn cơ mà. Mắt tôi nhìn thấy. Chỉ mấy phút sau khi thằng Mỹ bay khỏi, cô ấy đứng dậy và tiếp tục dẫn đường cho chúng tôi...”
“Chắc anh nhầm. Cô ấy bị trúng đạn chết ngay, xác mỗi nơi một mảnh. Chúng tôi cứ hỏi nhau vì sao các anh vẫn vượt qua được đoạn này khi không có người dẫn”.
Bàng hoàng và đau đớn, Sinh cho xe vượt quá Cổng Trời một quãng rồi đi bộ trở lại. Đúng là Bướm Trắng của anh đã chết. Người ta còn chỉ cho anh chỗ chôn cô. Một nấm mộ mới sơ sài trên vách núi không xa nơi cô hy sinh, có cả tấm gỗ nhỏ ghi họ tên và ngày chết. Nhưng sao lúc ấy anh còn thấy cô? Cả trạm giao liên lần ấy chỉ mình cô làm việc này nên không thể nhầm với người khác được. Hay anh hoa mắt? Hoa mắt thì làm sao vượt Cổng Trời không có người dẫn, nhất là khi đường bị hư hỏng nặng? Anh còn nhớ như in từng động tác chỉ dẫn của cô. Các xe khác cũng vậy, và ai cũng khẳng định nhờ cô họ mới qua được an toàn...
Nhịp độ và sự khốc liệt của chiến tranh không cho phép suy nghĩ nhiều những chuyện ít quan trọng như thế. Một tháng sau anh được điều sâu hơn vào phía Nam. Anh nghe cánh lái xe đồn ở Cổng Trời có nhiều sự lạ, rằng ở đấy những lần giặc bắn phá, khi các cô giao liên hy sinh, người ta lại thấy có cô gái áo trắng bỗng nhiên xuất hiện dẫn đường cho xe vượt qua bẫy bom nổ chậm hoặc những chỗ dễ lăn xuống vực, rồi sau đó biến mất không ai thấy đâu; rằng có anh nhờ cô thoát chết, nhảy ra khỏi ca-bin quỳ lạy cảm ơn, lúc ngước lên chỉ thấy chiếc cột quét vôi trắng; rằng từ đấy thành lệ, không thấy cô, linh tính có nguy hiểm, cánh lái xe không dám đi tiếp, vân vân và vân vân. Xuân Sinh lắng nghe, bán tín bán nghi. Anh không tin chuyện ma quỉ, nhưng nghĩ có thể đó là Bướm Trắng của anh. Có thể cô  hiện hồn về giúp đỡ người khác như đã từng giúp anh. Thậm chí có thể cô chưa chết.
Chiến tranh kết thúc được nửa năm Xuân Sinh mới quay lại Cổng Trờivà mất gần một ngày mới tìm thấy mộ cô. Nó đã được đưa về một nghĩa trang nhỏ trên đỉnh ngọn đồi gần đấy, cùng mộ của lính lái xe và các cô giao liên khác như cô.
Lúc ấy đã xế chiều nhưng trời âm u vì sương mù và mây bay rất thấp. Anh bần thần hồi lâu trước nấm mộ xi măng còn mới và tấm bia đá có khắc tên cô.
“Bạch Điệp, anh yêu em! - anh khẽ nói, lần đầu tiên tỏ tình với cô, nhưng cô im lặng. - Em có nghe anh nói không, Bạch Điệp, anh yêu em!”
Nước mắt rưng rưng, anh ngồi yên rất lâu bên ngôi mộ.
Hình như trời bắt đầu mưa hoặc sương nặng hạt đang rơi. Mặt và tay anh lấm tấm những giọt nước nhỏ. Bất chợt anh thấy có con bướm rất lớn màu trắng. Hình như nó bay lên từ chính ngôi mộ xi măng anh đang ngồi cạnh. Lạ thật, anh thầm nghĩ, xung quanh không một bụi cây nào. Cỏ trong nghĩa trang chỉ sè sè sát đất, nó không thể ẩn trong đấy rồi bất chợt bay lên mà anh không nhìn thấy. Anh tưởng con bướm sẽ bỏ đi ngay, nhưng không, nó cứ lởn vởn quanh anh mãi. Có vẻ nó muốn nói với anh điều gì, hoặc dẫn anh đi đâu đó. Anh nhìn kỹ: Trên đôi cánh màu trắng của nó có nhiều chỗ rách. Bạch Điệp? Phải chăng đó là Bạch Điệp, Bướm Trắng của anh?
“Bạch Điệp, em đấy ư?” - anh thốt lên, không hiểu mình đang nói gì.
Con bướm lượn thêm vòng nữa, gần anh hơn rồi bay về phía một lùm cây rậm cách đấy gần trăm mét, đôi cánh rách vẫy vẫy một cách khó nhọc. Anh đứng yên, ngơ ngác nhìn theo. Nó quay lại một tí rồi bay tiếp, rõ ràng muốn bảo anh đi theo và anh đã đi theo, thẫn thờ như người vô hồn.
Dưới tán cây rậm rạp là một khe đá nhỏ, sâu và tối. Anh theo con bướm đi vào bên trong, mỗi lúc một xuống thấp hơn, cho đến khi chẳng thấy nó đâu nữa. Đang ngỡ ngàng lúng túng, anh bỗng thấy có cái gì trăng trắng từ phía sâu trong hang đang tiến lại gần, và cũng dần dần to hơn, rõ nét hơn.
“Bạch Điệp! - anh  ngạc nhiên khẽ thốt lên. - Em đấy à?”
Đúng là Bạch Điệp đang đứng trước anh. Người cô mảnh và nhẹ như cụm mây trắng. Cụm mây rách. Mặt cô trắng nhợt như chiếc áo đang mặc, cũng rách thủng nhiều mảnh. Chỉ đôi mắt là đen, sâu và rất buồn.
“Vâng, em đây, anh Sinh”, cô nói, khẽ đến mức nghe như hơi thở nhẹ.
“Nhưng em chết rồi cơ mà?”
“Vâng, em đã chết, nằm dưới ngôi mộ xi măng trên kia. Vì là mộ xi măng, cứng quá, em phải biến thành con bướm mới chui qua nổi. Vất vả lắm em mới lên được đây để gặp anh”.
“Sao áo em rách thế?” - Xuân Sinh hỏi, nỗi sợ hãi ban đầu đã nhường chỗ cho sự tò mò và lòng thương cảm.
“Vì em trúng rốc-két. Cả người em cũng rách”.
“Vào đêm ấy, khi...”
“Vâng, em chết ngay khi thằng Mỹ vừa phóng hai quả tên lửa, vì vậy quần áo và cả người em mới rách thế này”.
“Sau đó em tiếp tục dẫn anh và đồng đội qua Cổng Trời?”
“Vâng, vì không còn ai khác. Đau lắm nhưng em phải cố. Thằng ấy sẽ còn quay lại, em biết chắc như thế, và nó đã quay lại. May các anh đi rồi”.
“Và sau này, như người ta đồn, em vẫn tiếp tục làm thế?”
Bạch Điệp không đáp, chỉ khẽ gật đầu. Xuân Sinh bước lại gần. Anh đặt một bàn tay lên vai cô như đặt lên tấm bông xốp và ẩm.
“Anh yêu em, Bạch Điệp”.
“Em cũng yêu anh. Anh là người con trai đầu tiên em yêu đấy, - cô cúi đầu khẽ đáp. - Và cũng là người con trai đầu tiên đặt tay lên vai em thế này. Nhưng bây giờ em chỉ là một bóng ma. Tay anh nặng lắm, em sắp khuỵu đây này”. Cô cố nở một nụ cười. Anh hoảng hốt nhận thấy cả nụ cười ấy cũng rách.
“Em có đau lắm không?”
“Có. Anh xem, người em bị đạn xé thành bao nhiêu mảnh. Phải cố lắm em mới ghép tạm lại để đến đây gặp anh...”
“Có vá lại được không em?”
Bạch Điệp im lặng hồi lâu.
“Có”, cô khẽ đáp.
“Vậy anh sẽ vá cho em. Chỉ cần em bảo anh phải làm thế nào”, - Sinh hăm hở nói. - Sau đó em sẽ khỏe hơn, thậm chí có thể sống lại?”
“Có thể, nhưng mất nhiều thời gian và sẽ đau lắm. Không chỉ em mà anh cũng đau”.
“Anh không hiểu”.
“Mà thôi, anh không cần làm thế đâu”.
“Không. Vì em, anh sẽ làm tất cả, cho dù thế nào. Em biết không, bây giờ hòa bình rồi. Chỉ cần em sống lại, khỏe mạnh, ta sẽ thành vợ chồng và sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi. Sẽ chẳng còn bom đạn nào có thể làm rách nát người em lần nữa. Hãy cho biết anh phải làm gì đi?”
Bạch Điệp đặt cả hai cánh tay nhẹ và xốp như bông của cô lên vai Sinh, đắm đuối nhìn vào mắt anh:
“Em yêu anh. Em muốn được làm vợ anh”.
Anh áp môi mình vào môi cô. Cái lạnh truyền sang người anh như dòng điện mạnh.
“Anh biết không, bây giờ em cảm thấy ấm hơn một chút rồi đấy”, cô nói khi cuối cùng họ rời nhau ra. “Em có thể sống lại khi anh, từng tí một, truyền cái ấm của anh cho em, khi anh, từng mũi nhỏ một, lấy các sợi máu của mình vá lại cơ thể rách nát của em”.
“Thế thì anh làm được. Anh làm ngay bây giờ!” - Sinh nói, và lại định ôm hôn cô, nhưng Bạch Điệp khẽ ngăn lại:
“Nhưng anh sẽ đau, rất đau đấy. Đau lâu lắm...”
“Không sao.”
Họ lại ôm nhau hôn. Cái hôn dài của ma và người, của cái chết và sự sống, của chiến tranh và hòa bình.
    *
Phải mất đúng một năm Xuân Sinh mới truyền đủ sự sống cho Bạch Điệp và vá hết những mẩu thi thể bị chiến tranh xé nát của cô bằng chính những sợi máu đỏ lấy từ tim anh, như người dệt thảm cần mẫn hết ngày này đến ngày khác, hết tháng này đến tháng khác. Nước da anh xạm tái dần cho mặt Bạch Điệp thêm hồng. Cơ thể anh ngày một yếu gầy cho người yêu thêm trọng lượng. Anh đã phải chịu đau đớn, cái đau người sống phải chịu đựng vì người chết, như cái đau Bạch Điệp phải gắng chịu khi cô lặng lẽ chắp nhặt từng mẩu cơ thể để dẫn đường đưa đoàn xe vượt qua Cổng Trời. Như cô, anh không thể làm khác.
Cuối cùng, một hôm Xuân Sinh đưa cô về làng Đoài của mình ở Phú Xuyên, Hà Tây. Họ làm lễ cưới và sống với nhau hạnh phúc như những cặp vợ chồng khác. Chỉ đến lúc này anh mới nhớ tới lời nói cuối cùng của lão già- phù thủy nọ: “Rồi sau này mày chỉ lấy ma!”
Sinh mỉm cười, thầm thương hại lão. Chẳng có gì phải giấu, nhưng anh không kể cho ai biết những gì anh đã làm ở Cổng Trời sau chiến tranh. Hình như dân làng Đoài cũng chẳng quan tâm tới điều đó. Mọi người yêu mến, thấy thương thương cô gái nói tiếng Huế nhỏ nhẹ có dáng người mảnh mai và nước da rất trắng. Ai cũng mừng cho hạnh phúc của hai người.
Có điều họ không có con. Lần nào Bạch Điệp cũng sinh cho chồng toàn bướm là bướm. Những con bướm màu trắng tuyệt đẹp với những đôi cánh lành lặn.
Còn Xuân Sinh thì quay lại nghề anh yêu thích là làm thơ. Chỉ toàn thơ về hoa và bướm. Tịnh không một từ nào về chiến tranh và đau khổ.

          Hà Nội, 22.5.2002



ĐỪNG DÙA VỚI MA

- Bố thằng Tí ơi, dậy. Dậy đi nào. Có việc.
Người đàn bà tần ngần đứng bên giường. Chị ta trạc ba mươi tuổi, da nhợt nhạt, gầy đét với đôi mắt mở to vô cảm của người bị chai lì bởi cái đói và cái khổ.
Miền núi trời chóng tối. Những ngày mưa ở đây thì thật buồn và khó chịu. Lufc ấy đang mùa đông, lại hun hút gió thổi lạnh. Chưa đến sáu giờ mà dường như cả cái thị trấn bé nhỏ này đã chui tọt vào nhà đóng chặt cửa. Trong nhà  chẳng ấm hơn nhưng có ánh đèn, có người.
- Gì thế? - Vẫn nằm yên, đống chăn trên giường càu nhàu.
- Có việc.
- Kệ. Tôi mới về. Đêm qua thức trắng rồi, buồn ngủ lắm. Có các vàng cũng chịu.
- Thì tôi đã bảo thế nhưng người ta cứ một mực nhờ. - Người đàn bà im lặng một chốc rồi nói tiếp. - Vả lại tiền công cao. Những một trăm nghìn đồng. Đưa trước. Mà nhà mình thì ...
- Một trăm nghìn à? Đi đâu?
- Nghe nói gần đây thôi. Người ta đang chờ ngoài cổng. Bảo không vào.
Con số một trăm nghìn đã lôi được “bố thằng Tí” ra khỏi giường. Đó là một gã đàn ông khốn khổ, mặt nhàu nát, da ngăm đen, thấp gầy nhưng có vẻ khỏe mạnh. Chiếc áo đại cán cáu bẩn, thủng một lỗ lớn ở khuỷu tay. Thời bây giờ mà còn mặc áo rách đủ biết giàu nghèo thế nào. Toàn bộ con người hắn toát lên sự chán chường, mệt mỏi, vì đói ăn, đói ngủ và đói việc. Nhất là đói việc. Hắn cầm khúc sắn luộc vợ đưa cho, vừa ăn vừa đẩy chiếc Minkhơ.
Chờ hắn ngoài đường là một người choàng tấm ni-lông (vì lúc ấy vẫn mưa lất phất), đội mũ cối, trời lại tối nên không nhìn rõ mặt.
- Có biết bản Pa Cao ở Phú Nghĩa không? – người choàng ni-lông hỏi.
- Có. - Hắn đáp. Hắn biết tất cả các bản ở cái huyện miền núi rộng lớn này, là vùng trước đây hắn từng nhiều năm lăn lộn kiếm sống. Pa Cao cách đây không xa, độ hai chục cây số nhưng đường rừng khó đi, nhất là ban đêm, không khéo sẽ lăn xuống vực Phán Lìn như chơi. - Ông nói tiền công một trăm nghìn?
- Ừ. Một trăm.
- Ông cùng đi?
- Cùng đi.
- Ngay bây giờ?
- Bây giờ.
- Được. - Hắn lưỡng lự một chốc. - Vợ tôi nói ông có thể đưa tiền trước? Chả là thằng con đang ốm, phải mua thuốc ngay bây giờ...
Gã kia không đáp, lẳng lặng rút hai tờ năm mươi nghìn đưa cho hắn. Hắn gọi vợ ra lấy tiền rồi theo gã đi. Không ai nói thêm gì nữa.
Hắn thầm ngạc nhiên khi thấy không tới bệnh viện như mọi lần, nhưng vẫn im lặng. Cuối cùng họ bước vào một ngôi nhà nhỏ với ngọn đèn điện tù tù.
- Đây, anh giúp tôi đưa người này về Pa Cao. - Gã kia nói, tay chỉ một ông già nằm thẳng đơ trên sàn, tấm chăn chiên Trung Quốc che đến cổ.
- Người nhà của ông à?
- Không cần biết.
Lúc này có đèn, hắn mới thấy mặt gã. Một khuôn mặt choắt, độc ác và gian xảo như của loài cáo - trên to, phía dưới nhọn dần, gần như hình tam giác. Cử chỉ và cách nói nhát gừng của gã cũng để lộ bản chất cáo gian xảo. Kinh nghiệm xe ôm nhiều năm giúp hắn biết nhận xét người nhanh và chính xác. Hắn thoáng hối hận đã nhận lời, nhưng tiền lấy rồi, có muốn thôi cũng chẳng được. Hắn đành tự an ủi rằng khi liên quan đến một việc thế này, không ai nỡ có lòng nào hoặc tâm trí nào làm hại hắn.
Gã kia kéo chăn. Ông già chết đã lâu, xác cứng đờ như cây củi, khiến gã phải đem hết sức bẻ gập người ông lại. Có tiếng răng rắc như xương gãy. Rồi gã nhẹ nhàng bê xác người bị gập thành hình vuông ấy ra xe, đặt lên yên. Hắn nổ máy. Gã kia, bằng hai động tác nhanh và gọn, bẻ gập tay ông già cho ôm vào bụng hắn rồi cũng ngồi lên xe.
- Đi!
                                                  *
Có lẽ trên đời không nghề nào khốn nạn như nghề của hắn - nghề chở xác chết bằng xe ôm. Số là ở thị trấn hắn đang sống có một bệnh viện nhỏ và bệnh nhân chủ yếu là người miền núi. Nhu cầu đẻ ra nghề, đúng thế. Có bệnh viện là có người chết hoặc người bị trả về nhà chờ chết, trong khi đó lại không có đường ô tô về làng bản. Mà nếu có, chưa hẳn người ta cũng đủ tiền thuê thứ phương tiện hiện đại và tiện lợi ấy. Vậy chỉ còn cáng cõng hoặc thuê xe ôm. Từ đó mà thành nghề.
Có thể nói hắn là ông tổ khai sinh ra nghề này ở đây, với thâm niên hơn mười năm, tức là ngay từ ngày xe máy xuất hiện nhiều, dần dần thay thế xe đạp. Công bằng mà nói, nghề này kiếm tiền khá hơn nghề xe ôm chở người bình thường. Chỉ cái đáng sợ. Hắn lại nhát gan, bản tính hiền lành, hay sợ ma và đủ các thứ sợ khác. Vì những lý do dễ hiểu, người ta thường yêu cầu hắn chở vào ban đêm. Sợ lắm. Suốt cả mười năm qua, lần nào hắn cũng sợ, nhưng còn có cái khác đáng sợ hơn, là thiếu tiền. Hắn luôn thiếu tiền. Để lo cái ăn và nhất là thuốc thang cho mấy đứa con oặt ẹo. Thành ra không bao giờ hắn từ chối khi có việc, cả những việc đáng sợ nhất và ít tiền nhất mà đồng nghiệp hắn từ chối. Nói chung thì cái gì làm mãi cũng quen, cái sợ nào sợ mãi rồi cũng hết, nhưng với hắn, cái sợ khi phải chở xác chết một mình giữa rừng trong đêm khuya thì lần nào cũng mới nguyên như lần đầu.
Cả lúc này hắn cũng đang rất sợ, sợ đến mức tay lái run run và mặc dù trời lạnh, từ thắt lưng trở lên người hắn đẫm mồ hôi. Hai tay ông già ôm chặt bụng hắn. Các ngón tay bấm sâu vào da như những mũi kìm. Cằm ông ta tì lên vai hắn. Chiếc mũi chạm vào gáy nhồn nhột.
- Ông cụ mắc bệnh gì mà chết? - Hắn lên tiếng cho đỡ sợ.
- Đi đi! - Gã kia nói như ra lệnh. - Chú ý nhìn xuống đường kẻo ngã chết cả nút bây giờ.
Hắn thấy sợ cả thằng này. Một thằng cha bí hiểm, kỳ cục. Hắn nghĩ thà đi một mình với ông già còn hơn. Rồi hắn nhớ năm ngoái đêm khuya hắn chở một xác chết không người đi kèm lên Mèo Xị. Đó là một phụ nữ đang có bầu bị bệnh lao, xác cũng cứng queo và hắn phải hồi lâu lúng túng cột ngang yên xe như khúc gỗ, dọc đường mấy lần tuột, phải xuống buộc lại. Thế mà đi năm mươi cây số đến nơi, cả nhà người chết chạy vay hàng xóm mãi mới được mười nghìn đồng trả công. Hắn cám cảnh không lấy, chỉ tu một hơi hết nửa chai rượu ngô vừa nhạt vừa chua, thắp nén hương cho người chết rồi lại đang đêm phóng xe về nhà. Lần khác, mới đây thôi, có anh con trai phải đưa bà mẹ hấp hối về cho kịp chết ở nhà. Bà cụ cũng ngồi giữa, ôm chặt hắn như ông già bây giờ. Anh con ngồi giữ phía sau. Giữa đường bà cụ chết lúc nào. Khi tới nơi thì tay chân đã cứng, gỡ mãi mới ra. May nhà có tiền trả hắn.
Những trường hợp như thế có nhiều, lần nào cũng đáng sợ, nhưng không hiểu sao lần này hắn thấy sợ hơn cả, thậm chí linh tính như có điều chẳng lành sắp xẩy ra. Có lẽ từ cái thằng còn sống đang ngồi lầm lì phía sau. Không lẽ gã sẽ giết hắn để lấy chiếc Minkhơ cà tàng này? Giết người đang chở xác bố hoặc người thân hắn? Không thể thế được. Ai nỡ làm điều ấy? Hắn cảm thấy yên tâm hơn, nhưng hễ nhớ lại cái mặt cáo của gã, hắn lại thấy sợ. Vu vơ nhưng vẫn sợ.
Trời ngớt mưa, đỡ gió, đỡ lạnh hơn. Hắn chẳng nghe gì, thấy gì xung quanh, ngoài tiếng xe nổ tành tạch và vệt đèn đỏ quạch trước mặt. Cuối cùng xe đến chân đèo Phán Lìn. Con đèo ngắn nhưng dốc. Bên kia đã là Pa Cao, chừng dăm cây số nữa. Hắn cài số lùi cho xe từ từ leo lên, hơi cúi về phía trước. Thật lạ, hắn có cảm giác cái xác khô cứng của ông già hình như cũng cúi gập theo hắn. Hơn thế, hắn còn nghe cả tiếng thở của ông phả vào gáy. Hay gã kia? Không. Gã ngồi tít phía sau. Hai cánh tay người chết đang ôm bụng hắn bỗng mềm ra, các ngón mân mê lớp da bụng hắn. Một lần hắn nghe ông già khẽ ho, nhưng vì tiếng xe nổ to nên không dám chắc điều này. Hắn đánh bạo bỏ tay trái, sờ vào đùi ông già, thấy mềm như da thịt người sống. Chắc ông cụ sống lại? Hắn muốn hỏi mà không dám. Áo hắn bây giờ ướt đẫm hoàn toàn. Ông già dán người vào hắn, tay ôm chặt hơn, hơi thở phả vào gáy hắn mạnh hơn, nóng hơn. Giờ thì hắn tin ông thực sự đã sống lại. Tuy sợ nhưng hắn thầm mừng vì có thêm ông, một người có vẻ tử tế, nếu gã kia định làm điều gì xấu sẽ phải suy nghĩ lại...
- Dừng lại hút điếu thuốc đã! - Bất chợt gã lên tiếng khi lên đến đỉnh đèo.
Hắn thót tim, thầm lo sợ điều xấu nhất. Sát bên đường là bờ vực dựng đứng. “Nó sẽ đánh mình chết, xô xuống vực rồi cướp xe!” Hắn định cứ đi tiếp, hy vọng tên kia không dám đánh khi hắn đang cầm lái, vì có chuyện gì cả gã cũng chết. Tuy nhiên, như bị thôi miên, không hiểu sao hắn vẫn dừng xe. Đúng đỉnh đèo, sát vực. Gã kia xuống trước, châm thuốc hút rồi đưa cho hắn một điếu. Có vẻ như gã muốn dừng lại chỉ để hút thuốc thật. Ông già vẫn ngồi trên yên, không hiểu vì còn sống hay vì hai chân cứng đờ kẹp chặt vào xe nên không ngã. Hắn không đủ bình tĩnh để kiểm tra.
Hai người im lặng đứng hút thuốc cạnh chiếc xe và ông già. Hắn vẫn luôn để mắt canh chừng. Khi hút xong, vừa nhìn theo mẩu thuốc bị vứt đang bay xuống vực, hắn chợt thấy gã rút trong ngực ra cái gì đó ngắn và to như chiếc búa. Hắn né người tránh, nhưng cũng đúng lúc ấy thấy gã kia lại ngã gục vì cú đánh mạnh của chính chiếc búa gã vừa giơ lên. Vì ngã ngay mép vực, gã quằn quại một lúc rồi từ từ lăn xuống rất sâu phía dưới. Hắn bàng hoàng không hiểu chuyện gì vừa xẩy ra. Dứt khoát thằng kia không thể tự đánh vào đầu mình. Vậy chỉ có ông già. Ông vẫn ngồi bất động trên xe. Chiếc búa sắt nằm ngay dưới chân. Có thể ông kịp giật chiếc búa mà hắn không nhìn thấy. Nhưng ông đã chết. Hắn lại gần sờ lên vai, lên mặt. Quả ông chết thật, người cứng đơ.
“Làm gì bây giờ? - Hắn ngồi xuống vệ đường, ngơ ngác tự hỏi. - Lại còn cái xác này nữa.”
Mười lăm phút sau hắn đứng dậy, quyết định chở ông già về Pa Cao. Ở đấy chịu khó hỏi, chắc sẽ tìm được người thân của ông. Hắn vốn thương người, nghĩ không thể để ông nơi này một mình, lại càng không thể vứt xuống vực. Biết đâu chính ông đã cứu sống hắn.
Hắn ngồi lên xe, nổ máy. Mưa bắt đầu nặng hạt trở lại. Đi được một quãng, hắn nghe có tiếng rơi đánh bộp sau lưng, ngoái lại thì thấy ông già đang nằm dưới đường. Hắn lúi húi đặt cái xác lên xe, bẻ tay cho ôm chặt bụng mình, rồi đi. Rồi lại rơi. Cuối cùng hắn phải lấy dây cao su cột chặt ông vào người hắn và yên ổn đi tới tận Pa Cao, nơi hắn rẽ vào ngôi nhà đầu tiên có ánh lửa cách đường khoảng mươi mét.
Ngẫu nhiên hắn vào đúng nhà ông thầy mo, chính xác hơn, trước đây là thầy mo.              
- Thằng ấy tôi biết. Cứ để nó nằm dưới vực cho quạ rỉa. Đồ bất lương. - Ông thầy mo nói khi nghe hắn kể hết mọi chuyện. Ông ta sống một mình, vẻ khắc khổ và cũng thuộc loại người khó đoán tuổi. Lúc ấy ông ta đang ngồi uống rượu một mình với mấy củ sắn luộc bên bếp.
- Thế ông già này là ai và vì sao lại chết? - Hắn hỏi, chỉ tay vào cái xác.
- Chuyện dài lắm. Anh chẳng cần biết làm gì. Thôi, uống rượu đi cho ấm bụng.
Hắn đỡ lấy chai rượu, tu một hơi hết sạch. Chủ nhà lấy thêm chai nữa. Hắn lại uống. Vốn không phải sâu rượu nhưng lúc này tự nhiên hắn muốn uống thật nhiều để quên đi những gì vừa trải qua. Ông kia quí cái tính thật thà và thương người của hắn. Hắn cũng thấy mến ông.
- Cháu ở dưới thị trấn, cạnh bệnh viện, cứ hỏi Tí xe ôm, ai cũng biết. - Hắn nói to, thậm chí còn cười. Lúc này rượu đã ngấm và hắn bắt đầu say. - Tết này rỗi, mời hai bác xuống nhà cháu chơi.
Ông thầy mo nheo mắt cười, chỉ tay vào xác chết bên cạnh:
- Ở đây chỉ có tôi và ông này. Anh định mời cả ông ấy nữa à?
Hắn đớ người một lúc rồi cũng cười:
- Thì mời cả ông ấy nữa! Ông ấy chẳng đã cứu cháu thoát chết đó sao.
- Được, thế thì sớm muộn chúng tôi cũng tới thăm anh. - Ông kia đáp rồi quay sang xác chết. - Có đúng thế không, ông A Lẩu?
Cái xác được gọi là A Lẩu không đáp, nhưng hắn thấy nó gật đầu. Hắn dụi mắt ngạc nhiên, đến sờ vào người ông, thấy vẫn cứng đờ. Chắc mình nhìn nhầm, hắn nghĩ, nhưng vì đang say nên hắn chẳng nghĩ nhiều về điều đó.
Hai người còn ngồi uống rượu thêm hồi lâu, rồi hắn cùng ông thầy mo đem xác A Lẩu ra chôn trên mé đồi sau nhà. Khi xong việc thì trời gần sáng. Mệt quá, hắn ngủ một giấc gần trưa mới lên xe về nhà.

                                                  *
Cuộc sống và công việc của hắn lại tiếp tục như cũ, với hai nỗi sợ thường trực là nghèo đói và những xác chết mà hắn phải chở vào ban đêm ở vùng miền núi hoang vu hẻo lánh này. Khó nói cái nào đáng sợ hơn. Cái đói thúc bách hàng ngày, đòi có tiền. Các xác chết kinh khủng thật, nhưng lại cho tiền, dù không phải hàng ngày. Đội quân xe ôm gồm những người cũng nghèo như hắn, làm cùng nghề như hắn đang đông dần. Cũng tranh dành nhau như ở bến xe hay sân ga. Cũng có cả chuyện quỵt tiền công và bắt chẹt khách, những người đang hấp hối hoặc đã chết. Tóm lại, nó gần như một nghề bình thường, và hắn tiếp tục sống bằng nghề ấy. Thậm chí cái đêm kinh khủng suýt bỏ mạng kia cuối cùng cũng trở thành một như rất nhiều các “kỷ niệm” khác.
Tối mồng hai Tết năm ấy nhà hắn có khách từ dưới xuôi lên. Dẫu nghèo, hắn cũng lo nổi một bữa tử tế đãi họ. Đang vui, hắn nghe có tiếng gõ cửa, vội đi ra. Vợ hắn bận gì dưới bếp.
- Tôi đến theo lời mời của anh. Quên nhau rồi à?
Hắn há hốc mồm, nhìn người đứng trước mặt. Đúng hơn không phải người mà là một xác chết đang thối rữa, lủng lẳng những miếng thịt trên tứ chi chưa kịp rứt khỏi xương, nhưng khuôn mặt thì còn nguyên. Hắn thấy quen quen.
- A Lẩu...
- Vâng, tôi là A Lẩu đây. Ông thầy mo hôm nay bận nên tôi đến một mình. Hai chúng tôi quí anh lắm. - Cái xác cười, miệng đỏ lòm. - Sao, không mời khách vào nhà à?  Cách đây ba tháng, ở Pa Cao anh chẳng mời chúng tôi Tết này đến nhà chơi đấy ư?
- Ờ, vâng... vâng... - Hắn ấp úng.
- Đừng lo. Không ai nhìn thấy tôi và ngửi thấy cái mùi nằng nặng đang bốc ra từ người tôi đâu. - Cái miệng đỏ lại cười khi thấy hắn chần chừ. - Vâng, không ai ngoài anh. Mà anh với tôi là chỗ bạn bè, chuyện ấy có gì  quan trọng.
Nói đoạn, A Lẩu cứ thế bước vào nhà. Hắn đành miễn cưỡng đi theo. Ông già thản nhiên ngồi xuống một chỗ còn trống trên chiếc chiếu để đầy thức ăn giữa nhà, thản nhiên rót rượu và dùng những ngón tay chỉ còn trơ xương trắng bốc thức ăn. Mọi người quả nhìn thấy ông, không ngửi thấy gì thật vì không ai rú lên, cũng không ai kêu thối. Hắn thấy một người chạm tay vào ông mà không vướng, không có cảm giác gì. Lạ thật.
- Anh vẫn phải làm cái nghề khốn khổ ấy à? - A Lẩu hỏi.
- Vâng, bác thấy đấy, còn biết làm gì khác nữa ở đây.
- Ừ, để kiếm sống ai cũng phải làm một nghề nào đó. Nghề của anh còn lương thiện chán. Không như thằng thuê anh chở tôi về Pa Cao ngày nào...
- Có phải bác giết nó khi nó định đập búa vào đầu cháu không? - Hắn vội hỏi điều băn khoăn lâu nay. - Không có bác, chắc cháu đã chết. Cháu xin cảm ơn.
- Ơn với huệ gì. Anh cũng không vứt tôi xuống vực. Coi như huề.
Ông già với tay lấy chiếc đùi gà ở góc chiếu đối diện, đúng lúc có người khách giơ bát gắp cái gì đấy. Một miếng thịt rữa rơi từ tay A Lẩu xuống đúng chiếc bát. Hắn nhắm mắt, suýt kêu lên, lúc mở ra đã thấy người kia ăn hết một cách ngon lành mà không nhận thấy gì khác thường.
Cuối cùng ông già đứng dậy.
- Cảm ơn anh. Bữa ăn rất ngon. Năm mới, tôi cũng có chút quà. - Ông lấy đâu đó trong người ra chiếc bọc nhỏ bằng vải đỏ gấp vuông vức, đặt lên đầu giường. - Còn đây là thuốc chữa bệnh cho mấy đứa trẻ. Có giấy ghi cách sử dụng trong đó. - Ông đưa thêm chiếc lọ thuỷ tinh màu đen.
Tới cửa, lúc chia tay, A Lẩu nói thêm:
- Anh có nhã ý mời tôi thì tôi cũng phải mời lại anh cho đúng phép. Mai giờ này tôi đến đây đón anh cùng đi.
Nói đoạn, ông từ từ biến mất trước con mắt ngỡ ngàng của hắn.
Không ai biết tối hôm sau hắn được đưa đi đâu, mời ăn những gì, chỉ thấy buổi sáng quay về hắn luôn mồm nôn ọe, rồi ốm, nằm mê sảng đúng một tuần mới khỏi.
Cũng không ai biết có gì trong chiếc bọc vải đỏ ông già A Lẩu tặng hắn. Nhưng một điều ai cũng nhận thấy là từ đó gia đình hắn trở nên khá hơn. Con cái khỏi bệnh, nhà có đồng ra đồng vào, thậm chí còn sắm được  chiếc ti-vi Tàu. Tất nhiên hắn vẫn phải hàng ngày chầu chực giành nhau từng xác chết ngoài cổng bệnh viện. Nhưng được thế cũng là đổi đời lắm rồi. Có thể nhờ A Lẩu mà số khách người chết của hắn nhiều hơn khách còn sống. Cũng có nghĩa là kiếm được nhiều tiền hơn, dù đôi khi phải rợn tóc gáy. Hắn vẫn chưa và có lẽ không bao giờ quen được với nỗi sợ ấy.
Cứ thế hắn làm ăn phát đạt, đến mức cuối cùng dám quyết định đưa cả nhà về sống ở một thành phố lớn. Vẫn làm nghề xe ôm, nhưng ở ga xe lửa. Mấy đứa con đã lớn. Cu Tí, đứa đầu học lớp năm, có một tập giấy khen “Học sinh tiên tiến”. Đứa sau, cũng con trai, học hơi dốt, phải đúp lớp hai nhưng nhờ trời, luôn khỏe mạnh và thông minh trong mọi việc, trừ học. Vợ hắn, người đàn bà ẻo oặt với đôi mắt vô hồn ấy, nay cũng bắt đầu có da có thịt, nhiều khi còn cười rất dễ coi, nhất là những hôm không ế mấy thứ hàng rau quả. Vậy là ổn, và hắn lấy làm hài lòng, gần như thỏa mãn. Hắn biết có được như ngày nay một phần nhờ A Lẩu.
Ông già vẫn đều đặn đến thăm hắn mỗi năm một lần đúng vào đêm mồng hai Tết. Và luôn có quà - vẫn chiếc bọc nhỏ vải đỏ gói vuông vức đựng cái gì bên trong không ai biết. Bây giờ ông chỉ còn là bộ xương trắng hếu không kèm theo mùi hôi thối, nhưng giọng nói, cách cư xử và nhất là tình cảm của ông đối với hắn thì không thay đổi. Hắn chẳng còn sợ như trước, vì biết lệ, không mời ai đến nhà vào tối ấy. Hắn đã có thể bình tĩnh ngồi uống rượu, chuyện trò với vị khách - bộ xương. Cái hắn sợ là hôm sau phải làm khách của ông, vì lần nào trở về, hắn cũng nôn ọe mãi và ốm, mê sảng đúng một tuần như lần đầu. Cả cái sợ này hắn cũng không thể nào quen nổi, đến mức nhiều khi hối hận rằng ở Pa Cao do say rượu đã trót mời A Lẩu đến thăm nhà mình. May mà mỗi năm chỉ một lần.
“Gì thì gì, cũng đừng nên bao giờ đùa với ma”, hắn thở dài nghĩ bụng. Và nhẫn nhục chờ Tết năm tới.          
Hà Nội, 13. 11. 2002


ĐÙA

Như trong những trường hợp tương tự, câu chuyện phiếm của mấy người bạn bia nhanh chóng nhảy từ đề tài nọ sang đề tài kia. Lúc này họ đang kể cho nhau nghe các chuyện đùa, của mình và của người khác.
- Có chuyện này hay lắm, để mình kể các cậu nghe nhé, - một người trạc bốn mươi, mãi bây giờ mới lên tiếng lần đầu. Ông ta cầm cốc bia, tu một hơi thật dài rồi khoan khoái đưa bàn tay chùi mép.
                                                  *
Chuyện xảy ra đã lâu, khi mình mới tốt nghiệp đại học và được phân về dạy ở thị trấn N. Hồi ấy trường mình có cô giáo dạy văn rất xinh, tên Kiều Hoa. Kiều Hoa học tổng hợp, ra trường sau mình một năm, từng nổi tiếng hoa khôi của trường và làm không ít các chàng trai si mê đau khổ. Còn ở cái trường tỉnh lẻ kia của bọn mình thì khỏi nói. Mới xuất hiện, Kiều Hoa lập tức trở nên nổi bật hẳn, thành trung tâm chú ý của cả trường. Điều đó dễ hiểu vì như đã nói, cô xinh, rất xinh, lại vốn dân Hà Nội nên biết ăn diện đúng mốt mà thanh lịch. Thêm vào đó, Kiều Hoa không vì thế mà đỏng đảnh, kiêu kì như nhiều cô xinh đẹp khác. Cô còn thông minh, dạy giỏi và chịu khó học tập. Lại khiêm tốn, dịu dàng nữa chứ... Tóm lại, không nói các cậu cũng biết, tất cả cánh giáo viên trẻ bọn mình đã chạy theo Kiều Hoa thế nào.
Đúng, tất cả, hay ít ra cũng gần như thế. Mình nói hầu như vì có ý trừ mấy ông đã có vợ (nhưng chắc không dửng dưng nếu điều kiện cho phép), và trừ mình. Lúc ấy mình còn quá vô tư, thích đùa nghịch hơn yêu đương thật sự.
Thế mà thật lạ, không hiểu sao Kiều Hoa chẳng thèm để ý tới ai. Trong trường có nhiều cậu cũng khá, nhưng không cậu nào lọt được vào mắt nàng. Hay nàng có người yêu đâu xa chăng? Bọn mình lén lút theo dõi thư từ và những người lạ đến thăm Kiều Hoa nhưng không phát hiện thấy điều gì khác thường. Cứ thế kéo dài một năm. Các cậu nên nhớ rằng đối với các cô gái, nhất là những cô gái xinh đẹp, một năm là quãng thời gian quá dài để kén chọn một chàng trai nào đấy. Kiều Hoa thì cứ như không, như chẳng hề quan tâm điều ấy. Thói đời, các cậu biết đấy, nhất lại ở tỉnh lẻ, anh càng khác đời, người ta càng tò mò muốn biết, thậm chí ghen ghét, càng dễ trở thành đối tượng của những việc làm ngu ngốc và tai hại mà chuyện mình đang kể là một thí dụ.
Một hôm, sau buổi họp hội đồng giáo viên thường lệ, bà hiệu trường nói bằng giọng tự nhiên và rất dễ nghe hàng ngày bà vẫn nói:
- Cô Kiều Hoa hình như đánh rơi cái này. Lúc nãy vào đây sớm, tôi nhặt được.
Rồi bà chìa ra một tờ giấy gấp đôi. Vì Kiều Hoa ngồi cuối phòng nên trước khi tờ giấy đến tay cô, vài người chuyền nhau đã kịp đọc nó. Ai đọc xong cũng lộ vẻ ngạc nhiên. Còn Kiều Hoa thì khi liếc qua những gì ghi trên đó, mặt cô bỗng đỏ bừng, rồi từ đỏ thành tái nhợt. Cô ngồi im ngơ ngác một phút rồi vụt đứng dậy, vội vã chạy về phòng mình, chắc phải cố lắm mới không òa lên khóc.
Mọi người bàn tán sôi nổi. Thì ra đó là tờ giấy chứng nhận của bệnh viện, ghi rõ rằng cô Kiều Hoa đã đến khám ở bệnh viện X, rằng cô mắc bệnh vô sinh do tắc cái gì đấy và có thể ảnh hưởng đến tính mạng nếu không chú ý giữ gìn. Cuối cùng là câu kết luận, yêu cầu nhà trường miễn cho cô Kiều Hoa, vì lí do trên, không phải tham gia công việc lao động nặng nhọc. Rồi bác sĩ kí tên,  đóng dấu.
Vâng, nội dung tờ giấy kia đúng như thế. Các cậu thấy nó ngớ ngẩn và vô lí chứ gì? Hẳn vậy. Chính bọn mình lúc ấy cũng không thể nào nghĩ khác. Không bác sĩ, bệnh viện nào có thể chứng nhận một điều tương tự. Đây chắc do một anh chàng tinh nghịch nào đó đùa vui quá trớn mà thôi. Thật láo lếu và ngu xuẩn. Vậy mà các cậu biết không, cái điều láo lếu, ngu xuẩn ấy được truyền đi khắp nơi với tốc độ chóng mặt.
Ở tỉnh lẻ, bất kì tin đồn nhảm nhí nào cũng được lan truyền với tốc độ ấy. Hơn nữa đây lại chuyện liên quan đến cô Kiều Hoa nổi tiếng, về một việc quan trọng có tính giật gân như vậy. Thành ra mấy ngày sau, không chỉ giáo viên và học sinh trong trường mà cả người ngoài thị trấn đều biết hết mọi chuyện, biết một cách tường tận, tất nhiên không thể không kèm theo những chi tiết mới được sáng tác thêm, mỗi người theo cách riêng của mình.
Người ta bắt đầu gắn vào cái tên đẹp đẽ của cô một vài từ kém văn hóa nhưng phải thừa nhận là rất ấn tượng, như Kiều Hoa Điếc, Kiều Hoa Tịt! Các nữ đồng nghiệp trẻ ghé tai nhau thầm thì điều gì đó, rồi nhìn cô bạn "tội nghiệp" của mình bằng đôi mắt ái ngại không che giấu. Họ an ủi Kiều Hoa bằng những câu đại loại thế này: "Chà, cái thằng nào đùa đểu thật", hoặc: "Ừ, đau thật, nhưng cứ cho đúng thế thì cũng chẳng quái gì phải buồn. Càng đỡ lo chồng con thêm khổ!" Có người còn nói: "Dù sao đợt lao động sắp tới, nếu cần, Kiều Hoa cứ yêu cầu nhà trường..." Vân vân và vân vân.
Còn thái độ của Kiều Hoa thì sao? Điều này mới thực sự làm bọn mình ngạc nhiên. Sau phút choáng váng ban đầu, cô nhanh chóng bình tĩnh trở lại và có vẻ như hoàn toàn thờ ơ với những gì đang xảy ra xung quanh. Cô không thanh minh, cũng chẳng căn vặn ai tung ra tờ giấy ấy. Rõ ràng cô cho những gì xảy ra với cô là trò ti tiện đáng khinh. Cô tự xem cô cao hơn bọn mình, những người cô nghi đã làm cái trò ti tiện đáng khinh đó. Có điều cô trở nên ít hồn nhiên hơn, ít giao thiệp với người khác và một thời gian sau thì tự tách mình khỏi cái tập thể giáo viên trẻ, vui nhộn đến mức ngu ngốc và nhẫn tâm của trường. Sau này mình mới hiểu Kiều Hoa đã đau khổ và khinh bỉ bọn mình chừng nào.
Tất cả chỉ vì một trò đùa ngu ngốc, các cậu ạ. Tuy nhiên đến đây câu chuyện chưa chấm dứt, đúng hơn, mới bắt đầu. Những lời đồn không hề giảm bớt, phần vì người ta muốn thế, phần do Kiều Hoa im lặng nên càng có cớ để tin là thật. Cuối cùng, như người ta vẫn nói, một điều giả dối được nhắc đi nhắc lại hàng trăm, hàng nghìn lần có ngày sẽ thành điều có thật, cả đối với người nghe lẫn người nói. Thế là dần dần, các cậu tin hay không thì tuỳ, cái chuyện vô lí ấy về Kiều Hoa, rằng cô không có khả năng sinh đẻ, rằng cô hỏng tắc cái gì đó và cần phải tránh việc nặng để bảo vệ sức khoẻ, vân vân, đã không còn làm ai nghi ngờ. Thậm chí mình nghĩ hình như cả Kiều Hoa cũng tin điều đó, vì sau này lần nào có lao động, trường cho nghỉ, cô cũng nghỉ.
Lại một chuyện vô lí nữa chứ gì? Có thể, nhưng quả đúng như vậy. Cuộc đời vốn vẫn thế, nếu cái gì cũng xảy ra đúng lô-gích, cái lô-gích do chúng ta phịa ra, thì cuộc đời chẳng còn là cuộc đời nữa, dù nó ngu ngốc và độc ác. Các cậu thử tưởng tượng xem, một người như Kiều Hoa mới ngày nào được chú ý, ngưỡng mộ nhường ấy, vậy mà bây giờ bị người ta nhìn bằng con mắt khác hẳn. Không một chàng trai nào tìm đến cô với ý định nghiêm túc, mà chỉ để chơi bời thì Kiều Hoa không phải hạng người như thế.
Ở tỉnh lẻ, các cậu biết đấy, không có nhiều chàng trai tử tế để kén chọn, còn ở thị trấn N. này thì có thể nói cánh nam giáo viên trường mình là tinh hoa nhất, nhưng bọn mình lại bị Kiều Hoa ra mặt khinh bỉ. Người từ xa đến không có, nếu có, chẳng bao lâu cũng bỏ đi khi được thông báo một cách tỉ mỉ mọi chuyện. Suy cho cùng, ai muốn lấy một người khi biết trước người ấy "điếc", "tịt", nghĩa là không có khả năng tạo ra những cô bé, cậu bé mũm mĩm để kế tục dòng dõi cao quý của mình, đúng không?
Cứ vậy, một năm, hai năm rồi năm năm trôi qua mà Kiều Hoa vẫn không lấy được chồng. Thật trớ trêu, Kiều Hoa, cô gái xinh đẹp, thông minh, hoa khôi một trường đại học lớn ở thủ đô, cuối cùng suốt đời phải độc thân, không được hưởng cái hạnh phúc gia đình cô có quyền và xứng đáng được hưởng...
- Sao, suốt đời? - Một người ngồi cạnh ngừng uống bia, hỏi.
- Vâng, suốt đời, - người kể chuyện đáp, rồi sau một phút trầm ngâm, nói thêm: - Vì cuộc đời của Kiều Hoa không dài - cô chết khi vừa tròn ba mươi tuổi.
- Chết?
- Đúng thế, chết. Chết vì băng huyết sau khi sinh... Mình biết các cậu đang ngạc nhiên. Cũng đúng thôi. Số là Kiều Hoa có chửa. Không chồng mà chửa mới ngoan... Chà, nếu các cậu biết điều ấy tác động đến trường mình và thị trấn N. mạnh như thế nào. Cô ấy chẳng hề giấu giếm, có vẻ như muốn phô trương khiêu khích nữa là khác. Cô không chịu nói ai là bố đứa bé. Mãi sau này, khi Kiều Hoa chết mình mới hiểu cô ấy chủ tâm làm thế để trả thù đời, trả thù bọn mình. Phụ nữ rất khó hiểu, Kiều Hoa càng khó hiểu hơn. Không ai biết cô ấy nghĩ gì trong đầu. Một người thông minh, cứng rắn đến thế mà cuối cùng không chịu nổi để làm việc cực đoan, vô nghĩa như vậy.
- Rốt cục người ta vẫn không biết kẻ tung tờ giấy kia là ai à, cái thằng khốn kiếp ấy? - một người hỏi.
- Không, nhưng mình biết. - Người kể chuyện ngừng nói, im lặng hồi lâu. - Thằng khốn kiếp ấy là mình.
Mọi người không ai nói gì. Mãi lúc sau người kể chuyện mới lên tiếng:
- Xin thề với các cậu rằng mình không phải người độc ác. Mình chỉ đùa. Đùa một tí cho vui thôi mà. Lúc ấy mình có người bà con làm bác sĩ ở bệnh viện X, nơi mình thường đến lấy những tập giấy sẵn có chữ kí và con dấu để ngộ nhỡ muốn nghỉ ngày nào thì điền vào đấy. Một hôm, không hiểu nghĩ thế nào, tiện tay mình viết tờ giấy tai hại kia và lén để nó trong phòng giáo viên trước giờ họp. Tất nhiên sau đó mình rất hối hận. Lúc đầu mình không đủ can đảm tự thú, còn sau, khi sự việc đi quá xa thì có nói ra cũng chẳng giải quyết được gì. Thế là mình im, im suốt chừng ấy năm, cho đến hôm nay lần đầu đem kể các cậu nghe. Phải nói thêm rằng mình rất yêu Kiều Hoa. Yêu ngay từ lúc mới gặp, sau này càng yêu hơn nhưng mình không dám thổ lộ, trước hết vì xấu hổ với lương tâm, như thể mình bày ra cái trò ấy để chiếm đoạt cô. Sau nữa vì biết chắc Kiều Hoa sẽ khinh bỉ từ chối như sẽ từ chối bất kì anh nào trong bọn mình. Vì sao thì các cậu đã rõ...
- Còn đứa bé? - một người hỏi.
- Rất may đứa bé còn sống. Sau khi Kiều Hoa chết, mình đến báo với tổ chức rằng mình là bố của đứa bé và xin nhận nó về nuôi. Các cậu biết không, người ta tin điều ấy cũng dễ dàng như tin Kiều Hoa vô sinh. Từ đó đến nay nó sống với mình. Bao giờ cũng chỉ hai bố con như các cậu thấy.
- Và suốt đời nó không được biết điều bí mật này của bố mẹ nó?
- Không, nếu các cậu không bẻm mép mách lại với nó, tất nhiên. Mà thôi, cho mình thêm cốc nữa!
          Hà Nội, 1985
                                                                                                  

MỘT NƯỜI VỨT ĐI

Ở Huế, ngoài những chiếc xe lam chạy dầu ma-dút nhả khói mù mịt và kêu tành tạch từng tràng dài như súng máy, phương tiện đi lại chủ yếu trong thành phố là xích lô và xe đạp thồ.
Xe đạp thồ mới xuất hiện mấy năm trước đó, thoạt trông dễ làm người ta mất cảm tình, nhưng rồi nhìn mãi cũng quen. Vả lại, cái chính là sử dụng nó thuận tiện và rẻ. Chỉ cần bước ra phố, giơ tay là lập tức có ngay mấy chiếc xe đói việc cùng đạp đến một lúc. Anh chọn một chiếc trong số đó, thỏa thuận giá cả - một, ba hoặc năm đồng tùy đi xa hay gần - ngồi lên poóc-ba-ga phía sau, thường được lót bằng miếng mút bọc vải nhựa khách ngồi cho êm và cũng để phân biệt với những chiếc xe đạp bình thường, nghĩa là không chở người lấy tiền, thế là người kia sẽ chở anh đi. Nếu anh là khách từ xa đến, anh ta sẽ kiêm luôn vai người hướng dẫn tham quan thành phố. Anh hỏi bất kì điều gì, kể cả việc riêng tư, anh ta đều sẵn sàng trả lời, tất nhiên trong thâm tâm hi vọng anh trả thêm ít tiền cho dịch vụ đó.
Lần ấy, hai ngày sau khi đến Huế, làm xong những việc cần làm, tôi muốn đi thăm các lăng mộ nổi tiếng của Cố Đô, trước hết là Lăng Khải Định. Và tôi đã chọn cái phương tiện giao thông tuy thô sơ nhưng thuận tiện và rẻ tiền này.
Thông thường những người nghỉ ở khách sạn "Sông Hương" như tôi, đi tham quan bằng xe con, ô tô buýt, hay bét ra cũng bằng xích lô. Cho nên thấy tôi từ khách sạn bước ra, lại ăn mặc nghiêm chỉnh, đeo máy ảnh, người đạp xe thồ bị tôi ra hiệu dừng lại có vẻ ngạc nhiên khi được thuê chở ra lăng Khải Định, cách đấy cả chục cây số, chờ xem xong lại đưa về khách sạn.
Tuy nhiên, hai phút sau chúng tôi đã lên đường. Anh ta ngồi đạp phía trước, tôi ngồi sau, hai chân buông thõng hai bên, giống hệt một tay chơi "bản địa".
Anh bạn đường của tôi ít nói, mặt ảm đạm như đang có điều gì khó chịu. Sau vài câu hỏi thăm mang tính xã giao, anh ta không nói gì thêm. Trả lời các câu hỏi của tôi, anh ta hoặc ậm ự tiếng một, hoặc lờ như không nghe thấy. Điều này làm tôi - một người tò mò - ít nhiều thất vọng. Tôi bắt đầu hối hận về cái quyết định lãng mạn của mình, vì tôi đã có thể đi nhờ xe buýt của một đoàn nghỉ cùng khách sạn.
Hôm ấy trời đẹp, cảnh nên thơ, chỉ tiếc đường lắm dốc và nhiều lúc tôi phải xuống ủn xe từng đoạn khá dài. Anh kia - còn trẻ nhưng gầy yếu, da đen, ngực lép như người ho lao - nhìn tôi với vẻ biết ơn nhưng vẫn im lặng một cách bướng bỉnh. Cứ thế chúng tôi đi tiếp.
- Anh có lên xem không? - tôi hỏi khi hai chúng tôi đến nơi, dựng xe, bước vào một quán giải khát.
- Không.
- Tôi để anh chờ ở đây à?
- Không sao, - anh kia đáp. - Ông cứ xem bao lâu tùy thích. Tôi đợi.
Mặc dù còn trẻ, có khi còn ít tuổi hơn, không hiểu sao tôi được gọi bằng ông. Anh ta muốn bộc lộ thái độ bằng cách ấy chăng?
So với các lăng khác, lăng Khải Định được nhiều người nói đến và hay tới tham quan hơn cả. Cũng có lí do của nó. Toàn bộ khu lăng được xây trên một ngọn đồi từ chân lên đỉnh phải hơn một trăm bậc đá lớn. Đây cũng là lăng duy nhất xác định được chỗ chôn người chết - tức là ngay dưới ngai vàng đỡ bức tượng ngồi toàn thân bằng đồng mạ vàng của Khải Định. Phòng mộ trang trí lộng lẫy, với những nét chạm trổ và những hình ghép sứ hết sức tỉ mẩn. Nghe nói phải nhiều người, nhiều năm mới làm nên tác phẩm nghệ thuật độc đáo này. Cũng nghe nói không ít người phải chết vì nó.
Vào phòng mộ, khách phải bỏ giày dép ở ngoài, đi nhẹ, nói khẽ và nhất thiết phải nghe một bà già người bé nhỏ ngồi cạnh cửa nhắc nhở những điều cần thiết về nội qui tham quan, hoặc mời mua bưu ảnh, thuốc lá, nước ngọt - những thứ bà ta luôn để sẵn trên chiếc bàn con bên cạnh. Nếu anh đi một mình và cần người hướng dẫn, bà ta sẽ làm điều đó, hăng hái trả lời một cách đầy đủ, tỉ mỉ tất cả các câu anh hỏi. Tất nhiên sau đó anh sẽ phải trả tiền công.
Khi tôi xem xong quay xuống, anh đạp xe thồ vẫn ngồi chỗ cũ, tay chống cằm tì lên góc bàn, hai mắt lim dim - chắc đang ngủ gật. Thấy tôi, anh ta chẳng tỏ ra mừng, tuy phải chờ khá lâu.
Mặt trời đã ngả sang phía Tây, nhưng trời vẫn nóng và ngột ngạt. Anh ta đứng dậy, búng búng vào đôi lốp xe.
- Ngồi nghỉ đã, - tôi nói. - Chốc nữa mát hẵng về. Anh không vội chứ?
Anh ta lắc đầu và lại miễn cưỡng ngồi xuống. Tôi gọi hai đĩa bánh và hai cốc nước ngọt.
- Anh là dân ở đây, chắc xem lăng này nhiều lần rồi nhỉ?
- Hai lần, khi còn bé tí.
- Sao ít thế?
- Tôi không thích.
Hai chúng tôi lại ngồi im. Lát sau, anh ta chợt hỏi:
- Hôm nay cái bà bán bưu ảnh có hướng dẫn ông xem không?
- Không.
- Cũng không kể ông nghe ai xây và bao nhiều người đã chết khi xây cái lăng này?
- Không, - tôi ngạc nhiên nhìn anh ta. - Sao anh hỏi thế?
- Chẳng sao cả. - Anh ta đáp, không lầm lì như trước nhưng đôi mắt lộ vẻ giận dữ độc ác. Tôi đoán anh ta đang có điều muốn nói ra cho nhẹ người. Tôi kiên nhẫn chờ.
- Tiếc là ông không được nghe bà ta kể, kể một cách say sưa và thích thú, về cái chết thê thảm của ông nội bà ta... Và cũng là ông nội của tôi nữa.
- Ra bà ta là bà con với anh?
- Chị gái tôi.
- Ông nội anh là một trong những người xây lăng này?..
- Vâng.
- Và xây xong cũng bị Khải Định giết chết?
- Đúng thế.
Tôi không hỏi gì thêm, chỉ im lặng ngồi uống nước. Tôi từng tiếp xúc với nhiều loại người, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nên biết gần như chắc chắn rằng trong những trường hợp thế này, người nói chuyện sẽ chẳng bao giờ chịu rời anh, nếu chưa kể hết những gì anh ta vừa bắt đầu.
Đúng thế, một lúc sau người bạn đường của tôi lên tiếng, vẻ trầm ngâm như tự nói với mình nhiều hơn là với tôi:
          - Cũng vì cái lăng này mà chị em tôi giận nhau, thậm chí còn từ nhau. Chị tôi là một người tốt, rất tốt, chứ không phải loại vứt đi như tôi. Không chồng, không con, suốt đời chị ở vậy nuôi em, rồi em lớn - giúp đỡ các cháu. Thế mà ông biết không, chị tôi lại làm cái công việc... - anh ta dừng lại tìm từ, - cái công việc khốn nạn ấy. Tức là tự nguyện đêm ngày hầu hạ chính thằng đã giết ông nội mình. Quét nhà cho nó, lau chân, phủi bụi cho nó. Mỉa mai thay, lại còn say sưa kể người khác nghe việc nó đã giết ông nội mình thế nào. Tôi khuyên ngăn, tôi cấm, chị tôi không nghe, tới nay vẫn tiếp tục làm cái việc như ông thấy. Thật xấu hổ và nhục nhã!...
Tôi vẫn ngồi im, tò mò lắng nghe.
- Ông xem, thế thì hỏi còn chịu sao nổi? Tôi cứ lộn cả ruột khi nghĩ đến cảnh chị tôi xun xoe trước nó, ho không dám ho, nói không dám nói. Nhiều lúc tôi những muốn leo lên, giá có súng, lia cho nó, tức là cái tượng bằng vàng hay mạ vàng gì đó của nó, vài băng vào mặt. Tôi là người dốt nát, không hiểu gì, nhưng cũng biết rằng lúc làm vua, hắn là thằng bán nước và gây không ít tội ác cho nhân dân. Thế mà tại sao bây giờ người ta đua nhau đến đây chiêm ngưỡng hắn? Phải leo đúng một trăm bậc mới được nhìn hắn. Phải nhìn lên, phải nín thở. Phải để dép ngoài cửa. Phải có giờ, có ngày. Có đúng là bất công không? Đúng, bất công! Một sự bất công được đặt lên ngai vàng! Tôi thật không sao hiểu nổi. Trước kia, thời thằng Mỹ, thằng ngụy là một nhẽ, còn bây giờ các ông - Việt cộng, Cách mạng, - sao các ông chịu thế? Lại nghe nói thế giới định bỏ hàng chục triệu bạc để tô vẽ thêm cho nó nữa. Đấy, ông nói tôi nghe đi, vì sao, vì sao lại thế?
- Vì ông nhầm lẫn giữa vua Khải Định và tượng vua Khải Định. - Tôi  đáp. - Cái người ta đến đây xem không phải một con người cụ thể nào đó cùng những việc làm xấu tốt của ông ta, mà là một tác phẩm nghệ thuật do nhân dân tạo ra...
- Ha, ha, ha! Tác phẩm nghệ thuật! - Anh ta cười to ngắt lời tôi. - Vâng, nhưng lẽ nào ông không hiểu rằng chính nhờ cái tác phẩm nghệ thuật ấy của ông mà nó sống được qua các chế độ, sống cho tới ngày nay và sẽ còn sống nữa? Thế mới là vua. Thế mới là Khải Định. Hắn biết đánh vào chỗ yếu của người khác. Hắn là con mọt biết bám vào bàn thờ tổ tiên người khác mà sống. Mấy ai dễ vứt bỏ tổ tiên mình chỉ vì một con mọt? Nên con mọt ấy cứ đàng hoàng sống. Mà thử hỏi sống ở đâu, sống thế nào? Ha, ha!... - anh ta cười to như một người điên, rồi ngừng một giây, nói tiếp: - Ông không để ý thấy mặt thằng Khải Định đang vênh lên à? Vì nó biết không những nó được an toàn, cung phụng chu đáo, mà nó còn là ân nhân, hay đúng hơn là nguồn sống của nhiều người khác, như chị tôi chẳng hạn...
- Và cả những người đạp xe thồ chở khách tham quan nữa, - tôi châm chọc.
- Vâng, cả tôi nữa, - anh ta cụt hứng, cúi đầu thở dài. - Nhưng tôi thì nói làm gì. Tôi là một người vứt đi. Tôi là con số không, con số không cả với năm miệng ăn trong nhà. Tôi ghét chị tôi như thế, nhưng tôi đã làm ngơ để vợ tôi đều đặn nhận tiền giúp đỡ của người tôi ghét... Vâng, tôi là thằng vứt đi. Tôi không bao giờ xem mình ngang hàng với chị tôi, với các ông. Các ông phải khác, phải khác cơ... Ông nói cho tôi hiểu đi!
Anh ta nhìn chằm chặm vào mắt tôi, mặt mếu máo như muốn khóc. Tôi lấy làm tiếc đã đánh vào chỗ yếu của anh ta. Tôi trả tiền rồi đứng dậy, không muốn kéo dài thêm câu chuyện.
Chúng tôi lại lên xe và không ai nói thêm câu nào nữa. Đường trở lại thành phố khó đi hơn, nắng gắt, nhiều dốc ngược. Lần này hầu như chúng tôi đổi chỗ hẳn cho nhau. Tôi ngồi trước còng lưng đạp xe, còn anh ta, con người vứt đi ấy, ngồi phía sau, thỉnh thoảng nhảy xuống ủn xe cho tôi.
         Huế - Hà Nội, 1982


MỘT TRUYỆN GẦN GIỐNG NHƯ ĐỐT

1
Ngoài cửa sổ mưa vẫn rơi rả rích.
Đã thành lệ, mấy hôm nay đêm nào họ cũng nằm đọc truyện cho nhau nghe thật khuya trước khi ngủ.
Họ là hai giáo viên phổ thông trung học ở hai tỉnh khác nhau về Hà Nội dự lớp bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi do Bộ tổ chức. Họ được xếp cùng phòng. Một người cao to, da ngăm đen, ít nói, trông giống nông dân hơn ông giáo, còn người kia trắng mập, có bộ ria cắt tỉa rất công phu, tính tình cởi mở nhưng dễ làm người ta khó chịu, vì nói chuyện với ai, chốc chốc ông ta lại vỗ vào vai, thậm chí vuốt cả tóc người ấy. Họ cùng ở độ tuổi bốn mươi lăm, cùng dạy văn, nên thường câu chuyện dù bắt đầu bằng đề tài nào, cuối cùng cũng quay về đề tài họ thích là văn học.
Đêm đầu tiên với nhau, họ thức đến tận sáng để tranh luận một vấn đề gì đó. Đêm thứ hai vẫn vấn đề ấy, có điều đến mười hai giờ thì phòng bên đấm tường yêu cầu im lặng. Đêm thứ ba, ông thấp trắng mượn đâu về cuốn Gã Khờ của Đôxtôiepxki. Thế là cả hai ngừng tranh luận, luân phiên đọc cho nhau nghe.
Đêm nay, sau khi đọc hết đoạn Natalia Philipôpna mời khách đến nhà để thông báo quyết định sẽ lấy ai, và ở đó mỗi người buộc phải kể một chuyện xấu xa nhất trong đời mình, ông thấp trắng úp cuốn sách lên bụng, hồi lâu tư lự nhìn lên trần nhà rồi nói:
- Đôxtôiepxki đúng là thánh thật. Bày ra cái trò chơi độc đáo ấy, ông ta đã dồn ép, bắt nhân vật phải tự bộc lộ hết tính cách của mình. Không trốn vào đâu được. Thánh thật!
- Theo tôi thì nhà văn nghĩ ra cảnh ấy cốt để người đọc suy ngẫm về bản thân mình, - ông bạn cùng phòng vừa đáp vừa ngọ ngậy trong chiếc chăn dày ở giường bên, - để tự người đọc nhớ lại... ông ta gọi là gì nhỉ?... một chuyện xấu xa nhất từng làm trước đây. Chỉ một mình với lương tâm, nên không cần phịa chuyện tự quảng cáo như ông tướng Yepanchin nọ.
- Một việc xấu xa nhất... Thế anh có nghĩ chúng ta ai cũng từng làm một việc xấu xa như thế để suốt đời phải hối hận không?
- Có. Tất nhiên mỗi người một mức độ khác nhau. Vả lại, vấn đề còn phụ thuộc vào thái độ từng người đối với việc mình làm.
- Nghĩa là anh cũng có một chuyện kiểu ấy?
- Vâng.
- Thế thì kể đi.
Ông kia không đáp, hồi lâu nằm im lắng nghe những giọt mưa rơi đều đều trên mái. Cuối cùng ông lên tiếng:
- Chuyện đã lâu. Cũng chẳng có gì đặc biệt. Mà thôi, hôm nay khuya rồi. Ngủ đi.
Rồi ông với tay tắt đèn. Cả hai cùng duỗi người, kéo chăn lên tận mũi, chẳng ai nói thêm với ai câu nào nữa.
          Tuy nhiên, khoảng ba mươi phút sau, không hiểu sao ông ta lại gọi bạn dậy và kể một mạch không nghỉ cái việc mà ông cho là xấu xa, tồi tệ nhất trong đời mình.

2
Chắc anh gặp không ít những gia đình bất hạnh phải nuôi một người già bại liệt toàn thân, những tưởng ngày một hay hai sẽ chết, thế mà nằm thối cả thịt, người bệnh luôn miệng cầu trời xin chết mà chẳng chết được, còn con cháu thì bỏ bê công việc làm ăn, thay nhau thuốc thang chăm sóc bên cái xác bốc mùi ấy hết năm này đến năm khác; hoặc phải giữ một người điên trong nhà; hoặc hàng chục năm trời phải nuôi một quái thai gớm ghiếc mà riêng sự tồn tại của nó đã là một sự sỉ nhục, với nó và cả những người xung quanh. Ngày xưa gia đình tôi từng gặp cảnh như thế.
Nhà chúng tôi đông người - hai bố mẹ và sáu con. Tôi thứ ba, trên còn hai ông anh, tiếp đến hai em gái, cuối cùng là đứa út, con trai. Chính nó, cái thằng út ấy, đã mang đến cho gia đình chúng tôi bao nỗi sầu muộn. Lọt lòng, nó đã là một đứa bé dị dạng. Chân tay nó bé tí, nhưng bù lại, đầu và bụng rất to, trông như hai quả dưa hấu màu vàng ghép lại. Đã thế, lên bốn tuổi, sau một cơn cảm lạnh đột ngột, nó bị liệt hoàn toàn, ăn ngủ, ỉa đái đều một chỗ. Không nói anh cũng hình dung được nó ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi chúng tôi như thế nào.
Suốt ngày mẹ tôi chầu chực bên nó, lúc quạt cho ngủ, lúc đưa cốc nước, viên thuốc hoặc đổ bô, thay áo. Bố tôi thì cau có đi ra đi vào. Còn tôi, hễ có dịp là trốn nhà để khỏi bị sai làm những việc chẳng mấy thích thú. Gia đình tôi tìm đủ mọi cách chạy chữa, thử đủ các loại thuốc nhưng đều vô ích. Cũng may trong làng có ông bác sĩ về hưu. Có chuyện gì cần là mời ông lại đến nhà, khỏi phải đưa đi bệnh viện huyện cách những mười mấy cây số.
Ông này là người tốt bụng, giỏi chuyên môn, tuy chưa đến tuổi nhưng được nghỉ việc vì mắt kém. Chính tôi nhiều lần nhìn thấy ông nhầm lẫn dao kéo, cho kim vào ống tiêm thuốc thì đâm phải tay. Tôi ngạc nhiên tự hỏi sao ông có thể làm được nghề chữa bệnh trong chừng ấy năm mà không xảy ra tại họa nào.
Thường thì theo yêu cầu khẩn thiết của mẹ tôi, ông đến ngay, nhưng không có cái vẻ lo lắng, vội vã như trong những trường hợp khác. Ông đủng đỉnh hút thuốc, uống nước cho đến khi mẹ tôi mấy lần đưa mắt cầu khẩn mới bắt tay vào việc. Ông lắng nghe một cách miễn cưỡng các thứ bệnh do mẹ tôi kê ra. Cũng miễn cưỡng như thế, ông sờ trán, nghe tim hoặc tiêm thuốc, tùy từng lúc, rồi lại đủng đỉnh hút thuốc, uống nước và ra về, sau khi an ủi cả nhà rằng không có gì phải lo, rằng thằng bé sẽ sống. Mà còn sống lâu. Thế đấy... Sao, anh vẫn nghe tôi đấy chứ? - Người kể chuyện bỗng dừng lại hỏi, rồi không chờ trả lời, lại kể tiếp, giọng đều đều như cũ.
Là người mê tín, mẹ tôi bỏ nhiều công của đi lễ nhà chùa, một lần còn đi xem bói. Hôm ấy về nhà, mẹ tôi thầm thì với cha tôi rằng đó là cái họa mà số phận bắt gia đình tôi phải chịu, rằng thằng út đang gánh thay cho cả năm anh em mọi sự thua thiệt, mọi bệnh tật, và rằng vì thế phải chăm sóc, thương yêu nó. Nếu nó chết, lập tức tai hoạ sẽ thi nhau đổ xuống đầu chúng tôi. Anh thử tưởng tượng xem, thằng em khốn khổ của tôi đã nghe lỏm được điều đó. Không ngờ mới chín tuổi và ốm yếu như thế, nó không chỉ hiểu những lời nhảm nhí ấy mà còn biết lợi dụng chúng để làm khổ chúng tôi thêm nữa.
Nó ranh ma biết đánh vào điểm yếu của mẹ tôi. Nó bắt đầu làm mình làm mẩy, cáu gắt, bắt mọi người phải thực các yêu cầu của nó, cả những yêu cầu vô lý nhất. Trước kia khi cần gì, nó còn hỏi xin tử tế và kiên nhẫn chờ người mang tới. Bây giờ nó ra lệnh, mà bắt phải làm ngay không chậm trễ. Với chúng tôi, anh chị nó, nó cũng thay đổi hẳn thái độ. Nó tin vào lời bói toán kia, và nghĩ do chúng tôi nên nó phải khổ, vì vậy nó tự cho mình quyền được đền bù xứng đáng. Không ít lúc nó còn dám nói hỗn, nhưng vì thương mẹ, chúng tôi đành im lặng chiều nó, chứ nó đâu biết rằng suốt bao năm nay chính nó đã đầu độc bầu không khí ấm cúng vốn có trước đây trong gia đình. Cũng vì nó mà hai ông anh tôi ế vợ, vì các cô gái sợ sau này bố mẹ tôi chết, phải nuôi nó.
Anh em chúng tôi đã phải sống như thế trong ngôi nhà luôn sặc mùi bông băng và cứt đái, không tiếng cười, không khách khứa, nhìn mặt ai cũng như đang có điều gì hậm hực không nói ra được. Mà đâu chỉ một vài năm hay năm năm. Trong trường hợp ấy, liệu anh, anh sẽ cảm thấy thế nào?  Không nói ra ngoài, nhưng chúng tôi đều căm ghét nó. Nó là tên bạo chúa tí hon với cả nhà.
Tất nhiên chúng tôi biết không phải lỗi tại nó. Nó khổ sở, đau đớn hơn ngàn lần. Có lẽ sẽ không đúng nếu nói chúng tôi không thương nó. Dù sao nó cũng là em ruột. Nhiều khi nhìn nó nằm thoi thóp trên gường - một hình thù quái dị, nhợt nhạt, chốc chốc lại co rúm vì đau đớn - ngoài cái cảm giác kinh sợ bản năng, tôi còn thấy nao nao chua xót, tự hỏi phải chăng thế này là sống? Vì cớ gì nó sinh ra để chịu những đau khổ như thế, và để gây đau khổ thêm cho người khác, nhất là mẹ tôi, một người phụ nữ tuyệt vời bị mù quáng bởi tình mẫu tử thiêng liêng, và bất chấp tất cả, vẫn yêu nó một cách chân thành, vô hạn?
Không ít lúc bất chợt tôi bắt gặp mình đang có ý nghĩ rằng tốt hơn đừng nên chạy chữa, cứ để nó chết đi, hoặc thậm chí làm cái gì đó để nó chết đi còn hơn. Chết đi để vĩnh viễn chấm dứt sự tồn tại đau đớn, vô nghĩa của nó và cũng để trút bỏ gánh nặng cho người khác. Đó là những ý nghĩ tội lỗi, tôi biết. Tôi đã thầm xấu hổ và tự trách mình không ít. Nhưng biết làm sao, khi đó là những ý nghĩ có thật và cứ dai dẳng ám ảnh tôi?
Anh biết đấy, đây là vấn đề tế nhị. Xét bề ngoài, ai có thể chấp nhận  ý nghĩ mong người khác chết, nhất là người thân của mình? Mặt khác, liệu có nên chăng vất vả nuôi sống một người chỉ cốt để người ấy kéo dài thêm đau khổ cho mình và người khác không? Anh đọc Tội ác và Trừng phạt rồi chứ? Cũng của Đôxtôiepxki. Trước khi giết mụ già cầm đồ đáng ghét, anh chàng Raxcônhicốp bị lương tâm cắn rứt cũng chính bởi cái mâu thuẫn trên. Lúc ấy dù chưa biết Raxcônhicốp là ai và dẫu mới chỉ là cậu học sinh lớp mười, tôi cũng có những suy nghĩ tương tự. Có điều, xin thề với anh rằng tôi không bao giờ có ý định giết nó. Tự tay tôi thì không, không bao giờ. Nhưng nếu nó bị bệnh hay gặp tai nạn mà chết thì chắc chắn tôi sẽ không buồn. Còn anh, anh nghĩ thế nào? Ngủ rồi à?
Một hôm, có đoàn văn công tỉnh về biểu diễn ở làng. Thời ấy đó là một sự kiện lớn. Mặc dù trời lây rây mưa phùn, ngay từ trưa đã nghe trống nổi bập bùng. Trẻ con từ các làng bên kéo đến ngồi chật cả bãi. Chúng tôi cũng cơm nước sớm chuẩn bị đi xem.
Không ngờ ăn xong, thằng em tôi cũng đòi được đi. Từ trước tới nay chưa bao giờ nó ra khỏi nhà. Hồi lâu mẹ tôi lựa lời thuyết phục rằng nó không thể đi được, rằng trời mưa lạnh, rằng văn công không hay, vân vân. Nhưng nó nhất định không nghe. Khi ông anh cả tôi bực mình quát nó, nó ré lên khóc và tuôn ra một tràng dài những lời láo xược, còn dọa đổ tai họa xuống đầu chúng tôi như lời thầy bói nói. Ông anh tôi giận, càng quát, nó càng khóc to, càng tru tréo hơn trước.
          Cuối cùng, biết không thể làm gì hơn, mẹ chúng tôi van lạy mọi người nhượng bộ. Anh thử đoán chúng tôi đưa nó đi bằng cách nào? Bằng cáng, tôi và một người nữa lấy võng cáng nó ra bãi, mẹ tôi cầm nón lẽo đẽo đi cạnh. Không nói anh cũng biết tôi khó chịu và xấu hổ nhường nào khi hàng trăm con mắt vừa kinh hãi vừa tò mò hết nhìn thân hình quái dị trên võng, lại nhìn tôi, anh trai của cái thân hình quái dị ấy. Mấy lần tôi những muốn hất cáng xuống đất rồi bỏ chạy, muốn ra sao thì ra. Cũng may một chốc sau, như tôi đoán trước, chưa xem được gì - mà làm sao nó có thể xem được gì trong tình trạng ấy - nó đã đòi về.
Ngay đêm ấy nó lên cơn sốt nặng. Ông bác sĩ lại được mời sang. Như mọi lần, ông đủng đỉnh hút thuốc, uống nước, và vẫn không chịu thăm bệnh cho người ốm chừng nào mẹ tôi chưa năm lần bảy lượt đưa mắt cầu khẩn. Lần này ông khám rất lâu, suốt buổi không nói câu nào. Cuối cùng ông đứng dậy, bảo phải về nhà lấy thuốc, dặn trong khi chờ, chúng tôi đun nước sôi chuẩn bị kim tiêm.
Một chốc sau ông quay lại, ngồi xuống cạnh thằng bé với chiếc khay tráng men trên có mấy lọ thuốc và bộ ống tiêm đã luộc. Mẹ tôi gọi tôi ra ngoài, nhờ làm việc gì đấy. Khi tôi bước vào, ông bác sĩ đã hút xong thuốc vào ống tiêm, đang giơ giơ nó trước đèn. Trên khay, chiếc lọ không nằm chỏng chơ. Tôi cúi xuống cầm nó lên tay, định cất dùng làm lọ đựng mực, nhưng nhìn dòng chữ ghi trên lọ thuốc, tôi sững sờ ngạc nhiên và thốt lên:
- Bác Tư!
Năm ấy đang học lớp mười, tuy chưa nhiều nhưng tôi cũng biết đôi điều về ngành y và dược, ít ra đủ để hiểu rằng thứ thuốc ông sắp tiêm không những không chữa khỏi bệnh mà còn làm nó chết. Để kiểm tra, tôi cúi xem chiếc lọ chưa bóc bên cạnh. Đó là thứ thuốc cần tiêm trước đó ông nói với mẹ tôi. Thì ra ông bác sĩ già kém mắt nhầm thuốc.
- Có chuyện gì thế, cậu? - vẫn không quay lại, ông bình thản hỏi tôi.
Đúng lúc ấy, một ý nghĩ bỗng lóe trong đầu.
- Dạ không, cháu chỉ buột miệng gọi thế, - tôi đáp rồi lặng lẽ bỏ ra ngoài.
          Ba ngày sau, đứa em khốn khổ của chúng tôi chết. Theo lời ông bác sĩ thì do bị sưng phổi nặng.

3
Người kể im lặng hồi lâu, cho đến khi từ gường bên, ông bạn cùng phòng phải lên tiếng, chắc sốt ruột muốn nghe tiếp.
- Rồi sau thì sao?
- Chẳng sao cả. Gia đình chúng tôi bắt đầu một cuộc sống mới, bình thường như bao gia đình khác. Chẳng tai họa nào giáng xuống như mẹ chúng tôi thấp thỏm chờ đợi. Mọi việc tốt đẹp, chẳng ai còn nhớ tới thằng em út bất hạnh và những năm tháng nặng nề trước đó. Sau này tôi nghiệm ra rằng chúng ta, con người, mỗi lần gặp điều gì khó chịu trong cuộc sống, chúng ta thường mong nó nhanh chóng trôi qua để quên đi. Quên hẳn. Tuy nhiên, có những trường hợp không dễ quên chút nào. Như tôi đây chẳng hạn. Từ ấy đến nay đã bao nhiêu năm trôi qua, thế mà tôi vẫn luôn dằn vặt, suy nghĩ về việc mình làm. Có lúc tôi tự cho mình vô tội. Lúc tôi lại nghĩ tôi là kẻ giết người, vì dù sao tôi đã cố tình lờ đi để ông bác sĩ tiêm nhầm thuốc, nếu quả thật ông nhầm. Còn nếu ông không nhầm mà chủ ý làm thế để chấm dứt bi kịch cho gia đình tôi, thì tôi cũng không vì thế mà thanh thản hơn, vì tôi đã nhúng tay vào tội ác, dù gián tiếp.
Thế đấy, tôi là người tháo bỏ được gánh nặng cho người khác, nhưng vô tình lại chất lên vai mình một gánh nặng khác, gánh nặng tinh thần mà có lẽ suốt đời tôi phải gánh chịu. Lúc nào tôi cũng có cái cảm giác của Raxcônhicốp sau khi giết mụ cầm đồ ghê tởm. Tôi những tưởng sẽ không bao giờ nói lộ với ai, thế mà hôm nay... Này, theo anh, tôi làm thế có phải là một tội ác không?
Ông kia vừa trở người vừa đáp:
- Tớ không biết. Nhưng chuyện cậu nghe ghê ghê thế nào ấy. Có cái gì đó phảng phất Đôxtôiepxki. Đọc ông ta hấp dẫn thật, nhưng không hiểu sao tớ không thích. Ở ông ta mọi sự kiện, mọi nhân vật được đẩy lên thái quá, đến mức phi lý, bệnh hoạn. Chuyện của cậu cũng thế. Đôi lúc tớ tưởng như đang nghe một câu chuyện của Đốt hoặc gần giống như Đốt với những nhân vật đầy bí hiểm. Như cái ông bác sĩ mù kia chẳng hạn. Phải chăng chính ông ta đã giết đứa bé? Đó là một câu hỏi. Nhưng vì sao phải giết, khi ông ta không liên quan gì tới gia đình cậu? Đó cũng là một câu hỏi nữa. Tất cả những điều ấy rất hợp với tinh thần nhân vật của Đốt...
- Nhưng đây là chuyện thật gia đình tôi, - người kể chuyện cắt ngang, có vẻ hơi phật ý. - Đốt chẳng dính gì tới nó. Còn quan điểm của anh về văn học và về Đốt thì phải bàn thêm. Đốt vô cùng vĩ đại. Nếu anh không hiểu hay không thích cái gì đấy ở ông thì không phải lỗi của ông. Theo tôi văn học cần phải thế, phải như Đốt, nghĩa là làm người đọc xúc động đến tận đáy tâm hồn, dù có phải sử dụng cả những yếu tố ma quái, bệnh hoạn như anh nói. Còn hơn thứ văn chương trơn tru, nhạt nhẽo đang tràn ngập sách báo hiện nay. Tiếc là không biết viết văn, chứ nếu biết, tôi sẽ đi theo đường của Đốt, và truyện đầu tiên - dựa trên câu chuyện hôm nay chẳng hạn - tôi sẽ gọi bằng cái tên đầy ý nghĩa: Một truyện gần giống như Đốt! Nghe cũng được đấy nhỉ? Sao, đã ngủ rồi à?
Không có tiếng trả lời. Bên ngoài mưa vẫn rơi rả rích.
Nha Trang, 1984.


CÁI XOAN

Cái Xoan là tên một cô bé cụt chân ở làng tôi. Nó bị cụt một chân từ ngày mới hai tuổi và còn đang được ẵm trên tay mẹ.
Hôm ấy, theo kể lại, đang buổi ăn trưa thì máy bay Mỹ ập đến. Mẹ nó bế nó chạy ra hầm, chưa ra tới nơi thì có tiếng bom nổ. Một mảnh bom cắm đúng vào tim mẹ nó. Mảnh khác cắt đứt một cẳng chân bé xíu, mũm mĩm và hồng hồng của nó. Nó được một chú bộ đội đóng quân trong làng bế ngay đi bệnh viện. Ai cũng tưởng bé thế, nó sẽ chết, thế mà các bác sĩ chữa lành cho nó. Về việc này, báo tỉnh dạo ấy có đăng một bài dài.
Ra viện, nó được đưa về nhà bà nội, một bà già độc thân sống nhờ gạo và tiền trợ cấp nhà nước theo tiêu chuẩn mẹ liệt sĩ.
Mấy tháng sau, bố nó, một sĩ quan không quân cấp tá đóng đâu đó rất xa, được tin vội về nhà, mang theo đôi nạng bé tí bằng nhựa có màu xanh đỏ rất đẹp. Thế là trong gần một tháng nghỉ phép, bố và bà nó chỉ làm mỗi việc là dạy nó biết đi, đi bằng ba chân, một chân thật và hai chân nhựa - cả ba cùng bé tí, yếu ớt và dễ gẫy.
Nó là đứa trẻ thật dễ thương. Vừa tập đi nó vừa reo lên ầm ĩ như đang thích thú chơi một trò chơi hấp dẫn. Lúc ngã nó không khóc, còn toét miệng cười, mắt mở to long lanh, đôi má đỏ hồng vì mệt.
Những lúc ấy bố nó ngoảnh đi nơi khác, kín đáo lau nước mắt. Còn bà nó thì nói:
- Úi chà, bé Xoan của bà ngoan nhỉ, lớn lên thế nào bà cũng cho theo bố bay tít trên trời kia kìa.
Bé Xoan dần dần lớn lên thành cái Xoan. Trẻ con thật chóng lớn. Mỗi năm bố nó gửi về một đôi nạng mới. Đến tuổi đi học nó đã có năm đôi bằng nhựa đủ màu. Bà nó dựng trong góc nhà, cái sau lớn hơn cái trước, cái nào cũng còn mới, trông như bộ sưu tập nho nhỏ. Bộ sưu tập những đôi nạng bằng nhựa.
Cũng may trường chỉ cách làng một cánh đồng, nhưng hàng ngày nó phải dậy chống nạng đi từ rất sớm, để độ nửa giờ sau lũ trẻ cùng làng, cùng lớp ồn ĩ chạy vượt qua như cơn lốc. Cũng có hôm ai đó tiện đường, bế nó đi, bế cả người lẫn nạng.
Đôi lần về quê, tôi cũng bế nó như vậy. Dọc đường tôi hỏi chuyện này chuyện nọ. Thường nó im lặng hoặc trả lời không hào hứng lắm, dù tôi biết nó thích tôi vì thỉnh thoảng tôi mang từ Hà Nội về cho nó những cuốn sách đầy hình vẽ tuyệt đẹp.
Trong tâm hồn thơ ngây của nó đã xuất hiện những gợn buồn mặc cảm.
Sự thay đổi đó bắt đầu từ ngày đầu tiên tới trường.
Vốn quen suốt ngày ngồi một chỗ với bà, hôm ấy nó hết sức ngạc nhiên khi thấy ở trường chúng bạn cười nói, chạy nhảy nhiều quá. Cùng sự phát hiện ấy, nó ý thức sâu sắc hơn khuyết tật của mình. Một cảm giác lo sợ mơ hồ dần dần xâm chiếm người nó. Nó thấy như cả trường ai cũng đang nhìn nó, với đôi mắt vừa thương hại vừa giễu cợt.
Cũng trong ngày đầu tiên ấy, một thằng bé ngỗ nghịch đã chủ ý ngáng chân làm nó ngã. Không đau, nhưng nó khóc mãi, cả đến khi cô giáo bắt cậu kia đứng khoanh tay xin lỗi, nó vẫn chưa nín. Từ đấy nó tìm cách xa lánh mọi người. Giờ ra chơi nó trốn vào góc vắng ngồi im và quan sát. Nó trở nên lầm lì, nhiều khi đứng lặng, chống nạng thẫn thờ nhìn các bạn nhảy dây hoặc chơi lò cò.

                                                  *
Dễ chừng hơn mười năm nay tôi không gặp lại cái Xoan. Trước kia nhà nó cạnh nhà tôi, nhưng từ ngày bà nội chết, nó được gửi đến ở nhà một ông bác không có con tận cuối làng. Mấy đợt về quê ngắn ngủi tôi chẳng gặp nó lần nào. Chắc nó ít ra đường. Tôi chỉ được nghe kể lại rằng lớn lên, nó là một cô bé rất xinh đẹp, đặc biệt khuôn mặt. "Cứ như tranh vẽ ấy!" người ta kháo nhau như thế. Ở quê tôi đó là câu khen cao nhất mà bất kỳ cô gái nào cũng mong có được. Đẹp như tranh vẽ!
- Nhưng mà nó cũng khác thường lắm cơ, - một người nhận xét.
- Khác nghĩa là thế nào? - tôi hỏi.
- Nghĩa là tính khí nó thất thường. Thoắt buồn thoắt vui, có ngày không mở miệng nói câu nào, ngơ ngơ, ngác ngác. Người đâu mà bao giờ cũng như từ trên trời rơi xuống. Chẳng chơi với ai, chỉ thích đọc sách một mình.
Ở quê, tôi có một tủ sách khá lớn mà từ nhỏ tôi đã có ý thức xây dựng bằng đủ mọi cách, mọi giá. Ngày rời làng đi xa, tôi cho vào tủ khóa lại cẩn thận, dặn mẹ tôi không được đưa ai mượn. Mấy năm qua, là người ham hiểu biết, chắc cái Xoan tìm đến nài nỉ mẹ tôi, và do thương người, bà cụ không nỡ từ chối.
Sống ở vùng hẻo lánh như quê tôi, không bè bạn, không bao giờ đi đâu, cộng với sự mặc cảm bệnh tật và một trí tưởng tượng quá phát triển, dễ hiểu Cái Xoan bị những cuốn sách ấy tác động mạnh thế nào. Chúng là người bạn, là niềm an ủi duy nhất của nó từ trước đến nay. Khác những đứa trẻ bình thường, nó tiếp nhận thế giới sách vở thơ mộng, diệu kì ấy theo cách riêng của mình, và sống với nó nhiều hơn với cuộc đời có thực. Có lẽ chính sự khác biệt giữa hai thế giới ấy đã làm nó thành người "từ trên trời rơi xuống" và "trái tính trái nết" như người ta nói.
Kỳ nghỉ phép năm nay, tôi vừa về tới nhà buổi chiều thì chập tối ông bác Cái Xoan đã đến tìm gặp.
- Tôi phải nhờ ông giáo một việc, ông giáo ạ, - ông ta vào ngay câu chuyện. Nhiều người trong làng vẫn tiếp tục gọi tôi là ông giáo, dù tôi chuyển nghề đã mấy năm nay.
Bằng cái giọng oang oang, đứt quãng vì hồi hộp, ông ta kể tôi nghe sơ lược câu chuyện về Cái Xoan. Ông kể rằng mấy ngày gần đây Cái Xoan có những biểu hiện rất khác thường. Mặt nó lúc đỏ bừng, lúc tái nhợt, vốn ít nói nay càng ít nói hơn, nhiều khi ngồi thừ người cả tiếng đồng hồ. Cứ chiều đến là nó ra đứng quanh quẩn trước ngõ, mắt nhìn phía đường quốc lộ như chờ ai. Còn tối thì nó nằm trằn trọc mãi không ngủ, và tuy cố giữ, tiếng thút thít khóc vẫn bật ra.
- Tôi biết có chuyện nghiêm trọng, cố gạn hỏi nhưng nó nhất định không nói. Cả ngày hôm qua nó bỏ ăn, chỉ buông màn nằm úp mặt trên giường. Bà nhà tôi sờ trán bảo nóng, thế là tôi chạy đi mời bác sĩ. Bác sĩ trạm y tế xã ta dạo này là cô Luyến, con ông Hữu xóm dưới. Cô Luyến đến khám, hỏi điều gì đấy rất lâu rồi nói riêng với tôi... Ông biết cô ta nói gì không? Trời ơi, cái Xoan đang có thai! Ba tháng! Trời ơi!...
Rồi một tay vung lên cao, một tay tự túm lấy ngực mình, ông nói tiếp:
- Mà nó mới mười sáu tuổi. Một đứa con nít! Lại cụt chân, anh hiểu không? Nó còn chưa biết tí gì, còn ngờ nghệch hơn cả đứa trẻ lên mười. Thế mà không ngờ có kẻ độc ác nỡ quyến rũ nó... Liệu tôi biết ăn nói với bố nó thế nào đây? Ông giáo, ông bảo tôi phải làm gì bây giờ?
- Cô ấy không chịu nói với bác tên người đó à? - tôi hỏi.
- Không. Tôi tìm đủ cách căn vặn, dọa nạt nhưng chẳng ăn thua gì. Nó chỉ khóc... - Ông ta thở dài đánh thượt một cái rồi hạ giọng nói tiếp, vẻ cương quyết. - Tôi thì tôi nghi cho một thằng, ông giáo ạ. Cách đây mấy tháng có đoàn cán bộ tỉnh về xã ta. Làm gì tôi chả rõ, nhưng về một tuần, họ ở ngay trong nhà ông Xuân chủ nhiệm hợp tác xã. Trong đó có một anh còn trẻ, khá đẹp trai, hình như làm nghề báo chí, đài điện gì đó. Anh ta có sang nhà tôi chơi mấy lần, cho Cái Xoan mượn sách và kể chuyện nghe say sưa lắm... Không lẽ chính hắn làm cái điều ghê tởm ấy? Mà vào lúc nào, ở đâu? Có bao giờ cái Xoan làm gì mà chúng tôi không biết đâu?
- Tôi có thể làm gì giúp bác được?
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Ông giáo là người có học, nhiều lý lẽ, có thể ông sang nói chuyện với nó chăng? Ông lựa lời thuyết phục, an ủi rồi mách chúng tôi cách giải quyết thế nào cho ổn. Hay ông lên tỉnh tìm hộ tôi cái thằng ấy xem có đúng thế không? Con bé đang chờ hắn, vì lúc nào nó cũng nhìn về phía đường quốc lộ. Chắc hai đứa hẹn hò nhau... Vâng, phải làm cái gì đấy, làm gấp, không thì nó sẽ tự tử. Gì chứ tính nó, tôi biết. Ông giáo cứu nó với.
Sau khi nghe tôi hứa nhất định thế nào cũng đến nhà ông và làm những gì có thể, ông ra về, vẻ yên tâm hơn đôi chút.
Đêm hôm ấy đi đường mệt, tôi lên gường ngủ sớm, định bụng sáng hôm sau đến gặp Cái Xoan. Đang nằm suy nghĩ mông lung thì khoảng một giờ sáng bỗng có tiếng đập cửa mạnh. Mẹ tôi ra mở. Ông bác Cái Xoan hớt hải nói không ra tiếng:
- Ông giáo, ông giáo ơi. Cái Xoan chết rồi!
Tôi vội vã mặc quần áo đi theo ông. Dọc đường tôi biết thêm rằng Cái Xoan chưa chết và đã được đưa đi cấp cứu bệnh viện huyện; rằng đêm ấy nó uống thuốc sâu tự tử, là thứ dạo này trong nhà ông bao giờ cũng sẵn vì đang dịp phun trừ sâu cho lúa. Chắc nó uống nhiều, khi được cáng đi viện, nó trong tình trạng nguy kịch, hoàn toàn mê man bất tỉnh.
Sáng hôm sau có tin báo từ bệnh viện cái Xoan đã chết. Ngày tiếp là lễ chôn cất.
          Sững sờ vì mọi việc xảy ra quá nhanh và bi thảm, tôi lặng lẽ hòa mình giữa đám người chậm chạp đi theo chiếc quan tài bé nhỏ, giữa tiếng khóc não nề và tiếng kèn trống đơn điệu. Trong đầu tôi lần lượt hiện lên hình ảnh một đứa bé bị bom chặt đứt chân từ khi còn được bế trên tay mẹ, rồi đứa bé ấy bắt đầu tập đi bằng một chân còn lại của mình với sự giúp đỡ của đôi nạng nhựa bé tí. Cùng với nó, những đôi nạng xinh đẹp, có màu sặc sỡ ấy cũng lớn dần lên, để cuối cùng được xếp thành dãy theo thứ tự như một bộ sưu tập độc đáo.
Rồi tôi nghĩ tới kẻ đã giết nó. Có thể đó là tay thanh niên từ tỉnh về mà ông bác Cái Xoan đã nói. Cũng có thể là người khác, một người nào đấy trong số những người vẫn gặp và chào hỏi nhau hàng ngày ở cái làng nhỏ bé này. Nhưng ai? Ai đã nỡ làm hại một đứa bé tội nghiệp như nó? Bất chợt tôi bỗng thấy đau nhói trong ngực, đau vì nghĩ rằng cái ác không bị trừng phạt đang ở đâu đó rất gần bên ta, dưới trăm ngàn mặt nạ khác nhau. Cái ác ấy đang chờ tấn công bất cứ lúc nào mà ta đành bất lực.
          Hà Nội, 1987


ĐÊM THÁNG CHẠP

Hai người già ngồi nói chuyện với nhau, khe khẽ và thong thả như những người già vẫn thường nói chuyện với nhau.
Đêm tháng chạp trời tối và lạnh. Gió thổi nhẹ từng đợt ngắn làm cánh cửa gỗ không cài then chốc chốc đập vào khung cạch cạch ... Có tiếng chuột đuổi nhau chít chít đâu đó sau chiếc cối xay cũ. Con mèo vàng nằm khoanh tròn bên đống tro ấm ngay sát ngọn lửa, lười biếng không chịu dậy đuổi bắt. Nó chỉ khẽ ngẩng đầu, đưa mắt nhìn một cách tiếc rẻ rồi lại uể oải nằm xuống. Trên bếp, nồi cám lợn sôi òng ọc, dừ chín từ lâu nhưng thỉnh thoảng người này hoặc người kia vẫn lơ đãng cho vào bếp một khúc củi gộc.
Những sợi khói mảnh bốc lên ngoằn ngoèo, chậm chạp. Chốc chốc vài tàn lửa rơi lên áo họ, để lại những chấm trắng nhẹ và xốp.
Bà là một phụ nữ nông thôn bình thường, trạc bảy mươi tuổi, chiếc khăn đen cũ buộc trùm đầu, che gần hết khuôn mặt thanh tú và thư thản. Một tay cầm chiếc que cời dí dí xuống đất, tay kia bà đặt lên đầu gối. Bà ngồi yên bất động, vẻ như lơ đễnh suy nghĩ chuyện gì xa xôi đâu đó. Thực ra bà đang chú ý lắng nghe người ngồi đối diện.
Người ngồi đối diện là ông, một Việt Kiều về thăm quê lần đầu sau năm mươi năm xa cách.
Hôm nay ông truột chuyến tàu nhanh hai giờ chiều, rồi một mình đi bộ từ ga về nhà, tức là cả chục cây số. Tất nhiên cảnh vật, làng xóm, đường xá bây giờ khác xưa và không thể nào nhận ra, thế mà tự ông vẫn tìm được đường về làng - có lẽ do nhờ sự cảm nhận đặc biệt nào đấy chỉ những người già như ông mới có. Ở làng ông chẳng còn ai thân thích ngoài một người cháu gọi ông là cậu. Chuyện trò, thăm hỏi một lúc với gia đình ông cháu và những người láng giềng nghe tin kéo đến, vừa ăn tối xong, ông đã sang đây thăm bà.
Hai người ngồi đã lâu bên bếp lửa sắp lụi. Họ nói chuyện nhỏ nhẹ và thong thả. Câu chuyện bị ngắt quãng bởi những lúc im lặng kéo dài. Thoạt nhìn có thể tưởng họ là hàng xóm láng giềng hàng ngày vẫn gặp nhau, vừa ngồi sưởi vừa trao đổi vu vơ đôi câu cho đỡ buồn ngủ. Chính họ, cả ông lẫn bà, cũng thầm ngạc nhiên vì sự bình tĩnh ấy của mình, ít ra bề ngoài. Cả hai chờ đợi cuộc gặp này từ lâu, đến nỗi đã mất hy vọng và gần như thôi không chờ đợi nữa.
Một cơn gió chợt thổi mạnh vào cánh cửa. Ngồi trong nhà có thể nghe rõ tiếng lá khô rơi lạo xạo trên sân gạch.
- Con đâu? - ông chợt hỏi, ngước đôi mắt cận nặng hấp háy sau cặp kính dày nhìn bà, giọng không thay đổi. Chỉ những ngón tay run run lần nới lỏng chiếc cà-vạt sẫm màu trên cổ là nói lên ông đang xúc động và hồi hộp.
Bà ngồi im không đáp, đờ đẫn nhìn những cục than đỏ rực trong bếp. Ông kiên nhẫn chờ đợi . Một lúc sau, sợ bà không nghe rõ, ông khẽ nhắc lại lần nữa:
- Con của chúng mình đâu bà?  Đứa con ngày xưa ấy?

                                            *                                   
Cái ngày xưa ấy, tức là cách đây hơn năm mươi năm, bà là một cô gái xinh đẹp nổi tiếng khắp vùng. Còn ông là chàng trai con nhà bên, cũng nổi tiếng không kém - vì khoẻ mạnh và vì táo tợn. Hai người cùng nhau lớn lên rồi yêu nhau, một tình yêu tự nhiên, giản dị trong khuôn khổ nông thôn phong kiến và lạc hậu thời đó. Gia đình nhà ông và nhà bà đều nghèo nên không phản đối cuộc tình duyên này. Những tưởng mọi chuyện đâu sẽ vào đấy, ai ngờ bất chợt tai họa đổ xuống đầu đôi bạn trẻ.
Số là trong làng có lão chánh tổng thấy bà xinh đẹp, liền nảy ý định lấy làm vợ ba. Ngày ấy chánh tổng quyền to lắm, muốn làm gì với ai, người ấy phải chịu. Không hiểu từ đâu lão moi ra món nợ hai trăm đồng bạc, bắt bố bà trả ngay, nếu không phải gả con gái cho lão để trừ nợ. Một thủ đoạn quen thuộc, trắng trợn nhưng bao giờ cũng mang lại kết quả. Thế là đám cưới được dự định giữa hai người không thành. Không còn cách nào khác, bà lau nước mắt nghe bố về làm lẽ, hay đúng hơn, làm người hầu trong nhà ông chánh. Còn người yêu của bà, không nói cũng biết, đã đau khổ và tức giận thế nào.
Ông rủ bà cùng bỏ trốn thật xa nhưng bà không dám vì sợ liên luỵ đến gia đình. Ông đã cầm dao định đến nhà chánh tổng, đâm chết lão rồi sau muốn ra sao thì ra. May thay bà biết và kịp ngăn lại. Cuối cùng, sau khi thỏa thuận với lão chánh tổng, ông quyết định bỏ nhà lên tỉnh kiếm tiền mang về chuộc lại người yêu.
Hôm ông đi, cũng vào một đêm mùa đông gió lạnh thế này, bà theo ông tới tận ga xe lửa và ở đó, vừa khóc bà vừa nói với ông rằng bà đã có thai, rằng bà sẽ chờ ông về, chờ mãi.... Ông ôm chặt bà vào lòng. Hai người cứ thế đứng lặng hồi lâu cho đến khi bất chợt ông nhảy lên đoàn tàu lúc ấy đã chuyển bánh, với niềm tin chắc chắn chỉ ít tháng sau sẽ quay lại.
Ác thay, số phận đã không chiều ông. Cuối cùng thì ông cũng trở về gặp bà, có điều không phải sau ít tháng như ông muốn mà sau năm mươi năm. Đứa con ông hỏi lúc nãy là đứa con bà cho ông biết đêm ấy. .. Thấy bà ngồi im, ông đổi đề tài, hy vọng chốc nữa bắt chuyện.
- Nói chung, bà sống thế nào?
- Cảm ơn ông, không đến nỗi, - bà đáp, vẫn không ngước nhìn lên. Ngừng một chốc, bà nói tiếp: - Như mọi người trong làng cả thôi.
Vì mới về chưa kịp trò chuyện nhiều với ai nên ông không biết gì về đời riêng của bà, nếu không kể điều duy nhất ông biết được - qua người cháu - là xưa nay bà vẫn sống một mình, lúc đầu với con trai, rồi con lớn đi bộ đội, lấy vợ, sinh con đẻ cái đâu đó tận Mộc Châu, bây giờ thỉnh thoảng mấy năm một lần vợ chồng mới về Nghệ An thăm bà. Có phải con ông không? Hay con lão chánh tổng nếu hắn kịp để lại cho bà một đứa con? Điều ấy làm ông băn khoăn suốt chiều nay.
Về ông, cũng qua người cháu, đến hàng xóm và cuối cùng đến bà, bà biết ông có vợ và hai con. Vợ ông người Pháp, cả gia đình đều ở bên ấy, ở ngay thủ đô Pari. Bà còn nghe người ta đồn bây giờ ông giàu lắm, có xe hơi, nhà lầu, nay mai sẽ cho hẳn một chuyến ô tô chở quà về chia khắp làng. Nghe những điều ấy, bà im lặng không nói gì. Mà rồi thực sự trước việc ông trở về đột ngột như vậy, bà cũng chẳng biết tình cảm bà ra sao nữa. Vui hay buồn? Hay dửng dưng?
Có lẽ dửng dưng. Tình cảm bà như lửa trong bếp lò họ đang ngồi cạnh hôm nay, từng một thời bùng cháy, rạo rực, mãnh liệt, giờ chỉ còn lại đám tro âm ỉ không đủ sức cháy đỏ trở lại.
- Sao bà không lấy chồng? - ông hỏi. - Không lẽ suốt chừng ấy năm bà vẫn chờ tôi?
- Không, - bà thản nhiên đáp. - Tôi không lấy chồng, nhưng không phải vì chờ ông.
Giọng bà đều đều không thay đổi, tuy vậy nếu thật chú ý lắng nghe và nếu lúc ấy trong nhà có đèn, ông sẽ nhận thấy qua giọng nói và nét mặt bà một điều gì đó. Nhưng vì già, mắt lại kém và trong nhà mờ tối nên ông đã không nhận thấy điều ấy.
Ông bỏ nhà ra đi được một năm thì cách mạng bùng nổ. Lão chánh tổng mắc bệnh rồi chết. Bà ôm con về nhà bố mẹ rồi bắt đầu hết ngày này đến ngày khác mong chờ ông trở lại. Bấy giờ thời thế đã thay đổi, không cần hai trăm đồng kia họ cũng có thể lấy nhau. Chỉ cần ông trở lại. Bà chờ và tin ông sẽ trở lại, nhưng một tháng, hai tháng rồi năm tháng trôi qua mà vẫn không thấy ông đâu. Bà nhờ hết người này, người nọ tìm giúp, mọi cố gắng đều vô ích. Một lần không nén được, bà bồng con ra ga, định lên tỉnh hay thậm chí đi cả Hà Nội để tìm ông, may người nhà biết, chạy theo bắt quay lại. Bà mòn mỏi chờ rất lâu, vừa thương vừa oán trách ông, không biết rằng ông, sau khi hết cái thời hạn mấy tháng tự đặt ra kia vẫn không dành dụm được đồng nào, cuối cùng thất vọng, ông trốn lên một tàu buôn sang Pháp định thử số phận lần nữa bên đó.
- Còn ông, ông sống thế nào? - bà hỏi, tức ý bà muốn hỏi năm mươi năm qua ông sống thế nào.
- Cũng bình thường như người khác. Nghĩa là khó khắn chứ chẳng sung sướng gì ... Bà tha lỗi cho tôi là suốt từ bấy đến nay không kiếm đủ tiền về chuộc bà...
Quả đúng cuộc đời ông không dễ dàng chút nào. Ở nước Pháp mẫu quốc kiếm tiền cũng khó như xứ An Nam thuộc địa. Ông từng thất nghiệp hàng năm, từng suýt chết đói, từng làm đủ nghề và thử vận may khắp nơi. Kể ra thỉnh thoảng số phận nghiêm khắc cũng khẽ mỉm cười với ông, nhưng không bao giờ đến mức cho phép ông kiếm đủ tiền mua vé tàu biển trở lại quê hương. Ở tuổi gần năm mươi, hoàn toàn mất hết hy vọng, ông lấy vợ, lấy một phụ nữ Pháp cũng nghèo và gặp nhiều bất hạnh như ông...
- Sao ông không cho bác gái và các cháu về thăm quê luôn thể?
- Tôi về lần này cùng một đoàn Việt Kiều yêu nước. Hội chịu mọi chi phí. Vả lại... Vả lại...- ông ngập ngừng, khẽ mỉm cười như người có lỗi. - Về một lúc mấy người, tự lo, tôi không đủ tiền...
Bà thoáng ngạc nhiên nhưng không nói gì. Hai người im lặng. Lát sau, thấy bà có vẻ bắt chuyện, ông quay lại câu hỏi băn khoăn từ đầu. Ông nói:
- Tôi nghe nói bà có một người con trai.
- Vâng.
- Con của tôi?
- Không.
Ông húng hắng ho, những ngón tay run rẩy lại đưa lên nới chiếc cà vạt trên cổ.
- Tôi không hiểu... Nhưng..... nhưng nó có phải là đứa con bà nói với tôi vào đêm hôm ấy không?
- Đúng thế, - bà đáp, vẫn không thay đổi giọng, không thay đổi cả nét mặt lẫn thế ngồi. Rồi bà nói tiếp, đoán ông đang ngạc nhiên không hiểu: - Vâng, đúng là nhờ ông mới có nó, nhưng thế chưa đủ để thành con ông...
Bà im lặng, nhìn đăm đăm vào đống than hồng trong bếp. Sau cái vỏ bình tĩnh bề ngoài, từ lâu trong lòng bà đang khóc, bà khóc cho cả chừng ấy năm đau khổ. Bà trách ông - trách lắm chứ! - đã bắt bà phải chờ đợi lâu đến thế. Cũng vì ông mà bà phải cô đơn suốt đời. Tất cả những điều ấy quá sức một người chịu đựng, cả khi người ấy là phụ nữ. Cũng quá sức chịu đựng của bà cái điều sau năm mươi năm bà mòn mỏi chờ ông, cuối cùng ông về, một vợ hai con, rồi hỏi: "Không lẽ suốt chừng ấy năm bà vẫn chờ tôi? " Tính tự ái ương bướng của người phụ nữ bị bỏ rơi đã bắt bà nói trái lòng mình.
Thực ra bà vẫn biết ông không có lỗi. Ông cũng chẳng hạnh phúc hơn bà,  quả vậy, nhưng dù sao...
... Bà chờ ông suốt cả chín năm kháng chiến. Ngày nào bà cũng chờ,  ngày nào bà cũng tin hôm nay có thể ông về. Nhưng ông đã không về. Rồi hòa bình, hòa bình được một năm ông cũng không về. Đến lúc ấy thì bà nghĩ có lẽ ông đã chết và thôi không chờ nữa, tuy vẫn nghĩ có thể một ngày nào đó bất chợt ông sẽ xuất hiện. Ông là người như thế. Với ông điều gì cũng có thể xảy ra. Từ bấy đến nay bà ở vậy nuôi con vì quá đau buồn, quá mệt mỏi nên không đi thêm bước nữa. Năm tháng tiếp nhau trôi qua, dần dần trong làng chẳng còn ai nhớ tới câu chuyện tình trắc trở giữa hai ông bà...
Ông hỏi:
- Khi tới Pháp, tức là cách đây... - ông dừng lại nhẩm tính, - năm mươi mốt năm một tháng, tôi có gửi cho bà một bức thư, bà nhận được không?
- Không, - bà đáp.
- Và năm năm tư, sau chiến thắng Điện Biên, một thư nữa? - giọng ông nhỏ nhẹ và tự nhiên, như ai đó vừa ngáp vừa hỏi bạn: "Tháng trước mình gửi thư cho cậu, không nhận được à?".
Bà lại lắc đầu rồi lần đầu tiên nhìn thẳng vào mắt ông, bà hỏi:
- Sau đó thì thôi? Chỉ hai thư? Trong năm mươi năm?
- Vâng, - ông đáp, vờ cúi xuống thổi lửa để tránh cặp mắt bà. - Vì tôi hoàn toàn bất lực trước hoàn cảnh của mình. Vì tôi sợ làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của bà, tất nhiên nếu bà có hạnh phúc... Bà .... bà hãy tha thứ cho tôi, - giọng ông run run. - Tôi không xứng là một thằng đàn ông, tôi không kiếm đủ tiền về chuộc bà... Vâng, suốt chừng ấy năm...
Hai giọt nước mắt lớn, màu đục từ từ lăn trên má ông cho đến lúc gặp gọng kính, tỏa ra hai bên. Ông để mặc chứng tự do trào ra không chút xấu hổ. Bà bỗng thấy thương ông, thương cho cả chính mình. Đôi mắt cay cay, bà lái câu chuyện sang hướng khác:
- Thế tuổi già của ông, ông định thế nào?
Ông không đáp ngay, thong thả lấy chiếc khăn mù-xoa lụa từ trong túi và cũng thong thả như thế, chấm chấm khăn lên hai khóe mắt.
- Cũng đành được sao chịu vậy chứ biết làm gì hơn? Bà xem lúc trai trẻ còn khoẻ, còn cần cho bà, cho làng xóm thì tôi lang thang nơi quê người. Bây giờ thế này, không lẽ tôi còn dám dẫn bộ xương già về quê để mai mốt chiếm thêm mấy thước đất làm mộ, uống thêm ít nước, ăn thêm ít cơm gạo, cái mà thiếu tôi, ở đây vốn chẳng lấy gì làm nhiều...
Im lặng.
- Ông thấy quê hương bây giờ thế nào? - bà hỏi.
- Ồ khác lắm, mới lắm. Tôi mừng lắm. Chẳng còn tí gì giống trước, trừ cây đa đầu bến. Cây đa chứ không phải dòng sông. Dòng sông bây giờ bị nắn thẳng, rộng ra và xấu đi... Ấy thế mà không hỏi ai, tôi tự tìm được về làng đấy. Nếu ngôi nhà cũ của bố mẹ tôi mà còn, có lẽ tôi cũng tìm ra được...
Giọng ông có vẻ vui hơn,  không phải không pha đôi chút tự hào.
Cứ thế họ ngồi nói chuyện với nhau nhỏ nhẹ và rời rạc. Tuy nhiên, đó chưa phải những gì ông muốn nói, cũng không phải những gì bà quan tâm muốn biết. Cả hai đều hiểu giữa họ còn có chuyện khác lớn và quan trọng hơn. Nhưng không hiểu sao - lúc người này, lúc người kia, có lúc cả hai, - họ sợ không muốn nói tới điều đó, dù biết trước thế nào cũng phải nói.
Bên ngoài hình như mưa lất phất, gió vẫn thổi từng đợt ngắn, ẩm và buốt như trước. Nồi cám lợn đã được nhắc xuống, đặt sát con mèo đang nằm khoanh tròn, hai mắt lim dim.
Ở gian nhà chính, chiếc đồng hồ treo tường cũ kỹ bà được chia từ hồi cải cách ruộng đất thong thả gõ mười hai tiếng.
- Mười một giờ, - bà nói sau một lúc dài hai người im lặng. - Đồng hồ nhà tôi bao giờ cũng gõ thừa một tiếng.
Ông đứng dậy, húng hắng ho. Bà vẫn ngồi yên không ngước nhìn lên.
- Bà không định nói gì với con về tôi à? - cuối cùng ông hỏi.
- Không.
- Bây giờ nó có nhận tôi là bố không? - ông lại hỏi, càng rụt rè hơn trước. - À mà lúc nãy bà đã nói...
Im lặng.
Trước mắt bà lại hiện lên cảnh bà ôm con định ra tỉnh tìm ông, cảnh những năm tháng cô đơn, lam lũ, những đêm dài khóc thầm, úp mặt xuống gối.
- Tôi không biết, nhưng có lẽ không...
Ông đứng yên, người co lại, đầu hơi cúi xuống như cậu học trò không thuộc bài.
- Tôi muốn nhờ bà một điều.... Tôi xin bà...- ông lắp bắp nói. - Tôi không thể.... Bà cho phép tôi được gặp con, dù chỉ một lần, dù phải giấu tôi là ai... Tôi không thể về đến đây mà không gặp nó ... Được không... bà? - Tay ông run run, hơi chìa phía trước và khẽ chạm vào mái tóc buộc khăn của bà.
Cảm thấy khách đứng mà mình cứ ngồi mãi không tiện, bà cũng đứng dậy.
- Cái đó tùy ông. Nếu ông muốn, tôi sẽ cho địa chỉ. Có thể con sẽ tha thứ cho ông cũng nên.
Thay cho lời cảm ơn, ông đặt một bàn tay gầy khô lên vai bà. Bà vẫn đứng yên nhưng thực ra bà cảm thấy như lảo đảo, sắp ngã khi bàn tay khô gầy ấy của ông chạm vào người bà.
- Cuối cùng, sau tất cả những gì đã xảy ra, bà có tha thứ cho tôi không? - ông khẽ hỏi, khẽ đến mức các từ dính vào nhau không thành tiếng.
Bà không trả lời, mà cũng chẳng biết trả lời thế nào. Trong bà lúc này nhiều tình cảm lẫn lộn cùng dâng lên. Buồn và vui. Tình thương và oán giận. Độ lượng và cố chấp... Nhưng bao trùm lên tất cả là mệt mỏi, một sự mệt mỏi dịu ngọt và cay đắng. Và dưới gánh nặng của sự mệt mỏi ấy, không biết từ bao giờ, bàn tay hai người đã nằm gọn trong nhau.
Ông từ từ bước ra phía cửa. Bên ngoài, mưa và gió vẫn chưa dứt.
Bà đứng yên. Bà đang tưởng tượng cảnh ngày mai ông lại sẽ một mình chống gậy ra ga mua vé đi Mộc Châu. Một mình. Một người già. Mưa gió...
- Này ông, - bà khẽ gọi rồi bước vội về nơi ông nghe tiếng bà đang đứng lại chờ đợi. - Trời lạnh thế mà ông .... Ông vẫn táo bạo như xưa. Ông đem theo cái này. - Rồi bà cởi chiếc khăn đen bạc màu quàng lên cổ ông, như bà đã cởi khăn quàng cho ông năm mươi năm về trước, cũng vào một đêm tháng chạp gió và mưa như đêm nay.
Hà Nội, 1983


CÔ ĐƠN

Ông ngồi trên ghế đá, chìa một tay để ngừa về phía trước.
- Cúc, cù cu. Nào, lại đây ta cho ăn! Lại gần nữa, đừng sợ! Nào! Thật rõ ngốc!
Trước mặt ông là mấy con chim bồ câu, một con màu trắng, số còn lại màu xám, cổ lốm đốm các chấm đen. Chúng mở những cặp mắt to tròn nhìn ông, đầu luôn nghiêng ngó bên này bên kia, chốc chốc lại kêu lên "gù gù", nghe như được phát ra từ sâu trong ngực. Chúng đứng từ xa chờ ông ném những vụn bánh mì khô đang giữ trên tay, nhưng ông lại muốn chúng đến gần, gần hơn nữa. Ông muốn chúng đậu và ăn từ lòng tay ông. Lúc này chúng đang cách ông một mét.
Một tuần trước đây, khoảng cách là ba bốn mét. Những mét đầu tiên được rút ngắn dễ dàng, nhưng đến cái mét cuối cùng này thì khác hẳn. Bầy chim đã quen ông, đến mức mỗi sáng khi ông xuất hiện, không hiểu từ đâu chúng kéo nhau bay đến đậu rất nhiều trước mặt. Ông ném thức ăn cho chúng, hôm là những vụn bánh, có hôm cơm thừa phơi khô hay thóc gạo. Chúng mổ ăn ngon lành, có lúc mổ nhầm cả những viên sỏi nhỏ. Chao, ông thèm được vuốt ve những con vật bé nhỏ đáng yêu này biết bao, thèm được chúng tự nguyện đặt đôi chân mảnh mai lên tay ông, để ông khoan khoái tận hưởng cái cảm giác nhuồn nhuột dễ chịu khi chúng mổ mổ vào lòng tay. Rồi vừa lẩm bẩm mắng yêu chúng tội tham ăn và khó bảo, ông vừa chìa tay về phía trước, nhưng những con chim bướng bỉnh vẫn không chịu rút ngắn cái khoảng cách một mét tai hại kia. Ngay cả con trắng dạn nhất cũng vậy. Ông tiến lên bao nhiêu, chúng lùi xa bấy nhiêu. Để chúng khỏi thất vọng bay đi, chốc chốc ông phải tung một ít thức ăn. Ông biết chúng còn ngần ngại, không tin vào lòng tốt của ông.
- Thật rõ ngốc! Có ai làm gì chúng mày đâu mà sợ, - ông mắng bầy chim, rồi lại dỗ: - Nào, lại đây! Lại đây ta cho ăn nào!...
Cứ thế, hết giờ này đến giờ khác, ông già ngồi trên ghế đá với bàn tay để ngửa chìa ra phía trước như người xin bố thí, trong khi thực ra ông đang cho, cho mà không được nhận.
Vào giờ này công viên vắng người. Mặt trời đã vượt lên khỏi khu nhà năm tầng phố bên. Đang tiết thu, nắng vàng dễ chịu. Một đôi trai gái dắt tay nhau đi ngang. Họ cười khá to, làm đàn chim hoảng sợ bay lên. Sau đó một số quay lại, số khác bay đi hẳn, chắc vì đã no hay vì chán trò chơi ú tim kia.
Bỗng một hồi trống vang to, báo hiệu hết giờ của trường tiểu học gần đó. Ông tung nốt những vụn bánh còn lại cho bầy chim rồi thong thả đứng dậy, đội chiếc mũ phớt cũ lên mái đầu bạc, sửa sửa chiếc cà vạt trên cổ và chống gậy đi ra phía cổng. Ở đó ông sẽ gặp một cô bé lớp một kháu khỉnh mà đã tuần nay hàng ngày ông có nhiệm vụ đưa đến trường và chờ học xong lại đưa về nhà.
- Ông vẫn chờ cháu từ sáng tới giờ ở Công viên đấy à? - Cô bé hỏi khi hai người bước sang phố đối diện.
          - Ừ, - ông lơ đãng đáp, tai lắng nghe những tiếng động đều đều quen thuộc của phố phường. Sáng hôm nay trời thật đẹp. Không khí trong lành và thoang thoảng mùi hoa sữa. Xuyên qua những tán cây rậm rạp, mặt trời để rơi trên hè phố những đốm tròn màu vàng chồng chéo lên nhau. Ông thong thả bước đi, thích thú gõ mạnh đầu gậy xuống đường, cố tình dẫm lên những chiếc lá khô để được nghe tiếng lạo xạo dưới đế giày.
- Ông làm gì ở công viên?
- Ông chơi.
- Ông chơi? Chơi một mình?
- Ừ, ông ngồi chơi một mình. Cháu ngạc nhiên à?
Cô bé im lặng một lúc như suy nghĩ điều gì:
- Cháu không thích chơi một mình, cháu cũng không thích ông chơi một mình.
Một chiếc xe rửa đường đi tới. Khách từ giữa lòng phố vội né lên hè. Nhiều người lầu bầu bực mình hoặc mỉm cười vui thích vì bị nước té. Chiếc xe đi qua, để lại mặt đường ướt sẫm với làn không khí run run những chấm li ti xanh đỏ cùng mùi hăng hăng dễ chịu như mùi một loài hoa nào đấy ta quên mất tên.
- Ông ơi, - cô bé lại lên tiếng, - ông biết điều này chưa?
- Biết gì cơ?
- Biết bà cháu nhận được điện báo tối nay bố mẹ cháu về.
- Thế à? - ông hỏi lại. Lúc này ông mới thực sự chú ý tới lời cô bé. Ông định hỏi thêm điều gì nhưng không hiểu sao lại lặng lẽ đi tiếp.
Nghĩa là từ ngày mai mình chẳng còn được đưa nó tới trường nữa, ông thầm nghĩ, bỗng thấy buồn buồn.
Đứa bé này không phải cháu ông, mà con một đôi vợ chồng diễn viên điện ảnh đang bận quay phim ở vịnh Hạ Long một tuần. Trong khoảng thời gian đó đứa bé được gửi đến ở với bà nội, và vì bà nội nó đi lại khó khăn nên ông, với tư cách bạn cũ của gia đình, được nhờ hàng ngày đưa nó đi học.
Nhà ông cách đấy hai dãy phố. Ông sống một mình. Ông sống một mình từ xưa đến nay, chưa từng lấy vợ lần nào và tất nhiên chưa bao giờ có con cháu. Ông đã bẩy mươi tuổi. Về hưu đến cuối năm nay là tròn mười năm. Ông là nghệ sĩ vi-ô-lông nổi tiếng mà trong giới âm nhạc không ai không biết.
Tốt nghiệp xuất sắc nhạc viện Pari, ông vừa về nước thì cách mạng bùng nổ. Ông lên Việt Bắc tham gia kháng chiến bằng chiếc đàn của mình, chiếc đàn ông vẫn tự hào khoe với bạn bè là do chính tay Stradivarius làm nên. Hòa bình, ông làm việc ở Đoàn ca múa Trung ương, sau chuyển sang Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia, từ ngày thành lập cho đến lúc về hưu. Ông có tài, lại được đào tạo cơ bản nên bao giờ cũng được giao chơi bè vi-ô-lông một. Trong suốt những năm ở dàn nhạc, ông luôn dẫn đầu bè, luôn ngồi cạnh nhạc trưởng và mỗi lần biểu diễn xong, nhạc trưởng lại bước xuống khỏi bục chỉ huy đến bắt tay ông, có khi còn tặng hoa, nếu khán giả tặng nhiều hoa cho nhạc trưởng. Những lúc ông cúi chào khán giả với một tay cầm chiếc đàn viôlông bóng loáng, tay kia bó hoa, mặc áo đuôi tôm màu đen bó sát người với chiếc nơ con bướm trên cổ, ông thấy mình thật hạnh phúc, thật đẹp, đẹp và cao thượng như thế giới âm thanh kỳ diệu mà ông vừa góp phần tạo ra.
Người ông dong dỏng, khuôn mặt thanh tú với chiếc mũi thẳng và bộ ria mép à la Fuhrer trứ danh. Thời trẻ ông nổi tiếng đẹp trai, lịch sự và hiểu biết rộng, xuất thân từ gia đình giàu có, nên không nói cũng dễ đoán ông được phụ nữ hâm mộ thế nào. Vì trong dàn nhạc ông chơi bè vi-ô-lông một (premiere violon) người ta gọi ông là Maestro Premiere, nghĩa là Ông Nhất, nhất trong mọi lĩnh vực, cả âm nhạc lẫn ngoài đời...
Tóm lại, có thời ông từng là người hạnh phúc với cuộc sống thành đạt, đầy đủ và vô tư. Lúc này, hay chính xác hơn, thời gian gần đây, ông hay nghĩ về cái thời đẹp đẽ ấy. Ông buồn rầu nghĩ rằng đáng ra ông không phải cô đơn như bây giờ, rằng ông đã có thể có được những đứa cháu xinh đẹp như cô bé đang đi bên cạnh. Ông có đủ điều kiện cần thiết để được hưởng một cuộc sống gia đình hạnh phúc như người khác. Thế mà tiếc thay, lúc ấy, vì mải chạy theo sự nghiệp, vì ngại vất vả và nói chung vì ích kỷ, ông đã lần lữa, trốn tránh không muốn bước vào cuộc sống ấy. Nhiều cô gái xinh đẹp đã đến với ông, yêu ông và ông cũng yêu họ, yêu một cách chân thành, nhưng không bao giờ cho phép những mối tình ấy phát triển đến mức hôn nhân, là điều ông rất sợ, đặc biệt sợ có con.
Ông nhớ hồi còn là sinh viên ở Pari, ông yêu một cô gái Pháp nhỏ nhắn tóc vàng thật dễ thương học cùng lớp. Đó là một mối tình đẹp và trong trắng. Cô gái kia cũng yêu ông và nếu được gia đình cho phép, có lẽ ông đã ở lại nước Pháp để cưới cô ta làm vợ. Rồi một hôm cái cô gái người Pháp xinh đẹp ấy sung sướng báo ông một tin quan trọng là cô đang có thai. Thế mà ông thì lo quýnh lên, tìm đủ cách thuyết phục và dọa dẫm bắt phải phá thai bằng được. Cuối cùng cô ta làm theo ý ông, nhưng từ đó tỏ ra khinh bỉ và không còn yêu ông nữa.
Tốt, thông minh, nhưng ông là người thiếu nghị lực, ít ra trong cuộc sống đời thường. Ông sống dễ dãi, có thể nói hơi chút ít buông thả. Ông đến với phụ nữ nhanh chóng rồi xa họ - hay họ xa ông - cũng nhanh chóng như thế.  Và khi họ nói có thai, lại vẫn những lời van xin, dọa dẫm ấy, vẫn nỗi sợ cuống quít và những lo lắng chạy chọt ấy. Ở Việt Nam việc này tế nhị, phức tạp hơn nhiều. Không ít khi ông dở sống dở chế, suýt để chuyện vỡ lở. May rồi mọi chuyện cũng trôi qua êm thấm. Ông ép được nhiều phụ nữ không cho những đứa con tương lai của ông ra đời. Có thể đó là những đứa bé rất đẹp, rất thông minh. Có thể lớn lên chúng là những đứa con hiếu thảo nuôi dưỡng ông lúc già yếu, hoặc biết đâu có thể chúng sẽ trở thành các bậc thiên tài mang vẻ vang lại cho ông và cho đất nước... Thế mà ông, ông đã không cho chúng xuất hiện trên đời. Ông đã giết chúng! Vâng, giết từ khi còn trong bụng mẹ... Chúng, những đứa con, một phần máu thịt chính bản thân ông.
Ông rùng mình trước ý nghĩ đó. Trước kia ông cũng mặc cảm và ít nhiều bị lương tâm cắn rứt, nhưng nói chung ông xem việc này là bình thường. Thậm chí trên khía cạnh nào đó còn "mang tính nhân đạo". Bây giờ, già và cô đơn, dần dần ông nhìn nhận sự việc theo góc độ khác. Càng ngày ông càng hay nghĩ đến chúng, cũng như hay nghĩ tới Trời, Phật,...
- Thế là mai cháu không đi học với ông nữa à?... - ông hỏi.
- Không ạ, mai mẹ cháu dẫn đi. Mai thứ ba, thứ lẻ, còn các thứ chẵn bố cháu dẫn, - cô bé đáp.
- Cháu thích ông hay bố mẹ dẫn đi học?
Đứa bé không trả lời ngay. Nó ngước lên nhìn, dò xem ông hỏi thế có hàm ý gì, rồi với cái cách láu lỉnh của trẻ con, nó đáp:
- Cháu thích cả ông, cả bố mẹ cháu.
Ông thừa biết nó nói thế để khỏi làm ông mất lòng, chứ thâm tâm nó thích đi học với bố mẹ hơn. Bất giác ông thở dài, chống gậy đi tiếp. Như để xua đi những ý nghĩa nặng nề, ông thầm hát giai điệu quen thuộc trong một bản giao hưởng của Mozart mà ông đã nhiều lần biểu diễn.
Từ trường về nhà chỉ bốn năm dãy phố, nhưng để kéo dài buổi đưa tiễn cuối cùng này, ông cố tình dẫn đứa bé vòng vèo hồi lâu. Để bù lại việc phải đi xa như thế, ông mua cho nó một lúc hai que kem sô-cô-la và một chiếc bóng bay hình con voi, có đủ cả vòi và bốn chân, duy chiếc đuôi thì phải dán bằng giấy nhựa màu đỏ.
Cuối cùng hai ông cháu cũng về tới nhà. Từ cổng, nhìn cô bé chạy lon ton lên bậc thang với chiếc cặp da màu vàng trên lưng, đôi nơ xanh to trên mái tóc và chiếc áo blu-dông rất diện màu đỏ, sặc sỡ và nhí nhảnh như con bướm. Ông đứng nhìn theo, thừ người hồi lâu. Ông có cảm giác như vừa để tuột khỏi tay một cái gì đó đẹp đẽ, ấm áp, một hạnh phúc bé nhỏ mà tuần qua ngẫu nhiên ông được giao giữ tạm nay đến hạn trả lại.
Một tuần, hai tuần rồi cả tháng sau đó, hàng ngày ông vẫn đều đặn ra ngồi trên ghế đá công viên - để sưởi nắng, suy nghĩ và để cho chim bồ câu ăn.
Căn phòng ông đang sống quá rộng, thiếu ánh sáng và vào mùa này thường ẩm lạnh. Ông không muốn ở nhà còn vì một lẽ là ngồi trong phòng không hiểu sao ông thấy khó thở, như thiếu không khí vậy. Một nỗi sợ vô hình nào đó cứ bám lấy ông, khiến ông nhiều khi phải co rúm người lại, hoặc vội nằm xuống gường trùm chăn kín đầu. Những lúc ấy ông thấy mình thật cô đơn, bất hạnh. Cả chiếc đàn vi-ô-lông, người bạn trung thành và là nguồn an ủi của ông mấy chục năm liền, bây giờ cũng chẳng giúp được gì. Lâu nay nó vẫn lặng lẽ treo trên tường. Lặng lẽ như chủ nó.
Thời gian gần đây sức khỏe ông suy sụp một cách nhanh chóng. Ngoài các thứ bệnh của tuổi già, ông mắc thêm chứng nhồi máu cơ tim. Có ông bạn bác sĩ một hôm khám xong, vỗ vai ông, đùa nói: "Cái cơ này thì nên viết sẵn di chúc trước, chứ không biết nó đến lúc nào đâu, ông ạ". Nó tức là cái chết đột ngột mà ông bác sĩ muốn ám chỉ.
Ra ngoài trời, ông thấy dễ chịu hơn, vì dù sao cũng được tiếp xúc với mọi người, tuy chỉ toàn những người xa lạ. Có không ít bạn bè quen thân, nhưng ông chỉ tìm gặp họ vào lúc thật cần thiết. Với mặc cảm của người già, ông sợ sự có mặt của ông sẽ làm phiền họ, hay sợ phải nghe những lời thông cảm hoặc khích lệ vì thương hại. Thành ra mỗi buổi sáng, cứ tám giờ là ông đã ngồi ở ghế đá công viên, nơi ông nghĩ phù hợp với ông hơn cả. Ở đấy có nắng, có cây xanh, có hoa, đông người mà không ai biết ông và ông có thể ngồi bao lâu tùy thích.
Thường mười một giờ rưỡi, khi từ trường học bên cạnh vọng lại tiếng trống báo hết giờ, ông đứng dậy ra khỏi công viên, đến ăn trưa ở quán cơm bình dân quen thuộc. Ông tiếc không còn được đưa cô bé về nhà như trước. Bây giờ bố mẹ nó thay phiên nhau làm việc ấy. Nhiều hôm ông chờ sẵn họ đâu đấy rồi như thể vô tình gặp nhau, ông cùng đi với họ một quãng. Đứa bé, vẫn đỏm dáng và sặc sỡ như con búp bê, một bên nắm tay ông, bên kia là mẹ hoặc bố. Những lúc ấy ông thấy lòng mình tự nhiên ấm lại. Ông lại có cái cảm giác được mượn tạm hạnh phúc ai đó trong chốc lát. Ông cố tình bước chậm, ưỡn thẳng chiếc lưng từ lâu muốn cong gập xuống đất và không phải không tự hào đưa mắt nhìn khắp phố. Ông muốn mọi người thấy ông đúng lúc này, với hai con người trẻ đẹp đang âu yếm đi bên cạnh. Ông muốn mọi người nghĩ họ là con ông, và đứa bé kháu khỉnh kia là cháu ông. Nội hay ngoại không quan trọng.
Tuy nhiên, những cuộc gặp "tình cờ" như thế không thể kéo dài vô tận nên thường sau bữa trưa, nếu ngủ được, ông chợp mắt một chốc, còn không thì lang thang hết phố này đến phố nọ. Để giết thời gian, ông đứng hàng giờ liền trước bảng báo công cộng, đọc không sót mục nào các tờ báo lớn trung ương và Hà Nội.
Nhiều hôm không hiểu sao ông đóng bộ nghiêm chỉnh, thay cà vạt, đánh bóng đôi giày da mũi nhọn rồi xách đàn ra đi, trịnh trọng và hồ hởi như sắp biểu diễn một chương trình quan trọng. Ai hỏi đi đâu, ông ngượng nghịu nói đến nhà một người bạn để ghép bè pi-a-nô. Ông đi ngang Nhà hát lớn, nơi ông ngày xưa thường đến với tư cách Maestro Premiere, đi hai lần. Lần sau, dừng lại trước bảng quảng cáo chương trình, thấy tên một vở cải lương rẻ tiền, ông nhíu mày bỏ đi. Rồi ông xách đàn tới cơ quan cũ. Cạnh đấy là phòng tập của dàn nhạc. Ông muốn vào nghe nhưng ngần ngại không dám, chỉ dám đi ngang qua cổng, bước chậm lại để nghe những âm thành kỳ diệu và quen thuộc đang vang lên khe khẽ phía bên kia bức tường. Sau đó ông rảo bước đi tiếp như sợ bị người quen bắt gặp...
                                                  *                                                 
- Cúc, cù cu! - ông khẽ gọi. - Nào, lại đây ta cho ăn! Lại gần nữa, đừng sợ. Nào, nào! Thật rõ ngốc!
Đàn chim vẫn không chịu đến gần ông thêm nữa. Ông vung cho chúng một nhúm gạo. Tranh nhau ăn xong, chúng lại đứng nghiêng ngó nhìn ông,  kiên nhẫn đứng chờ ở khoảng cách mà chúng nghĩ là an toàn. Tuy nhiên, ông cứ muốn chúng đến ăn trên lòng tay mình. Ông cũng kiên nhẫn không kém chúng, cái kiên nhẫn của người già khi quyết tâm làm bằng được điều gì đó. Cứ thế hết giờ này đến giờ khác, như một người hành khất, ông ngồi yên với bàn tay để ngửa, trên đó có những hạt gạo nhỏ màu trắng xinh đẹp. Và trong khi chờ đàn chim đến nhận món quà từ lòng tay mình, ông ngả người xuống thành ghế, từ từ nhắm mắt. Nắng ấm và dễ chịu, nhưng trong lòng ông thấy cô đơn, lạnh lẽo. Một lần nữa trước mắt lại hiện lên tất cả cuộc đời dài ông đã sống, với tuổi trẻ sôi nổi, bồng bột, với những thành công nghề nghiệp và những năm tháng tuổi già bất hạnh. Nhưng xuyên qua tất cả vẫn là hình ảnh những đứa con oan trái mà ông, là bố, ông đã tìm mọi cách ngăn không cho chúng ra đời. Ông đã nhẫn tâm giết chúng từ khi còn trong bụng mẹ...
Một buổi sáng, như thường lệ, ông lại ra ngồi trên chiếc ghế đá quen thuộc trong Công viên. Vẫn những ý nghĩ ấy, vẫn bàn tay để ngửa với nhúm gạo trắng và vẫn những con chim bồ câu ấy... Có điều lần này ông ngồi lâu, rất lâu, lưng ngả vào thành ghế, còn đầu thì tựa vào gốc cây phía sau. Tiếng trống báo hết giờ trường bên vang lên từ lâu, rồi còi thành phố báo mười hai giờ, rồi mặt trời ngả sang phía tây, ông vẫn ngồi yên không nhúc nhích. Độ bốn giờ chiều, khi một ông họa sĩ đang vẽ cách đấy không xa sinh nghi, đi lại xem sao thì thấy ông đã chết, tay phải giữ chiếc mũ phớt sờn cũ, tay trái buông thõng xuống mép ghế, những hạt gạo trắng rơi vãi bên chân. Cả lúc ấy mấy con chim bồ câu cũng không dám đến gần nhặt ăn. Chúng chỉ đứng từ xa nghiêng ngó nhìn ông nghi kỵ.
Đúng là một lũ chim ngốc nghếch.
Hà Nội, 1987


CHIẾN TRANH

Các bạn thử hình dung một chuyện thế này:
Có đôi trai gái yêu nhau, rất yêu nhau. Cưới xong được ít hôm thì chàng trai lên đường ra trận, để lại người vợ trẻ ở nhà một mình vừa làm lụng vất vả, vừa mỏi mòn chờ đợi. Mà nào chờ đợi một, hai năm! Không, đúng mười năm. Và trong suốt mười năm dài ấy, cô gái không hề nhận được tin tức nào về chồng. Vì sao thì khó ai biết được. Thế rồi chiến tranh kết thúc, chàng trai trở về, sung sướng cảm động khi thấy vợ vẫn chung thủy. Nhưng khi hai người lên giường nằm, đặt một tay lên bụng vợ, chàng trai bỗng ngồi bật dậy:
- Em có chửa?
- Vâng.
Im lặng.
- Với ai?
- Với anh, tất nhiên, - cô gái bình thản đáp. - Em còn có chửa với ai được nữa, ngoài anh?
Chàng trai không nói gì, lẳng lặng chui ra khỏi màn, mặc quần áo rồi đến ngồi hút thuốc bên bàn - một giờ, hai giờ, cũng có thể lâu hơn. Sau đó, vì cả nhà chỉ có một giường, anh lục ba lô lấy tấm vải nhựa trải xuống sàn.
Mọi chuyện bắt đầu từ đêm ấy, cái đêm chấm dứt mười năm chờ đợi,  nhớ thương của một cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt, và cũng là đêm mở đầu những thử thách mới, nơi con người lần nữa phải mặt đối mặt với chiến tranh, loại chiến tranh không súng đạn sau cuộc chiến tranh súng đạn mà họ vừa vượt qua một cách thắng lợi.
Liệu lần này họ lại đứng vững hay sẽ bị đánh gục? Trả lời câu hỏi này thật khó, vì những thử thách mới thời bình đòi hỏi không phải sức chịu đựng ghê gớm về hy sinh và thiếu thốn, mà là cái gì đấy còn lớn hơn, phức tạp, tế nhị hơn: đó là sự tỉnh táo, tình thương và lòng vị tha.
Bạn đọc thân mến, bức tranh tôi miêu tả trên không phải lấy từ cuốn sách nào đó, cũng không do tôi nghĩ ra mà là chuyện có thật ở làng tôi.
Đôi trai gái ấy là Nam và Xuyến. Suốt đêm đó không ai nói thêm một lời nào, dù cả hai không hề chợp mắt. Sáng hôm sau, Nam đi một vòng quanh làng thăm hỏi mọi người, thực ra là để dò hỏi tin tức vợ những năm anh đi vắng. Anh ngạc nhiên, bối rối khi nghe mọi người nhận xét rất tốt về Xuyến, rằng cô cần cù, nết na và đặc biệt nghiêm túc trong quan hệ.
"Chắc cô ta khéo giấu nên mọi người không biết”
Về nhà, không kìm được, anh lại hỏi vợ, vẫn câu hỏi cũ:
- Cô chửa với ai?
- Với anh, - vẫn cái giọng nhỏ nhẹ, bình tĩnh ấy.
- Với tôi? Sao lại có thể với tôi? Cô coi thường tôi quá! - Nam giận dữ quát to. - Cô thử giải thích tôi nghe đi.
Xuyến ngước lên nhìn chồng, hai mắt rơm rớm như muốn khóc, khuôn mặt cô ửng đỏ vì ngượng ngùng.
- Nào, cô nói đi, nói đi!
- Anh Nam, - Xuyến nói. - Anh đừng mắng em như thế. Oan em... Em yêu anh, bao giờ cũng yêu anh và bao giờ cũng chung thủy với anh. Giá anh biết, dù chỉ một phần thôi, rằng em đã phải vất vả, đau khổ và lo sợ thế nào trong suốt mười năm chờ anh vừa qua. Còn việc vì sao em có chửa thì đơn giản thôi. Vì trong suốt chừng ấy năm, tối nào đi ngủ em cũng kê sẵn một chiếc gối cho anh cạnh gối em. Nhiều hôm sáng dậy, em thầm xấu hổ khi nhớ lại chuyện anh và em tối trước. Cách đây không lâu, anh cũng về với em như thế. Lần này hình như em cảm thấy anh gần hơn, cụ thể hơn. Khi tỉnh dậy, em vẫn một mình như bao lần khác, nhưng em biết chắc là anh vừa ở bên em, thậm chí hơi ấm của anh còn bám vào da thịt em, thậm chí chăn còn nhàu nát...
- Cô phịa ra chuyện ấy để bắt tôi tin và rồi dần dần chính cô cũng tin cái điều nhảm nhí ấy chứ gì?
- Xin anh đừng nói thế, oan em. Em không hề...
Nhưng Nam đã bỏ ra ngoài.
Những lời Xuyến vừa nói, thực ra không phải không làm anh suy nghĩ. Anh hiểu và thông cảm với Xuyến, vì bản thân anh trước đây cũng nhiều đêm nằm mơ có vợ bên cạnh. Nhưng không lẽ vì thế mà vợ anh có chửa? "Không! Không thể như thế được!" - anh nghĩ, tuy rất muốn tin vào điều vợ nói. Anh tìm mọi cách bào chữa cho cô, thậm chí viện cả cái thuyết đồng giao cách cảm mà gần đây người ta hay nhắc tới, nhưng cuối cùng anh vẫn phải đau khổ mà thừa nhận rằng Xuyến đã không chung thủy với anh, đã ăn nằm với một người đàn ông khác. Mà điều ấy thì quá sức anh chịu đựng, một trở ngại quá lớn anh không vượt qua nổi, thậm chí cả khi anh rất yêu thương vợ, trước kia cũng như bây giờ. Biết làm thế nào được, con người anh là thế, anh không thể lại ôm một người đàn bà khi người ấy đã từng trong vòng tay một người đàn ông khác.
Họ, hai vợ chồng và thằng bé mới sinh, vẫn ở chung trong cùng căn nhà chật hẹp. Không ai nghe họ to tiếng với nhau lần nào. Chồng - anh Nam - là người đàn ông khỏe mạnh chí thú. Anh chí thú ruộng vườn, không những đủ ăn mà còn thừa thóc bán cho nhà nước. Trong một thời gian ngắn anh sắm đủ thứ cần thiết cho gia đình. Tính anh hiền, ít nói. Cả với vợ, anh cũng chỉ nói khi thật cần thiết. Ban ngày anh làm luôn tay, làm hùng hục mọi việc. Hết việc, anh ngồi im, thường nhìn trân trân một điểm nào đó trước mặt. Và rất buồn. Tối đến anh vẫn ngủ riêng, tất nhiên không phải giữa sàn nhà, mà trên chiếc giường nhỏ mới mua, đặt sát cửa sổ. Chị vợ thì sau sinh đẻ, vốn nhỏ bé lại càng nhỏ bé hơn, bao giờ cũng lặng lẽ như cái bóng. Với ý thức của người có lỗi, chị rất muốn chiều chuộng chồng, muốn san sẻ bớt những ý nghĩ nặng nề anh đang chịu đựng, nhưng mọi cố gắng của chị đều vô ích trước vẻ lãnh đạm tàn nhẫn của anh, nên chị cố tránh gặp mặt và thường ngồi im ở một góc nào đấy.
Còn thằng bé thì thật lạ, càng lớn càng giống Nam như đúc. Một sự ngẫu nhiên? Hay lần nữa buộc phải suy nghĩ về lời giải thích vô lý của Xuyến? Điều này quả có làm Nam băn khoăn không ít. Đứa bé thật kháu. Nam không chút ác cảm nào với nó, dù chính nó là trở ngại ngăn cách hai vợ chồng anh, là nguyên nhân mọi bất hạnh trong gia đình. Ngược lại anh thương nó như thương Xuyến, vợ anh, và anh cảm thấy thực sự khổ sở khi phải cố giấu không bộc lộ tình cảm đó. Nhiều lúc cao hứng, hoặc vì vợ bận, anh còn bế con và giặt tã giúp vợ. Tuy nhiên, sau những lần đấu tranh, dằn vặt như vẫn thường xảy ra, cuối cùng cái con người định kiến, cố chấp trong anh vẫn thắng. Anh cương quyết không chịu cho thằng bé mang họ anh, vẫn bắt chữa lại thành "bác" mỗi khi nó quen miệng gọi "bố". Nhiều đêm nghe vợ ôm con khóc ở giường bên, anh những muốn lại gần vợ vuốt ve, an ủi cô, muốn làm điều gì đó thật tốt đẹp cho cô, thế mà anh vẫn nằm yên, trân trân nhìn lên trần nhà hoặc bỏ ra sân hút thuốc cho tới sáng. Những lúc ấy anh rất cáu giận. Anh giận Xuyến, giận đứa bé và nhất là giận bản thân anh. Con người anh, cái tính anh là thế, biết làm thế nào được?
Một hôm, Nam sang nhà tôi chơi.
- Được mấy ngày về thăm quê mà cứ ngồi lỳ ở nhà mãi thế à? - Vào tới ngõ, anh nói to thay cho lời chào. - Lại viết lách?
- Ừ, nghề mà. - tôi đáp. - Mời anh ngồi chơi.
Lúc này đứa bé đã lớn, biết chạy lon ton khắp làng, nhưng gia đình anh thì vẫn như cũ. Nghe nói bà con, chính quyền nhiều lần khuyên anh làm lành với vợ nhưng anh không chịu. Thế đấy, người dân làng tôi, tôi biết - rất chân thành và cả tin, nhưng một khi có ý nghĩ nào đó chui vào đầu thì không dễ mà giũ ra nổi.
- Thế nào, anh Nam, vẫn "chiến tranh" à? - tôi ướm hỏi.
Nam không đáp, nhưng nét mặt buồn hẳn xuống. Mãi lúc sau anh mới nói:
- Anh xem đấy, tôi còn biết làm thế nào khác được?
- Sao lại không? - tôi cao giọng. - Thì "hòa bình" đi! Anh không thấy anh đang làm khổ chị ấy à?
- Thế anh tưởng tôi sung sướng lắm chắc?
- Chính vì vậy mà cần bỏ qua cho nhau và càng sớm càng tốt.
Nam ngồi im, bất chợt nghiêm mặt hỏi tôi:
- Có điều này, tôi hỏi thật anh nhé?
- Vâng, anh cứ hỏi.
- Anh có tin cô Xuyến không? Tin chuyện cô ấy có chửa ấy?
- Tin, tôi tin, - tôi đáp.
- Vì sao?
- Vì sao thì không biết, nhưng tôi tin.
- Còn tôi thì không! - anh bật đứng dậy nói to một cách giận dữ. - Không! Không bao giờ!
- Suy cho cùng điều ấy không quan trọng, - tôi cũng nổi nóng. - Quan trọng là cô ấy đã chờ anh chừng ấy năm. Quan trọng là cô ấy vẫn yêu anh. Quan trọng là anh không thể và không có quyền đối xử với cô ấy như thế.
- Anh nói dễ lắm, anh nhà văn ạ, - Nam nhếch mép cười với vẻ mỉa mai không che giấu. - Với các anh, mọi chuyện thật đơn giản.
Rồi không nói thêm một lời nào, anh bỏ đi.
Đấy, các bạn xem: một con người đã mười năm lăn lộn khói lửa chiến trường, có thể đã lập nhiều chiến công phi thường, đã vượt qua trăm nghìn thử thách ghê gớm, thế mà bây giờ con người từng trải được tôi luyện ấy không vượt qua nổi cái trở ngại tưởng như rất bé kia, để chấm dứt đau khổ cho chính bản thân và cho người mình yêu quý nhất. Thật bất công và cũng thật chua xót. Nhưng cả tôi, cả các bạn thử thuyết phục anh ta đi.
Tháng hai năm 1979, khi xảy ra chiến tranh ở biên giới phía Bắc, Nam tình nguyện gia nhập lại quân đội. Vợ anh không giữ, chỉ nói:
- Anh đi, em sẽ chờ. Bao lâu em cũng chờ...
- Và cô sẽ tiếp tục đêm đêm mơ tôi về thăm. Có thể cô sẽ lại có chửa? - anh châm chọc.
- Vâng. - vợ anh đáp như không nhận thấy sự châm chọc ấy. - Nhưng anh hãy tin bao giờ em cũng yêu anh, và nếu có chửa thì cũng chỉ với anh, một mình anh...
Nam không đáp, chỉ lặng lẽ lên đường. Và không bao giờ trở về nữa.

                                                    *
Từ ấy nhiều năm đã trôi qua. Cô Xuyến nay đã là bà Xuyến. Bà già và yếu hẳn đi một cách nhanh chóng. Bà vẫn mòn mỏi chờ chồng như năm nào. Vẫn như năm nào, bà không hề nhận được một bức thư nhỏ nào của chồng, xưa là anh, bây giờ là ông Nam.
Đây là chuyện riêng của hai người, lúc đầu tôi không có ý định viết lên giấy nhưng rồi cân nhắc kỹ nhiều mặt, cuối cùng, bắt chước nhà văn Pháp Angđrê Môroa trong truyện Cuộc trở về của người tù, tôi viết và cho đăng báo chuyện này, với hy vọng mỏng manh rằng nếu ngẫu nhiên đọc nó, biết đâu ông Nam sẽ nghĩ lại. Tôi, ông Nam và bà Xuyến dẫu sao cũng là người cùng làng với nhau. Mà đã là người cùng làng thì, tôi nghĩ, không ai có quyền thờ ơ với số phận người khác.
Diễn Châu, 1987


MÙI TRĂNG

1
Ngôi nhà nằm bên cái hồ lớn cách trung tâm thành phố chưa đầy chục cây số. Mùa này gió nhiều nên mặt hồ đôi khi nổi sóng khá cao, nhất là buổi xế chiều. Tuy nhiên, do bị chắn bởi doi đất nhô ra hình cánh cung, vùng nước trước nhà luôn phẳng lặng, chỗ sát bờ thường có váng phủ, nhện và những loài côn trùng khác vẫn nô dỡn đuổi nhau.
Đó là ngôi nhà mới xây một tầng, lợp ngói, bề ngoài mang rõ nét kiến trúc dân tộc nhưng bên trong trang bị hiện đại theo kiểu phương tây. Dân giàu thành phố mấy năm gần đây có mốt xây kiểu nhà này, thường để nghỉ cuối tuần, hoặc dành cho bố mẹ già. Hầu hết họ có nhà ở thành phố, nhà nhiều tầng làm nơi kinh doanh.
Nó ở vị trí đặc biệt, thuộc loại tốt nhất. Buổi sáng từ hiên phía đông nhìn ra, nếu không có sương mù, có thể ngắm mặt trời nhô lên khỏi vệt mờ xanh làng hoa Nhật Tân, đến khi chói mắt mới thôi. Thường việc này kéo dài nửa giờ. Buổi chiều chuyển sang hiên phía tây thì tha hồ ngồi suốt buổi nhìn mặt trời lặn cho tới lúc nó biến thành chiếc mâm màu hồng khổng lồ treo lơ lửng bên mép tòa nhà khách sạn Sheraton mấy chục tầng phía bên kia hồ. Nếu không muốn bị công trình bê tông kính ấy che khuất, người ngắm chỉ việc nhích ghế sang bên.
Chủ nhà ngày nào cũng làm cái việc ngắm mặt trời ấy. Cả buổi sáng lẫn buổi chiều. Cả những hôm trời mù hoặc mưa không có mặt trời để ngắm.
Thường khi mặt trời lặn, ông thấy buồn, cái buồn mơ hồ, nhẹ nhàng mà day dứt. Buồn như hôm kia bất chợt thấy đàn sếu bay qua giữa bầu trời trong xanh, lòng ông nhẹ tênh muốn bay lên theo mà không bay được.
Cũng thường vào giờ ấy chuông chùa làng bên bắt đầu đổ. Những tiếng chuông thong thả nghe đùng đục, ngân dài rồi tắt dần trong ánh chiều tĩnh mịch. Không hiểu sao ông luôn hình dung chúng như những chiếc lá bưởi úa vàng sau nhà đang rơi lặng lẽ, rơi nghiêng như trong một bài thơ người ta đã viết. Có lá bay cả vào mái hiên mà dù rất muốn, người hầu gái không dám quét nhặt vì biết tính chủ thích để thế.
Thỉnh thoảng ông chống gậy đi sang chùa ấy. Ở đó ông quen biết một bà sư đã mấy chục năm nay, từ lúc bà còn là cô gái trẻ không hiểu cớ gì cắt tóc vào đây. Bây giờ lần nào nhìn bà thong thả đưa những nhát chổi dài quét lá rụng trên sân chùa, ông cũng thầm thở dài thử hình dung nếu đầu bà nếu không cạo trọ thì tóc đã bạc đến mức nào.
Phía trước, nơi ông ngồi bất động, có tiếng cá quẫy mạnh. Người ta nuôi cá ở hồ này, loại cá mè lúc thu hoạch có thể nặng tới hai ba cân. Không nhìn nhưng nghe tiếng quẫy, ông thấy chúng phơi bụng trắng lóa dưới ánh mặt trời, dù mặt trời đã lặn từ lâu.
Ông chợt nhớ và lại buồn, vì cây đào rừng một ông bạn già cất công mang từ Sơn La về năm ngoái trồng sau vườn mãi đến giờ vẫn chưa cho nụ nào. Loại đào này chóng lớn, thân cao, lá xum xuê nhưng ít hoa, lúc nở có màu trắng phớt hồng, không đỏ như giống đào Nhật Tân. Lần ấy ông bạn còn cho thêm một khóm trúc, cũng từ Sơn La, nhưng ông đã chặt bỏ tháng trước vì thân chúng quá mập chứ không mảnh khảnh theo kiểu “trúc sấu lão công khanh” của Trần Nguyên Đán. Chắc vì đất ở đây quá màu mỡ.
Hôm nay là chủ nhật. Cô con dâu út từ thành phố về đây từ sáng. Nó đang ngồi trên chiếc ghế xếp trong vườn, tay cầm cuốn sách, và cũng ngắm mặt trời lặn như ông. Nó có chửa sắp sinh. Có lẽ nó đang đọc ca dao hoặc những bài hát ru để sau này sinh con còn biết ru. Lúc này nó ngả người trên ghế, hai tay nhẹ nhàng đặt lên chiếc bụng chửa to tròn như đang nâng giữ cả trái đất. Ông có cảm giác như không phải mặt trời vừa khuất sau tòa nhà khách sạn sáng loáng của người nước ngoài, mà đã chui tọt vào bụng con dâu mình.
Nó sắp sinh. Vậy là ông sắp có thêm đứa cháu nữa. Còn cây đào Sơn La thì mãi không chịu ra nụ. Mai ông thử cắt bớt lá xem sao. Có cách nào làm cho đất cằn cỗi chút ít thì càng tốt. Lạ thật, có nhiều loài, như cây hoa giấy hay bằng lăng chẳng hạn, trồng ở nơi khô hạn, sỏi đá thì hoa nhiều và đẹp, còn không thì chẳng tích sự gì. Người cũng vậy.
Từ phòng khách vẳng ra những tiếng đàn pianô rời rạc. Có lẽ cháu ông đi ngang ngứa tay gõ mấy nốt. Nó là con thằng cả, người xây cho vợ chồng ông ngôi nhà này. Nhà nó ở thành phố có cây đàn lớn mới tinh chiếm cả một phòng, giá những mấy chục nghìn đô-la. Chiếc đàn nhà ông cũng mới, mua cho đẹp phòng khách, và cũng để phòng lúc con bé hứng lên chơi vài bài. Nhưng nó lên đây chỉ thích chơi trò điện tử.
Cũng có thể mấy tiếng nhạc ấy là trò chơi của con mèo con tinh nghịch. Một lần ngẫu nhiên dẫm lên phím đàn thấy phát ra những âm thanh lạ tai, nó thích rồi dần thành quen, bây giờ thì hầu như ngày nào nó cũng nhảy lên đàn, đi lại trên dãy phím đen trắng vài lần. Nếu ghi lại được cũng thành bản nhạc theo trường phái hiện đại, kiểu cho chó dẫm lên sơn rồi bước lên toan vẽ của họa sĩ. Ban ngày chẳng sao, nhưng ban đêm lắm lúc cũng khó chịu.
Nhiều hôm đang ngủ, ông chợt nghe có tiếng nốt đàn ngân rất khẽ, những nốt cao. Chắc chắn không phải do con mèo. Vậy do gì? Ông không biết. Và trong giấc ngủ chập chờn, ông lười biếng nghĩ có thể do ánh trăng hay một cánh hoa bay vào rơi lên nốt nhạc.
Trời tối hẳn. Cô con dâu đã bê mặt trời vào nhà. Đứa cháu chán trò điện tử đang bật nhạc rất to. Còn ông thì vẫn ngồi yên bất động, mắt đăm đăm hướng về phía trước. Trăng chưa mọc. Sao cũng không có. Chỉ có những ô cửa sổ rực sáng của tòa nhà khách sạn. Ông nhìn chúng một cách hằn học.
                                  
2
Bữa ăn diễn ra khá ồn ào. Ông không thích nhưng chẳng nói gì. Cả nhà ngồi bên chiếc bàn lớn gỗ gụ hình bầu dục trải khăn ăn trắng toát, bên trên có lớp kính dày. Ông ngồi ở chỗ thường ngày, đầu bàn. Vợ ông phía đối diện. Bình thường cô gái giúp việc cùng ngồi ăn chung. Đó là một cô bé khá xinh xẻo, da trắng, mặt trái xoan, bỏ việc văn phòng ở một cơ quan nhà nước xin đến đây làm ô-sin vì tiền công cao bằng lương trước đây, ăn ngon và hầu như chẳng phải làm gì. Những hôm có khách cô ăn sau một mình.
Vợ chồng anh cả ngồi một bên. Con gái họ và cô dâu út ngồi bên kia. Chồng cô gọi điện bảo bận không đến được. Còn hai chiếc ghế trống. Con bé đặt chiếc máy điện tử lên mặt ghế, một tay xúc cơm, tay kia bấm bấm lên nó rồi ồ lên xuýt xoa, bất chấp lời nhắc của mẹ. Chiếc ghế trống thứ hai ở gần cửa, nơi có cành hồng xiêm từ vườn vươn vào. Anh con mấy lần đòi chặt vì vướng lối đi, nhưng ông nhất định không cho.
Suốt bữa ăn chốc chốc ông nhìn cành cây, cứ sợ một quả trên đó, quả to nhất và có vẻ như đã chín, rụng xuống làm hỏng liễn xúp. Thực ra, nếu nó có rụng thì cũng không rụng theo đường xiên, mà phải thẳng đứng, cách chiếc liễn ít nhất nửa mét.
“Bố dạo này hình như không được khỏe?” anh con hỏi.
“Ừ, già rồi, còn gì”.
Ông thong thả đáp rồi nâng chén uống nốt chỗ rượu còn lại. Ông chỉ uống rượu Làng Vân chứ không bao giờ động đến những chai rượu ngoại đắt tiền có rất nhiều trong tủ. Thỉnh thoảng cô dâu út gắp miếng thức ăn bỏ vào bát bố chồng.
Anh kia quay sang bàn chuyện làm ăn với vợ, nói oang oang các con số lỗ lãi. Chị vợ là giám đốc một công ty tư nhân mang tên mình, đăng ký kinh doanh dịch vụ thương mại, nhưng thực chất làm nhiều việc khác lớn hơn. Việc gì thì ông không biết mà cũng không muốn biết. Anh chồng là người nhà nước, phó chủ tịch hội đồng quản trị cái khách sạn sáng loáng ông căm ghét vì che mất mặt trời của ông, và cả vì nó làm xấu cảnh quan chung của chiếc hồ.
Hôm nay anh ta mang về nguyên vẹn một con lợn sữa quay vàng, đặt trên chiếc đĩa sứ  lớn Trung Quốc hình bầu dục. Con lợn bé lắm, chỉ độ gang rưỡi, da căng, vàng óng và khắp người dính đầy mỡ. Lần nào lên đây anh ta cũng mang cái gì đó từ khách sạn về.
Bà vợ ông lấy dao xẻo một miếng lớn ở phần mõm, ăn ngon lành. Anh kia lật ngược con lợn, bổ nó ra làm hai rồi cắt thành nhiều miếng hình vuông, thứ tự đặt lên đĩa mọi người. Tất nhiên miếng đầu tiên lên đĩa ông bố. Ông không đụng đũa, suốt buổi chỉ nhâm nhi miếng bánh mì kẹp pho-mat hoặc trứng cá. Cả nhìn anh con làm động tác mổ xẻ ấy ông cũng không.
Lúc ấy đã xế chiều. Nắng vàng hoe, rực rỡ. Vào thứ bảy, nhà ông có thói quen ăn trưa rất muộn, và bữa ăn thường kéo dài cho đến chập tối.
Ông ngoảnh mặt ra phía vườn. Ở đó, cạnh lối lên xuống có chiếc chậu lớn đất nung màu đỏ với cây si tam tòng tứ đức, bên trái ba tán hình tròn, bên phải bốn. Ông thông gia tặng vợ chồng anh cả năm ngoái, hàm ý nhắc con gái ăn ở cho đúng đạo nghĩa dâu hiền. Con ông kêu nhà có quá nhiều cây cảnh nên tháng trước chở nó lên đây. Không nói tặng, cũng chẳng nhờ chăm hộ.
Vậy là chúng không hiểu ý cây si tam tòng tứ đức ấy. Chắc vợ ông cũng không một lần nghĩ tới ý nghĩa của nó, dù ngày nào cũng tưới nước.
Ông cố nhìn nhưng không thấy cây si do bị khuất sau bụi hoa giấy. Thay vào đó, ông thấy rất rõ hình con lợn sữa lành lặn nằm trên đĩa, như đứa bé mới sinh được tắm sạch sẽ đặt lên giường sắp được mẹ âu yếm quấn tã. Ông rùng mình, như thể bà Tý vợ ông vừa xẻo miệng nó, còn anh con thì thản nhiên mổ bụng, chìa một miếng cho ông.
Cô dâu út cũng không ăn, vì lý do khác chứ không nghĩ như ông. Cô luôn ngồi im, một tay, tay trái, chốc chốc lại xoa lên chiếc bụng chửa to tròn.
Nhìn cô, ông cứ nghĩ về hình tròn của mặt trời và trái đất.
Ngày nhỏ đi học ông đã biết được rằng cả lịch sử tiến hóa của loài người đều gói gọn trong chín tháng hình thành cái thai. Từ tế bào đơn giản nhất thành loài không xương, loài cá, bò sát rồi đến linh trưởng và cuối cùng thành người. Trước khi lọt lòng mẹ, con người cũng đầy lông lá và có đuôi. Như khỉ. Thật buồn cười. Và ông đã thầm cười một mình.
“Mẹ nghĩ đẻ xong con nên đưa cháu đến đây ở hẳn với ông bà. Mẹ chăm cho. Chứ bên ấy một thân một mình…”
Bà Tý bảo cô. Lúc ấy mọi người đã chuyển sang uống trà. Nhà này có cái lệ ăn xong vẫn ngồi lại uống trà với nhau, đúng mốt các nhà giàu mới nổi.
“Vợ chồng con cũng nghĩ thế nhưng chưa biết ý bố mẹ thế nào”.
Cô nói, hình như lần đầu tiên từ khi đến đây. Cô hay cả thẹn, gầy và rất ưa nhìn. Mặt tai tái nhưng hứa hẹn sẽ hồng hào xinh đẹp sau khi sinh. Đàn bà đẻ con như lột xác, trẻ và đẹp hẳn lên. Cô làm kế toán ở một trường đại học, hàng ngày chồng chở ô tô đi về. Những hôm chồng đi xa, mà anh thì phải đi xa luôn vì là làm giám độc một công ty phần mềm đang làm ăn phát đạt, cô tự lái xe, thích thì thích nhưng sợ rúm cả người. Lần này nhân nghỉ đẻ, chồng cô bắt thôi việc ở trường. Cũng phải chịu, dù cô không muốn.
“Có gì mà ý với chả kiến”, bà Tý đáp. “Cho vui cửa vui nhà. Chứ một mình thế này với bố mày, tao đến chết buồn mất”.
“Vâng ạ”.
Thế là sẽ thêm một mặt trời nữa ở nhà mình, ông nghĩ. Ngộ nhỡ đứa bé ra đời mà quên rụng lông, rụng đuôi thì sao nhỉ?
Bà Tý thấp người nhưng mập. Mặt tròn, da căng dẫu đã qua tuổi sáu mươi. Chắc ngày nhỏ bà gầy bé lắm nên mới có cái tên Tý ấy. Cuộc sống thành thị giúp bà thay đổi nhiều, nhưng chẳng thể làm bà cao thêm và dễ coi hơn chút nào. Kể ra về già trông bà không đến nỗi, một phần nhờ mái tóc bạc, phần nữa trầm tính hơn do hay đi lễ nhà chùa.
Ông lấy bà trong đợt cải cách ruộng đất, rồi từ vùng chiêm trũng Hà Bắc bà được đưa thẳng về sống ở phố Hàng Bồ Hà Nội.
Ông, lúc đó là một trí thức đẹp trai, lấy bà theo chủ trương trí thức hòa mình với công nông. Cũng theo chủ trương ấy ông đã học cày bừa, hót phân, mặc quần áo rách, đi chân đất, thậm chí học cả cách nói tục. Đỉnh cao của sự hóa thân ấy là cuộc hôn nhân này, do ông tự nguyện chứ chẳng ai bắt. Nó là một thảm kịch nhưng ông chẳng trách bà. Chỉ trách mình, và lặng lẽ chịu đựng. Rồi cũng quen.
Từ lâu bà Tý đã là người thành phố, thậm chí còn hơn cả thành phố. Tuy nhiên, nếu chú ý quan sát, người ta vẫn nhận ra ở bà một vài thói quen nhỏ cho thấy nguồn gốc xuất xứ của bà.
Vợ chồng anh cả ngừng bàn chuyện làm ăn. Con bé lỉnh đi từ lúc nào. Ngoài phòng khách con mèo đang chơi trò dẫm lên các phím đàn pianô. Mặt hồ phản ánh trăng bàng bạc.
“Vợ chồng con tháng tới định du lịch châu Âu theo một tua trọn gói. Mười sáu ngày ba nước Đức Pháp Ý”, anh chồng nói. “Hay bố cùng đi cho vui?”
“Anh chị không mời tôi à?” bà Tý hỏi.
“Có chứ ạ”, chị vợ chống đỡ. “Chỉ sợ mẹ bận việc chùa”.
“Đùa thế thôi, chứ tôi biết anh chị không mời, mà có mời tôi cũng không đi. Cảm ơn”.
“Không, chúng con mời thật mà. Mẹ đi đi”.
“Không. Cảm ơn”.
Bà Tý đáp rồi đứng dậy sang phòng bên thắp hương cúng Phật như thường lệ.
“Còn bố?”
Ông ngồi im hồi lâu không đáp, tự nhiên nhớ lại chuyện thằng bé hàng xóm hôm nọ trèo hái trộm cây ổi nhà ông rơi xuống hồ. May nước nông nên không sao. Nó hoảng hốt bỏ chạy, còn ông thì đuổi theo nhưng không kịp. Mấy quả ổi chín định cho nó vẫn trong tay, cuối cùng ông vứt xuống nước. Mặt hồ lúc ấy đỏ rực ánh hoàng hôn, khiến ông giật mình như nó đang bốc lửa cháy thật.
Hôm nào ông cũng ngồi ngắm mặt trời lặn, một mình, mà cũng chỉ thích một mình. Thường những lúc ấy ông thấy buồn, cái buồn bâng quơ mà như buồn thật. Có khi ông ngồi lặng rất lâu, với cảm giác sờ được cái buồn đó. Sờ rất rõ trên từng đầu ngón tay.
                             
3
Trước cách mạng không lâu, ông theo bố sang Pháp định thi vào một trường kỹ nghệ bên ấy. Ý định đó không thành, nhưng trong ba tháng ở lại Paris ông làm quen và yêu cô gái con bạn bố ông sang Pháp sống từ mấy năm trước. Họ nhiều lần rủ gia đình ông cùng sang nhưng không hiểu sao bố ông không chịu. Chiều chiều hai người dắt tay nhau dạo bên bờ sông Seine, thường dừng lâu trước nhà thờ Đức Bà, tranh luận với nhau đâu là chỗ Thằng Gù trong tiểu thuyết của văn hào Victo Huygô đã sống, đã rót chì nung chảy xuống bọn người phía dưới. Lúc mặt trời sắp lặn họ lên xe điện tới Montmartre, nơi có ngôi đền thờ hùng vĩ ngự tọa trên ngọn đồi cao. Ông không theo đạo nhưng cũng chiều cô vào ngồi hàng giờ trong nhà thờ xem lễ. Có hôm hai người đến đây chỉ xem các họa sĩ tự do ngồi vẽ trên đồi hoặc vẽ chân dung cho ai có yêu cầu ở các phố nhỏ bên phải nhà thờ. Rồi họ thả bộ dọc theo con phố dẫn đến Moulin Rouge, hộp đêm nổi tiếng ăn chơi của thành phố, nhưng chẳng bao giờ họ vào bên trong. Đó là chốn hư hỏng, cô gái bảo thế. Trong khi Bảo Đại, đức vua của họ, nghe nói lần nào đến mẫu quốc cũng ghé thăm đây bằng được.
Mãi đến giờ ông còn nhớ như in cảnh một lần chán đi lại trong nhà thờ, ông xuống ngồi trên chiếc ghế sắt cũ kỹ dưới chân đồi chờ cô. Một lúc sau cô bước ra và đi như chạy theo những bậc đá xuống phía dưới với ông. Hôm ấy cô mặc bộ đồ vải mỏng màu đỏ. Dưới ánh hoàng hôn sắp tắt, cả người cô rực hồng, trông như ngọn lửa đang bay. Và ông đã ghì chặt ngọn lửa ấy vào lòng, toàn thân nóng rực vì nó.
Họ chỉ vào nhà hát Gardier một lần, xem vở ôpêra “Cây sáo thần” của Mozart, nhưng đến đó thì khá thường xuyên, thường vào ban đêm, vì ban đêm nhà hát được chiếu sáng rất đẹp. Từ đấy họ lên xe về nhà ở khu Port d’Italie. Cả hai bố con ông ở nhờ nhà cô suốt cả thời gian lưu lại Pháp.
Hôm trước ngày chia tay, theo yêu cầu của ông, cả hai leo lên tháp Eiffel, dù cô rất sợ độ cao. Ông đưa mắt nhìn quanh một lượt để thâu tóm vào trí nhớ cái thành phố Paris hoa lệ cùng cô gái yêu quí của mình. Ông đã van nài, thậm chí dọa tự tử để được ở lại với cô, nhưng bố ông một mực không chịu.
“Anh sẽ quay lại với em chứ?” cô gái hỏi.
“Tất nhiên”, ông đáp, dù không tin lắm.
“Em sẽ chờ anh”.
“Thật không?”
“Thật”, cô chúm môi nũng nịu vì bị hỏi một câu như vậy. “Chờ mãi mãi. Chủ nhật hàng tuần em sẽ đến Montmartre, ngồi dưới chân cột giữa trước nhà thờ, và chờ anh”.
“Sao phải đến đấy, khi anh có thể về thẳng nhà em?”
“Em muốn thế. Trong một cuốn tiểu thuyết có đôi trai gái yêu nhau hẹn chờ nhau cách ấy. Em sẽ chờ từ mười giờ sáng đến hai giờ chiều, dù đôi kia chờ từ rạng sáng đến chập tối”.
“Ngộ nhỡ số cột nhà thờ không lẻ mà chẵn thì sao?”
“Không, em đếm rồi. Số lẻ. Em sẽ ngồi ở cột giữa”.
Không biết nói gì hơn, ông ôm hôn cô âu yếm. Đó là lần đầu tiên họ hôn nhau nơi đông người.
“Em nghĩ có ngày sẽ về Hà Nội không?” lát sau ông hỏi, rất nghiêm túc.
‘Chắc có”, cô cũng nghiêm túc đáp lại. “Em rất muốn về. Để gặp anh. Nhưng mọi việc do bố mẹ em quyết định”.
“Bao giờ em có thể về?”
“Ngay ngày mai cùng anh, nếu được tự em quyết định. Thế anh có chờ em không?”
“Có”.
“Ở đâu?”
Ông suy nghĩ một lúc rồi nói:
“Ở bậc lên xuống trước nhà hát Ôpêra Hà Nội”.
“Cũng cột chính giữa?”
“Không, ở bên góc. Góc trái. Đỡ vướng người khác. Vả lại số cột ở đấy chẵn chứ không lẻ”.
“Anh định chờ em bao lâu?”
Ông lại hôn lên môi cô:
“Còn em?”
“Suốt đời”.
“Vậy thì anh cũng sẽ chờ em suốt đời, nhưng hy vọng ta không phải chờ nhau lâu đến thế”.
Đã năm mươi năm năm trôi qua kể từ ngày ấy, và họ chưa lần nào gặp lại. Thời gian đầu họ viết thư cho nhau hầu như hàng ngày với đủ lời thề thốt của những người đang yêu say đắm. Sau khi rời Hà Nội lên chiến khu, ông ngừng trả lời thư cô, thậm chí nhận thư cũng dấu diếm. Ông đã gặp không ít phiền toái vì những bức thư từ nước Pháp. Cái thời ấy nó thế. Ông chẳng trách ai ngoài trách mình hèn nhát. Ông cố ý không liên lạc để cô tưởng ông thôi yêu cô, hoặc đã chết.
Cũng chỉ thời kỳ đầu, tức khi chưa tham gia cách mạng, ông đều đặn ra ngồi ở cửa nhà hát Ôpêra chủ nhật hàng tuần, không phải từ sáng đến chiều mà chỉ một chốc theo kiểu chiếu lệ vì ông không hứa cụ thể sẽ chờ từ mấy giờ đến mấy giờ. Sau thì vài ba năm một lần. Cả chục năm nay ông chưa tới đó lần nào với mục đích này. Thậm chí cũng rất ít khi nghĩ về cô. Ông thầm ngạc nhiên và giận mình có thể bội bạc như vậy.
Cô người yêu của ông, nếu bây giờ còn sống, đã là một người già, có lẽ cũng nhăn nheo, ốm yếu như ông. Bà có ra đồi Montmartre chờ ông suốt mấy mươi năm qua không? Chắc không. Thời gian và sự mệt mỏi sẽ nhanh chóng xóa đi mọi thứ, cả những điều thiêng liêng nhất. Bản chất con người chóng quên. Mà thế cũng đúng thôi…
Trước khi ra ô tô về nhà, vợ chồng anh cả nói:
“Tùy bố thôi. Nếu thấy khỏe thì đi với chúng con cho vui. Có gì bố cho biết sớm để kịp mua vé”.
“Không, bố cảm ơn. Bố già rồi, không muốn đi đâu nữa”.
Ông uể oải đáp, mắt nhìn mặt nước hồ lung linh những vì sao. Tuy nhiên, cái ông nhìn thấy là một vệt lửa đỏ rực đang lao nhanh từ đỉnh đồi Montmartre xuống. Rồi vệt lửa ấy bỗng nhiên nhòe nước như bị nhấn chìm xuống hồ.
Không ai để ý thấy ông khóc.
Đêm nhiều mây. Cũng có thể là sương mù. Phía thành phố hừng lên một mảng màu vàng. Còn trên cao, chếch về phía làng hoa Nhật Tân, vào giờ này phải có trăng, nhưng chẳng thấy trăng đâu, chỉ thấy bàng bạc một màu lạnh lẽo.
Ông chậm chạp bước đi theo những lối nhỏ rải sỏi trong vườn, cuối cùng dừng lại bên một gốc đào già. Nó là cây đào duy nhất sót lại trên mảnh đất của người chủ trước. Trông nó thật tội nghiệp, xấu xí. Lá ít, hoa ít, chỉ nhiều mạng nhện. Nhưng ông không muốn chặt bỏ, tự mình cũng không hiểu vì sao.
Ông đặt tay lên một cành cụt của nó, với cảm giác như chạm vào tay một người bạn đồng niên, vẩn vơ nghĩ về bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại của cô gái người yêu khi họ lần cuối cùng nhau đứng trên tháp Eiffel.

4
Sáng hôm sau, anh con ngạc nhiên khi thấy bố gọi điện bảo cho xe đến đưa ông tới Nhà Hát Lớn.
Đến nơi, ông bảo mười hai giờ trưa quay lại đón.
Buổi sáng nắng đẹp mà lát sau trời nổi gió lạnh, lại bắt đầu mưa lâm thâm. Tối hôm trước cơ quan khí tượng cho biết trời không mây, nắng nóng và nhiệt độ có thể lên tới 27 độ C.
Người xe qua lại tấp nập trước Nhà Hát Lớn, nhưng không ai để ý thấy có ông già ngồi dưới mưa nặng hạt ở bậc tam cấp nhà hát.
Ở đấy có sáu chiếc cột lớn, không kể hai cột sát tường hai bên. Nghĩa là số chẵn chứ không lẻ như ông đã nói ngày nào. Ông ngồi ngay chính giữa, hai tay đặt lên gối. Bên cạnh có tờ báo mới mua nhưng ông không đọc, như thể sợ mải đọc ngộ nhỡ người ông chờ đến hoặc đi ngang mà không nhìn thấy.
Lúc trời đổ mưa, ông lấy tờ báo che đầu, sau nó ướt thì ông ngồi đầu trần. Mái tóc bạc dính bết trên khuôn mặt nhăn nhúm. Nước mưa chảy thành từng dòng theo các nếp nhăn. Ông vẫn ngồi yên bất động.
Đúng mười hai giờ, khi anh con đến và bế bố vào xe, ông đã cấm khẩu, bộ com-lê và chiếc cà-vạt mới màu tro ướt sũng như vừa ngâm nước trước khi giặt.
Vậy là năm mới được bắt đầu bằng một ngày thời tiết xấu. Lại thêm ông chủ nhà bị cảm nặng.
Ông nằm trong phòng mình, chăn trùm tận cằm, uể oải nghe tiếng những giọt nước treo trên lá rơi xuống mặt hồ. Tai ông rất thính. Tiếng rơi bộp bộp như rơi lên lá sen. Cũng có thể không phải tiếng nước, tiếng nước mưa rơi nghe không to đến thế. Con nhái nhảy lên lá sen chăng? Dễ thế lắm. Mà thôi, không quan trọng. Ông chuyển sang nghĩ cảnh buổi sáng sớm giữa trời mưa các cô gái Nhật Tân gánh hoa vào thành phố, quần áo ướt dính chặt người mà cười nói như không. Ông rùng mình vì thấy lạnh. Nhiều hôm ngồi nhìn ông thấy có cô để rơi một bông cúc vàng trên mặt đường nhựa. Bông cúc mới hái, tươi rói, bất lực chờ những bánh xe lăn qua nghiến nát. Trên cánh hoa còn vài giọt sương long lanh như nước mắt. Nó đang kêu cứu. Hình như ông nghe tiếng kêu ấy. Vậy mà ông vẫn ngồi yên. Ông suýt khóc khi lát sau bánh một chiếc xe chở công-te-nơ lăn qua người nó.
Mưa gió dầm dề mãi đến tối. Sau đó ngớt dần và đỡ lạnh hơn. Cũng là lúc ông hồi phục, gần như khỏe hẳn.
Ông đã có thể đi lại trong nhà, nhưng người ta vẫn ấn ông xuống chiếc ghế bành bọc da, khoác lên người chiếc măng-tô dạ nặng chình chịch có từ thời xa xưa mà ông tưởng đã bị vứt từ lâu. Hóa ra bà Tý vẫn giữ nó, còn giặt sạch và ướp long não cẩn thận. Mùi long não gây cảm giác khó chịu. Một trong những thói quen xưa sót lại của bà là không bao giờ vứt đi thứ gì.
Ông ngạc nhiên thấy trong nhà có đầy đủ con cháu, không thiếu một ai, kể cả anh con út luôn bận rộn, dù lúc ấy đã mười giờ đêm.
Một hình thức biểu lộ tình thương, một cách chăm sóc cảm động? Có thể. Hay chúng đến chờ ông chết để chia nhau của thừa kế? Cũng có thể như thế, ông nghĩ, nhưng liền sau đó lại tự trách mình nhẫn tâm nghĩ xấu về người khác. Ông có ngôi nhà cổ, khá rộng ở ngay trung tâm thành phố mà nhờ là cán bộ cách mạng lão thành, vẫn còn giữ được. Thêm vào đó, ông còn được thừa hưởng gần nghìn mét đất ở ven đô, nơi theo qui hoạch của thành phố sẽ là khu đô thị mới và giá đất đang tăng vùn vụt.
Ngoài ra ông thấy cả ông bạn già bác sĩ. Trước họ cùng học trường Anbe Xarô với nhau, khá thân. Ông bác sĩ thỉnh thoảng đến đây, để chơi thôi chứ chẳng phải chữa bệnh vì ông ít đau ốm. Chắc hôm nay thì ông ta được gọi đến, và đã làm những gì cần làm để ông nhanh chóng hồi phục.
Hiện giờ ông bác sĩ đang ngồi hút thuốc ngoài phòng khách. Ông nghiện thuốc nặng, dù là chuyên gia hàng đầu về các bệnh đường hô hấp và nhiều lần lên ti-vi khuyên người khác bỏ thuốc lá.
Còn những người khác thì bâu quanh ông, tranh nhau trách ông không biết giữ gìn. “Sao bố có thể không đâu ngồi giữa trời mưa hàng giờ thế nhỉ?”
Ông chỉ mỉm cười vẻ biết lỗi. Ông chưa bao giờ kể người khác nghe về vệt lửa đỏ của mình trên đồi Montmartre. Nét mặt các con ông lộ vẻ lo lắng thực sự, thế mà ông cứ có cảm giác như họ ít nhiều thất vọng vì bố không chết.
Cuối cùng, theo yêu cầu của ông, người ta để ông yên một mình. Ai về phòng người ấy đi ngủ. Nhà có đủ phòng cho các cặp vợ chồng. Còn thừa một phòng trống. Ông bác sĩ được mời nghỉ lại nhưng từ chối, xin phép về, và anh con út đánh ô tô đưa ông về.
Lúc đó đã muộn, bên ngoài trăng rất sáng. Hôm ấy, theo âm lịch là ngày mười sáu. Trăng chiếu chếch vào phòng, lại qua lớp sương mù nhè nhẹ nên tạo thành từng luồng rất rõ, tưởng như nắm bắt được. Sàn nhà lát gỗ pơ-mu như được láng một màng sữa mỏng.
Đầu ông nhẹ tênh, có thể nói trống rỗng. Điều này làm ông có cảm giác thật lạ. Chính xác là gì thì ông không biết, nhưng rõ ràng trận cảm sáng nay đã tạo nên một sự thay đổi nào đó. Ông thấy nhạy cảm khác thường, đặc biệt ở khứu giác và thính giác. Đầu óc dường như cũng minh mẫn hơn. Sao thế nhỉ?
Vốn ít hiểu biết về y, ông không lý giải được điều đó. Thông thường sau những chuyện như việc vừa rồi mà bây giờ thực tâm ông lấy làm tiếc, người ta chỉ mụ mẫm đi chứ không ngược lại. Chắc vài ngày, có thể ngay sáng mai nó sẽ qua.
Cảm giác trống rỗng, minh mẫn ấy làm ông không ngủ được. Ông gạt chiếc măng tô cũ kỹ xuống sàn, đứng dậy đi vài vòng trong phòng. Ra ngoài được một chốc thì tốt, ông nghĩ, nhưng nhớ lời dặn của ông bác sĩ, ông đành thôi.
Tựa tay vào tấm cửa kính, ông nhìn ra phía hồ. Lạ thật, suốt ngày mưa gió thế mà bây giờ trời rất quang. Vẫn cái khách sạn đồ sộ ấy đứng chắn trước mặt. Các tầng giữa hầu như tắt hết đèn, nhưng tầng lễ tân phía dưới và tầng trên cùng, nơi người ta ăn uống, nhảy múa, đèn vẫn sáng. Quá sáng. Thậm chí ông thấy bóng người lờ mờ đi lại. Chắc mình tưởng thế thôi, xa thế, thấy sao được?
Ý nghĩ ấy được khẳng định khi ông quay sang nhìn hướng khác, nơi có ngôi chùa cổ. Chẳng thấy gì ngoài một vệt mờ đen.
Hơi chóng mặt, ông quay lại nằm lên chiếc ghế võng đã được hạ thấp hết mức, phía dưới lót tấm chăn mỏng.
Bà Tý bước ra trong bộ đồ ngủ màu mỡ gà yêu thích của bà.
“Ông khỏe hẳn rồi chứ?”
“Ừ”.
“Thế thì vào mà ngủ”.
“Tôi ở đây cũng được”, ông đáp. Thực ra, ông ngại cảm giác chạm vào da thịt già nua của bà. “Vả lại, ở đây lúc thích tôi còn bật đèn xem sách báo được”.
“Lại còn sách với báo nữa”.
“Ấy là nói thế”.
Bà Tý ngồi với ông thêm chốc nữa nhưng hai người không nói gì thêm. Như các cặp vợ chồng khác ở tuổi ấy, họ thường nói chuyện với nhau theo cách đó. Khủng khỉnh, tiếng một, nhưng yêu quí và quan tâm lẫn nhau.
Bà Tý ngồi trên chiếc ghế bên cạnh. Ông nằm ngửa, mắt lim dim.
Bên ngoài, không cần thính tai cũng nghe rõ tiếng côn trùng rên rỉ và tiếng cá quẫy dưới hồ.
Bỗng ông khẽ nhỏm dậy, hỏi:
“Bà không ngửi thấy mùi gì à?”
“Không. Mùi gì?”
“Tôi không biết. Nhưng quả có cái mùi gì đặc biệt lắm”.
“Vớ vẩn”.
“Thật mà”.
“Thế thì mùi gì?”
“Đã bảo không biết. Cái bà này rõ buồn cười. Nhưng rõ ràng tôi ngửi thấy nó. Đúng thế. Một mùi đặc biệt, rất mới lạ. Các mùi khác tôi nhận ra ngay”.
“Nó thơm hay thối?”
Ông lặng im, phật ý với câu hỏi thô tục đó. Bất chợt ông chỉ xuống sàn nhà:
“Bà nhìn kìa!”
“Cái gì?”
“Ánh trăng”.
Trăng đã ngả hẳn về phía tây, nên ánh sáng của nó tràn khắp nhà, trừ những chỗ bị đồ vật che khuất. Do không còn sương mù nên lúc này ánh trăng có vẻ loãng hơn.
“Thì sao?”
“Tôi ngửi thấy mùi của nó đấy”.
“Mùi trăng?”
“Ừ, mùi trăng”.
“Vớ vẩn”.
Im lặng một chốc, bà nói:
“Ông vẫn ốm đấy. Ốm nặng. Không khéo còn hóa điên. Thôi, ngủ đi. Không vào phòng thì nằm đây mà ngủ”.
Bà vợ bỏ đi từ lâu, ông vẫn nhỏm người trân trân nhìn thứ ánh sáng kỳ diệu trên sàn nhà.
Mùi trăng. Ngửi thấy mùi trăng. Đúng là vớ vẩn. Có lẽ mình ốm thật, ốm nặng như bà Tý nói. Nhưng tại sao vẫn thấy khỏe, còn tỉnh táo hơn ngày thường? Tại sao mình thực sự ngửi thấy cái mùi ấy? Mùi trăng, một mùi … Nói thế nào được nhỉ?
Ông không thể diễn tả thành lời cái mùi ấy. Có lẽ cũng chẳng cần, ông nghĩ bụng rồi nằm xuống, với tay đắp chiếc măng tô lên người. Và cố ngủ.
Trong giấc ngủ chập chờn, bất chợt ông nhớ tới ông bạn bác sĩ lúc nãy. Ông này vốn là một nhà thơ thời trước giải phóng, nhiều lần in báo Tri Tân. Sau này ông chẳng bao giờ nhắc đến thơ phú, viết lại càng không. Thế mà một hôm, cách đây hai năm, ông ta đưa cho ông một tập thơ chép tay, bảo của mình. Toàn thơ không đề, loại sáu câu sáu chữ về cây lá vẩn vơ. Trong đó có một bài mà không hiểu sao bây giờ ông nhớ rất rõ, nhớ đến từng dấu chấm phẩy.

                    Một mình tôi với thiên nhiên,
                    Không làm thơ, cũng chẳng thiền,

                    Chỉ ngắm trăng trên rừng rậm…
                    Hình như ánh trăng cũng ấm.

                    Và tin hay không tùy anh:
                    Tôi ngửi thấy mùi trăng xanh.

Vậy là không chỉ một mình mình. Ông bác sĩ cũng ngửi thấy nó, lại còn mùi trăng xanh. Đành rằng là nhà thơ, ông ta có thể phịa cái gì cũng được.
Ông gần như tin chắc vào sự hiện hữu của cái mùi đặc biệt ấy. Có lẽ xưa nay trăng luôn có mùi, tại người ta không ngửi thấy mà thôi. Vậy sao ông ngửi được? Mà cũng chỉ hôm nay? Vì trận cảm lạnh ban sáng? Ừ, chắc thế. Nghe nói sau khi trải qua những thay đổi bệnh lý lớn, nhiều người bỗng có một vài khả năng kỳ diệu. Nhưng gì thì gì, đây cũng là dấu hiệu cho thấy ông thực sự đã già yếu, có thể phát điên hay sắp chết như bà Tý nói.
Nghĩ vậy, tự nhiên ông cảm thấy sức khỏe mình sút kém hẳn.


                                            
CÔ GÁI GÙ

Như Maupassant quan tâm những người điên, tôi luôn chú ý đến  người mù. Với sự cảm thông, tất nhiên. Trong chừng mực phù hợp và có thể, tôi đã đưa họ vào một số tác phẩm của mình. Cách đây mấy năm tôi có viết bài thơ về một cô gái mù hàng ngày đứng bán hoa tươi ở ngay đầu phố nhà tôi. Thực ra đó là một truyện ngắn với đúng nghĩa của nó. Câu chuyện có thật và tôi đã định viết thành truyện. Lúc ấy vợ tôi bảo tôi viết truyện dở, thà dịch hoặc làm thơ còn hơn. Bà ấy luôn là người đầu tiên đọc tác phẩm của chồng, đọc xong thường đưa ra một phán xét ngắn gọn là "Được" hoặc "Không được". Chỉ thế thôi. Và tôi luôn biết phải làm gì sau đó. Vậy là tôi theo vợ, miễn cưỡng viết "Cô gái mù" thành bài thơ. May không đến nỗi.
          Hôm nọ ngồi uống rượu với nhà văn đồng hương Võ Văn Trực, tôi được nghe ông kể chuyện vợ chồng nhà văn Nguyễn Huy Tưởng ngày trước. Hóa ra ông Tưởng cũng rất kính trọng vợ, nhưng xử sự không giống tôi. Ông lẳng lặng quan sát và rút được bài học quí: hễ vợ chê cái gì là ông yên tâm cái ấy hay, và ngược lại. Thí dụ bà vợ ông Tưởng đã thẳng thừng vứt tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao xuống gầm giường với câu phán :"Dở đến thế là cùng!" Nghe nói nhiều tác phẩm nổi tiếng khác của chồng bà cũng chịu số phận tương tự. 
Không hiểu có đúng thế không hay chỉ lại một giai thoại nữa trong giới làng văn. Dẫu sao thì nó cũng gợi cho tôi một lối thoát. Mấy tháng gần đây tôi lẳng lặng viết truyện ngắn, viết nhanh, nhiều, cứ như sợ bị vợ bắt được cấm không cho viết nữa. Kết quả? Bà ấy nhận xét "Không được" nhiều hơn "Được". Thế là tôi quyết định bỏ hẳn thơ, từ nay yên tâm viết văn xuôi. Tiếc rằng nhiều cốt truyện hay của tôi đã bị bỏ phí, vì bằng thơ, muốn hay không, tôi cũng phải viết ngắn, cắt bỏ nhiều nhân vật và chi tiết. Mà viết lại bằng văn xuôi thì ngại, mà cũng tiếc. Dẫu sao đó cũng là những bài thơ tôi tâm đắc. Vậy chỉ còn cách bổ sung văn xuôi vào những truyện ngắn trước đấy trót viết bằng văn vần.
          Xin thử bắt đầu bằng "Cô gái mù". Toàn bộ bài thơ - truyện ngắn ấy như sau:
                                        Cô gái mù bé nhỏ
                                        Đứng bán hoa bên hè.
                                        Bên cạnh là con chó,
                                        Mõm ngắn, lông vàng hoe.

                                        Hàng ngày con chó dắt
                                        Cô chủ tới nơi này.
                                        Phố đông người, lại chật,
                                        Làn hoa nặng xách tay.

                                        Kính đen, đầu đội mũ,
                                        Cô gái đẹp lạ thường.
                                        Cũng buồn buồn như chủ,
                                        Con chó thật dễ thương.

                                                Khách quen và khách lạ

                                        Mua của cô rất đông,
                                        Không chọn, không mặc cả,
                                        Cũng chẳng phải dài dòng.

Họ cầm hoa lặng lẽ,
                                        Và lặng lẽ trả tiền.
                                        Cô gái mù e lệ
                                        Mỉm cười trông thật hiền.

                                        Không ít người sau đó
                                        Để lại hoa và đi.
                                        Hình như con chó nhỏ
                                        Biết, nhưng không nói gì.

                                        Một hôm, bỗng không thấy
                                        Cô bán hoa trên hè.
                                        Con chó con cũng vậy,
                                        Con chó lông vàng hoe.

                                        Nhiều hôm sau vẫn thế,
                                        Không ai thấy cô đâu.
                                        Có người đồn, như thể
                                        Cô đã thành nàng dâu.

                                        Cũng có người quả quyết:
                                        Bị ai đó phụ tình,
                                        Vốn trắng trong, mãnh liệt,
                                        Cô đã liều quyên sinh.

                                        Có thể là sự thật,
                                        Cũng có thể là không,
                                        Nhưng cô đã biến mất,
                                        Con chó thành chó rông.

                                        Còn vắng cô, cả phố
                                        Như buồn hơn rất nhiều.
                                        Buồn cả vì con chó
                                        Lông vàng hoe đáng yêu.

          Bằng thơ, viết thế là đủ, thêm nữa sẽ thành thừa. Tôi hiểu điều đó nên đã rất lấy làm tiếc khi phải đặt dấu chấm hết, dù câu chuyện còn dài, nhiều tình huống hơn và rất tiếc cũng buồn hơn.
          Với tư cách là phần vào truyện, ba khổ đầu chẳng cần thêm bớt gì. Văn xuôi khó chuyển đạt thành công hơn cái ấn tượng buồn buồn, gợi cảm ấy. Đó là đặc thù và cũng là thế mạnh của thơ. Sự thật diễn ra đúng như thế và tôi đã nói lên đúng cái sự thật ấy.
Nhưng nội dung ba khổ tiếp thì đã được thi vị hóa phần nào. Quả đúng mua hoa của cô, chẳng ai mặc cả vì ai cũng thương cô. Cũng đúng cả việc nhiều người mua hoa, trả tiền xong lại lặng lẽ đặt vào chỗ cũ để cô bán lần nữa. Cô không là ăn mày nên người ta không thể tự nhiên dúi tiền vào tay được. Cô có biết điều này không, tôi chẳng rõ. Nhưng con chó thì chắc chắn không thèm để ý. Thường những lúc cô chủ bán hoa, nó bận gặm xương (cạnh đấy có hàng cơm bụi) hoặc lỉnh đi chơi với con chó cái nhà bên. Không nên trách nó làm gì, vì suy cho cùng nó cũng chỉ là một con chó. Trong thực tế nó không đẹp và đáng yêu như trong thơ tôi viết. Nó gầy nhom đến trơ cả xương sườn. Mõm thì đúng là ngắn, nhưng lông có màu nâu bẩn. Tôi nói "vàng hoe" đơn giản chỉ vì bắt phải vần với câu "Cô bán hoa trên hè" đã trót viết. Tuy nhiên công bằng mà nói, nó là con chó tốt, trung thành và rất hiểu nhiệm vụ của mình. Mà thôi việc này không quan trọng, và chúng ta có thể tạm hài lòng với những gì đã viết:

                                        Khách quen và khách lạ
                                        Mua của cô rất đông,
                                        Không chọn, không mặc cả,
                                        Cũng không phải dài dòng.

                                        Họ cầm hoa lặng lẽ,
                                        Và lặng lẽ trả tiền.
                                        Cô gái mù e lệ
                                        Mỉm cười trông thật hiền.

                                        Không ít người sau đó
                                        Để lại hoa và đi.
                                        Hình như con chó nhỏ
                                        Biết, nhưng không nói gì.

          Những câu thơ đẹp. Hình ảnh cũng đẹp và khá cảm động. Nhưng trong thực tế, cái thực tế văn xuôi đời thường ấy mà, rất tiếc mọi việc không đẹp như thế. Không ít kẻ xấu từng ăn cắp hoa hoặc bớt tiền của cô. Có thằng nghiện còn giật tiền cô rồi bỏ chạy, khiến cô ngồi khóc mãi, trong khi "con chó đáng yêu" ấy chỉ biết sủa vu vơ mấy tiếng hoặc vây vẩy đuôi một cách ngớ ngẩn.
Những việc như thế hiếm thôi, nhưng vẫn có. Cũng có cả việc cô phải "chạy công an" như những người bán rong khác trên vỉa hè, đặc biệt khi có chiến dịch "đường thông hè thoáng". Mà cô thì mù, làm sao chạy nhanh được, nên một lần cả làn hoa của cô đã bị vứt tung xuống đường. Người làm việc này là một thanh niên mang băng đỏ từ nơi khác đến và không biết cô mù. Bị mọi người phản đối, anh ta tự mình nhặt lại, thậm chí còn xin lỗi. Sau vụ này hình như theo chỉ thị ai đó từ lãnh đạo địa phương, cô được để yên.
Vợ chồng tôi chỉ mua hoa của cô, dù hoa cô không đẹp, không tươi vì mua lại của mấy bà nhà quê ở chợ Mơ. Tôi xung phong đảm nhận việc này, và đều đặn mua hoa của cô gái mù vào mỗi buổi chiều, khi từ cơ quan trở về nhà. Cũng có nghĩa là chỉ mua toàn hoa ế và héo. Tất nhiên tôi cũng thuộc đám khách "không chọn, không mặc cả", có khi mua rồi "để lại hoa và đi".
         
                                        Một hôm bỗng không thấy
                                        Cô bán hoa trên hè.
                                        Con chó con cũng vậy,
                                        Con chó lông vàng hoe...

          Vâng, đúng thế thật. Một buổi sáng nọ không ai thấy cô gái mù đứng bán hoa cạnh chân cột điện trước cơ sở điều trị tâm thần ở ngõ Liên Hương. Đó là một sự lạ. Bao lâu nay người ta quen thấy cô ở đó, đến mức cái điều tưởng như nhỏ nhặt này đã khiến mọi người chú ý, kể cả nhà chức trách. Nhiều người mua hoa như tôi hôm ấy về nhà tay không. "Chắc cô ấy ốm", mọi người nghĩ. Tuy nhiên, hôm sau vẫn không thấy cô và con chó xuất hiện trở lại. Người ta ngạc nhiên, vì tò mò thôi chứ chẳng phải thương nhớ gì. Thường vẫn vậy, một cái gì đó vốn quen nhìn, quen nghe, nay bỗng không có nữa sẽ gây cho ta cảm giác thiếu vắng mơ hồ. Bà lão bán nước cạnh đấy chép miệng bảo cô bán bún riêu: "Chắc con bé ốm, tội nghiệp".
                                       
                                        Có người đồn như thể
                                        Cô đã thành nàng dâu.

                                        Cũng có người quả quyết:
                                        Bị ai đó phụ tình,
                                        Vốn trắng trong, mãnh liệt,
                                        Cô đã liều quyên sinh...

Việc này thì do tôi hoàn toàn hư cấu. Hay các bạn có thể gọi là phịa hoặc xuyên tạc cũng được. Vì thực tế không hề như thế. Chẳng ai đồn đại hay đoán non đoán già gì cả. Mọi người, tức là những người sống trong khu phố chúng tôi, ngay tối hôm sau đã biết hết mọi chuyện.
Cô không thành nàng dâu, cũng chẳng vì thất tình mà tự tử. Sự thật là thế này: Năm giờ chiều sau ngày cô không ra bán hoa như thường lệ, có người phát hiện thấy xác cô trên bờ hồ cạnh xóm liều cách nhà cô không xa. Công an điều tra và đi đến kết luận rằng tối hôm trước đó, trên đường về nhà cô bị một tốp thanh niên bất hảo lôi ra hồ, cưỡng hiếp rồi bóp cổ chết. Một cái chết thảm thương. Một tội ác đê tiện. Khó tin, nhưng trên đời vẫn có những hạng người thế đấy. Mà chúng sống ngay trong lòng cộng đồng chúng ta, thậm chí có thể là hàng xóm chúng ta.
          Đám tang cô có rất nhiều người, cả vợ chồng và con gái tôi. Trước đây cô bán những bông hoa đủ màu, bây giờ người ta mang đến cho cô rất nhiều hoa, toàn hoa trắng.
Chậm chạp bước theo chiếc quan tài nhỏ với cả rừng hoa trắng ấy, không ai bảo ai, tất cả chúng tôi đều cúi đầu với cảm giác tội lỗi và xấu hổ, rằng chúng tôi, những người khỏe mạnh, tốt bụng, sống trong một xã hội văn minh có kỷ cương, pháp luật, thế mà bất lực không bảo vệ được một cô gái mù bất hạnh mà chúng tôi yêu quí nhường ấy.
Cây cột điện nơi trước đây cô đứng bán hoa hàng ngày bây giờ trở nên trống vắng, buồn tênh và xấu hẳn đi. Cuộc sống lại quay về nếp cũ của nó, nhưng ai cũng cảm thấy như hụt hẫng điều gì, đúng như tôi đã viết:
                                        Và vắng cô, cả phố
                                        Như buồn hơn rất nhiều.
                                        Buồn cả vì con chó
                                        Lông vàng hoe đáng yêu.

          Vậy là cô gái mù bán hoa xinh đẹp, tội nghiệp đã biến mất khỏi cuộc sống của khu phố chúng tôi. Nhưng con chó thì may không thành chó rông. Tôi tìm được nó và đưa về nhà nuôi. Nó đã già và không được tích sự gì. Hình như nó chẳng nhớ thương lâu cô chủ xấu số trước đây của nó. Cũng chẳng sao. Loài chó thường vẫn thế. Chúng tôi nuôi nó tử tế, vì cô gái mù nhiều hơn vì chính bản thân nó. Nó mới chết năm ngoái. Chết già. Tôi cũng nhanh chóng quên nó như từng quên bao vật nuôi đã chết khác. Nhưng hình ảnh cô gái mù và cái chết thảm thương của cô thì không...

          P.S. Tôi vừa đưa vợ xem truyện ngắn này. Đọc xong, bà ấy liền phán ngay: "Không được! Sao ông nỡ giết cô ấy? Ông chỉ tổ làm hỏng bài thơ!" Tính tôi không thích cãi vợ, cả khi bà ấy sai. Như trường hợp này chẳng hạn. Tôi đâu có giết ai. Tôi chỉ viết đúng cái sự thật mà chính bà ấy cũng biết. "Không được", tức là, theo cách hiểu của Nguyễn Huy Tưởng, tôi biết truyện này "Được", và vì vậy tôi không vứt nó vào sọt rác mà giữ lại chờ bạn đọc phán xét.
          Hà Nội, 10.4.2001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét