CẦU
VỒNG
Lúc
ấy đã xế chiều. Một cơn giông ngắn vừa ập qua, mặt đất và không khí còn ẩm mùi
mát lạnh. Đang trên đường từ làng Xuân Tình về nhà, đến giếng nước ăn ở cách
đồng Chùa, lão Nhất Lợn bỗng cảm thấy như mình được chiếu sáng đột ngột. Lão
đứng lại, ngơ ngác nhìn quanh. Trong thứ ánh sáng kì lạ đó, lão thấy những giọt
nước li ti đang nhảy múa. Kì lạ hơn nữa, chúng có màu, đủ xanh vàng tím đỏ. Để
kiểm tra, lão xòe hai tay trước mặt. Cả hai bàn tay nhăn nheo, xạm đen vì cáu
bẩn của lão cũng có màu như vậy. Vô cùng ngạc nhiên, lão ngước nhìn lên cao và
thấy một hình cung khổng lồ nửa xanh nửa đỏ. Một đầu của hình cung đó cắm đúng
mỏm núi có ngôi đền thờ An Dương Vương linh thiêng. Nó vươn lên cao, vượt qua
hai xã Diễn Trung và Diễn An, vượt qua cả cái làng Xuân Nho của lão, cuối cùng
cắm đầu còn lại xuống...
Ôi,
bây giờ thì lão hiểu - Cầu Vồng! Cầu Vồng rơi đúng vào người lão, một lão già
khốn khổ là lão Nhất Lợn!...
*
Lão
năm nay đã ngoài bảy mươi và bị bệnh hen xuyễn nặng, khuôn mặt bé choắt đầy
những vết nhăn chằng chịt. Lão sống một mình không vợ con, không cả người thân
thích. Suốt đời, hay ít ra cũng hai, ba mươi năm nay lão sống bằng một nghề duy
nhất và cũng khá độc đáo, là nuôi lợn đực cho thuê giống. Cái tên Lợn được gắn
cho lão cũng vì thế. Lão là người tính khí lạ lùng, đặc biệt rất mê tín, mộ
đạo, tuy không hề theo tôn giáo nào. Trong nhà lão, nếu có thể gọi túp lều lão
ở là nhà, không có cả một góc nhỏ làm nơi thờ cúng. Nhưng bữa ăn nào, trước khi
cầm đũa lão cũng chắp tay vái ba cái rồi lẩm bẩm đọc vài câu gì đó không ai
hiểu. Lão ăn mặc lôi thôi lếch thếch, sống hết sức kham khổ. Được cái lão vô lo
và hiền lành. Ai cười chê nghèo khổ hay định bày bảo điều gì, lão thường nói
cái câu lão yêu thích: "Không sao, đời người ta ăn nhau ở cái hậu, mà cái
hậu của tôi thì tốt lắm, rồi mọi người sẽ biết".
Nghề
nuôi lợn đực cho thuê giống thoạt nhìn tưởng nhàn rỗi, dễ sinh lợi nhưng thực
ra lại rất vất vả và phức tạp. Hình như ở đây có bí quyết nào đó chỉ mình lão
biết, nên bao năm nay có thể nói lão chiếm độc quyền cái nghề này không những
trong xã mình mà còn cả một vài xã lân cận, dù nhiều người từng quyết tâm sống
chết cạnh tranh với lão.
Tuy
nhiên, độc quyền một nghề như thế cũng chẳng lấy gì làm vinh quang, nhất là với
lão, một người không vợ. Vì nó mà lão bị đem làm trò chế giễu. Vốn hiền lành,
lão chỉ cười, bỏ ngoài tai những lời đùa châm chọc của người khác. Lão chẳng
cáu giận ai bao giờ, họa chăng chỉ với chính con lợn đực của lão. Lão chăm bẵm
nó, lo cho nó ăn, tắm rửa sạch sẽ và sống dựa vào nó. Thế mà thật lạ, lão cứ
thấy nó vừa đáng ghét vừa đáng khinh thế nào, nhất là những ngày nó hăm hở đi
làm cái việc mà lão gọi là "đê tiện" kia. Lão luôn gọi nó là
"thằng đểu".
Những
ngày ấy, từ sáng sớm "thằng đểu" được ăn theo chế độ đặc biệt. Rồi
lão và nó ra đi. "Thằng đểu" đi trước. Đó là một con lợn cao và dài,
hông hóp, lông đen cứng. Nó bước đi chậm chạp, đôi mắt hùm hụp nhìn xuống đất
như tìm kiếm cái gì, hòn dái to thõng luôn đập bên này bên kia theo nhịp bước
chân. Lão Nhất thong thả đi phía sau, tay cầm chiếc gậy dài màu đen nhẵn bóng.
Chốc chốc lão lại vô cớ mắng con lợn và thẳng tay nện xuống lưng nó những cú
khá đau. Vốn quen với sự bất công của chủ, nó nhẫn nhục chịu đựng, chỉ khe khẽ
kêu vài tiếng ụt ịt rồi đủng đỉnh đi tiếp...
Mới
ba năm tuổi nhưng với dáng dấp nặng nề, với những nếp nhăn sâu trên mặt và đôi
má xệ theo kiểu lợn, trông nó cũng già nua như chủ.
Những
trưa hè nắng gắt hay những chiều đông âm u, thật khó mà hình dung được cái gì
đấy buồn bã, chua xót hơn cảnh lão Nhất và con lợn của lão đi bên nhau trên
những con đường gồ ghề, heo hút nối liền làng này với làng khác.
...
Xưa nay chẳng biết ốm đau là gì, không hiểu sao mùa đông này lão Nhất thấy sức
khoẻ mình yếu sút hẳn, đặc biệt hai tuần vừa rồi. Toàn thân lão đau âm ỉ, các
khớp xương như bị tháo rời, mỗi lần trở lưng lại kêu răng rắc. Lão nằm đắp chăn
tùm hum trên gường, một ngày chỉ dậy hai lần để nấu ăn cho con lợn và nhân thể
cho cả lão. Đêm lão trằn trọc mãi, và lúc thiếp đi thường mơ những giấc mơ rất
kì dị. Lúc lão thấy được ông tiên nào đó đưa lên trời bằng chiếc xe ba con rồng
phun lửa kéo. Chiếc xe lướt nhanh qua những đám mây xốp nhẹ đủ màu sặc sỡ. Quần
áo lão cũng được dệt bằng những sợi vàng bạc lấp lánh và đính đầy ngọc. Lão
ngồi trên xe, hồng hào, đẹp đẽ chẳng kém ông tiên bên cạnh. Đang ngây ngất vì
sung sướng thì bỗng có cái gì cọ cọ vào chân. Lão cúi xuống nhìn và thấy đó là
con lợn xấu xí của lão. Con lợn há cái mõm bẩn thỉu cắn vào ống quần lão kéo
lùi trở lại. Còn lão thì cố níu giữ một cách bất lực, cho đến khi cuối cùng bị
kéo tuột khỏi xe và rơi tít trên cao xuống đúng chiếc giường tre lão đang nằm.
Có
lúc lão mơ thấy mình có vợ. Tất nhiên vợ lão xinh đẹp, dịu dàng, và hai vợ
chồng sống hạnh phúc. Thế mà ở đúng đỉnh cao hạnh phúc ấy, lão nhìn kĩ hóa ra
vợ lão lại vẫn con lợn khốn kiếp. Sau những giấc mơ như thế, lão rất buồn. Hơn
lúc nào hết, bây giờ lão mới thấm thía hết sự cô đơn, bất lực của mình. Ý nghĩ
về một cái chết lạnh lẽo, không người vuốt mắt, không tiếng khóc ngậm ngùi,
ngày càng ám ảnh lão. Suốt đời mình lão sống lương thiện, chịu bao nhiêu đau đớn,
khổ sở, không lẽ chết còn chịu thêm cái nhục như thế? Không lẽ mọi hi vọng về cái hậu tốt đẹp của
cuộc đời mà lão luôn tự an ủi mình và khoe với người khác, cuối cùng chỉ là
những hi vọng hão không bao giờ đạt được?
Mấy
hôm nay trời bắt đầu ấm lại. Nắng ngoài sân rực rỡ hoe vàng. Tuy còn yếu và
mệt, sáng nay lão Nhất vẫn rời khỏi gường ra thềm ngồi sưởi nắng suốt cả buổi.
Đến chiều, lão quyết định "đi làm", tức là dẫn lợn lên làng Xuân Tình
theo yêu cầu của bà Ba, một người bạn cũ và cũng là khách hàng thường xuyên của
lão.
Đến
nơi, như thường lệ, lão cho "thằng đểu" vào chuồng làm cái việc
"đê tiện" của nó, còn lão thì đủng đỉnh bước vào nhà, nơi bà Ba đang
ngồi đợi lão trên chiếc chõng tre với hai bát nước chè xanh mới nấu và một cơi
trầu.
-
Dạo này ông ốm đấy à? - bà Ba hỏi, thay cho lời chào.
-
Ừ, sơ sơ, - lão đáp, vẫn theo kiểu nhát gừng như mọi khi, rồi đỡ lấy bát nước
bà Ba đưa cho, uống một hơi hết sạch.
Tiếp
đến hai người chẳng biết nói gì thêm.
Chủ
nhà là một bà già nhỏ nhắn, tóc bạc gần hết, quần áo sạch sẽ, chiếc miệng móm
bao giờ cũng nhai trầu. Trước bà làm nghề buôn vặt, hàng ngày gánh đôi thúng
xuống chợ Hôm bán dăm ba thứ đồ hàng xén. Độ mươi năm gần đây do sức yếu, bà
chuyển sang nuôi lợn nái và bỏ công chăm chút cái vườn. Như lão Nhất, bà sống
một mình không con cái, không họ hàng thân thích, và cũng là dân ngụ cư, có
điều bà từ Quỳnh Lưu vào, còn lão thì từ Yên Thành xuống. Nghe nói ngày xưa có
thời hai người từng mê nhau ghê gớm, không hiểu sao chuyện không thành. Từ đó
đến nay họ vẫn có cảm tình với nhau, tuy không ai lộ ra ngoài, nhất là lão
Nhất. Tại sao trong chừng ấy năm họ không nghĩ đến chuyện quay lại thành vợ
thành chồng như người khác, ít ra để nương tựa nhau những lúc già yếu thế này?
Đấy là điều bí ẩn không ai hiểu, ngoài họ.
-
Vừa rồi bà đẻ được mấy con? - lão hỏi.
Bà
Ba ngừng nhai trầu, lấy bộ nghiêm khắc đáp:
-
Không phải tôi mà con nái nhà tôi. Mười con. Ông lại định chọc tôi đấy à?
Lão
cười:
-
Thì tôi hỏi là hỏi về con lợn đấy chứ? Bà xem giống của tôi có tốt không?
Chủ
nhà nhíu mày nhìn ông nhưng không nói gì. Một lúc sau bà mới lên tiếng:
-
Già như ông mà làm cái nghề này, ông không thấy xấu hổ à?
-
Sao phải xấu hổ? - lão Nhất cao giọng. - Tôi xấu hổ thì ai đưa đực đến đây cho
bà? (chủ nhà lại nhìn khách cảnh cáo). Nó cũng là một cái nghề bình thường như
bao nghề khác. Có điều quanh năm vất vả với nó mà tôi chẳng kiếm được đồng nào
thừa. Nhưng không sao, đời người ta ăn nhau ở cái hậu, mà cái hậu của tôi thì
bà biết đấy...
Hai
người nói chuyện thêm lúc nữa, rồi xem chừng "thằng đểu" đã làm xong
việc của nó, lão Nhất cầm lấy chiếc nón rách, định đứng dậy ra về.
-
Khoan đã. Sắp có giông đấy, - bà Ba nói.
Lão
Nhất bước ra sân, ngửa mặt lên xem. Quả thế thật: bầu trời mới quang đãng lúc
nào bây giờ đã bị mây đen che phủ. Đâu đó vang lên những tiếng sấm ngắn và dòn.
Một vài giọt nước to và thưa bắt đầu rơi, để lại trên nền đất ẩm những chấm đen
như những đồng xu.
-
Năm nay giông sớm thật, - lão Nhất nói khi quay lại, miễn cưỡng ngồi xuống
giường. Bà Ba đưa cho lão bát nước nữa. Cả lần này lão cũng uống một hơi hết
sạch.
Chưa
đầy hai mươi phút sau, lão Nhất và con lợn của lão lại đi trên đường làng. Cơn
giông đã tạnh hẳn, tuy trên trời vẫn sót lại vài mảnh mây tơi tả đang bay nhanh
về phía cầu Bùng. Treo lửng lơ trên những ngọn đồi thấp của xã Diễn Lợi, mặt
trời le lói chiếu những tia vàng lạnh lẽo. Con lợn vẫn đủng đỉnh đi trước. Nó
bị đánh đau và nhiều hơn cái mức đáng phải chịu. Bao giờ "xong việc".
nó cũng bị chủ đối xử bất công như thế.
*
Đang
trên đường từ làng Xuân Tình về nhà, đến giếng nước ăn ở cánh đồng Chùa, lão
Nhất bỗng thấy mình được chiếu sáng đột ngột. Lão đứng lại, ngơ ngác nhìn
quanh. Trong thứ ánh sáng kì lạ đó, lão thấy những giọt nước li ti đang nhảy
múa. Kì lạ hơn, chúng có màu, rất nhiều màu. Để kiểm tra, lão xòe hai tay trước
mặt. Cả hai bàn tay nhăn nheo, xạm đen và cáu bẩn của lão cũng có màu như vậy.
Vô cùng ngạc nhiên, lão ngước nhìn lên cao và chợt thấy một hình cung khổng lồ
nửa xanh nửa đỏ. Một đầu của hình cung đó cắm xuống đúng mỏm núi có ngôi đền
thờ An Dương Vương. Nó vươn lên cao, vượt qua cả hai xã Diễn An và Diễn Trung,
vượt qua làng Xuân Nho của lão rồi cuối cùng cắm đầu còn lại xuống...
Ôi!
Bây giờ thì lão hiểu: Cầu Vồng! Cầu Vồng rơi đúng người lão, lão Nhất Lợn, một
thằng già khốn khổ.
Phải
đến mấy phút lão đứng ngây không biết làm gì. Bất chợt một ý nghĩ kì lạ bỗng
xuất hiện trong đầu. Lão nhanh chóng vứt bỏ hết quần áo, và rồi hoàn toàn trần
truồng, như một người điên thực sự, lão bắt đầu nhảy múa, tắm táp trong thứ ánh
sáng kì diệu đó. Người lão được chiếu sáng rực rỡ, luôn đổi từ màu này sang màu
khác. Những giọt nước li ti xanh đỏ tím vàng bám quanh lão, tạo thành một đường
viền kì ảo. Lão vò đầu, xoa tay, xoa chân, kì cọ khắp người. Lão nằm cả xuống
mặt đường lởm chởm đá nhọn và cát nhẽo sau cơn giông. Có lúc lão ôm mặt khóc hu
hu, có lúc lại cười to điên dại, miệng không ngớt xuýt xoa những câu gì đó về
Cầu Vồng, về Trời Phật và về cái hậu của đời lão.
Đêm
ấy lão Nhất bị cảm nặng. Hôm sau, gần trưa, khi bà Ba đến tìm lão trả tiền công
quên chưa lấy, bà thấy lão đã chết, nằm ngay ngắn trên giường. Bà cúi xuống,
nhẹ nhàng vuốt lên hai mắt nhắm như ngủ say của lão. Sau đó bà lặng lẽ tìm bộ
quần áo sạch, đun nước tắm rửa rồi thay cho người chết. Làm xong tất cả những việc
ấy, bà ngồi xuống chiếc chõng tre, và khóc.
Lão
Nhất nằm bên, sạch sẽ và thanh thản. Mặt lão hồng hào, hồng hào một cách khác
thường. Bà Ba đã không nhận thấy điều ấy. Có thể vì bà đang quá xúc động, cũng
có thể bà nghĩ đó là do ánh sáng mặt trời lọt qua chỗ dột trên mái nhà phản
chiếu lại.
Diễn
Châu - Đà Lạt, 1985 - 1987
BÀ
TÔI
1
Ngày
xưa có ông vua tên là Đế Thích, lên ngôi chưa được bao lâu thì bỗng có giặc
ngoại xâm kéo đến. Thế yếu, vua phải đem cả hoàng tộc xuống biển rồi từ đó lên
thuyền chạy vào phía Nam. Đi một mạch ba ngày ba đêm không nghỉ, đến vùng biển
xứ Nghệ thì gặp bão, thuyền chìm, chỉ ba người thoát chết nhờ may mắn được sóng
đánh dạt vào một hòn đảo. Đó là hoàng hậu và hai công chúa còn nhỏ.
Hòn
đảo ấy gần đất liền, nhưng vì nhỏ và toàn đá nên không có người, trừ một nhà sư
trẻ đêm ngày tụng kinh niệm Phật mong đắc đạo. Được nhà sư giúp đỡ, chăm sóc,
ba người phụ nữ nhanh chóng bình phục. Trong khi đó, không hiểu sao nhà sư bỗng
trở nên bần thần và hay suy nghĩ vẩn vơ. Sống tách biệt lâu ngày, lần đầu tiên
được gặp những người phụ nữ đẹp, lại trong hoàn cảnh họ bất lực và ở một nơi
hẻo lánh như thế, dần dần dù không muốn, trong đầu nhà sư đã nẩy ra những ý
nghĩ mờ ám. Và rồi một hôm, khi hai công chúa đã ngủ, ông lẻn đến với hoàng hậu,
định giở trò chim chuột. Dù biết ơn và kính trọng nhà sư, hoàng hậu một mực từ
chối. Cuối cùng, khi thấy nhà sư rút dao dọa giết, bà toan đập đầu vào đá tự tử
để giữ tròn trinh tiết. Thấy thế, nhà sư hoảng sợ. Khi cơn bột phát tình cảm
lắng xuống, ông rất đỗi xấu hổ và hối hận.
-
Ôi, nhục nhã thay! Cùng một lúc ta đã phạm ba tội lớn. - Nhà sư ngửa mặt lên
trời kêu to. - Là sư, ta không lo tu thân đắc đạo mà để quỉ dữ xác thịt cám dỗ,
đó là tội thứ nhất. Tội thứ hai là cưỡng ép một người đàn bà bị nạn đang được
mình che chở. Cuối cùng là có ý định giết người!... - Rồi sẵn con dao trong
tay, ông tự đâm vào cổ mình và chết.
Hoàng
hậu cũng hối hận không kém. Bà cho rằng đáng lẽ phải trả ơn, chính bà đã giết
chết ân nhân mình. Bà ôm xác nhà sư than khóc hồi lâu rồi cũng cầm dao tự tử
theo. Sáng hôm sau hai công chúa tỉnh dậy đoán hiểu hết mọi chuyện. Vô cùng đau
xót, họ nắm tay nhau cùng nhảy xuống biển.
Về
sau, để nêu gương tuẫn tiết của hoàng hậu, người ta lập một ngôi đền ở làng
Kình, nay thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, trên mỏm một núi đá nhìn thẳng
ra hòn đảo nhỏ nơi xảy ra tấn bi kịch. Trong đền có cả tượng nhà sư cùng hoàng
hậu và hai công chúa.
2
Đó
là câu chuyện về sự tích đền Kình mà ngày bé bà ngoại thường kể tôi nghe. Sau
này lớn lên, đọc trong "Truyện cổ dân gian Việt Nam" của Nguyễn Đổng
Chi, tôi cũng thấy có chuyện ấy, chỉ khác ở câu chữ và cách diễn đạt. Rất có
thể chính bà tôi đã kể cho nhà văn nghe khi ông đến đây thu thập tài liệu.
Bà
tôi làm nghề buôn bán, nổi tiếng là người có bản lĩnh và táo tợn. Nghe nói có
thời bà từng là chủ của mấy chiếc thuyền lớn chuyên chở cá và nước mắm từ làng
Kình vào tận Hà Tĩnh bán, khi ra chở đầy cau khô và mít, bưởi... Ông ngoại tôi
chết sớm, việc buôn bán trở nên thua lỗ, tính tình bà cũng thay đổi theo, dần
dần trở thành người nghiệt ngã và đặc biệt rất mê tín.
Ngoài
mẹ tôi, bà còn có một người con nữa là cậu tôi. Đó là một người cao lớn, đẹp
trai, tốt bụng và vui tính nhưng nghị lực yếu đuối và là "thứ bỏ đi"
như bà tôi vẫn nói. Quen được nuông chiều từ nhỏ, lớn lên quả đúng cậu tôi là
người thế thật - dễ thích, dễ chán, chẳng bao giờ đủ kiên nhẫn làm xong việc
gì, thêm vào đó lại sớm nhiễm thói rượu chè, cờ bạc. Chưa đầy bốn mươi, cậu tôi
đã kịp thay đổi bốn đời vợ. Một hôm, khi đánh bạc đâu đó về khuya, chờ mãi
không thấy đò, lại đang say rượu, thế mà cậu tôi dám liều lĩnh bơi qua sông
Hoàng Mai giữa mùa nước lớn và tất nhiên đã chết đuối, hai ngày sau xác mới nổi
lên, bị sóng đánh dạt lên bậc đá sát chân đền Kình.
Tuy
bốn đời vợ nhưng cậu tôi chẳng để lại cho bà đứa cháu nào. Thế là vô tình tôi
trở thành người được bà yêu và quan tâm nhất. Chẳng hiểu vì sao bà chọn tôi
trong khi tôi còn một đàn em cả trai lẫn gái, không ít đưa thông minh và ngoan
hơn. Có lẽ đó là một trong những đặc điểm không lý giải nổi của người già. Có
điều, tôi chẳng lấy thế làm thích. Tôi miễn cưỡng tiếp nhận sự chiều chuộng của
bà - đó là những chiếc vòng bạc đủ cỡ mà tôi phải đeo vào cổ, vào tay dù là con
trai; những bộ quần áo kỳ cục tự bà may và đương nhiên tôi phải mặc để bạn bè
tha hồ chế giễu.
Nhà
tôi ở Diễn Châu, cách làng Kình những năm mươi cây số, thế mà hè nào tôi cũng
phải ra ở với bà ít nhất một tuần hoặc nửa tháng. Còn vào ngày rằm tháng giêng
hàng năm thì bất luận thế nào cũng phải ở bên bà. Vào ngày ấy, bà đánh thức tôi
dậy rất sớm, tắm rửa sạch sẽ rồi mặc cho bộ quần áo đẹp nhất. Xong, hai bà cháu
cùng ra đền Kình. Bà dẫn tôi đi khắp một lượt trong đền, vừa đi vừa kể lại câu
chuyện nhà sư và hoàng hậu, không quên kèm theo những lời răn đe rùng rợn.
-
Cháu có sợ chết không? - bà hỏi khi đứng trước tượng ông sư.
-
Có ạ, - tôi rụt rè đáp.
-
Thế thì hãy nhớ lấy gương ông này!
Rồi
bà kể một thôi thật dài về những điều khủng khiếp mà con người đáng thương kia
phải gánh chịu khi bị đầy xuống địa ngục. Chẳng hiểu vì sao tôi còn nhỏ mà bà
phải răn đe những chuyện như thế. Cứ theo bà thì mọi tội lỗi và tai họa trên
đời đều từ cái thú xác thịt mà ra. Bà ghê tởm và tìm cách xa lánh nó như xa
lánh quỉ dữ. Tất nhiên bà cũng bắt đứa cháu yêu của mình có thái độ tương tự.
Mãi sau này tôi mới hiểu bà tôi phải nghĩ ra tất cả những điều ấy để giữ mình
trong suốt cuộc đời góa chồng kéo dài của bà.
Tiếp
đến là phần phóng chim lấy phước. Bà trịnh trọng thắp hương, quì trước tượng
hoàng hậu, hồi lâu lầm rầm cầu khấn gì đó. Còn tôi thì lặng lẽ quì bên cạnh.
Xong, bà ra giữa sân đền, trao cho tôi chiếc lồng có nhốt những con chim bồ câu
- bao giờ cũng màu trắng, vì sao tôi không biết, mà bà đã mua ngoài chợ từ ngày
hôm trước. Tự tay tôi phải mở lồng, bắt ra từng con rồi tung lên trời, bao nhiêu
con phụ thuộc vào số tuổi của tôi năm ấy.
Trong
khi tôi thong thả thực hiện cái lễ nghi mang tính tôn giáo và đầy huyền bí đó,
trông mặt bà thật long trọng, nghiêm khắc và căng thẳng. Bà hồi lâu nhìn theo
từng con chim được thả bay lên cao cho đến lúc mất hút trong không trung, thầm
hy vọng sẽ có ngày chúng mang lại điều tốt lành cho ân nhân mình.
Lần
thả chim sớm nhất còn nhớ được có lẽ khi tôi lên ba hoặc bốn và đang được bế
trên tay mẹ. Tiếp đến, việc này đều đặn lặp đi lặp lại hàng năm, cùng ngày, cùng
địa điểm và cùng những thủ tục bất di bất dịch. Khác chăng chỉ ở số lượng chim thả, nghĩa là mỗi năm thêm
một con cho phù hợp với tuổi.
Bà
tôi là người tuy tốt nhưng nghiệt ngã như đã nói, không những tôi mà cả mẹ tôi
cũng sợ. Vì vậy dù bận bịu việc đồng ruộng, dù xa xôi và nhiều khi chỉ đơn giản
không muốn, mẹ tôi vẫn phải đem tôi về quê ngoại. Những năm gặp lụt tàu không
chạy được, chúng tôi phải xin ô tô tải đi nhờ hoặc cuốc bộ cả năm mươi cây số,
nhẩy từng bước một trên những thanh tà vẹt bị mặt trời đốt nóng hừng hực. Người
nhỏ, chân ngắn, tôi thường tập tễnh đi
sau. Mệt quá, chốc chốc tôi ngồi phệt xuống đường ray, thút thít khóc. Những
lúc ấy, hoặc mẹ tôi phải ngồi xuống cùng nghỉ, giở cơm nắm ra cho ăn, hoặc cõng
tôi đi tiếp, vừa đi vừa dài dòng giải thích rằng chúng tôi phải vất vả như thế
không phải không có lý do, rằng tương lai và hạnh phúc của tôi phụ thuộc vào
bà, vào đền Kình và những con chim được phóng thích.
Ngày
nhỏ nhiều lần tôi nghe bà nói với mẹ về tôi, như thể sau này tôi sẽ "cháu
con đông đúc", "công thành danh toại", và "làm rạng rỡ cho
cả dòng họ"... Cũng vì thế mà bà đã không tiếc công sức, tiền của chăm lo
cho tôi sớm đạt được điều ấy. Là người cực đoan, bà rất tin vào suy nghĩ của
mình. Còn mẹ tôi thì rõ ràng có ý nghi ngờ. Mà nghi ngờ cũng có lý, vì nói
chung tôi là đứa trẻ bình thường, học không dốt nhưng lười, chỉ thích duy nhất
môt việc là đọc sách.
3
Dễ
đến mười năm nay tôi mới có dịp trở lại quê ngoại Quỳnh Lưu. Bà tôi chết cuối
năm 1968, trong một trận pháo Mỹ bắn từ biển vào. Bà con thân thích chẳng còn
ai, trừ một ông già năm nay gần tám mươi tuổi mà mẹ tôi nói tôi phải gọi là
cậu. Dĩ nhiên, một trong những việc tôi quan tâm đầu tiên là đền Kình.
-
Người ta phá đi rồi, - ông cậu tám mươi
tuổi đáp cộc lốc.
-
Nhưng vì sao ạ? - tôi vội hỏi, ngạc nhiên và lo lắng.
-
Ôi dào, ai mà biết được các ông ấy. Mấy ông lên xã họp hành cái phát động gì đó
vài buổi, thế là về bắt dân dỡ phá ngôi đền, nói để xây nhà văn hóa. Mà rồi ba
năm nay có thấy cái nhà ấy đâu.
-
Thế dân không phản đối à?
Cậu
tôi thở dài:
-
Dân thì biết gì mà phản với chẳng đối. Vả lại, họ bảo phá đền để chống cái
phong kiến, cái lạc hậu thì còn nói vào đâu được nữa.
-
Cả mấy cây si cũng bị chặt à? - tôi hỏi.
-
Thì anh cứ ra xem, khắc biết.
Ở
Diễn Châu, cách làng tôi chừng hai cây số về phía Nam có đền thờ An Dương
Vương. Ngày bé chúng tôi thường thả trâu dưới chân núi Mộ Dạ rồi leo lên chơi
trốn tìm trong đền. Về sự tích ngôi đền này, không cần nghe ai chúng tôi cũng
biết vì sách giáo khoa phổ thông có nhắc tới. Nhiều lần chúng tôi chụm đầu cùng
nhìn xuống đáy chiếc giếng giữa sân đền, cố tìm giọt máu của Mỵ Châu mà tương
truyền còn có trong đấy; hoặc vòng ra phía sau đền để đoán tìm nơi An Dương
Vương nhảy xuống biển tự tử. Biển bây giờ đã lùi xa hàng cây số xuống phía
đông.
Trong
suốt nhiều năm dài tuổi thơ và cả bây giờ, tôi vẫn thầm tự hào quê tôi có được
một lúc cả hai ngôi đền nổi tiếng, đến mức được viết thành sách và trong nước
ai ai cũng biết. Thế mà nay một trong hai ngôi đền ấy, ngôi đền làng Kình, đã
không còn nữa.
Tôi
thơ thẩn bước đi giữa lổn nhổn gạch vỡ và những túm cỏ dại mọc rải rác ở nơi
xưa là sân đền, lòng bâng khuâng mãi nỗi buồn khó tả. Tôi lan man suy nghĩ về
một thời xa xưa huyền bí, về những con người bất hạnh làm nên sự tích ngôi đền
và những con người thực dụng thô thiển sau này đã xóa bỏ nó một cách không
thương tiếc. Tất nhiên tôi cũng nghĩ về bà tôi, một người mà trong tiềm thức
của tôi bao giờ cũng là cái gì đấy không thể tách rời khỏi tuổi thơ và mảnh đất
tôi sinh trưởng. Cũng như quê tôi, con người ấy bắt rễ sâu vào quá khứ, khắc
khổ, vất vả nhưng hiền lành, và điều quan trọng nhất là suốt đời chỉ cầu mong
điều tốt cho tôi. Với tôi, bà luôn là người ít nói và khó hiểu. Mãi gần đây,
nhân có đợt phát động mua công trái, vô tình tôi được biết thời kháng chiến
chống Pháp có lần bà nổi tiếng là người mua công trái nhiều nhất huyện, nổi
tiếng về cả việc chính bà tự nguyện cho bộ đội cả hai con thuyền còn lại của
mình để làm phương tiện vận tải.
Giá
bây giờ sống lại, bà tôi sẽ nghĩ gì?
Lần
cuối cùng gặp bà, tôi đã mười bẩy tuổi, vừa tốt nghiệp phổ thông và sắp đi học
xa. Lần ấy, dù không là rằm tháng giêng, bà cũng dẫn tôi ra đền Kình và tôi lại
thả mười bảy con chim lên trời, với đúng cái thủ tục không thay đổi những năm
trước đó. Kể ra từ khi học cấp ba, do đã lớn và hay xấu hổ, bà có châm trước ít
nhiều phần nghi lễ, thí dụ tôi có thể không phải quì lạy, hoặc tránh không ra
đền vào lúc đông người. Phần mình, gặp lúc đói kém, bà đã chịu thay những con
chim bồ câu đắt tiền bằng chim sẻ hoặc chim gáy, nhưng nói chung những trường
hợp như thế không nhiều.
Một
lần, bà giao việc ra chợ mua chim cho cậu tôi. Đang cần tiền uống rượu, cậu tôi
đến một nhà trong xóm mượn tạm mấy con bồ câu mang về. Sáng hôm sau, từ đền
Kình chúng lại quay về với chủ cũ. Không hiểu thế nào chuyện lộ, bà đã thẳng
tay đuổi cậu tôi ra khỏi nhà, còn tôi thì suýt bị gọi ra Quỳnh Lưu để làm lại
lần nữa cái thủ tục buồn chán ấy.
Về
ước mong "cháu con đông đúc", chắc hẳn bà tôi sẽ thất vọng ghê gớm,
vì mãi tới nay tôi vẫn chưa vợ, dù đã ở cái tuổi ngày xưa bà có cháu đầu lòng
là tôi. Có thể bà sẽ hối hận vì quá răn đe tôi bằng tấm gương của ông sư kia
chăng? Còn chuyện "công thành danh toại" hay thậm chí "làm rạng
rỡ cả dòng họ" – chắc tôi cũng chẳng làm bà vui hơn bao nhiêu, tuy đã được
in mấy cuốn sách và thỉnh thoảng xuất hiện trên báo này, báo nọ. Nhiều khi,
nghĩ về những hy sinh mà bà chịu đựng và những hy vọng bà đặt vào tôi, tôi cứ
áy náy như mình là người mắc nợ lâu ngày chưa trả.
4
Sáng
hôm sau, rời làng Kình, tôi ra chợ Mụ mua một đôi bồ câu - tiếc không có màu trắng - nhét vào chiếc cặp da to
mà tôi vẫn xách đi công tác thay va-li, rồi lặng lẽ đi về phía mỏm núi đá nơi
trước đó từng có một ngôi đền nổi tiếng.
Buổi
sáng, trời thật đẹp. Biển lặng, gió nhẹ nhưng sóng vẫn vỗ mạnh vào những tảng
đá lớn nằm ngay sát chân. Tôi đứng lặng một phút, thầm cầu mong vong linh bà
tôi được yên nghỉ nơi chín suối. Như cậu bé rụt rè ngày nào, tôi mở cặp, nhẹ
nhàng giữ đôi chim trong lòng tay, giơ chúng lên cao và từ từ nới mở các ngón.
Được tự do, đôi chim ngơ ngác mở to mắt nhìn quanh mấy giấy mới đập cánh bay
đi...
Một
cái gì đấy tê tê, êm dịu chạy qua tim. Tôi chợt hiểu: cùng đôi chim ấy, tuổi
thơ vừa tuột khỏi tay tôi bay đi. Bay đi vĩnh viễn.
Trên
không, đôi chim biến mất từ lúc nào. Chỉ còn lại những chiếc lông tơ nhẹ màu
trắng đang nghiêng ngả lượn thành vòng trong gió.
Quảng Bá, 11.5.1985.
CÁI
GIÁ CỦA NIỀM TIN
Mùa
đông năm ngoái tôi có việc lên Cao Bằng công tác. Khi ô tô đến thị xã thì trời
đã tối và không còn xe đi Bảo Lộc, là huyện tôi phải đến. Đành thức chờ đến sáng vậy. Bến xe lúc này vắng
người. Tôi chọn một góc vắng, rồi trải tấm ni-lông xuống đất, thầm lo không
biết làm gì cho hết cái đêm lạnh lẽo, dài và buồn chán này.
Bên
cạnh, ngồi quay lưng về phía tôi là một đồng chí bộ đội mặc quần áo sĩ quan, mũ
kéo tùm hụp xuống tận mắt. Tôi tìm cách bắt chuyện. Một lát sau, vì không có
việc gì làm, chúng tôi đã thoải mái trò chuyện với nhau. Hóa ra anh đi cùng xe
với tôi từ Hà Nội lên và như tôi, cũng phải ngồi chờ sáng để đi tiếp, có điều
không phải đi Bảo Lộc mà về Hạ Lang, quê anh. Tuy không nhìn rõ mặt, không phân
biệt được quân hàm, quân hiệu, nhưng qua giọng nói tôi đoán anh là một sĩ quan
từng trải và có lẽ không dưới bốn mươi lăm tuổi. Tôi yêu cầu anh có chuyện gì
hay kể cho nghe, và anh đã kể. Trái với điều tôi mong đợi, chuyện anh kể không
về những kỉ niệm chiến đấu ở chiến trường, mà về những con chim hải âu hiền
lành sống trên những hòn đảo nhỏ xa tít ngoài đại dương mênh mông mà trong đợt
tổng tấn công mùa xuân năm 1975 anh và đồng đội được lệnh ra giải phóng.
*
"Mấy
ngày sau khi ta chiếm Dinh Độc Lập, chúng tôi được lệnh hỏa tốc ra đảo X. Trên
danh nghĩa, chúng tôi là một tiểu đoàn nhưng quân số thực tế chỉ hơn trăm
người, lại toàn lính mới chưa dày dặn sóng nước nên khi tới nơi, phần lớn phải
nằm bất động vì say sóng. Cũng may chẳng phải đánh đấm gì mấy, vì bọn địch chốt
trên đảo nghe tin đất liền thất thủ, tinh thần đã sa sút tột độ và chỉ chờ có
người đến để đầu hàng. Việc tiếp quản, ổn định cuộc sống trên đảo được tiến
hành nhanh chóng và thuận lợi..
Thật
khó nói hết sự ngỡ ngàng của chúng tôi những ngày đầu đặt chân lên đảo. Anh thử
tưởng tượng xem - những doi cát nhỏ nhoi giữa biển cả luôn có sóng lớn, còn gió
thì ngày đêm thổi mạnh như bão. Chúng tôi đã hốt hoảng thực sự khi đêm đầu tiên
ngủ dậy - như trong câu chuyện thần thoại - chợt thấy trước mặt mình nhú dần
lên những hòn đảo thoạt nhìn tưởng tàu địch. Thì ra ở đây có những hòn đảo quá
thấp, đến mức thủy triều lên bị ngập hẳn dưới nước và chỉ khi nước rút mới xuất
hiện trở lại.
Tuy
nhiên, điều làm chúng tôi ngạc nhiên và thú vị hơn cả là chim hải âu. Xưa nay
chúng ta chỉ thấy hải âu trong phim, trong các bài hát trữ tình, thế mà bây
giờ, kia, chúng kia, hàng nghìn, có thể hàng chục nghìn con đang bay nhao nhác
trước mặt. Chúng kêu những tiếng đơn điệu, nghe có cái gì buồn buồn trong đó.
Tôi có cảm giác như đây là điểm hội tụ của tất cả loài hải âu trên biển. Từ đây
chúng tỏa đi kiếm ăn khắp nơi, chao lượn không mỏi trên những ngọn sóng, khi
trở lại, chúng đậu kín bề mặt hòn đảo chúng tôi đang ở và cả những hòn nhỏ lân
cận. Vì đảo trần trụi không cây cối, không hang đá, nên chúng ngủ, làm tổ và đẻ
trứng ngay trên mặt cát, lẫn với những vón phân khô, những mẩu cá chúng ăn sót
lại, phảng phất mùi tanh nồng.
Như
anh biết, ở đất liền bao đời nay quan hệ giữa con người và con chim là thù
địch. Thấy chim, con người luôn tìm cách bắt, bẫy hoặc xua đuổi. Phần mình, như
phản xạ tự vệ hình thành qua hàng nghìn năm, thấy người là chim liền xa lánh.
Còn ở đây, trong tiềm thức những con chim hải âu này, cái phản xạ tự vệ ấy
không có, vì lí do đơn giản là không cần thiết, hay chính xác hơn là chúng chưa
bao giờ cảm thấy bất kỳ mối đe dọa nào từ phía những con người chúng gặp. Vâng,
đúng như thế. Chúng đậu ngay trước mặt chúng tôi, xung quanh chúng tôi, thậm
chí cả trên vai và đầu chúng tôi. Mà chúng tôi là ai thì anh đã biết. Sau những
phút ngỡ ngàng đầy thi vị ban đầu trước sự cả tin thơ ngây của bầy chim kì lạ,
chúng tôi nhanh chóng trở lại với thói quen bản năng thực dụng mang theo từ đất
liền.
Việc
đầu tiên là chúng tôi nhặt trứng luộc ăn. Không ngon lắm nhưng cũng tàm tạm, ít
nhất đối với những người luôn phải sống trong cảnh kham khổ. Tiếp đến là ăn
thịt chim. Rất đơn giản: một người đứng thẳng chìa tay về phía trước. Sẽ có một
con đến đậu với đôi mắt mở to háo hức nhìn xung quanh. Nó sẽ được bàn tay còn
lại của anh ta vỗ vỗ vào lưng, rồi vặn cổ, vứt sang cạnh cho người khác vặt
lông, đưa lên lửa nướng. Tiếp theo là con khác rồi một con khác nữa, cũng với
những đôi mắt mở to ươn ướt như thế. Và cũng như thế, chúng được vỗ vỗ vào
lưng, bị vặn cổ vứt xuống đất. Chứng kiến cái cảnh độc đáo ấy là chúng tôi,
những chàng trai vô tư ngồi quanh đống lửa vừa nhồm nhoàm nhai thịt chim, vừa
nói cười vui vẻ, quá ư vui vẻ.
Chẳng
bao lâu sau, cái trò ấy cũng chán, phần vì thịt chim hải âu tanh, khác hẳn thịt
các loài chim đất liền. Nhàn rỗi, chúng tôi lang thang đi trên đảo, dẫm nát
dưới gót giày những quả trứng màu xanh lơ xinh đẹp, hay tiện chân đá bay những
con chim khờ khạo nằm ngáng đường đi. Một cậu nổi tiếng tinh nghịch còn lấy gậy
đánh vào chúng. Ôi, những con chim ngu ngốc tội nghiệp. Anh biết không, cứ con
này bị đánh chết là con khác lại sa vào, không chút ý thức về mối nguy hiểm
đang đe dọa. Cũng rất vô tư, chúng tôi thi nhau trổ tài thiện xạ. Tất nhiên mục
tiêu vẫn lại là những con chim đang đậu phía trước, xa hay gần tùy khả năng
từng người.
Tiếng
súng quả có làm bầy chim hoảng sợ, nhưng là cái sợ mơ hồ không cắt nghĩa nổi.
Chúng giật mình bay lên cao, nghiêng ngó nhìn quanh rồi lại ngỡ ngàng đậu
xuống. Chúng chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra. Có thể lúc ấy trong chúng đã hình
thành mầm mống đầu tiên của sự ngờ vực đối với con người như cách đây hàng vạn,
hàng triệu năm tổ tiên loài chim trên đất liền xa xôi đã ngờ vực con người khi
con người bắt đầu đối xử thô bạo với chúng.
Hai
ngày tiếp theo, vẫn những cảnh ấy xảy ra.
Sang
ngày thứ tư thì một điều kỳ lạ đã đến. Anh có thể tin hoặc không, nhưng mờ sáng
hôm ấy, ngủ dậy, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy trên hòn đảo chúng tôi
đóng quân không hề thấy bóng con chim nào. Xin nhắc lại: không một con nào! Dấu
vết duy nhất còn lại của chúng là những vỏ trứng vỡ ngổn ngang và những túm
lông chim gió thổi bay vật vờ trên cát. Đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy
ra thì bỗng có lệnh báo động. Sau đó là lệnh tập hợp toàn đơn vị. Chúng tôi
nhanh chóng đứng thành ba hàng, thấp thỏm chờ đợi.
Đại
úy tiểu đoàn trưởng Lâm của chúng tôi là người nhỏ bé, khắc khổ, đã trên năm
mươi tuổi. Ông ít nói, hiền từ (lúc vui chúng tôi quen gọi "Bố Lâm")
nhưng dễ nổi nóng. Bản chất nông dân, hàng ngày ông thích mặc xuềnh xoàng, dễ
dãi, nên hôm nay thấy ông bước ra trước hàng quân trong bộ đồ sĩ quan mới, đủ
giày mũ và quân hàm, chúng tôi biết có chuyện khác thường. Sau khi hô
"nghiêm" toàn đơn vị, ông bắt đầu nói, giọng trang nghiêm, run run vì
xúc động và giận dữ:
-
Các đồng chí... các đồng chí đã làm một việc cực kì nghiêm trọng... một việc
xấu xa. Các đồng chí đã làm cả đàn chim hoảng sợ bỏ đảo bay đi... Bao năm nay
chúng yên ổn sống hòa thuận với con người, với giặc, những tên lính ngụy, kẻ
thù của chúng ta, các đồng chí hiểu chưa, với kẻ thù của chúng ta, thế mà nay
các đồng chí, những chiến sĩ cách mạng... chỉ trong ba ngày, các đồng chí đã...
đã... Thật tôi không còn biết nói thế nào nữa. Tự các đồng chí phải hiểu
lấy...Thật xấu hổ! Xấu hổ! - Đôi mắt ông chớp chớp. Rồi im lặng một lúc, ông
nhìn thẳng vào chúng tôi, nói tiếp với vẻ cương quyết hiếm thấy: - Từ bây giờ,
tôi ra lệnh các đồng chí phải bằng mọi cách đưa đàn chim trở lại đảo. Thời hạn
một tuần! Giải tán!
Đấy,
anh xem, câu chuyện hóa ra thế đấy. Đến bây giờ chúng tôi mới ý thức hết việc
mình làm. Mọi người lặng lẽ ai về vị trí người ấy, xấu hổ không dám nhìn vào
mắt nhau. Liền sau đó, chi bộ họp. Là đảng viên, tôi có dự. Tiểu đoàn trưởng
hồi lâu nhắc lại những điều đã nói trước toàn đơn vị, và theo đề nghị của ông,
chi bộ đã thông qua những điểm sau (nguyên văn):
1
- Bằng mọi cách đưa đàn chim trở lại đảo trong thời gian ngắn nhất có thể.
2
- Các trung đội họp tự kiểm điểm một cách nghiêm túc.
3
- Từ nay cấm không được ăn thịt chim, trứng chim, cấm không được làm phương hại
đến chim và trứng chim dưới bất kì hình thức nào.
4
- Cấm không được nổ súng, trừ trường hợp chiến đấu.
5
- Báo cáo về đất liền.
Tiếp
đến là những ngày nặng nề, căng thẳng của chúng tôi. Toàn bộ sự chú ý của đơn
vị chỉ nhằm vào một việc là đưa đàn chim trở lại đảo. Nhưng bằng cách nào?
Chúng tôi đã thử mọi cách có thể nghĩ ra được. Trước hết là dọn sạch lông chim
và vỏ trứng vỡ. Tuyệt đối không gây một tiếng động nào có thể làm chim sợ và
hạn chế đến mức tối thiểu sự xuất hiện của người trên mặt đảo.
Anh
thử tưởng tượng xem, hơn trăm con người lặng lẽ, rón rén đi lại như những thằng
ăn trộm. Một trăm con người ấy, một trăm chiến sĩ từng vào sống ra chết trên
những chiến trường ác liệt nhất, một trăm chàng trai khỏe mạnh, đáng yêu và vô
tư - thậm chí quá vô tư đến mức đã có một hành động lầm lỡ, nay thực tình hối
hận muốn chuộc lỗi. Nếu cùng là người với nhau thì đơn giản hơn nhiều. Tôi cư
xử không tốt với anh ư? Thế thì xin lỗi, và chúng ta sẽ lại chung sống với nhau
như những người bạn. Còn nếu anh vì lí do nào đấy không thể tha thứ, ít ra cũng
cho được nói rằng tôi làm việc ấy hoàn toàn không vì xấu bụng, mà chỉ do lầm
lỡ. Đấy, với con người có thể nói với nhau như thế. Nhưng với con chim thì
không được. Chim chỉ hiểu chúng ta qua ngôn ngữ của hành động, mà hành động bao
giờ cũng chỉ bộc lộ ở bề nổi của nó, phần quan trọng hơn, phần nguyên nhân thì
không dễ nhận thấy nếu thiếu bộ óc suy diễn lô-gích. Chúng tôi đã làm một hành
động xấu, con chim hiểu điều đó và đã xa lánh chúng tôi, nhưng nay chúng tôi
đang có một hành động khác ngược lại, là sự hối hận và xấu hổ. Điều đó nằm sâu
trong suy nghĩ của con người. Làm sao chim thấy được?
Một
ngày, hai ngày rồi một tuần trôi qua mà vẫn không một con nào trở lại. Chúng
chen chúc nhau chật chội trên những hòn đảo bé nhỏ khác, hoặc cam chịu cảnh ướt
át bất tiện trên các doi cát khi ẩn khi hiện theo con nước. Kể ra câu chuyện sẽ
không trở nên quan trọng mức ấy, nếu tiểu đoàn trưởng không cho phát lệnh báo
động cả đơn vị. Chính việc đó làm thay đổi hẳn tính chất của vấn đề. Lúc này,
trong việc lấy lại niềm tin của bầy chim, chúng tôi hiểu còn có cái gì đấy trừu tượng nhưng to
lớn và quan trọng hơn.
Vẫn
không thấy bóng con chim nào xuất hiện. Mọi phương pháp, mọi mưu kế đều được
đem ra thử. Tôi, với tư cách người dân tộc có kinh nghiệm săn bẫy muông thú
cũng được hỏi ý kiến. Một anh chàng theo đạo Cơ Đốc được yêu cầu cầu Chúa cho
loài chim trở lại. Anh ta đã thành tâm cầu Chúa nhưng tạm thời lời cầu chưa màu
nhiệm. Một cậu còn đem cả bát cơm đang ăn tung lên nhử, quên rằng hải âu chỉ ăn
cá...
Bầy
chim vẫn lạnh lùng bay cao trên đầu chúng tôi, nghiêng ngó nhìn một cách cảnh
giác rồi xuống đậu các đảo lân cận, dù đảo chúng tôi là nơi khô ráo, thuận tiện
nhất, dù trên đó đang chờ đợi chúng là những con người đã hối cải, những người
bạn thật sự.
Thêm
một tuần, rồi một tuần nữa trôi qua...
Bỗng
một sáng nọ, có cậu vừa bước ra khỏi hầm đã kêu to sung sướng:
-
Kìa, chúng trở lại rồi kìa!
Cả
bọn chúng tôi ùa ra xem. Trên một mô đất cao cách chúng tôi ba trăm mét, quả có
mấy con đang đứng với nhiều tư thế khác nhau. Nhưng nhìn mãi vẫn thấy chúng
đứng yên, mọi người sinh nghi, bèn rón rén đến xem. Hóa ra đó là những con chim
nhồi. Mọi người nhìn nhau thở dài thất vọng. Nhưng ai đã làm những con chim
nhồi đó? Vì sao? Cả đơn vị căn vặn nhau mãi vẫn không tìm ra thủ phạm. Vâng,
thủ phạm, vì dù với mục đích gì chăng nữa, làm thế cũng là vi phạm lệnh giết
chim đã được công bố.
Tuy
thế, phải nói rằng chính nhờ những con chim nhồi kia chúng tôi mới thoát khỏi
cái thế bất lực khổ sở của mình. Bay trên cao, thấy có bạn đậu yên ổn trên đảo,
đàn chim hải âu bắt đầu thay đổi thái độ. Một vài con rụt rè bay xuống nhập
bọn. Núp trong hầm, chúng tôi nín thở theo dõi. Hôm sau số chim xuống đậu đã
nhiều. Hôm tiếp theo nhiều hơn nữa. Chúng tôi đã có thể đi lại trên đảo, có
điều phải rất cẩn thận và nhất là phải thật tự nhiên như không hề quan tâm tới
chúng. Cuối cùng, sau hai tháng, tất cả trở lại như cũ, nghĩa là đàn chim lại
có thể đậu lên vai, lên tay chúng tôi mà không hề lo sợ. Chúng tôi thở phào nhẹ
nhõm. Anh biết không, ngoài ra chúng tôi còn có thêm cái cảm giác ấm áp của
tình bạn, vì suy cho cùng, sống chơ vơ một mình giữa biển trời, có được con
chim làm bạn mà nó bỏ đi, kể cũng buồn lắm chứ.
Toàn
bộ câu chuyện là thế. Nghĩ thật chua xót - chỉ trong vài ngày, mấy anh lính trẻ
vô tư đã dễ dàng đánh mất niềm tin của những con chim bé nhỏ vào con người, và
để lấy lại niềm tin ấy, cả một tiểu đoàn phải vất vả, khổ sở trong hai tháng
liền. Biết làm sao được... Cái cần trả giá phải được trả giá, không còn cách
nào khác!"
*
Anh
bộ đội ngừng kể. Chúng tôi cùng ngồi im hút thuốc. Cuối cùng tôi lên tiếng:
-
Tôi hỏi thật nhé, có phải anh nghĩ ra mấy con chim nhồi kia không?
-
Không, - anh đáp sau một phút trầm ngâm. - Đó là sáng kiến của “bố” Lâm.
"Bố" quê ở một vùng chiêm trũng Thanh Hóa. Ở đấy người ta hay bẫy cò,
nên "bố" mới biết cái kinh nghiệm ấy. Vả lại, hôm "bố" lén
lút chèo thuyền sang đảo khác bắt hải âu là hôm tôi trực gác, nên tôi nhìn thấy
hết. "Bố" bắt tôi thề không nói lộ với ai. Tôi không nghĩ
"bố" sợ bị xem là vi phạm lệnh cấm, mà chỉ sợ mang tiếng lừa dối
những con chim ngây thơ. Thế mà sau này, do tính bép xép, tôi đem kể hết với
mọi người. Tuy nhiên, vì sợ "bố" buồn, toàn tiểu đoàn ai cũng vờ như
chẳng hay gì. Có lẽ đến bây giờ "bố" vẫn nghĩ chỉ mình ”bố" và
tôi biết điều đó. Tội nghiệp ông già.
Cao Bằng, 1980
CUỘC
TRỞ VỀ CỦA ĐỨA CON LẦM LỖI
1
Hàng
năm, cứ vào ngày mồng bảy tháng Giêng âm lịch là cả làng D.T lại nhộn nhịp hẳn
lên. Cái nhộn nhịp ấy còn lan sang những làng lân cận. Vào ngày ấy, từ sáng sớm
người ta í ới gọi nhau đi chợ, đến trưa thì nhà nào trên bàn thờ tổ tiên cũng
có một mâm cỗ với những que hương trầm nghi ngút khói. Trong khi lũ trẻ hoặc đám
thanh niên mới lớn vô tư cười nói bên cạnh, những người già đứng chắp tay trước
bàn thờ, cúi đầu lầm rầm cầu khấn điều gì chỉ mình họ biết. Cuối cùng mâm cỗ
được hạ xuống, một lần nữa, khi cánh trẻ ăn uống vui vẻ, những người già -
thường ngồi riêng với nhau ở mâm trên, - vừa nhâm nhi cốc rượu, vừa khe khẽ
nhắc lại những gì đã xẩy ra vào cái ngày khủng khiếp ấy...
Đó
là ngày mồng bảy tháng Giêng âm lịch năm 1954, nghĩa là lâu, đã lâu lắm rồi, đến mức bây giờ nhớ lại, người
ta không khỏi không mâu thuẫn với nhau về chi tiết, thậm chí cả những chi tiết
quan trọng. Mỗi người kể một cách và ai cũng cho mình đúng. Đại khái sự việc
xẩy ra thế này.
Độ
năm giờ sáng vào cái ngày khủng khiếp ấy, một chiếc máy bay khu trục Pháp bất
ngờ từ phía biển bay vào, ném một loạt năm quả bom xuống D.T. lúc ấy hẵng còn
là một làng nhỏ nhà cửa đứng sát sít bên nhau. Chiếc máy bay ấy còn lượn thêm
hai vòng, sau mỗi vòng lại chúc xuống ném những loạt bom dài và chính xác như
trước. Rồi vút lên, nó bay mất hút về phía biển.
Sau
đấy là một nỗi kinh hoàng thật sự. Làng D.T nằm dài thành một vệt, bị ba lần
ném bom trúng ngay vào ba phần đầu, giữa và cuối, thành ra cả làng không còn
ngôi nhà nào nguyên vẹn. Số người chết lại càng khủng khiếp hơn, vì lúc ấy còn
sớm, hoặc người ta ngủ chưa dậy, hoặc dậy rồi nhưng chưa đi đâu khỏi làng. Có
người bảo chết hai trăm, có người bảo ba, cũng có người nói nhiều hơn. Còn việc
vì sao làng D.T bị ném bom chứ không phải làng nào khác, mà lại một cách dã
man, mang tính hủy diệt như thế, trong khi suốt một thời gian dài trước đấy cả
huyện Diễn Châu rộng lớn chưa bị ném bom lần nào, thì không ai hiểu nổi, mặc dù
người ta đã đưa ra rất nhiều giả thiết khác nhau.
Từ
đấy hàng năm đúng ngày mồng bảy tháng Giêng âm lịch là cả làng nhà nào cũng có
giỗ. Kèm theo giỗ là những câu chuyện rôm rả, những hồi tưởng đau buồn, những
tiếng khóc...
2
Năm
nay về D.T dự "giỗ làng" có thêm một người. Người ấy lập tức thu hút
sự chú ý của dân làng. Đó là một ông già khoảng 65 tuổi, tóc bạc trắng, da dẻ
hồng hào nhưng hình như không được khỏe vì ông phải dùng gậy để đi lại. Ông về
làng trước ngày có giỗ hai hôm, tức là vào ngày mồng năm. Không ai nhận ra ông,
có lẽ ông cũng chẳng nhận ra ai quen trong làng. Ông nói tên những người ông
muốn gặp, người ta lắc đầu không biết. Ông phải tìm hỏi người cùng tuổi, tự
giới thiệc mình là ai, từ đâu tới, vân vân, lúc ấy người ta mới đồng thanh
"ồ", "à" cả lên.
Thì
ra ông già là dân làng này, có điều ông xa nó gần ba mươi năm, và nay, sau ba
mươi năm dài ấy, ông mới trở lại thăm làng lần đầu. Không phải không muốn, ông
nói, mà vì ông ở xa, tận bên nước Thụy Sĩ hay gì gì ấy ở châu Âu. Còn những
người ông hỏi gặp thì thuộc gia đình một địa chủ lớn ngày xưa ở vùng này. Có
điều bây giờ cái gia đình ấy chẳng còn ai, trừ bà Sen, một bà già đơn độc sống
cuối làng.
-
Chết hết rồi, - người ta thở dài bảo ông. - Chết vào cái ngày khủng khiếp ấy.
Bom, máy bay ném bom... ông biết chứ? - Rồi như để an ủi, người ta ái ngại nhìn
ông, nói thêm: - Không riêng gì nhà nhà bác mà cả làng, nhiều lắm...
-
Có, tôi có nghe nói, - ông già lặng lẽ lấy khăn mù-xoa lau lau đôi mắt hoe đỏ
vì xúc động. - Cũng vì thế tôi về đây xem thực hư thế nào. Kinh khủng quá,
trời, kinh khủng quá...
Ông
già lại lấy khăn chấm vào mặt. Giọng ông run run. Đôi tay khô và nhăn nheo của
ông cũng run run. Một chốc sau lũ trẻ dẫn ông chống gậy chậm chạp đi về phía
nhà bà Sen.
Đêm
hôm ấy, dĩ nhiên ông và bà Sen trò chuyện với nhau rất lâu.
-
Trời, bác Ánh, không lẽ bác còn sống à? - Bà Sen kêu lên khi nhận ra khách là
ai. Bà và ông là con chú con bác với nhau, tuy ít hơn ông mấy tuổi và có vẻ già
yếu hơn. - Chừng ấy năm bác ở đâu? Sống thế nào?
Không
chờ khách trả lời, bà vội bỏ đi lấy ghế, múc nước. Còn ông già thì cố tỏ ra
bình tĩnh. Ông thong thả đưa cả hai tay bê bát chè vối nguội lên tận miệng, rồi
cũng thong thả như thế, ông uống từng ngụm nhỏ cho đến hết bát nước, trong khi
bà Sen ngồi đối diện, vừa tò mò quan sát, vừa kiên nhẫn chờ nghe ông nói.
-
Bà biết rồi đấy. Năm bốn mươi, tôi ra Hà Nội học. Rồi sang Pháp. Rồi lại về
nước làm cái thằng lính. Đến năm năm tư thì tôi theo người Pháp rời Việt Nam,
sang sống với bố mẹ ở nước ngoài. Ờ, mà hai cụ chết đã lâu, hai mươi năm rồi.
Còn tôi vẫn sống một mình, không vợ con, những tưởng chẳng bao giờ được thăm
lại quê cũ, thế mà tôi vẫn lần được về. Tôi muốn biết...
-
Vâng, - đoán hiểu ý ông, bà Sen vội tiếp lời, - ngày kia là giỗ làng rồi. Cả
làng, bác ạ, - những hai ba trăm người chết chứ đâu ít...
-
Nhiều thế cơ à? - Ông ánh khẽ hỏi.
-
Vâng, thật khủng khiếp. Tờ mờ sáng, bác ạ. Một chiếc máy bay... ôi! - Bà Sen
thở dài rồi ngồi im, rơm rớm nước mắt.
-
Hai cụ nhà cô cũng chết lần ấy?
-
Vâng, cả chồng và con trai tôi nữa. Một quả bom rơi trúng nhà. May tôi lúc ấy ra vườn hái rau chuẩn bị cơm sáng
nên mới thoát.
-
Còn gia đình bác Vị ? (Bác Vị là anh trai cả bố mẹ ông Ánh, bà Sen).
-
Cũng thế. Có điều bác gái bị thương, phải nửa năm sau mới chết được.
-
Còn chú Xuân?
-
Chú Xuân lúc ấy không ở nhà. Chú ấy trốn đi bộ đội từ hai năm trước, sau này hy
sinh ở Điện Biên.
-
Còn làng xóm?
-
Làng xóm thì bác thấy đấy, nhà nào cũng bị, không người này thì người nọ. Ngày
kia giỗ, rồi bác xem.
Ông
Ánh không hỏi gì thêm. Ông cúi đầu ngồi im, hai tay ôm mái tóc bạc. Ngoài sân,
trời đã tối từ lâu. Trong ánh sáng đỏ nhờ của chiếc đèn dầu ma-dút, bà thấy ở
khóe mắt ông có hai giọt nước lấp lánh mỗi lúc một to dần. Bà cũng ngồi im thẫn
thờ, cho đến lúc bất chợt vụt đứng dậy vì sực nhớ phải làm cơm mời khách.
Đêm
ấy hai người còn ngồi nói với nhau nhiều chuyện, nhưng như đã hẹn trước, ai
cũng cố không nhắc tới đề tài lúc nãy.
Cuối
cùng cáo mệt, ông Ánh lên giường nghỉ. Từ buồng trong, bà Sen nghe rõ tiếng ông
nằm trăn trở mãi, cho đến khi bà thiếp đi lúc nào không biết.
Hôm
sau, tức ngày mồng sáu, ông Ánh nhờ bà Sen dẫn ra thăm mộ những người bị bom
chết trong cái ngày xa xưa ấy. Đến nơi, ông nói muốn ở lại một mình. Tuy không
hiểu ý ông làm gì, nhưng bà Sen chẳng hỏi, lẳng lặng ra về.
Nghĩa
địa Gia Quán nằm trên mé đồi thoai thoải bao quanh bởi những bụi gai còi cọc
thấp tè. Mộ được xếp thành từng hàng dài, mỗi họ một khu, chiếc này dính liền
chiếc kia như những luống khoai lớn, phía trên nổi lên những mô đất nhỏ đánh
dấu từng chiếc. Phần bị mưa xói, phần do trâu bò xéo, nhiều chiếc sụt lở, méo
mó. Đất cằn, cỏ không mọc nổi, không bóng cây, không lăng bia, mộ chí. Nói chung
quang cảnh khá tiêu điều và ảm đạm.
Ông
Ánh thận trọng chống gậy đi đến trước hàng mộ người thân của ông bà Sen vừa
chỉ. Tay cầm hộp diêm, run run, ông bật lửa châm mấy bó hương mang theo, cắm
xuống đấy năm que. Số còn lại ông chia đều cho tất cả những hàng mộ bên cạnh.
Sau đó ông chọn một hòn đá phẳng và ngồi xuống, hồi lâu đờ đẫn nhìn một điểm
nào đấy trước mặt...
Tối
đến ông chống gậy đi hết nhà này sang nhà khác. Đến đâu ông cũng gợi để chủ nhà
nói về cái sự kiện khủng khiếp xảy ra cách đây mấy mươi năm. Còn ông, ông chỉ
im lặng ngồi nghe, thỉnh thoảng thêm đôi lời để câu chuyện khỏi bị ngắt quãng.
Ai
cũng ái ngại cho ông già sau chừng ấy năm xa cách nay trở lại quê hương phải
nghe những chuyện buồn như vậy.
3
Rạng
sáng ngày mồng bảy, khi mặt trời chưa lên và sương mù còn dầy đặc, có một bà
gánh rau cải xuống chợ bán sớm. Đến cây đa cụt cuối làng, vì mải nhìn xuống
đường để tránh những vũng nước đọng sau cơn mưa, bà bỗng thấy đầu mình va phải
cái gì khô cứng.
Bà
ngước nhìn lên, kêu to một tiếng vì ngạc nhiên và sợ hãi, rồi vứt gánh, ù té
chạy trở lại. Chưa đầy mười lăm phút sau, một nửa dân làng D.T đã có mặt. Mọi
người đứng quanh cây đa cụt, sững sờ nhìn cảnh tượng trước mặt.
Trên
cành cây choãi ra phía mặt đường, có một người treo cổ chết, xác lủng lẳng, mồm
há hốc, đầu ngoẹo sang một bên, mớ tóc bạc lòa xòa dính bết vào trán - có thể
vì mồ hôi, cũng có thẻ vì sương ướt.
Người
đó là ông Ánh. Chiếc gậy của ông để tựa gốc cây. Trên gậy là chiếc mũ dạ với tờ
giấy được gấp tư cẩn thận, to bằng lòng bàn tay. Theo yêu cầu của mọi người,
một thanh niên rón rén lại gần gốc đa, cầm tờ giấy lên, đọc to:
"Thưa
bà con dân làng,
Chính
tôi là người lái máy bay ném bom làng ta ba mươi năm về trước. Tôi đã xin cấp
trên được làm điều đó, vì nghe tin gia đình tôi bị Cộng Sản cướp hết ruộng đất,
nhà cửa chia cho dân nghèo. Lúc ấy còn trẻ và nông nổi, tôi thèm khát trả thù,
lại sẵn bom đạn trong tay, thế là tôi tự nguyện gây nên tội ác khủng khiếp kia,
cái mà từ ngày ấy cho đến nay không để lương tâm tôi thanh thản phút nào. Tôi
đã phạm một sai lầm không cứu vãn nổi, là tách rời khái niệm "Cộng
Sản" khỏi khái niệm quê hương làng nước...
Bây
giờ đã bốn giờ hai mươi phút, nghĩa là tôi còn phải chờ thêm mười phút nữa để
tự kết liễu đời mình. Thực ra, tôi xem tôi đã chết vào đúng cái giờ phút ấy
cách đây ba mươi năm, khi tôi bấm nút ném quả bom đầu tiên xuống khu làng đã
sinh và nuôi tôi lớn.
Tôi
chẳng dám xin được bà con tha thứ cho tôi, một đứa con tội lỗi sau bao nhiều
năm lưu lạc, nay trở về quê cũ để tự đền tội. Trong túi tôi hiện còn ít tiền,
nếu được, nhờ bà con cho thuê người chôn tôi ở nghĩa địa Gia Quán, cạnh những
người tôi đã giết.
Nguyễn
Văn Ánh”
Diễn Châu, 1983
ĐÊM
Ở MỘT GA YÊN TĨNH
Đoàn
tàu Hà Nội - Vinh rầm rập chạy qua như mũi khoan khổng lồ xuáy sâu vào lớp
không khí đặc quánh của một đêm hè không gió, ngột ngạt. Đứng bên cửa sổ phòng
mình, ông Phát nhìn theo cho đến khi ngọn đèn đỏ tín hiệu sau đuôi đoàn tàu chỉ
còn là một chấm nhỏ, rung rinh rồi tắt hẳn. Theo lịch là chín rưỡi nhưng tàu
thường về chậm, nên bây giờ chắc đã muộn.
Sự
yên tĩnh lại bao trùm lên khu xóm nhỏ nằm dọc theo chân núi Bạc, ngay sát ga Mỹ
Lý. Lớp không khí bị đoàn tàu khoan thủng bây giờ được lấp đầy lại.Từ đâu đấy
phía kênh Nhà Lê có tiếng máy bơm nước đều đều vọng lại.
Ông
đứng như thế rất lâu, bề ngoài thanh thản nhưng trong lòng không vậy. Ý nghĩ
ông rời rạc, lẫn lộn và ông khó chịu với sự rời rạc, lẫn lộn đó. Rồi việc nọ xọ
việc kia, ông khó chịu cả với anh con trai mãi không thấy về, dù ông biết giờ
này nó chưa thể về được. Khi đi, con ông báo như thế.
"Đêm
nay, vâng, nhất định đêm nay mình sẽ nói với nó điều ấy. Nói hết tất cả để khỏi
do dự thêm nữa. Nó về là bắt đầu ngay. Bắt đầu từ điều cần nói nhất."
Quyết định dứt khoát và rõ ràng ấy làm ông dễ chịu hơn đôi chút. "Nhưng
mình sẽ bắt đầu thế nào nhỉ? Không lẽ cứ nói: Bắc này, con lớn rồi, bố nghĩ đã
đến lúc có thể cho con biết sự thật, cái sự thật vì con bố phải che giấu hàng
chục năm nay. Con sẽ ngạc nhiên nhưng đừng vội oán ghét bố. Bố... Bố không phải
là bố của con. Hơn thế, bố là thằng giết người,
giết chính bố đẻ của con và cũng là một đồng chí của bố..."
Ông
Phát không dám nghĩ tiếp. Ông tưởng tượng thấy phản ứng của thằng Bắc. Vốn vô
tư, bồng bột, lúc đầu nó sẽ đứng nghe lơ đãng như mọi lần nhưng khi hiểu được ý
nghĩa câu nói kia, nó sẽ ngơ ngác nhìn ông, hai mắt mở to vì ngạc nhiên. Sau
đó... Sau đó có thể nó sẽ hoảng sợ lùi
lại mấy bước, có thể tiếp tục đứng lặng với vẻ mặt ghê tởm và căm giận. Cũng có
thể nó là người chín chắn hơn ông tưởng. Nó sẽ bình tĩnh nghe hết mọi chuyện và
tha thứ cho ông. Nhiều tình huống có thể xảy ra, ông không hình dung hết. Ông
chỉ biết chắc một điều, là sau chuyện này quan hệ giữa hai bố con ông sẽ không
còn như trước. Thậm chí ông sẽ chẳng được gọi nó là con. Điều ấy sẽ làm ông khổ
tâm.
Bỗng
ông thấy mệt mỏi ghê gớm, người rủn ra, lảo đảo như sắp ngã. Ông đưa tay nắm
chặt hai song sắt quét sơn mát lạnh và nhìn đăm đăm vào màn đêm trước mặt. Xa
xa, những thửa ruộng mới gặt ánh lên màu nước bàng bạc. Đêm không trăng, sáng
thế, chắc trời phải nhiều sao lắm...
*
Chuyện
đã lâu nhưng trong đầu ông Phát tất cả còn mới nguyên như vừa xảy ra hôm qua.
Vâng, chính ông đã giết bố thằng Bắc. Bằng chính đôi tay này đây. Đó là một sự
thật không thể chối cãi, mà ông cũng không bao giờ có ý định chối cãi nó. Ngược
lại, hôm nay ông muốn tự mình nói ra tất cả.
Năm
ấy, trong chuyến tàu thực dân Pháp chở ông và nhiều tù chính trị khác ra Côn
Đảo, người ta phát hiện thấy một tên chỉ điểm trà trộn trong anh em tù nhân.
Hắn đã gây không ít tai họa. Cuối cùng tổ chức Đảng bí mật quyết định trừng trị
hắn. Kế hoạch thật đơn giản: đêm đến chờ tất cả ngủ say, lợi dụng bóng tối và
bọn cai tù vắng mặt, ba người sẽ lần tới chỗ hắn nằm - đã được xác định trước
và đánh dấu cẩn thận - trùm chăn lên người hắn; một người giữ chân, một giữ
tay, người còn lại bóp cổ; xong, lặng lẽ quẳng xác hắn xuống biển. Vì là người
khỏe hơn nên ông Phát nhận phần bóp cổ. Kế hoạch được thực hiện êm thấm - không
tiếng động, không chống cự, xung quanh không ai hay biết. Đêm ấy ông Phát trằn
trọc mãi không sao ngủ được. Dù sao đây cũng lần đầu ông giết người, tuy đó là
con người xấu xa và đáng phải chết.
Thế
mà sáng hôm sau, lạ lùng thay, khi tỉnh dậy người đầu tiên ông nhìn thấy không
ngờ lại chính là tên chỉ điểm nọ. Trong đời chưa bao giờ ông ngạc nhiên và từ
ngạc nhiên trở thành lo sợ đến thế. Nghĩa là ông và các bạn ông đã giết nhầm ai
đó. Ai? Chỉ nửa giờ sau ông biết được người ấy là một đồng chí trung kiên ông
mới quen trên tàu. Suốt mấy ngày liền ông như người mất hồn, âm thầm đau xót,
dằn vặt lương tâm và hối hận.
Hòa
bình lập lại, ông tìm đến gia đình người ấy với ý định kể hết mọi chuyện. Có
thế lòng ông mới thanh thản phần nào. Tuy nhiên khi đến nơi, ông chỉ thấy một
phụ nữ trẻ đang bệnh nặng và đứa bé ba tuổi. Chỉ hai mẹ con với nhau, không
người thân, không ai giúp đỡ. Vậy là ông không thực hiện được ý định xám hối
của mình, ít nhất vào lúc này.
Ông
tự giới thiệu ông là bạn thân cùng ở tù với chồng chị, kể nhiều chuyện tốt đẹp
và về cái chết anh dũng của người chính ông đã giết. Ông nói ông đã hứa với
người chết, và bây giờ xin được giúp đỡ, chăm sóc đứa bé và chạy chữa thuốc
thang cho mẹ nó. Ông định khi nào chị khỏi bệnh sẽ tự thú hết rồi ra đi. Oái
oăm thay, người đàn bà ấy cứ ốm yếu mãi. Cuối cùng, để hợp pháp hóa sự có mặt
kéo dài của mình, ông xin được cưới chị. Vậy là ngoài ý muốn, ông đã phạm một
trong những tội kinh khủng nhất của con người: giết một người để lấy vợ người
ấy. Nhưng ông không còn sự lựa chon nào khác.
Hai
năm sau thì vợ ông chết. Từ ấy đến nay ông sống một mình nuôi thằng Bắc, con
riêng của vợ và bây giờ đương nhiên là con ông. Ông quyết định chờ đến tuổi
trưởng thành sẽ nói hết cho nó biết. Hè vừa rồi thằng Bắc tốt nghiệp phổ thông,
thấy con vui quá, ông lại chần chừ. “Thôi, để nó yên tâm thi đại học đã, sau
hẵng hay. Bấy nhiêu năm chờ được, thêm vài tháng có là bao.” Rồi con ông thi
đậu đại học, có giấy gọi tập trung mười ngày nay mà ông vẫn chưa nói ra được
những điều muốn nói. “Mai! Nhất định mai sẽ nói!” Nhưng cái ngày mai ấy lại
liên tục được hoãn cho những ngày mai khác, và lần nào cũng có lý do chính
đáng. Càng gần tới ngày con lên đường, nghĩa là tới thời hạn cuối cùng không
thể kéo dài thêm được nữa, lòng ông càng bối rối. Ông vừa sợ, vừa chờ đợi giây
phút ông nghĩ phải đến và nhất định sẽ đến.
*
Ông
Phát vẫn đứng yên bên cửa sổ, trầm ngâm nhìn khoảng không mờ ảo trước mặt.
Tiếng máy bơm phía kênh Nhà Lê đang chạy đều đều không hiểu sao bỗng nhiên im
bặt. Xung quanh là sự tĩnh mịch gần như tuyệt đối, điều đó càng làm ông thêm
nôn nao khó tả.
Thằng
Bắc vẫn chưa về. Ông không giận vì mai đã là ngày lên đường. Nó phải tạm biệt
bạn bè và nhiều thứ khác. Nó là thằng bé ngoan, biết nghe lời, nhưng dù sao ông
vẫn có cảm giác như ít nhiều bị xúc phạm. Ông là bố mà vào đêm cuối cùng này nó
nỡ để ông ở nhà một mình thế này ư?
Như
những người có tuổi khác, ông sống với quá khứ nhiều hơn hiện tại, luôn co mình
chìm trong suy nghĩ và những lời độc thoại âm thầm bất tận. Còn con ông thì
ngược lại - sôi nổi, ào ạt, vô tư, đến mức nhiều lúc ông cho là hời hợt. Cái hố
ngăn cách hai bố con ông ngày càng lớn hơn. Còn ngày mai thì như con chim đủ
lông đủ cánh, nó sẽ xa ông, có thể xa mãi mãi, nếu không kể sau này một năm đôi
lần nó trở lại thăm ông ở ga xép bé nhỏ, yên tĩnh này...
Thế
là ngày mai con ông đi xa. Nên buồn hay vui? Ông không biết, chỉ biết ông là
một phần của quá khứ sót lại, còn con ông là cả tương lai đang lao về phía
trước. Ông chỉ là chiếc lá vàng trên cây xanh cuộc đời sắp rơi xuống để tan vào
đất, làm phân nuôi sống những chiếc lá khác non hơn là con ông và những đứa như
nó. Ông biết thế. Ông biết cả việc ông đang lặng lẽ hy sinh vì con, như chiếc
lá thối lặng lẽ lìa cành, nhường chỗ những chồi non mới nhú. Đó là quy luật. Đó
cũng là điều cần thiết. Nhưng phải chăng vì thế mà ông không có quyền đòi hỏi
người khác biết đến sự hy sinh của ông? Phải chăng bây giờ, sau bao năm giữ kín
điều ấy trong lòng, - vì con ông, vì cuộc sống thanh thản của nó, - ông vẫn
chưa có quyền nói hết sự thật để nó, một thanh niên khỏe mạnh, san bớt gánh
nặng mà lúc này cơ thể già nua, rệu rã của ông đã bắt đầu không kham nổi?
Không! Nhất định ông phải nói!
*
Thằng
Bắc chỉ trở về khi con gà trống nhà bên rụt rè cất tiếng gáy đầu tiên.
-
Ấy chết, bố chưa ngủ à? - nó hỏi. - Bố thức làm gì khuya thế?
-
Bố đợi con, - ông Phát đáp. Và để khỏi do dự thêm, ông quyết định đi thẳng vào
câu chuyện. Cố giữ bình tĩnh, ông khẽ bắt đầu bằng cái câu mà ông nghĩ rất kỹ
trước đó: - Bắc này, bố có chuyện muốn nói với con. Bố...
-
Bố chờ con tí nhé,- thằng Bắc nói rồi chạy vội ra bể nước. Ở đó, nó vừa ồn ĩ
dội nước lên người, vừa ầm ừ hát bài hát ngộ nghĩnh nào đó. Rõ ràng nó đang
vui. Vui vì cuộc gặp bạn bè vừa rồi và vì cả những gì đang chờ nó phía trước.
Đứng
trong nhà, ông Phát hình dung rõ từng bắp cơ trên cơ thể để trần khỏe mạnh của
nó. Bất giác nghĩ đến mình, ông lại thấy buồn. Lần nữa, quá khứ lại hiện lên
trước mặt, rành rọt và đều đặn như cuốn phim chiếu hết bây giờ được cho lên máy
chiếu lại. Những lời chuẩn bị sẵn định nói bỗng biến đâu mất. Ý nghĩ rằng ông
là kẻ giả dối, một thằng giết người lại lần nữa dày vò ông. Cái mệt từ đâu bỗng
ập đến. Đôi vai gầy của ông nhô cao, lưng còng xuống, người như bé hẳn lại, còn
chân thì run đến mức ông sợ ngã khuỵu, liền ngồi xuống chiếc ghế đẩu bên cạnh.
Ngoài
sân, thằng Bắc vẫn tắm và ầm ừ hát tiếp bài hát ngộ nghĩnh của nó. Ông Phát lại
nhìn thấy rõ từng bắp thịt khỏe mạnh của nó. Ông nhắm mắt. Cơ thể to khỏe ấy cứ
to dần, to dần, còn hình người méo mó, xộc xệch của ông thì mỗi lúc một bé,
cuối cùng chỉ còn lại một chấm nhỏ rồi biến mất dưới sức nặng của quá khứ đau
buồn. Còn nếu ông trút được gánh nặng quá khứ ấy sang người nó thì ngược lại,
cơ thể khỏe mạnh kia của con ông sẽ thôi dội nước ồn ĩ, thôi ầm ừ hát, sau đó
bắt đầu xuất hiện những nếp nhăn, bắt đầu teo lại, bé dần cho đến lúc thành
chính bản thân ông hôm nay, hay thậm chí còn tồi tệ hơn. Còn ông thì lớn thêm,
lớn thêm mãi, thành một lão già béo nẫn, to xệ đến không còn mặc vừa chiếc áo
nào. Cảm giác khó chịu vì sự chật chội ấy đã đưa ông Phát trở lại với hiện tại.
Ngày
mai con ông lên đường, nó sẽ bước vào đời để bắt đầu một cuộc sống tự lập. Ông
có gì cho con vào ngày trọng đại này? Ông có thể làm gì giúp nó? Ý định nói hết
sự thật của ông thì sao? Bất chợt trước mắt ông lại hiện lên những hình ảnh
trái ngược ông vừa tưởng tượng. Ông mở to mắt, lắc đầu như cố xua đi một con
ruồi dai dẳng.
Thằng
Bắc quay lại từ lúc nào, hình như quên việc bố định nói điều gì đó. Nó vui vẻ
bảo ông:
-
Hôm nay ấy mà, bố ạ, chúng con liên hoan vui lắm. Đến như con mà cũng hát mấy
bài cơ đấy, bố xem có ngộ không? Thằng Quân con bác Vi trưởng ga cũng phải hát.
Nó trúng tuyển bộ đội, ngày mai đi. Tiếc không cùng đường với con. Còn cái
Liên, Liên lùn ấy, đã nhận được giấy báo trung cấp thú y rồi, nhưng những một
tháng nữa mới tập trung. Bọn con gộp lại, liên hoan một lần luôn thể. Quấy
lắm...
Thấy
bố ngồi im, thằng Bắc bỗng dừng lại. Nó nghĩ ngợi một phút rồi hạ thấp giọng:
-
Thôi bố đi ngủ đi, mai còn dậy sớm đi làm. Con thấy dạo này bố có vẻ mệt mỏi,
già đi trông thấy.
Ông
Phát vẫn ngồi im. “Ừ, có lẽ mình già thật rồi. Đến phải về hưu thôi...”
Thằng
Bắc vẫn đứng yên trước mặt ông.
-
Hình như lúc nãy bố có điều gì muốn nói với con?...
“Bố
có điều gì muốn nói với con không à?” Ông Phát đưa đôi mắt mệt mỏi nhìn con
trai. “Có chứ. Bố có nhiều, rất nhiều điều muốn nói với con. Bố muốn nói rằng
con, chừng ấy năm ở với bố, lớn lên bên bố mà không hề biết và hình như không
muốn biết, rằng vì con bố đã phải đau khổ thế nào. Con chỉ sống với hiện tại và
tương lai, trong khi bố chỉ là quá khứ, nên bố đứng yên làm cái thùng rác hứng
chịu những thứ vứt đi của cuộc đời. Ngày mai con đi, vô tư và sung sướng, con
sẽ bay như con chim, quên rằng con đã để lại phía sau cho bố một gánh nặng quá
sức. Cũng thế bao năm nay, làm người bẻ ghi ở cái ga xép bé nhỏ này, chưa người
nào trên những đoàn tàu vùn vụt lao qua để ý đến bố, một người bé nhỏ, ốm yếu
đứng giơ cờ hiệu an toàn cho đoàn tàu lao qua. Vâng, bố bé nhỏ, ốm yếu, bố suốt
đời đứng yên một chỗ, nhưng thử hỏi thiếu bố, đoàn tàu có dám ào ạt lao qua như
thế không? Thiếu bố, con có được sống như con đang sống hôm nay và sẽ sống ngày
mai không? Bố không trách, nhưng quả con đã không nghĩ tới điều đó, những người
đi tàu cũng không một lần nghĩ tới điều đó?...”
Ông
Phát nghĩ như thế, muốn nói như thế. Mặt ông méo xệch, đôi môi mấp máy không
thành tiếng. Dưới ánh trăng mờ chiếu qua cửa sổ, hai giọt nước mắt lớn đang lăn
trên má ông ngả thành màu trắng đục.
-
Kìa bố, có chuyện gì thế bố? – thằng Bắc lo lắng hỏi.
Ông
Phát không đáp, thờ thẫn nhìn phía trước. Mãi lúc sau, ông mới lên tiếng:
-
Không, khuya rồi, con vào ngủ đi, - ông húng hắng ho. - Bố chỉ muốn dặn con mai
đi, cố gắng học tập cho tốt, đừng bận tâm lo nghĩ gì về bố...
Và
như để chấm dứt câu chuyện, ông Phát đứng dậy, bám đôi tay gầy vào chấn song
cửa sổ.
Một
đoàn tàu, không hiểu tàu gì, lại rầm rập đi qua khu ga yên tĩnh. Ông Phát nhìn
theo và nghĩ tới việc ngày mai, trên sân ga bé nhỏ này, ông sẽ đứng cầm cờ báo
hiệu an toàn cho một đoàn tàu khác, trong đó có con ông, cũng sẽ lao đi, khỏe
mạnh và vững tin như thế.
Diễn Châu, 9, 1982
NHỮNG
CÔ GÁI ÁO TRẮNG
1
N.V.
ngày 20 tháng 11 năm 197...
Rét!
Rét quá! Ba đứa một giường ôm nhau, mình nằm giữa, hai chăn trùm kín đầu và
chân mà mãi không sao ngủ được. Có lẽ do trong hang ẩm và nước nhỉ bám đầy
tường đá mới rét thế. Đêm nay ra bến phà gió mạnh, không biết còn rét đến đâu.
Không
ngủ được, nằm suy nghĩ vẩn vơ mãi cũng chán, đành dậy viết nhật ký. Xưa nay
mình ít viết nhật ký, lại viết dở nên rất ngại, cả viết thư cũng thế. Nhưng lúc
này... Biết làm gì cho hết thời gian lúc này?
Điều
đầu tiên mình muốn viết là - nhớ nhà. Nhớ và thương mẹ quá. Mẹ bây giờ đang làm
gì nhỉ? Chắc buồn và giận mình lắm. Hãy tha lỗi cho con mẹ nhé, vì con bỏ mẹ ở
nhà một mình, già yếu không ai giúp đỡ. Hôm được tin con ghi tên đi thanh niên
xung phong, mẹ không nói gì, còn cố gượng cười để con yên tâm nhưng con biết
trong lòng mẹ rất buồn và có thể còn trách con không hỏi ý kiến mẹ trước. Mẹ
ơi, con hiểu lòng mẹ. Bản thân con, con cũng chẳng dễ gì khi phải xa mẹ, xa
ngôi nhà tranh bé nhỏ thân yêu của ta. Nhưng việc con ra đi là cần. Rất cần mẹ
ạ. Con tin mẹ hiểu điều đó...
Có
nên cho mẹ biết sự thật về điều kiện sống và làm việc ở đây không nhỉ? Không! Chỉ làm mẹ thêm lo nghĩ. Vả lại, chắc
gì mình ở lâu một chỗ? Mới tuần trước còn làm đường ở Trường Sơn, bây giờ đã ở
đây, cao điểm phà sông L, cách biển chưa đầy hai chục cây số. Không hiểu nay
mai còn đi những đâu nữa.
Nhớ
cái Hòa và bọn bạn cùng đơn vị. Không được đi với mình lần này, chắc nó buồn
lắm. Hai đứa cùng làng, cùng đi một ngày, cùng ở với nhau chừng ấy thời gian,
thế mà... Biết làm thế nào được. Cả đội xung phong, người ta chỉ lấy năm. Năm
người để dẫn đường cho ô tô qua sông ở bến phà này, thay cho cả tổ, cũng nữ và
đều là thanh niên xung phong, vừa hy sinh ba ngày trước đó. Những người được
chọn là Vân, Yến, Lộc, mình và Út. Mỗi đứa một tính, một kiểu người nhưng đều
rất trẻ và chưa chồng, chưa cả người yêu, trừ cái Yến, già nhất, hai mươi hai
tuổi, nghe nói đã có "chàng" nào đấy. Cũng nghe nói thôi chứ chưa bao
giờ thấy cô nàng nhận thư hoặc nói gì về anh ấy. Nó kín lắm. Lại nghiêm khắc
nữa. Tổ trưởng mà. Từ nãy đến giờ đã hai lần nhắc mình ngủ, đêm còn đi làm. Cả
cái Út nữa (nó cũng là em út của tổ), nó đã mấy lần cấu mình, bắt nằm xuống để
ôm nó cho ấm. Cứ như con nít...
21
tháng 11.
Ngày
cũng như đêm, không lúc nào ngớt tiếng máy bay. Thỉnh thoảng còn pháo từ biển
câu lên.
Tổ
mình ở phía Bắc bến phà. Cả năm đứa đứng rải trên một đoạn đường dài, từ mặt
nước tính lùi lại, mỗi đứa cách nhau hai trăm mét. Tổ trưởng Yến phân công Út
đứng trên cùng vì nó nhỏ nhất, lại mới ra chiến trường. Tiếp đến là Vân rồi
Lộc. Chặng cuối cùng phải hai người, là mình và Yến.
Đây
là một trong những trọng điểm ác liệt nhất của mạch máu giao thông Bắc Nam.
Cách sông còn những mấy cây số mà mặt đường đã bị bom và rốc-két địch cày tung,
ô tô không thể tự đi một mình nếu không có người xi-nhan. Nhiệm vụ bọn mình là
đi trước, dẫn xe men theo những miệng hố bom mới lấp sơ sài, tránh chỗ đánh dấu
có dấu bom nổ chậm, cho tới tận mép nước. Ở đấy sẽ có người xếp xe lên phà. Vì
đêm không được đốt đèn, bọn mình đứa nào cũng phải mặc áo trắng để từ ca-bin,
lái xe thấy mà đi theo. Những lúc có máy bay - ấy là nói khi chúng thả pháo
sáng hoặc lao xuống bắn phá, chứ bay ngang hay vần lượn thì kệ - ai ở trên có
thể chạy lánh xa khu vực bến phà, còn người phía dưới thì ở nguyên tại chỗ, trú
trong các hầm cá nhân được đào sẵn bên cạnh. Có lúc chúng bắn mặc chúng, phà cứ
chạy, ô tô cứ đi, tất nhiên con người cứ tiếp tục làm việc. Càng sáng. Càng
không phải dò dẫm như trước.
Ban
ngày bến phà thật yên tĩnh, nhưng chỉ là cái yên tĩnh tương đối của chiến
tranh. Không tiếng phà, không tiếng ô tô, không có gì ngoài một dải đất nham
nhở màu sắc lẫn lộn, lổng chổng những xác xe bị lật hoặc bị bắn cháy chưa kịp
thu dọn. Bên cạnh, giấu hết mọi sự khốc liệt của chiến tranh vào lòng, con sông
vẫn không ngừng chảy, bình thản và hiền từ như nghìn năm nay. Thật khó tin rằng
chỉ chốc nữa, khi mặt trời vừa lặn, là hàng đoàn ô tô, hàng đoàn người sẽ từ
đâu đó chui ra. Cả bến phà sẽ bừng tỉnh dậy để bắt đầu một "ngày"
mới, một cuộc chiến đấu mới...
25
tháng 11.
Hôm
nay cả hai phà cùng trúng bom một lúc. Gần mười chiếc xe được dẫn xuống tận sông phải đứng trơ trọi
dưới ánh sáng chói rực của đèn dù, dưới làn bom và rốc-két máy bay địch.
Phòng
không ta bắn rất dữ.
Tổn
thất...
Mình
có sợ chết không? Biết nói thế nào được nhỉ? Có. Sợ, nhất là những lúc thế này,
khi suốt ngày nằm dài trong hang yên tĩnh và có quá nhiều thời gian để suy
nghĩ. Ừ, có lẽ nói sợ cũng chưa thật đúng. Mình chỉ tiếc. Bây giờ mà phải chết
thì tiếc lắm. Lại thương nữa. Thương mẹ ở nhà. Thương bọn bạn phải buồn, phải
gánh thêm một phần việc.
Không
hiểu sau khi chết thế nào nhỉ? Không lẽ mình sẽ chẳng còn biết gì nữa? Chẳng
biết cả việc một ngày nào đó chiến tranh kết thúc, mọi người sẽ tìm gặp lại
nhau, sẽ đi học, làm việc, hay chỉ đơn giản sẽ được sống hòa bình? Ôi, hòa
bình!... Chết chắc phải đau lắm. Hẳn thế. Không đau sao được khi cơ thể bị xé
ra từng mảnh? Người khác nghĩ thế nào về cái chết? Cái Lộc và cái Vân, cái Út
hay cái Yến chẳng hạn? Chúng có sợ như mình không? Chắc có, nhưng chúng không
bao giờ để lộ điều ấy ra ngoài. Chúng vẫn lặng lẽ làm việc, các tốp thanh niên
xung phong chữa đường cũng thế. Anh em lái xe, lái phà cũng thế. Mình cũng thế.
27
tháng 11.
Đọc
mấy trang vừa rồi, thấy buồn cười. Toàn chuyện vẩn vơ không đâu. Lúc nãy tò mò,
mình hỏi Ùt:
-
Này Út, em có sợ chết không?
Út
tư lự một lúc, rồi thay cho câu trả lời, nó hỏi lại:
-
Em hỏi chị, chị phải nói thật nhé, chị Liên. Đã bao giờ có người con trai nào
hôn chị chưa?
-
Chưa... Sao em hỏi thế?
-
Em cũng chưa. Con gái chết mà chưa được hôn kể cũng thế nào ấy, chị nhỉ? - nó
nói, giọng mơ màng và hơi buồn, rồi lại rúc vào chăn, ôm mình đến nghẹt thở.
Con bé rõ đến lạ.
1
tháng 12.
Cả
bọn được một phen hú vía. Chiều qua một thằng "Con Ma" bất chợt phóng
liền mấy quả tên lửa vào đúng cửa hang. May không ai việc gì. Lý do là trước đó
mấy đứa tắm xong, bao nhiêu đồ lót, đồ vệ sinh phơi tuốt cả một dây ngoài nắng.
Tuy biết làm thế có thể nguy hiểm, nhưng kệ. Cứ trêu thằng Mỹ, xem hắn tồi đến
mức nào. Và thằng Mỹ đã cho biết hắn tồi đến mức nào. "Cứ thấy xu-chiêng
đàn bà là mò đến!" một đứa châm chọc.
Sau
đó họp tổ, cái Yến cấm từ nay không được ai phơi bất cứ cái gì trắng ngoài cửa
hang, thậm chí cả khăn mù- xoa. Nhưng ác thay trong hang luôn ẩm ướt, không có
gió nên phơi bao lâu vẫn không khô. Mặc vào người thật khó chịu.
5
tháng 12.
Nhớ
nhà quá!
Thèm
bữa canh rau mồng tơi. Hay rau ngót, rau bầu cũng được. Ở đây không chợ, không
vườn, cái cần và khó kiếm hơn cả là rau xanh vì miền Trung đất cát, quanh năm
nắng nóng chẳng tìm đâu ra những thứ ấy. Khắp nơi đất bị cày tung, có hôm đi
suốt buổi chỉ nhặt được nhúm rau má già hoặc rau sam chua loét. Da cứ sùi lên
như bị hủi...
6
tháng 12.
Cái
Lộc có thư. Nét chữ trên phong bì nắn nót, lại không ghi tên người gửi. Cả bọn
đoán thư người yêu nên hồi lâu bắt nó phải khai thật hết mọi chuyện mới cho
nhận. Cái Lộc nói ngay là chẳng có gì để khai, bảo cứ bóc tại chỗ, đọc to mọi
người cùng nghe. Thì ra đó là thư một người bà con xa ở Hà Nội, nội dung khô
khan và chỉ những lời thăm hỏi bình thường. Không hiểu sao nghe xong, đứa nào
cũng có vẻ như bị hẫng và hơi buồn, vì cứ tưởng và muốn đó là một bức thư loại
khác, thư tình với những lời âu yếm dè dặt và kín đáo, dù những lời ấy không
dành cho mình.
Lát
sau nằm trong chăn, lại cái Út cấu vào tay:
-
Chị Liên này, chị có người yêu chưa?
-
Chị cũng không biết. Có lẽ chưa.
-
Sao lại có lẽ? Có hay không thì chị phải biết chứ?
-
Chuyện không đơn giản như thế... Mà thôi, Út ngủ đi.
Nhưng
cái Út không chịu thôi. Tính nó thế, muốn biết cái gì là phải hỏi bằng được.
-
Anh ấy là ai? ở đâu?
Mình
buộc phải trả lời nó:
-
Xa lắm. Anh ấy đang học ở nước ngoài. Nhưng từ ngày xa nhau, chị chưa bao giờ
nhận được thư anh ấy. Còn chị thì không biết địa chỉ, mà có biết cũng không
gửi. Chị và anh ấy cùng làng.
-
Thế anh ấy có yêu chị không ?
-
Chị không biết. Chắc anh ấy quên chị rồi.
-
Còn chị?
-
Đừng hỏi nữa. Ngủ đi. Mà rồi giữa anh ấy và chị chưa có gì đặc biệt. Chỉ thế
thôi.
Cái
Út nằm im một lúc rồi bỗng nói, giọng hờn dỗi:
-
Em là em chúa ghét những anh đi nước ngoài. Cứ tưởng mình ghê lắm, mặt vênh lên
nhìn người khác bằng nửa con mắt...
-
Ấy, em đừng nói thế. Không phải ai cũng như em nghĩ đâu.
Cái
Út không nói gì thêm, nhưng chắc còn lâu nó mới ngủ được. Nó trong trắng, vô tư
quá. Hôm nọ nó nói gì nhỉ? Ừ, "con gái chết mà chưa được hôn kể cũng thế
nào ấy..." Ngộ thật.
2
-
Cái này mãi gần hai năm sau khi nó hy sinh tôi mới nhận được. - Bà Nghĩa vừa
nói, vừa hất đầu chỉ cuốn nhật ký tôi đang đọc dở. - Cùng ít quần áo và tư
trang của nó. Tôi nhờ thằng lớn nhà Cả Chung bên cạnh đọc cho nghe. Tội nghiệp
con bé. Tôi chỉ có mình nó, nhiều khi nghĩ mà đứt ruột. Cậu xem, tôi già yếu
thế này, vậy mà trời bắt phải sống lâu hơn con, sống để nghe những lời kia của
nó...
Rồi
bà thở dài, cúi xuống sàng nốt mẻ gạo mới giã.
Nhà
bà Nghĩa và nhà tôi chỉ cách nhau mấy con ngõ. Chồng chết sớm, bà chưa quá năm
mươi mà trông như cụ già.
Năm
nay tôi dành trọn cả mười ngày phép về thăm quê. Theo lời khuyên của mẹ tôi,
tôi đi một vòng gọi là "thăm xã giao" các nhà trong xóm, một việc
những lần trước phần vì bận, phần vì ngài ngại, tôi vẫn chưa làm được. Tôi đến
nhà bà Nghĩa và bà đã cho xem cuốn nhật ký của Liên, con gái bà, để lại.
Bà
Nghĩa có đoán ra tôi là "anh ấy" mà Liên đã nhắc trong nhật ký không?
Có thể lắm. Vì vậy bà cho tôi xem để trách khéo việc tôi để con gái bà đau khổ
chăng? Cũng có thể bà không biết gì. Xưa nay bà là người tốt bụng, chất phác,
không quen suy xét sâu sắc kiểu ấy. Vả lại, trong xóm tôi không là người duy
nhất đi học nước ngoài những năm chiến tranh.
Còn
tôi, tôi và Liên thì thế nào?
Không
ngờ Liên tình cảm và sâu sắc đến thế. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy lúc đó quả tôi là một cậu bé ngờ nghệch,
vô tư đến tàn nhẫn. Chúng tôi là bạn thân, học cùng trường, tôi hơn một lớp.
Trường xa, chúng tôi cùng đi cùng về mà nào có bao giờ nói chuyện với nhau,
hoặc giả có nói, cũng chỉ toàn chuyện bông đùa, trêu chọc như phần lớn những
đứa khác vào tuổi ấy. Tất nhiên tôi không thể không nhận thấy Liên là một cô bé
(trong ký ức tôi, bao giờ Liên cũng là cô bé) tốt, lại xinh. Nhưng lúc ấy về
tâm, sinh lý tôi chưa phát triển đến tình cảm yêu đương, và tất nhiên không
biết có thể Liên đã chú ý, hay thậm chí còn thầm yêu tôi.
Đêm
trước hôm tôi đi, cùng một số bạn gái khác, Liên đến chia tay, uống nước chè
xanh, ăn kẹo lạc và hát những bài ca cách mạng. Suốt buổi Liên im lặng. Rồi
tình cờ hai đứa ngồi cạnh nhau. Cũng im lặng. Có thể lúc ấy tôi lờ mờ đoán được
tình cảm của Liên với tôi, nhưng Liên không dám nói. Còn tôi, không hiểu tôi có
nói điều gì không để Liên hiểu theo cách mình và hy vọng, dù không đâu, mong
manh, nhưng vẫn cứ là hy vọng?
Tôi
xa nhà bảy năm. Có thể nói suốt thời gian ấy tôi quên hẳn Liên, không hỏi thăm
hoặc viết cho Liên một bức thư nào. Khi Liên hy sinh, tôi được bố mẹ báo cho
biết. Tôi buồn và thương Liên, hẳn thế, nhưng vẫn là cái buồn thương chung
chung như khi nghe tin ai đấy trong làng từ chiến trường không trở lại. Có lẽ tôi sẽ còn tiếp tục nghĩ
như thế về Liên, nếu hôm nay vô tình không được đọc cuốn nhật ký này.
Bà
Nghĩa đã bỏ ra sân thái rau cho lợn. Tôi ngồi lại một mình bên chiếc bàn học
của Liên ngày nào, xúc động lật tiếp những trang chữ li ti đã ngả màu cùng năm
tháng...
3
10
tháng 12.
Mỗi
đứa được phát hai mét vải trắng. pô-pơ-lin pha ni-lông hẳn hỏi, để may áo thay
những chiếc đã ố màu, lái xe kêu họ cứ lẫn với màu trắng của đất.
Cả
hang sôi nổi hẳn lên. Đi làm về, vừa chợp mắt một chốc đã vùng dậy, đứa nào
cũng hý hoáy may may cắt cắt.
Bỗng
cái Vân ngừng tay, ngồi thừ một lúc rồi nói:
-
Kể cũng buồn cười thật đấy, chúng màỵ ạ. Bọn mình thì tỉ mẩn may móc từng mũi
nhỏ, nhỡ một tý đã xuýt xoa như may áo cưới không bằng, lại còn kiểu này, kiểu
nọ nữa. Nhưng thử hỏi để làm gì? Ban ngày không dám mặc, mà cũng chẳng biết mặc
cho ai, còn đêm, đêm thì thế nào chẳng được. Tớ ấy à, tớ thì muốn cứ để cả tấm
mà khoác. Càng rõ. Càng khỏe. Còn hơn phải vất vả thế này để làm duyên... làm
duyên với những chiếc ô-tô mù!
Mắt
cái Vân ươn ướt như muốn khóc. Nó nói là nói thế thôi, chứ cả tổ, nó vẫn là đứa
ưa diện nhất, kỹ tính nhất trong chuyện ăn mặc, chắc chắn lần này áo của nó
cũng được may cẩn thận và đẹp nhất.
-
Cánh lái xe là chúa tếu đấy nhé. - Một chốc sau Lộc lên tiếng, có lẽ để xua đi
sự im lặng bất tiện. - Một hôm có chàng bảo mình thế này, chúng mày nghe có
được không? "Này, đồng chí áo trắng ơi, đồng chí có xinh không đấy?".
"Không đến mức khó coi như anh tưởng đâu", mình đáp. “Vì sao anh hỏi
thế?". "Là vì cái xe của tôi ấy mà, không hiểu sao từ khi gặp cô, nó
không chịu nghe theo tay lái của tôi nữa. Cô đi, nó đi, cô đứng, nó đứng. Tự nó
quyết định. Còn tôi, tôi chỉ ngồi khoanh tay mà nghĩ rằng chắc cô phải xinh lắm
nên mới thôi miên được nó như vậy. Tôi lo chốc nữa nó sẽ tự theo về lán của cô
mất. Tôi không có lỗi đâu nhé. À mà lán các cô ở đâu nhỉ?” Mình cũng không vừa,
mình nói: "Nhà em ở kia, ở phía cái hang kia kìa. Hôm nào từ chiến trường
quay ra, cứ để cái xe khó bảo của anh rẽ vào, chồng em sẽ cho nó một
trận!..."
-
Giỏi lắm! Rồi anh chàng đáp sao? - một đứa hỏi.
-
Anh chàng im, nhưng chắc hiểu mình đùa. Anh ta thấy màu trắng áo mình. Còn mình
thì chẳng thấy gì. Chỉ nghe giọng nói. Ấy thế mà buồn cười lắm, chúng mày ạ. Xe
đi rồi mà không hiểu sao mình cứ thấy bâng khuâng thế nào ấy... - Cái Lộc ngồi
im một lúc rồi đột ngột hỏi: - Chúng mày có nghĩ một ngày nào đó anh ta sẽ vào đây không?
12
tháng 12.
Ngày
đầu tiên cả năm đứa diện áo mới đi làm. Mỗi đứa mỗi kiểu, vuốt, gấp cẩn thận
rồi đặt dưới lưng nằm suốt đêm cho thật phẳng, thành nếp hẳn hoi như được là
kỹ. Ngay từ chiều, đứa nào cũng mặc áo mới, soi gương ngắm nghía, rồi cởi ra,
rồi lại mặc vào, đổi áo, ướm thử áo nhau mãi. Khi không còn việc gì nữa để làm,
cả bọn cứ mặc áo mới ngồi chờ đêm xuống để ra khỏi hang, bồn chồn và sung sương
như chờ cái gì đấy thật hệ trọng.
Không
biết hôm nay các chàng lái xe có nhận thấy sự kiện mới lạ này không ?
15
tháng 12.
Mấy
ngày nay thằng Mỹ hoạt động đặc biệt ác liệt. Nó quyết phá. Ta quyết giữ. Máy
bay bay suốt đêm. Pháo từ biển câu vào không còn theo giờ như trước. Nhưng dòng
xe không vì thế mà bị dừng lại. Bến phà phải đổi chỗ nhiều lần. Kể ra, gọi là
chỗ vượt sông thì đúng hơn. Nhiều chỗ vượt sông như thế. Có cả chỗ để nghi
binh. Thiếu người, tổ phải chia ra làm việc ở ba nơi.
Nhớ
nhà quá. Nhớ mẹ quá.
Anh
ấy có lúc nào nghĩ về mình không nhỉ?
16
tháng 12.
Út
hy sinh! Ba giờ sáng hôm nay. Nó làm một chỗ với Vân. Một thằng lao xuống phóng
rốc-két, như hàng trăm thằng trước đấy từng lao xuống phóng rốc-két. Tiếng nổ
bình thường, trận đánh phá cũng bình thường, nghĩa là tất cả giống hệt mọi
ngày, thế mà sau đó Út không còn nữa. Một mảnh đạn cắm đúng tim nó. Một mảnh
khác cắt đứt phần trên vú trái. Một tiếng sau khi nó chết, mình mới biết. Biết
mà chẳng đến được vì còn phải làm việc. Khi gặp Út thì trời đã sáng. Yến đã lau
sạch máu và bụi bẩn trên người nó. Một đứa nào đó trong tổ cởi chiếc áo trắng
mới còn nguyên lành của mình mặc cho út. Khuôn mặt Út thật thanh thản. Đôi mắt
vuốt mãi không chịu nhắm như đang mơ màng nhìn một điểm nào đó trước mặt. Nó
chỉ ngạc nhiên, hơi buồn vì phải chết sớm và vô lý như vậy. Một bên miệng của
nó hơi nhếch, thơ ngây, bẽn lẽn như hôm nào nó hỏi: "Con gái chết mà chưa
được hôn, kể cũng buồn, chị Liên nhỉ?".
Mình
cúi xuống, lặng lẽ hôn lên đôi môi của Út.
17
tháng 12.
Hôm
nay đi làm về, thương Út, cả bốn đứa ngồi ôm nhau khóc.
20
tháng 12.
Vẫn
ác liệt như trước. Xe vẫn thông.
24
tháng 12.
Thế
là đã ở bến phà N.V. này hơn một tháng. Một tháng cộng với hai năm nay đây mai
đó theo các con đường của khu Bốn khói lửa. Chỉ mấy ngày nữa là năm mới. Năm
mới... mọi người sẽ già thêm một tuổi. Mình cũng thế.
Liệu
mình phải già thêm bao nhiêu tuổi nữa trước khi chiến tranh kết thúc? Còn Út
thì vĩnh viễn ở lại với cái tuổi mà bây giờ nó có, chiến tranh hay không chiến
tranh cũng thế. Vĩnh viễn yên nghỉ với cảm giác thanh thản của người đã cống
hiến cho người khác cái quý nhất mình có. Đúng, thanh thản, nếu không kể nỗi sợ
rất con gái kia mà nó vẫn cảm thấy đâu đó sâu trong lòng cho tới khi xuống mộ.
Tội nghiệp con bé...
27
tháng 12.
Xe
vào nhiều quá, có lẽ sắp đánh lớn. Ban ngày ít được ngủ hơn vì thường đi chữa
đường giúp các đội thanh niên xung phong.
Hàng
ngày bốn đứa vẫn mặc áo từ chiều, những chiếc áo được may đẹp, gấp vuốt phẳng
phiu, ngắm nghía, sửa sang cho nhau để tối đến, như cái Lộc một lần chua xót
nói, “làm duyên với những chiếc xe mù”. Kể cũng buồn cười, biết người khác
không thấy mặt mình và mình không thấy người khác, chỉ những cuộc gặp gỡ thoáng
qua mấy phút, lại trong hoàn cảnh ác liệt như hiện nay, thế mà cả tổ trước khi
đi đứa nào cũng chăm chút vẻ ngoài như sắp làm dâu không bằng. Một bản năng rất
con gái, có lẽ cũng chỉ con gái mới hiểu nổi. Chao, ước gì hoà bình! Ước gì
được mặc những chiếc áo trắng này tự do đi lại giữa ban ngày...
28
tháng 12.
Hôm
nay Yến hy sinh!...
Còn
lại ba người: Vân, Lộc và mình. Mình được cử làm tổ trưởng.
Yến
ơi, thương mày quá. Mày là đứa duy nhất có người yêu chờ đợi, thế mà mày hy
sinh... Mày quá kín đáo, mày chẳng cho chúng tao biết người yêu của mày là ai,
ở đâu, để chúng tao báo cho anh ấy biết mày là người thế nào.
31
tháng 12.
Hầu
như đêm nào cũng có xe đổ và người chết. Mỗi lần ra phà, đâu đó sâu trong tim,
một ý nghĩ nhỏ thôi, nhanh thôi nhưng sắc như mũi dao lại nhói lên - ý nghĩ
rằng hôm nay sẽ đến lượt ai đây? - mình, cái Vân, cái Lộc, hay thậm chí cả ba?
Trước
khi bước ra khỏi hang, ba đứa nhìn nhau im lặng, nhưng rất hiểu...
Xe
vẫn thông...
4
Nhật
ký của Liên ghi đến đây thì dừng. Bất giác tôi ngước lên nhìn tấm bằng liệt sĩ
lồng kính treo trang trọng trên tường. Thì ra Liên hy sinh đúng vào ngày 31
tháng 12 năm 197..., ngày cuối cùng ghi trong nhật ký. Cũng là ngày cuối cùng
trong năm. Tôi nhẩm tính - Liên đã không gắng sống thêm được mấy giờ nữa để
bước sang năm thứ hai mươi đẹp đẽ của đời mình.
Từ
trên tường, qua lớp kính phủ nhẹ một màng bụi mỏng, một cô bé tóc tết đuôi sam,
khuôn mặt còn trẻ con với đôi mắt thơ ngây mở to đang nhìn tôi. Đó là Liên.
Chắc đây là bức ảnh duy nhất của con gái bà Nghĩa còn giữ được, chụp vào dịp
Liên tốt nghiệp lớp mười. Tôi không dám nhìn thẳng vào đôi mắt ấy; không dám
nhìn cả vào đôi môi đang hé mở, đôi môi chưa một lần trong đời được biết cảm
giác của cái hôn âu yếm.
Tôi
lặng lẽ trả lại cuốn nhật ký cho bà Nghĩa, lơ đãng trao đổi thêm ít câu rồi ra
về.
Sáng
hôm sau, trước sự ngạc nhiên của mọi người, tôi thu gói đồ đạc lên đường, nhưng
không phải đi Hà Nội mà ngược lại, vào Vinh mua vé ô-tô đi Quảng Bình, tới bến
phà N.V. mà Liên nói đến trong nhật ký.
5
Ở
trụ sở ủy ban xã S. nơi có bến phà N.V. ngày nọ, sau khi nghe tôi tự giới thiệu
và nói rõ mục đích chuyến đi của mình, người ta chỉ cho tôi đến gặp ông Nam,
phó chủ tịch xã.
Ông
Nam là người vui tính và cởi mở. Ông nhìn qua một lượt suốt người tôi và hỏi:
-
Anh là bà con cô Liên à? - Nhưng không chờ tôi trả lời, ông nói luôn: - Chính
tôi là người tìm thấy và đọc cuốn nhật ký đó. Tội nghiệp các cô gái. Hồi ấy tôi
là trung đội trưởng dân quân xã. Tôi được lệnh điều các cô dân quân của tôi dẫn
xe ở đoạn trên, còn ba cô thanh xung phong thì làm ngay sát bến phà. Vào cái
đêm cuối năm đáng nhớ ấy, hình như độ mười giờ thì phải, bất ngờ một chiếc
"Thần Sấm" từ đâu lao đến ném một loạt bom, không lượn vòng nào, cũng
chẳng thèm bắn pháo sáng, thế mà trúng phà, trúng luôn cả ba cô gái. Anh xem có
đau không ... - Ông Nam dừng lại, ngồi im một chốc như cố nhớ điều gì, rồi nói
tiếp, giọng trầm hẳn xuống: - Thậm chí đêm ấy, bận việc thông xe, chúng tôi
chẳng kịp nhặt hết các mẩu xác bị bom chặt đứt vung vãi khắp nơi. Mãi chiều hôm
sau mới tìm được hết, xác định cái gì là của ai rồi làm lễ chôn cất. Sau này,
chiến tranh kết thúc, khi người ta định đưa các cô - cả năm cô - vào nghĩa
trang liệt sĩ xã, tôi đem chuyện nhật ký cô Liên ra kể và đề nghị xây riêng mộ
cho các cô ở cạnh bến phà cũ. Ý kiến của tôi được chấp nhận. Bây giờ ta ra đấy
chứ?
Nói
rồi, ông phó chủ tịch xã hăm hở đi trước, tắt qua một cánh đồng lúa vừa trổ
bông thoang thoảng hương thơm, về phía dòng sông L. đang trải rộng, trắng lóa
dưới ánh mặt trời tháng Tư. Tôi lặng lẽ bước theo với cảm giác hồi hộp như sắp
được chứng kiến một cái gì đấy linh thiêng và trọng đại.
Trên
đỉnh một ngọn đồi xanh vươn sâu tận mép sông, người ta xây mộ năm cô gái thanh
niên xung phong thành năm cánh của một bông hoa, đầu chụm vào nhau. Một bông
hoa màu trắng, vì mộ được quét vôi trắng. Các bia đứng kề sát nhau, tạo thành
một hình tròn có trồng những bông hồng và cúc lẫn lộn, tức là làm nhị của bông
hoa xi măng trắng vĩ đại. Trên những tấm bia ấy tôi đọc thấy tên cô Yến tổ
trưởng nghiêm khắc; tên cô Vân ưa diện; tên cô Lộc mơ hồ chờ đợi một chàng lái
xe mà cô chỉ mới trò chuyện một lần nhưng không thấy mặt; tên cô Út bé nhất tổ
chỉ sợ duy nhất một điều là chết mà chưa được hôn. Và tất nhiên tôi thấy cả tên
của Liên, cô hàng xóm, cô bạn cùng trường của tôi, người con gái đưa tôi vượt
hàng trăm cây số đến đây, và quan trọng hơn là đã giúp tôi tự nhìn nhận lại
mình, tự đánh giá nghiêm khắc những gì tôi đã, đang và sẽ làm trong đời.
-
Nghĩ mà thương các cô gái, - vừa bật lửa châm hương, ông Nam vừa khe khẽ nói. -
Đang tuổi ăn diện mà đến cái áo trắng
cũng không được mặc ban ngày. Còn bây giờ thì...- ông ngập ngừng chốc lát rồi
quay sang bảo tôi: - Những ngôi mộ này, anh ạ, cứ đều đặn nửa năm một lần tôi
cho quét vôi mới. Cũng có người kêu lãng phí, nhưng tôi thì tôi cứ cương
quyết...
Ông
Nam còn nói thêm điều gì nữa nhưng tôi không nghe rõ, vì lúc ấy tôi đã bỏ đi
xa, tìm nhặt những bông hoa bướm, hoa mua mọc nhiều quanh đấy. Một chốc sau,
tôi quay lại với một bó lớn trong tay. Tôi chia đều thành năm phần, nhẹ nhàng
đặt lên năm cánh trắng của bông hoa xi măng. Rồi vô tình như hẹn trước, cả tôi
và ông Nam cùng cúi đầu đứng lặng mấy giây.
-
Liên ơi, hãy tha lỗi cho tôi Liên nhé!
6
Sáng
hôm sau, tôi lên đường ra Hà Nội. Từ ô tô, tôi thò đầu qua cửa sổ, ngoái nhìn
mãi những ngôi mộ màu trắng được xếp thành hình một bông hoa trên ngọn đồi
xanh, trông xa như chiếc nơ trên đầu một cô gái. Suốt đường đi, những ý nghĩ đượm buồn cứ quanh
quẩn trong đầu tôi, ý nghĩ rằng ngày xưa đã từng một thời có nhiều cô gái chỉ
thèm được một lần mặc áo trắng tự do đi giữa ban ngày, thế mà các cô chỉ được
mặc vào ban đêm để làm nhiệm vụ, để "làm duyên với những chiếc xe
mù". Và rồi các cô hy sinh, lặng lẽ mang theo xuống đất cùng tuổi trẻ là
cái ước mơ tưởng vô cùng đơn giản ấy, cũng như các cô đã lặng lẽ lập chiến
công, lặng lẽ yêu và lặng lẽ ra đi để một ngày nọ, như trong câu chuyện cổ
tích, lặng lẽ biến thành những cánh hoa màu trắng, cái màu trắng phải đổi bằng
màu của máu...
Đà Lạt tháng 4, 1982. Hà Nội, tháng 2,
1984.
CHÁN
ĐỜI
Trên
chiếc cổ thon dài và rất trắng của nàng có vài nốt ruồi nhỏ màu hồng hồng, ngay
dưới những sợi tóc thưa mềm và ngắn ở gáy. Tóc nàng búi tụm ngược đằng sau theo
kiểu của người chững chạc chứ không như các cô mới lớn. Anh đặc biệt nhạy cảm
với những sợi tóc như thế trên nền trắng mịn cổ phụ nữ. Theo anh, ở họ đó là
chỗ hấp dẫn nhất. Bây giờ sự hấp dẫn ấy được tôn lên bởi mấy nốt nhỏ đáng yêu
kia, cộng thêm màng mồ hôi ẩm ướt trông thật quyến rũ, đến mức anh muốn, rất
muốn được chạm khẽ đôi môi mình lên đó.
Mấy
phút trước nàng còn ngồi một mình ở bàn bên. Một mình với chiếc ly lớn rượu
ngoại. Bất chợt nàng đứng dậy, thản nhiên đi đến bàn anh, và cũng thản nhiên
như thế, nàng nói: “Anh cho em ngồi cùng nhé?”
Nhà
hàng đang lúc vắng người. Đây là một trong những điểm nghỉ ngơi cuối tuần của
dân giàu thủ đô, ở vùng đồi núi cách trung tâm thành phố chưa đầy nửa giờ ô tô,
có đủ các tiện nghi hiện đại cho nhu cầu ăn ngủ và giải trí. Mọi cái được thiết
kế theo kiểu nước ngoài, dù đôi chỗ hơi phô trương, không hợp lắm với cảnh quan
xung quanh, nhưng nói chung tao nhã, yên tĩnh và dễ chịu. Nhà hàng nằm ngay bên
con suối nước chảy róc rách với tầm nhìn rộng trông ra một vùng xanh ngát nhấp
nhô.
Đang
tháng Tư, mặt trời chưa quá nóng và vừa mới nhô lên khỏi dãy núi. Có cảm giác
như ánh nắng cũng lạnh, ươn ướt như muốn dính vào tay. Trước đó hình như có mưa
vì thoang thoảng mùi ẩm, mùi lá mục, thậm chí như có nhà thơ đã nói, cả mùi
hoàng hôn, dù lúc này mới buổi sáng. Tức là phảng phất cái gì đó buồn buồn, dìu
dịu.
Trước
nhà hàng, ngay bên kia đường có mấy con bò đang thong thả gặm cỏ. Không thấy lũ
trẻ chăn chúng, tất nhiên cũng không có tiếng sáo mục đồng, nhưng quang cảnh
thật điền viên, thơ mộng. Trong phòng ăn hình như nhạc cũng được cố tình chọn
bài thích hợp và với âm lượng vừa phải.
“Đừng
vội nghĩ xấu về em!” nàng nói rồi uống một hơi hết cốc rượu vừa mang đến.
Anh
có thể nghĩ gì về nàng, một cô gái không quen tự nhiên sán đến, uống rượu và
chắc chắn chốc nữa sẽ hỏi xin một điếu thuốc. Một phụ nữ xinh đẹp trạc ba mươi,
ba lăm tuổi, ăn diện hiện đại nhưng lịch sự. Khuôn mặt nàng thanh tú, hơi buồn,
đôi mắt sâu tròn, chiếc mũi thon thẳng, nhìn toàn cục có nhiều nét giống đức mẹ
đồng trinh. Tuy nhiên anh không thật chắc lắm khi thầm nhận xét khuôn mặt ấy.
Cùng một lúc dường như nó có cả vẻ trác táng lẫn sự thanh khiết thánh thiện. Vì
thời buổi này ít người thánh thiện nhiều gái làm tiền nên dẫu không muốn, anh
vẫn thiên về nghĩ nàng thuộc loại thứ hai. Càng tốt, vì anh cũng đang cô đơn và
nếu gặp dịp sẽ không từ chối để cuốn vào những cuộc phiêu lưu nho nhỏ. Không
nhiều, không chủ động tìm, nhưng những cuộc phiêu lưu như thế vẫn có, vì anh
cũng thuộc loại có tiền và chưa già.
“Em
buồn lắm”, nàng lại nói và với tay lấy bao thuốc. Không hỏi xin. Khi vươn người
về phía anh, đầu cúi xuống, chiếc cổ trắng nõn của nàng cùng những túm lông mịn
kia trên gáy gần như chạm mặt anh. Anh có cảm giác nếu cúi xuống hôn lên đó,
chắc nàng không phản đối.
“Làm
sao một người như em có thể buồn được?” anh nói thăm dò.
Nàng
không đáp ngay, ra hiệu gọi một chai Martelle, rồi thành thục mở nút, rót cho
hai người.
Anh
thoáng giật mình về sự tự nhiên quá đáng ấy, cả về giá tiền chai rượu ngoại mà
chắc chắn anh sẽ phải thanh toán, nhưng anh không nói gì, chỉ nghĩ tới chiếc cổ
và thân hình tuyệt mỹ bên trong chiếc áo thun mỏng màu mận chín và chiếc váy
đầm xẻ quá đầu gối. Cả ống chân thon thẳng của nàng cũng có những nốt ruồi nhỏ
nhưng xẫm màu hơn một chút.
“Đàn
bà ai chẳng buồn, nhất là em. - Anh để ý thấy nàng không gọi mình là con gái,
mà đàn bà. – Nhưng thôi, chuyện ấy không liên quan gì đến anh. Không quan
trọng. Anh là người tử tế. Vì vậy em mới đến với anh...”
“Sao
em biết anh tử tế?”
“Cũng
vì em là đàn bà. Nhìn là biết. Em còn biết anh đang muốn em. Đúng thế không?”
Anh
gật đầu.
“Thế
thì ta đi!” Nàng chìa bàn tay nhỏ bé cho anh. Bàn tay rất nóng, khiến anh tưởng
như nàng đang sốt.
Ở
quầy lễ tân, nàng hỏi xin một phòng, với vẻ thành thục và tự tin khiến anh
không còn chút nghi ngờ nàng thuộc loại người nào. Thậm chí anh nghĩ có thể
nàng là nhân viên được chủ giăng ra bẫy khách và chốc nữa sẽ có một vụ chém
đẹp. Nhưng lúc này điều ấy với anh đã không còn quan trọng.
*
“Em
không như anh tưởng đâu. Vì Chúa, đừng nghĩ xấu về em! - Nàng nói khi hai người
từ cầu thang đi xuống. Rồi như thể giải thích vì sao nhắc đến Chúa, nàng nói
thêm: - Em theo đạo đấy. Mà bên đạo
những chuyện thế này là tội lớn lắm. Tội chết. Tất nhiên đây là lần đầu và cũng
lần cuối. Với anh cũng ngẫu nhiên thôi. Không anh thì người khác”. Giọng nàng
run run, có vẻ như khóc.
Nàng
vội đến quầy lễ tân, rút ví thanh toán tiền phòng, tiền chai rượu và những
thứ khác gọi trước đấy. Anh định tranh
trả nhưng nàng nhất quyết không chịu. “Không được nghĩ xấu về em! Em nói rồi”.
Nàng giơ ngón tay trỏ trước mũi.
“Có
phải anh đang nghĩ em là người đàn bà hư hỏng không?” Nàng hỏi khi hai người
ngồi xuống chiếc bàn với chai rượu uống dở lúc nãy.
“Anh
không nghĩ gì cả. Càng không nghĩ em hư. Chỉ thấy hơi lạ. Em thật xinh mà cũng
thật kỳ lạ”.
Nàng
rót hai cốc rượu đầy, đẩy một cốc về phía anh, cốc kia uống một hơi hết sạch
rồi lại rót cho mình cốc nữa. Mặt nàng đỏ ửng, vì rượu và có lẽ cả vì xấu hổ.
Bất chợt nàng ngước nhìn anh, đôi mắt long lanh, ươn ướt.
“Có
lúc con người ta thế đấy. Em chẳng hiểu mình ra làm sao nữa. Em thấy ngột ngạt
khó thở. Cả hai nghĩa. Thậm chí muốn chết. Buồn cười thật. Đáng lẽ giờ là lúc
em đáng sống nhất. Em giàu. Anh không tưởng tượng nổi em giàu đến mức nào đâu.
Đúng hơn là chồng em giàu. Cái gì cũng có. Muốn gì cũng được.Thế mà buồn, chán.
Muốn chết. Muốn đập phá cái gì đó. Cuối cùng lại đập phá chính cuộc đời mình.
Vì vậy mới có chuyện hôm nay. Trước đây em nghèo như mọi người và tất nhiên
sống bình thường như mọi người. Nghèo cũng sướng, anh nhỉ? Được có cái vui khi
góp đủ tiền mua chiếc áo mới, hay thậm chí thỏi son Hàn Quốc mấy nghìn đồng.
Được bon chen tất bật, được thấy người khác nhiều tiền mà thèm. Còn bây giờ...”
“Bây
giờ thì sao?”
“Bây
giờ tất cả chỉ là sự chán chường, trống trải và vô nghĩa. Chẳng thiết gì. Chẳng
muốn làm gì. Chẳng biết làm gì”.
“Còn
chồng con?”
“Em
chưa có con. Chán không muốn có. Chán cả chồng, nhất là cách kiếm tiền và cách
nhìn nhận đồng tiền của ông ta. Ông chủ “Công ty vận tải V and T” ở phố Lò Đúc
đấy. T là tên em. Tuyết. Một doanh nhân thành đạt và đáng kính. Báo ca ngợi
nhiều lần, chắc anh biết. Em biết hơn người khác ông ta “đáng kính” mức nào”.
“Còn
ông ta đối với em?”
“Yêu.
Rất yêu. Gần bằng yêu kiếm tiền. Kể ra không đến nỗi, nhưng bên ông ta em thấy
nghẹt thở. Em thấy nghẹt thở cả khi một mình trong tòa nhà bốn tầng ở Hồ Tây.
Này, có lần em định giết ông ta đấy, anh có tin không? Giết bằng dao khi ông ta
trần truồng nằm bên và ngủ với vẻ mặt lương thiện như một vị thánh. Nhưng em đã
không giết. Em chẳng bao giờ dám giết ai. Chỉ ra toa-let nôn thốc nôn tháo.
Chắc anh cho em là con điên. Mà có lẽ em điên thật. Không điên ai đem những
chuyện này nói với người lạ? Nhiều khi em ước có cánh để bay lên trời như con
chim ấy. Bay thật xa khỏi cuộc sống tởm lợm hiện có. Hoặc bỏ tất cả về quê làm
ruộng, hay làm cô công nhân bịt khăn kín mặt đổ nhựa đường giữa nắng. Hôm nọ em
còn dừng xe hồi lâu ngắm mấy cô làm việc ấy ở Ninh Bình. Việc nặng nhọc nên họ không
có thời gian để nghĩ vẩn vơ như em. Và chắc phải vui lắm khi cuối tháng nhận
bốn, năm trăm nghìn đồng tiền lương”.
Nàng
uống cạn cốc rượu và rót thêm cốc nữa.
“Anh
uống đi và đừng bực mình vì những lời nhảm nhí của em. Coi như sự đền bù cho
việc anh khỏi phải bỏ tiền để lôi một con điếm lên giường. - Rồi nàng ngước
nhìn anh với vẻ rất nghiêm túc: - Anh đã bao giờ nghĩ người ta có thể bất hạnh
khi có quá nhiều tiền chưa? Và rằng em đã trở thành cái như các cụ nói “sướng
quá hóa rồ?”
Anh
chẳng biết trả lời thế nào, tò mò nhìn người đàn bà ngồi đối diện. Thường thì
người ta khổ vì thiếu tiền chứ không ngược lại. Tiền có thể làm sa đọa người
yếu bản lĩnh, gây tội ác và nhiều chuyện khác, nhưng trong trường hợp này, nếu
những gì nàng nói là đúng sự thật, thì đau khổ, buồn chán, thậm chí muốn chết
chỉ vì quá giàu thì kể cũng lạ. Hay nàng điên thật, chí ít cũng mắc bệnh trầm
cảm? Hay quả đúng nàng đang trong cơn tuyệt vọng cùng cực, và còn những bi kịch
lớn khác mà nàng chưa nói? Bỗng nhiên anh thấy ái ngại cho nàng.
“Em
đừng uống nhiều như thế. Không tốt đâu”, anh nói khi nàng lại uống cạn cốc
rượu.
“Cảm
ơn anh. Cảm ơn cả chuyện trên giường”. Nàng đứng dậy, đi về phía chiếc Land
Cruser mới tinh mà anh cứ tưởng của ông chủ khu này.
“Em
không đi bây giờ được đâu! - Anh chạy theo, cầm tay nàng. - Em đang...”.
“Khỏi
lo. Có lúc em uống nhiều hơn mà chẳng sao. Vả lại có chuyện gì đi nữa thì cũng
thế cả”.
Nàng
đóng dập cửa xe và rồ máy phóng đi.
*
Lúc
ấy đã quá trưa, cả nhà hàng chỉ còn lại mình anh và một đôi còn rất trẻ đang ăn
cơm ở góc xa phía trong. Chai rượu trên bàn còn gần một nửa. Anh ngồi uống một
mình, lơ đãng nhìn ra ngoài.
Mấy
con bò gặm cỏ bên kia đường lúc sáng không thấy đâu nữa. Con suối vẫn róc rách,
thờ ơ và đơn điệu. Con vẹt trong chiếc lồng cầu kỳ treo bên cửa ra vào chốc
chốc ngứa miệng lại kêu “Chào khách! Chào khách!” Hình như sắp mưa. Trời bỗng
tối hẳn lại. Có thể chỉ do đám mây dày bay ngang che lấp mặt trời. Nhưng gió
thì rõ là đang mỗi lúc một mạnh.
Một
chiếc lá bị gió thổi vào, rơi ngay trước mặt, cạnh cốc rượu. Anh chẳng biết lá
gì. Mà cũng chẳng muốn biết. Anh vẫn không thôi nghĩ về người phụ nữ kỳ cục với
cảm giác mơ hồ lẫn lộn. Về khái niệm giàu nghèo, hạnh phúc, khổ đau. Về cả bản
thân anh, một người cũng đang gặp thời, thành đạt, chưa đến mức “quá nhiều”
nhưng có tiền, đủ để cho phép mình và vợ bỏ việc nhà nước đã ba năm nay. Anh
thì lo bận làm ăn. Vợ anh chẳng làm gì, chẳng phải làm gì, và có lẽ cũng không
biết làm gì, không thiếu thốn cái gì. Vợ anh có hạnh phúc không? Có cảm thấy
cuộc đời vô nghĩa, trống rỗng, nghẹt thở và buồn chán không? Đã bao giờ cô ấy
muốn giết anh chưa? Kể cũng lạ, từ trước đến nay đây là lần đầu anh tự hỏi mình
những câu như vậy.
Cuối
cùng, khi không còn rượu nữa để uống, anh lái xe về Hà Nội theo đường Láng -
Hòa Lạc, con đường nàng đã đi trước đó hai giờ, dù đáng lẽ anh còn có việc phải
tới thị xã Sơn Tây. Xe của anh chỉ là chiếc Camry, không còn mới nhưng đời
chót.
Tới
đoạn rẽ vào Chùa Thầy, anh thấy có chiếc xe khổng lồ chở công-te-nơ, gầm thấp,
đứng bên đường. Phía sau nó là chiếc Land Cruser bẹp rúm. Xe của nàng. Loại xe
này mà bị bẹp như thế thì chắc phải lao vào đuôi chiếc kia với tốc độ rất lớn.
Ít có khả năng người lái còn sống. Gần đó chỉ có anh công an áo vàng và vài
người hiếu kỳ, chứng tỏ tai nạn xẩy ra đã lâu. Anh rùng mình cho xe đi tiếp.
*
Một
tuần sau ngẫu nhiên đọc báo, anh thấy có tin ông Nguyễn Đức Việt, chủ “Công ty
vận tải V và T” tự tử. Ông để lại bức thư tuyệt mệnh nói rõ ông đi tới quyết
định cực đoan này chỉ vì không chịu nổi cái chết bi thảm của người vợ ông yêu
quí. Tuy vậy, công an vẫn tiến hành điều tra xem có vấn đề tài chính hoặc thù
hằn gì liên quan đến vụ này không.
MẶT
NHỎ
“Sao
mỗi lần làm ‘chuyện này’ với em, anh lại nhắm mắt?”
‘Chuyện
này’ là chuyện làm tình, vì lúc ấy chúng tôi đang trên giường với nhau, không
phải lần đầu, và cũng không lần đầu nàng hỏi câu ấy. Một người dạn dày ở tuổi
nàng (quá năm mươi), lại khi đang mây mưa ngây ngất, mà ý tứ chọn từ thế sao?
Nàng vẫn thường kêu rên không ít, có lúc còn buột ra những từ tục tĩu.
“Anh
nhắm mắt thật à?” tôi giả bộ hỏi cho qua chuyện, rồi việc mình mình làm, hai
mắt vẫn nhắm.
Trong
một bài thơ tình của mình, ông nhà thơ Đức Henrick Heine nói về việc một cô gái
trẻ cứ căn vặn ông sao lần nào hôn cô ta, ông cũng nhắm mắt. Và thay cho lờ
đáp, lần nào ông cũng im lặng, với đôi mắt nhắm, hôn lên cái miệng nhỏ đáng yêu
vừa hỏi một câu cũng rất đáng yêu ấy. Tôi bất giác cười thầm, chẳng rõ cười gì.
Nhưng
tôi nhắm mắt vì những lý do khác ông.
Tôi
đang nghĩ, đúng hơn, đang nhìn thấy rất rõ bằng đôi mắt nhắm của mình những gì
xẩy ra với tôi và nàng nhiều năm về trước.
*
Lúc
ấy tôi mười hai tuổi, mới được gửi lên học ở phố huyện vì xã không có trường
cấp hai. Một lần có văn công, nghe nói là đoàn kịch trung ương từ tận Hà Nội
về. Đó là sự lạ vì phố huyện chúng tôi hẻo lánh, văn công tỉnh đã hiếm nói gì
thủ đô cách xa hàng trăm cây số. Tôi bỏ cả cơm lẫn học bài, đến sân bóng đá
huyện từ khi mặt trời chưa lặn để trốn vé và để dành chỗ ngồi phía trước. Ngồi
phệt xuống đất, tất nhiên. Sân khấu thì vẫn là cái bệ đất cao láng xi măng
người ta thường sử dụng cho các dịp lễ hội, giờ được dựng tạm mấy cái cột treo
phông màn.
Hôm
ấy người ta diễn vở kịch nói tôi không hiểu lắm, chỉ thấy chốc chốc các diễn
viên lại ôm nhau khóc. Màn mở bằng mấy phát súng rất to, người bắn là thằng ác
ôn Ngụy mặt được tô gớm ghiếc như ông thiên lôi. Hắn giơ chiếc súng gỗ lên hồi
lâu mới nghe trống đánh bùm ba tiếng bắt chước đạn nổ. Cuối vở súng lại nổ,
nhiều tiếng súng và nhiều người chết, toàn quân địch. Sau đó là lá cờ to Mặt
trận Giải phóng được phất cao hồi lâu trên sân khấu. Người phất cờ là anh du
kích mặc áo bà ba đen. Một người đàn bà, cũng mặc áo bà ba nhưng màu nâu, đứng
bên, tay giơ cao khẩu súng. Giữa họ là một cô bé gầy gò đi chân đất, ống quần
có mánh vá khác màu to bằng lòng bàn tay. Tóc cô để xõa, che một phần khuôn mặt
nhỏ, thanh tú và rất đẹp.
Đó
là nàng. Và chính khuôn mặt nhỏ đẹp ấy của nàng không hiểu sao đã hớp hồn tôi
ngay khi nàng xuất hiện ở hồi hai vở kịch. Từ đó tôi chẳng quan tâm gì khác
ngoài việc nhìn như dán vào nàng. Trong kịch, nàng là con gái một du kích bị
bắn chết khi kịch bắt đầu. Theo mẹ lên rừng, nàng thành cô giao liên nhỏ, lập
nhiều thành tích phi thường, bị địch bắt nhưng khôn khéo trốn thoát. Tóm lại, một
câu chuyện rập khuôn và không mấy thuyết phục đặc trưng của thời ấy.
Ngồi
hàng đầu, tôi nhìn nàng rất rõ. Có cái gì đấy đặc biệt, khó nói lên lời ở nàng.
Không đơn thuần xinh đẹp, vì quê tôi cũng có nhiều đứa na ná như nàng. Thế mà
bị cuốn hút, nói sốc thì đúng hơn. Dường như tôi yêu nàng ngay từ phút đầu, mặc
dù ở cái tuổi mười hai tôi không thể và chưa có chút khái niệm nào về tình yêu.
Hay Frớt đã đúng khi nói tình yêu, thậm chí cả tình dục, đã tiềm tàng trong mỗi
con người ngay khi còn rất bé?
Kia,
nàng đang bị một tên ác ôn bắt được. Bị hắn dùng báng súng đánh ngã nhưng nàng
quyết không khai, chỉ trân trân nhìn phía trước. Nhìn tôi, tôi nghĩ chắc chắn
như thế. Đôi mắt mở to cầu cứu tôi giúp đỡ. Thế mà tôi chỉ biết ngồi im, ngẩn
mặt một cách ngu đần.
Đêm
ấy tôi trằn trọc mãi không sao ngủ được, người nóng hầm hập như lên cơn sốt.
Khuôn mặt nhỏ xinh đẹp và dáng người mảnh mai của nàng cứ ám ảnh tôi mãi. Rõ
ràng tôi đang yêu, thậm chí còn hình dung cuộc sống vợ chồng với nàng sau này,
mặc dù sâu trong lòng tôi biết đó là điều không thể. Tôi chỉ là thằng bé nhà
quê, còn nàng là diễn viên, hay ít ra con diễn viên, lại xinh đẹp, người Hà
Nội. Biểu diễn thêm buổi nữa, ngày kia nàng cùng đoàn quay ra Bắc và tôi sẽ
chẳng còn cách nào thấy lại nàng.
Sáng
hôm sau, mới mờ sáng tôi đã lởn vởn giả vờ bắt dế trước nhà khách huyện ủy, nơi
đoàn trọ. Gần ba tiếng đồng hồ sau nàng mới ra khỏi nhà, vẻ còn ngái ngủ. Thật
may, nàng đi một mình. Với sự dũng cảm bất ngờ, có thể nói trâng tráo, tôi bước
lại gần.
“Đằng
ấy có thích bắt dế với tớ không?”
Nàng
nhìn tôi một lượt từ đầu đến chân, chỉ dò xét chứ không ngạc nhiên, cũng không
uốn éo vờ tức giận như mấy đứa con gái lớp tôi.
“Không”.
Nàng lắc đầu, mái tóc lúc này được buộc kiểu đuôi ngựa phía sau, để lộ trọn vẹn
khuôn mặt trái xoan và cái cổ dài rất trắng. Không son phấn, tôi thấy nàng còn
đẹp hơn đêm trước, đặc biệt trong bộ váy lửng màu xanh nhạt. Mặc váy thời ấy
chỉ ở thành phố lớn, mà cũng trong giới con gái nhà giàu hay nghệ sĩ. “Mẹ mình
không cho nghịch đất. Có lần mình bị rết cắn đấy!’ Nàng nói như khoe. “Bạn đã
bao giờ bị rết cắn chưa?”
“Chưa.
Chỉ rắn cắn thôi”, tôi vội đáp, sung sướng vì nàng chịu bắt chuyện, còn gọi tôi
là bạn. “Rắn hổ mang nhé!” Tôi nói dối và thoáng đỏ mặt. Tôi mới chỉ một lần bị
rắn nước cắn, loại rắn bé và hiền lành, mà cũng lâu lắm rồi. Chắc ở thành phố
không biết rắn hổ mang mà cắn là chết, nên nàng không có phản ứng gì.
“Hay
ta đi hái khế?”
“Khế
à? Hái trộm?”
“Không,
khế nhà tớ”.
“Thế
thì thích quá. Xa không?”
“Gần
đây thôi”, tôi đáp, chỉ tay về phía vườn cây nhà lão Thọt. Ở đấy có cây khế
chua rất sai quả.
“Kể
ra hái trộm mới thích.” Đi sát sau tôi,
nàng bỗng nói, giọng như luyến tiếc điều gi.
Tôi
cũng cho là thế, nhưng đã rót nói dối nên đành im. Như nhiều đứa khác, tôi khá
thành thạo trong môn hái trộm khế, mặc dù rất sợ lão Thọt. Tôi từng bị lão bắt
mấy lần. Lão không đánh, chỉ báo cô giáo chủ nhiệm. Thế thì thà bị đánh còn
hơn. Hơn nữa nhà lão còn có con chó đen khổng lồ, ít sủa, chưa cắn ai bao giờ
nhưng trông rất sợ.
“Đằng
ấy có người yêu chưa?” Tôi hỏi, chân vẫn bước như thể tình cờ hỏi cho vui.
Nàng
khẽ khựng lại, nhìn tôi vẻ không hiểu:
“Chưa?
Sao bạn hỏi thế?”
“Chẳng
sao cả. Lớp tớ đứa nào cũng có người yêu!” Tôi lại nói dối.
“Hay
nhỉ. Còn bạn?”
“Chưa.
À mà có...” tôi ấp úng rồi đổi giọng nói tiếp: “Đến nơi rồi. Đằng ấy đứng đây
nhé. Tớ sẽ ném xuống”.
Một
cách thành thạo, tôi leo qua bờ rào rồi môt loáng sau đã vắt vẻo trên cây khế.
“Sao
khế nhà mình mà phải leo bờ rào?” nàng thật thà hỏi.
“Cho
nhanh.”
Mọi
việc có vẻ suôn sẻ. Dẫu chưa chín nhưng cây khế đang lúc nhiều quả. Đứng phía
dưới, nàng khẽ kêu lên thích thú cúi nhặt quả đầu tiên tôi ném xuống, rồi đưa
lên miệng cắn, nhăn mặt vì chua.
Mấy
phút sau thì tôi ngã, từ độ cao hơn ba mét, khi cố leo ra một cành nhỏ để hái
cho nàng những quả chín nhất. Cũng đúng lúc ấy lão Thọt và con cho khổng lồ có
vẻ ngoài hung dữ xuất hiện. Thấy nó, nàng sợ hãi bỏ chạy, còn tôi thì nằm rên
rỉ trên mặt đất ẩm ướt.
Tối
ấy tôi không được xem nàng diễn vì đang nằm ở bệnh xá huyện với chân trái bị
gãy. Sáng hôm sau nàng theo đoàn trở về Hà Nội, và tôi suýt phát khóc vì biết
chẳng còn bao giờ được gặp lại nàng. Đến đây cũng chấm dứt mối tình tuổi thơ
bồng bột và khá kỳ cục của tôi.
Mấy
năm sau, khi đang học ngoại ngữ ở Hà Nội để chuẩn bị du học nước ngoài, ngẫu
nhiên xem một bộ phim cũ thời kỳ đầu của ngành điện ảnh nước nhà, tôi lại thấy
nàng, trong vai em bé diễn viên chính. Nhờ vậy tôi biết được tên nàng. Căn cứ
năm phim sản xuất, tôi đoán nàng tham gia đóng nó chẳng bao lâu sau khi ăn
những quả khế do tôi hái. Nàng có biết tôi gãy chân không nhỉ? Bộ phim làm tôi
xúc động chút ít. Hơi tê tê, đau đau, nhưng nói chúng đó là một cảm giác ấm áp
dễ chịu.
*
Còn
giờ thì nàng đang ở bên tôi, dưới tôi, không phải lần đầu như đã nói. Tôi có
thể gặp nàng bất kỳ lúc nào, chỉ cần một cú điện thoại, bao thuốc lá Nhật Bản
Mild Seven và chai booc-đô đỏ. Nàng mê hai thứ ấy.
Cách
đây không lâu, tại một cuộc khai mạc triển lãm tranh ở phố Hàng Bài, tình cờ
tôi được giới thiệu với nàng, diễn viên M. H.
“Cựu
diễn viên thôi”, nàng bỏ điếu thuốc hút dở ra khỏi miệng để tạo một nụ cười xã
giao. Lớp son dày màu đỏ không che hết màu xám của đôi môi đã qua mỹ viện. “Vì
em đóng phim ít lắm”.
“Nhưng
phim nào có M. H tham gia cũng đều nổi đình đám cả, đúng không?” Người giới
thiệu, ông họa sĩ có tranh triển lãm, nói. “Đặc biệt phim ‘Dòng sông chia cắt’
em thủ vai chính ngày còn bé tí. Giải nhất Liên hoan phim quốc tế. Giải nhất
diễn viên xuất sắc cho em. Một tác phẩm kinh điên!”
Cái
tên M. H quen quen nhưng chưa đủ để tôi nhận ra nàng, nhưng nghe nhắc tới ‘Dòng
sông chia cắt’ thì tôi không nghi ngờ gì nữa.
“Rất
hân hạnh”. Tôi nói, còn xúc động vì bất ngờ và ngỡ ngàng. Bàn tay nàng mềm và
ấm một cách lạ lùng.
“Nhà
văn...” người giới thiệu nói tên tôi. “Một ông Tây An Nam viết văn. Con chiên
ghẻ giữa bầy cừu hay nàng thiên nga trắng giữa bầy quạ đen đều đúng cả”.
Chắc
tên tôi không nói lên điều gì với nàng. Tuy vậy, điếu thuốc vẫn được rút ra
khỏi môi để có thêm một nụ cười nữa.
Trước
mặt tôi là một người đàn bà hoàn toàn xa lạ, không phải đẫy đà mà béo, thậm chí
quá béo đối với một cựu diễn viên điện ảnh như nàng tự nhận. Cũng vì béo mà cái
cổ trở nên ngắn, nhưng làn da nàng trắng và khá mịn. Mái tóc ngắn uốn cong đen
một cách đáng ngờ. Cả người nàng toát lên sự từng trải và phóng túng. Cách nàng
búng tàn thuốc lá hoặc cầm ly rượu sâm banh cũng rất sành điệu. Tôi kín đáo
ngắm nàng mà mãi vẫn không tìm thấy gì chung giữa nàng và cô bé tôi yêu ngày
trước, trừ một điều duy nhất và quan trọng. Đó là khuôn mặt nàng. Khuôn mặt nhỏ
còn giữ được những nét thanh tú vốn có. Kể ra, trên cái cơ thể đồ sộ của nàng,
nó có vẻ mất cân đối, nhưng vẫn xinh đẹp. Mặt nhỏ là một trong những thước đo
vẻ đẹp phụ nữ hiện đại. Nghe nói khi tuyển diễn viên ba-lê, nó là tiêu chuẩn
hàng đầu.
Cuối
buổi triển lãm, tôi ở lại hỏi thêm ông bạn họa sĩ về nàng. Đúng là nàng, một
diễn viên tài hoa mà lận đận, cả đường công danh lẫn chồng con. Không hiểu sao
người ta không chịu giao thêm cho nàng vai chính nào nữa sau ‘Dòng sông chia
cắt’ dù khả năng diễn xuất của nàng đã được mặc nhiên thừa nhận. Người chồng
đầu của nàng là một nhà thơ đẹp trai, nổi tiếng với những bài thơ chiến tranh
mặc dù chưa một ngày mặc áo lính. Anh này còn nổi tiếng hơn về mặt nát rượu, vô
trách nhiệm. Tiếp đến là cuộc hôn nhân thứ hai, thứ ba, vội vã và cũng nhanh
chóng đổ vỡ. Gần chục năm nay nàng sống một mình, và là ‘một quí bà chịu chơi
và thích vui vẻ’, theo lời ông họa sĩ. Khi nói câu ấy với tôi, ông nháy mắt đầy
hàm ý.
Không
phải không do dự, một tuần sau tôi gọi điện cho nàng. Ngay từ lần gặp đầu tiên
chúng tôi đã ngủ với nhau, và nàng hỏi “Sao anh nhắm mắt?”
“Anh
có thói quen lạ thật đấy, cứ nhắm tít mắt như xấu hổ không bằng,” nàng nói khi
mặc xong quần áo và chuẩn bị uống nốt ít rượu còn sót lại trong chai booc-đô.
“Khi
nhắm mắt, anh thấy em thật đẹp”.
“Còn
khi mở thì không?”
“Không,
em rất đẹp”, tôi nói với khuôn mặt nhỏ của nàng.
HÀ
NỘI, NHỮNG NGÀY TRƯỚC TÊT
Từ
năm 1947 đến nay vậy là đã 53 năm, nếu kể cả năm vừa đến là 54. Lúc ấy ông là
một trung úy quân đội Pháp, 27 tuổi, có nghĩa bây giờ ông đã già, rất già. Lại
yếu nữa. Cũng chẳng còn sống được bao lâu. Dự định từ nhiều năm trước, nhưng
mãi bây giờ ông mới thực hiện được ước mơ của mình là quay lại Việt Nam để tìm
gặp ân nhân, một chiến sĩ Việt Minh được lệnh thủ tiêu ông nhưng đã tự ý tha
cho ông sống.
Trong
chiến tranh đó là một tội lớn, ông biết. Ở đâu, thời nào cũng vậy. Hơn nữa
người ấy là cộng sản, lại vào lúc họ mới bị đánh bật khỏi Hà Nội và không khí
chống Pháp đang rất cao. Tội to lắm. Tội phản bội, vâng. Người ta không ngần
ngại tử hình những kẻ phạm các tội loại này. Có thể ân nhân của ông đã phải
chết thay ông. Cũng có thể không. Cuộc đời chẳng biết thế nào mà lường. Trong
trường hợp ấy, tại sao ông không thử tìm, dù chỉ một lần, dù không hy vọng tìm
thấy? Ít ra để nói hai tiếng "cảm ơn" mà lần ấy vì vội, vì sợ, ông
chưa kịp nói. Có thế, ông mới cảm thấy thanh thản khi rời khỏi cuộc đời này.
Vậy là vợ chồng ông mua vé một tour du lịch trọn gói mười hai ngày tới
Việt Nam cùng ba chục người Pháp khác, phần lớn đều già và ít nhiều có kỷ niệm
riêng với thuộc địa An Nam xưa. Cả đoàn trở về Pháp từ Sài Gòn, còn vợ chồng
ông thì quay lại Hà Nội để thực hiện mục đích chính của chuyến đi.
Hà Nội năm nay rét muộn. Lúc này, khi
chỉ còn nửa tháng nữa là Tết mới có đợt gió mùa mang theo chút mưa phùn và giá
lạnh. Đường phố ẩm ướt, nhiều chỗ loét nhoét bùn bẩn. Ông bà thong thả đi dọc
theo các phố, sau mỏi chân phải thuê xích lô. Thành phố bây giờ khác hẳn cái
thời ông biết nó. Hầu như không nhận ra, trừ khu Ba Đình và một vài phố cổ. Họ
chẳng biết nên bắt đầu công việc tìm kiếm từ đâu và bằng cách nào.
*
Ông sang Việt Nam từ trước 1945, lúc
đầu chỉ là anh lính bình thường, sau nhờ gia đình có nhiều quan hệ nên ông
nhanh chóng thăng chức và được điều về làm việc ngay trong sở chỉ huy quân đội
Pháp ở Hà Nội. Nhiều lần ông theo viên sĩ quan cấp trên của mình tới chơi nhà
một tư sản Việt Nam nổi tiếng giàu, am hiểu nghệ thuật và giao lưu rộng thời
đó. Tại đây ông làm quen với cô con gái chủ nhà, một thiếu nữ tân thời xinh
đẹp, thông minh và đã từng sống ở Pari mấy năm với gia đình một người bà con
xa. Ông chẳng hiểu có phải tình yêu không, nhưng hai người có vẻ hợp và mến
nhau. Tuy nhiên họ chỉ dừng lại ở đó, phần vì chắc cô gái không đủ dũng cảm
mang tiếng "lấy Tây", còn ông thì chưa biết phản ứng bố mẹ thế nào.
Vả lại còn trẻ, ông không muốn sớm chuốc vào thân cái gánh nặng vợ con.
Một lần, lúc ấy là đầu năm 47, quân
Pháp vừa trở lại Hà Nội, người ta giải đến đơn vị ông phụ trách "một tên
Việt Minh nguy hiểm" bị bắt trong khi tìm cách đột nhập trại lính Pháp với
quả bộc phá còn giấu trong người. Hóa ra "tên Việt Minh nguy hiểm” ấy lại
chính là anh trai cô gái Việt Nam ông quen thân và từng vài lần nói chuyện với
anh ta. Hình như tên Thành hoặc Thanh gì đấy, sinh viên năm thứ tư trường luật
khi lần cuối họ gặp nhau. Ông ngạc nhiên sao anh ta còn ở Hà Nội, vì cả nhà đã
sang Pháp từ trước cách mạng. Lại còn làm Việt Minh nữa. Phải xử sự thế nào bây
giờ? Theo luật thời chiến lúc ấy, anh ta phải bị đem bắn.
Hai người im lặng nhìn nhau hồi lâu.
Cuối cùng ông nói:
- Tôi khuyên anh không nên làm những
việc dại dột. Tốt nhất hãy sang Pháp cùng gia đình. Nếu không, đừng ở lại Hà
Nội. Lần sau tôi sẽ không tha đâu. Anh có thể đi.
Anh kia mấp máy môi nói hai tiếng
"cảm ơn" rồi bước ra khỏi phòng. Ông biết có thể sắp tới ông sẽ gặp
rắc rối về việc này, nhưng kỷ niệm về cô gái, về những buổi tối vui vẻ ở nhà cô
và những lần nói chuyện thân thiện với anh không cho ông làm khác. Ông nghĩ họ
sẽ không bao giờ còn gặp lại. Không ngờ mấy tháng sau hai người lại chạm trán
lần nữa.
Trong một trận đánh đối phó lại chiến
dịch Thu Đông của Việt Minh cuối năm 47, ông bị bắt ở L. Lúc ấy quân tiếp viện
Pháp đang tới và đơn vị Việt Minh kia phải rút lui. Họ mang theo ông về căn cứ.
Ông bị thương ở chân trái không tự đi được, phải dìu hoặc đôi khi phải cõng nên
họ không thể rút nhanh, quân Pháp lại đang đuổi rất gấp phía sau. Cuối cùng họ
quyết định thủ tiêu ông. Trong chiến tranh những việc như thế thường xẩy ra, ở
cả hai phía. Ông biết vậy và sẵn sàng chấp nhận số phận.
Không
ngờ người được giao làm việc này lại chính là người chịu ơn ông tha chết trước
đây. Mãi lúc này họ mới nhìn thấy nhau nhưng không ai tỏ ra từng quen biết. Anh
ta lẳng lặng cầm súng đưa ông vào khu rừng bên cạnh. Đến nơi, ông không nhắc lại
chuyện cũ, không van xin tha chết. Anh ta cũng im lặng.
- Tôi cũng khuyên ông nên về Pháp, -
cuối cùng anh ta lên tiếng, giọng bình thản, pha chút diễu cợt. - Lần sau tôi
không tha đâu.
Rồi anh ta hất hàm bảo ông đi đi. Lát
sau ông nghe ba tiếng súng nổ đanh giữa trời chiều tĩnh mịch.
Nửa năm sau ông về Pháp, bắt đầu sống
cuộc sống bình thường như hàng triệu người Pháp khác. Ông có đủ trăm mối lo đời
thường để quan tâm, để quên đi những năm tháng không mấy vui vẻ ở Đông Dương.
Nhưng chuyện này thì ông không quên được.
Thực
ra giữa ông và người kia coi như thanh toán sòng phẳng với nhau. Hai người đã
dũng cảm vượt hàng rào ngăn cách thù địch về giai cấp, lý tưởng để xử sự với
nhau như những con người ân nghĩa. Vậy mà bao năm nay ông vẫn luôn băn khuăn không
hiểu số phận người kia sau đấy thế nào. Ông biết kỷ luật cộng sản nghiêm lắm.
Liệu chuyện có lộ và người ấy có bị xử bắn thay ông rồi không, hay biết đâu còn
sống, và nhờ phép lạ nào đấy có thể ông gặp lại được? Ở Pháp nhiều lần ông bỏ
công tìm cô bạn gái người Việt cùng gia đình cô để hỏi, nhưng điều duy nhất ông
biết là đầu năm năm mươi cả nhà họ chuyển sang Mỹ sống, cụ thể ở đâu không rõ.
*
Trở lại Hà Nội, vợ chồng ông thuê phòng ở một khách
sạn mini ngay trong khu phố cổ vừa rẻ tiền vừa tiện đi lại. Khách sạn chỉ có
sáu buồng nhưng ấm cúng và sạch sẽ, chỉ hơi chật. Lúc họ đến đang có một đôi vợ
chồng trẻ người Mỹ, hai cô gái du lịch người Anh, một giám đốc từ Sài Gòn ra
công tác và một ông già Việt Nam có vẻ như ở lâu dài tại đây. Các nhân viên
khách sạn có thái độ kính cẩn với ông già kia.
Ông
là họa sĩ, không hiểu nghiệp dư hay chuyên nghiệp, chỉ thấy sáng sáng xách giá
ra bờ hồ Hoàn Kiếm, trưa mới về, có khi chẳng vẽ được gì. Buổi chiều ông ở nhà
đọc sách. Mấy người nước ngoài kia là “Tây ba lô”, tiện đâu ăn đấy, còn vị giám
đốc người Việt thì ngày nào cũng bận chiêu đãi, thành ra chỉ có vợ chồng ông và
ông già họa sĩ ăn ở khách sạn, ngày ba bữa cả sáng, trưa và tối. Ông họa sĩ là
người lịch thiệp, hiểu biết rộng và nói tiếng Pháp rất sõi nhưng ít nói, thậm
chí có vẻ khó gần. Thành ra hàng ngày khi ngồi ăn chung với nhau, họ chỉ trao
đổi những câu xã giao, không ai hỏi ai về việc riêng người khác.
Sáng nay ăn xong, ông người Pháp hỏi:
-
Ông là người gốc Hà Nội?
-
Vâng, - ông họa sĩ lịch sự đáp. - Tôi có thể giúp được gì cho ông bà?
-
Đường phố Hà Nội bây giờ tên mới, lại thay đổi nhiều quá, không nhận ra nổi.
-
Thế ông bà muốn đến phố nào?
Ông kia nói một cái tên Pháp:
-
Tôi đến đấy có tí việc.
Ông
họa sĩ bảo anh xích lô thuê bao của khách sạn chở hai người tới nơi họ cần đến
rồi thong thả xách giá vẽ ra đi như mọi ngày.
Đó
chính là đường phố hôm trước hai ông bà người Pháp đã đến và ngờ ngợ nghĩ có
thể là phố có ngôi biệt thự của ân nhân mình. May phố này ít nhà và không thay
đổi nhiều lắm. Nhưng nhà nào đây? Ông cố nhớ mà không sao nhớ nổi. Cái này
chăng? Hay cái này? Họ đi đi lại lại hồi lâu trên vỉa hè, lúc bên này, lúc bên
nọ, dọc theo đường phố ngắn mà rộng nằm cạnh quảng trường Ba Đình.
Trời
lâm thâm mưa phùn. Gió lạnh thổi, chốc chốc những chiếc lá vàng lặng lẽ rơi
xuống. Ông cúi nhặt một lá, tần ngần ngắm nghía hồi lâu như kỷ vật một thời xa
xưa bây giờ đang sống lại trong ông thành những mảng hình thù không rõ nét. Đây
đó người ta bắt đầu trang trí các dây đèn màu và các tấm pa-nô chuẩn bị đón
Tết.
Cuối
cùng ông đánh bạo dắt vợ vào một ngôi nhà mà ông cho là giống hơn cả. Đó là đại
sứ quán một nước đông Âu. Ông hỏi một người Việt Nam đứng tuổi làm việc ở đấy
có phải trước kia đây là nhà ông Vân Long, chủ xưởng in Minh Tâm nổi tiếng
không. Người kia trả lời không biết vì ông ta mới về Hà Nội làm việc sau năm
60. Ông cũng nêu câu hỏi tương tự khi ngồi ở quán cà phê phố cạnh. Cô chủ quán
trẻ tuổi chỉ cười lắc đầu và quay sang hỏi lại một ông già khách quen ngồi ở
bàn bên. Ông này bảo có biết, nhưng không phải nhà ấy mà nhà bên, hiện nay là
một vụ của bộ ngoại giao.
-
Thế ông biết gia đình ông Vân Long chứ? - ông người Pháp vội hỏi.
-
Biết. Tôi sống ở khu này mà. Trước đây tôi cũng tập tãnh làm thơ và từng in ở
nhà in ông ấy. Cả nhà họ sang Pháp từ thời trước cách mạng.
-
Ông Vân Long có một người con là bộ đội Việt Minh...
-
Vâng, hình như thế.
-
Ông không biết cụ thể à? Người ấy bây giờ còn sống không?
-
Điều ấy thì tôi không biết. Ít ra từ ấy đến nay tôi không gặp và không nghe nói
gì về ông ấy. Ông là bạn của ông ấy à?
-
Có thể gọi như vậy. Tôi có việc muốn gặp, nếu ông ấy còn sống, tất nhiên.
-
Rất tiếc tôi không giúp được ông. Nhưng tôi nghĩ ông có thể đến hỏi ở bộ quốc
phòng. Bên kia kìa. - Ông già nói rồi chào khách, tay cầm vợt đi về phía sân
tennis Khúc Hạo.
Hai
ông bà người Pháp ngồi thêm chốc nữa rồi quyết định tới bộ quốc phòng ở thành
nội, là nơi ông từng sống và biết rất rõ. Ở đấy họ được một sĩ quan trẻ tiếp
đón lịch sự, ghi chép cẩn thận những câu ông hỏi, cả địa chỉ của họ ở Pháp, hứa
sẽ tìm trong kho hồ sơ lưu trữ và thông báo ngay khi có kết quả.
Họ
trở về khách sạn với ít nhiều hy vọng, dù rất mong manh. Hôm sau, qua một công
ty du lịch, họ thuê ô tô lên L, nơi ông từng bị bắt và được tha chết.
Hai
ngày sau họ trở về Hà Nội và lại cùng ngồi ăn tối với ông già họa sĩ. Lúc này,
qua cô lễ tân, họ biết ông là một vị tướng về hưu, ông nội của chủ khách sạn này, và rằng gia đình ông đã
chết gần hết trong đợt Mỹ ném bom Hà Nội cuối năm 1972. "Một anh hùng đấy!
Anh hùng Thiếu Sơn! - cô ta thầm thì vẻ bí mật quan trọng. - Ông bà chưa bao
giờ nghe tên à?"
-
Hôm nay ông có đi vẽ không? - ông người Pháp lên tiếng trước, khi họ ngồi vào
bàn và đang chờ mang thức ăn tới.
-
Có. - Ông hoạ sĩ vẫn ít lời như mọi ngày.
-
Ông thường vẽ gì?
-
Gặp gì, hứng gì vẽ ấy thôi mà, - ông cười đáp. Một nụ cười hiếm hoi.
-
Xin lỗi, chúng tôi có thể xem được chứ? - ông kia hỏi, chỉ tay vào chiếc giá vẽ
với bức phác họa còn để cạnh, chưa mang lên phòng.
-
Tất nhiên, nếu ông bà muốn. Tôi chỉ vẽ cho vui thôi mà.
Họ
ngạc nhiên khi thấy ông không vẽ cảnh thiên nhiên, hồ nước, cây hoa như họ
tưởng. Thay vào đó là cảnh Hà Nội đổ nát, bốc cháy, với nhân vật trung tâm là
một chiến sĩ mũ ca-lô, áo trấn thủ đang ôm bom ba càng lao tới. Vì không am
hiểu lắm về hội họa nên họ không nhận xét gì, và chuyển sang đề tài khác.
-
Hà Nội bây giờ đẹp lắm. Việt Nam cũng khác hẳn xưa. Chỉ tội mưa nhiều và hơi
lạnh.
-
Vâng. Lần này mưa lâu thật. Không hiểu đến Tết có ấm lên không.
Sau
bữa ăn họ còn ngồi nói chuyện thêm chốc nữa.
-
Ngày mai chúng tôi về nước, - ông người Pháp nói khi bắt tay xin phép lên
phòng.
-
Chúc ông bà thượng lộ bình an. - Ông hoạ sĩ đáp.
Ông
còn ngồi lại rất lâu bên bàn ăn, lơ đãng nhìn ra phố. Trời vẫn mưa lắc rắc.
Trong làn mưa bụi nhè nhẹ, ánh đèn nhiều màu như nhòe ra, tạo cho Hà Nội những
ngày trước Tết một vẻ đẹp khác thường, lung linh, kỳ ảo. Vốn không tò mò chuyện
người khác, ông không hỏi và không biết hai ông bà già người Pháp kia sang Việt
Nam với mục đích gì. Và họ cũng không thể ngờ rằng người họ đang tìm lại chính
là ông, người họa sĩ già cùng ở chung một khách sạn, gặp nhau hàng ngày và ăn
cùng một bàn.
Vâng,
chính ông là con trai chủ nhà in Vân Long ngày trước, là anh Việt Minh có tên
là Thành được ông tha chết và đáp lại, đã không bắn ông theo lệnh trên. Năm
tháng và sự thay đổi của con người theo tuổi tác khiến họ không nhận ra nhau.
Phần ông, mọi việc sau đó không quá bi đát như ông già người Pháp lo nghĩ. Lúc
ấy, sợ bị kỷ luật, ông trốn vào chiến trường miền trung, thay đổi tên họ, chiến
đấu dũng cảm, được đề bạt nhanh chóng và chẳng bao lâu thành một vị chỉ huy nổi
tiếng. Đến khi thấy thích hợp, tự ông báo với tổ chức mọi chuyện và xin nhận
bất kỳ hình thức kỷ luật nào. "Tôi là chiến sĩ cách mạng, nhưng tôi cũng là
một con người. Hắn đã tha chết cho tôi nên tôi không thể giết hắn để trả cái ơn
ấy" - đó là lời giải thích duy nhất ông đưa ra. Cấp trên thấy không phải
không có lý. Vì chuyện xẩy ra đã lâu, lại tự ông thành thật khai báo, hơn nữa
ông đang là một sĩ quan có năng lực, một đảng viên gương mẫu về mọi mặt, cuối
cùng ông chỉ bị kỷ luật nhẹ và tiếp tục phục vụ trong quân đội. Cái tên Thiếu
Sơn thì ông vẫn giữ vì nó đã trở nên quá quen thuộc, với mọi người và cả với
chính ông.
Chuyện
chỉ có thế, rất tiếc ông già người Pháp kia không biết. Ông cũng không biết
rằng cô bạn gái Việt Nam của ông ngày nào đã rời chính khách sạn mini này về Mỹ
chỉ hai ngày trước khi ông đến. Hầu như năm nào bà cũng về thăm quê cùng một lũ
cháu chắt.
*
Ba
tháng sau, bộ quốc phòng Việt Nam gửi sang Pari cho ông một bức thư thông báo
mọi chi tiết về cuộc đời của tướng Thiếu Sơn, người ông nhờ bộ tìm giúp. Cuối
thư có ghi rõ rằng nếu ông muốn gặp lại ân nhân của mình thì hãy đến khách sạn
ấy, phố ấy, nơi tướng Thiếu Sơn đang sống và hàng ngày vẫn ra bờ hồ Hoàn Kiếm
ngồi vẽ.
Tiếc
rằng bức thư đến chậm, vì ông đã chết nửa tháng trước đó.
Hà
Nội, 16.1.2001
CHỜ
ĐIỆN THOẠI
Lần đầu tiên ông nghĩ đến tuổi già khi một
tối nọ bất chợt không nhớ nổi ba con số đơn giản của chiếc khóa cũ Liên Xô có
từ hàng chục năm nay. Ngày nào ông cũng mở nó để lên sân thượng, vậy mà bây giờ
con số thân quen ấy bỗng nhiên chui tọt khỏi đầu, để ông hồi lâu bất lực đứng
trước cánh cửa song sắt hoen rỉ.
Bên ngoài trăng sáng, có lẽ trời nhiều sao,
gió mát, và từ sân thượng nhìn xuống thành phố chắc đẹp lắm. Ông muốn ra đó tận
hưởng những thứ xa xỉ không mất tiền ấy nhưng lại phải đứng đây, trên nóc cầu
thang ẩm mốc, tường bụi bám đen xịt này. Trở ngại đơn giản chỉ là cái khóa với
ba con số ông không sao nhớ nổi. Thật kỳ cục mà cũng thật buồn.
Ngồi bệt xuống sàn xi măng, mắt vẫn nhìn ra
sân thượng, ông lẩm bẩm: “Vậy là mình già thật rồi”. Chẳng trách hôm kia lên xe
buýt, có người lịch sự đứng dậy nhường ghế. Nghĩa là ông đã thuộc loại được ưu
tiên, như người tàn tật, phụ nữ có thai và trẻ em. Xe nào cũng có dòng chữ nhắc mọi người quan
tâm tới họ.
Già? Ông đã là người già, ở tuổi năm mươi
lăm? Tức là chính thức được thôi làm việc, thôi cần cho ai đó, và từ nay sẽ
sống như những cụ ông, cụ bà trong phố sáng đi bộ hai tay vung vẩy, chiều tập
thái cực quyền với những động tác nhẹ nhàng và chậm như múa? Những câu hỏi
không mấy dễ chịu dù đúng sự thật mà ông không muốn chấp nhận.
Còn khỏe, tuy tóc bạc sớm có vẻ già trước
tuổi, ông vốn là bác sĩ quân y, thuộc loại “lắm tài nhiều tật” theo cách nhận
xét của cấp trên vốn khó chịu với sự ngay thẳng bộc trực của cấp dưới, nên
người ta tìm cách cho về hưu sớm. Toàn những lý do chính đáng mà với tư cách
một quân nhân tự trọng và luôn phục tùng tổ chức, ông không thể không chấp
nhận.
Như vậy là tự đầu hàng? Ông cũng chẳng biết
nữa. Để rồi xem. Ông mới về hưu chưa đầy tháng nay, và như nhiều người khác
cùng hoàn cảnh, đang ở giai đoạn khủng hoảng của sự chuyển tiếp từ chỗ luôn bận
bịu sang trạng thái quá nhàn rỗi chẳng biết làm gì. Vì vậy mà ông hay suy nghĩ,
bực bội vô cớ. Sự cố chiếc khóa hôm nay là một thí dụ.
Để chứng tỏ không chịu đầu hàng, ngay bây
giờ ông phải nhớ bằng được ba con số quái ác kia. Thế là ông lặng lẽ ngồi yên,
ngồi rất lâu, thi gan với mấy song sắt và chiếc khóa cũ.
Khuya, khi cô con dâu sốt ruột lên tìm, ông
bảo ông không muốn ra sân thượng. Cô kia tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng không nói gì.
*
Đang thiu thiu ngủ thì bỗng có chuông điên
thoại réo vang gay gắt giữa bốn bề tĩnh mịch. Lúc ấy đã khuya, có thể gần sáng.
Ông lấy làm ngạc nhiên, thậm chí thoáng lo sợ vì xưa nay không ai gọi cho nhà
ông vào giờ này.
Hóa ra chỉ nhầm điện thoại. Thế là mất toi
giấc ngủ. Mỗi khi bị đánh thức giữa chừng, ông thường không ngủ tiếp được nữa.
Ông rất khó chịu. Sao người ta có thể nhầm lẫn như thế để làm phiền người khác
nhỉ? Tuy nhiên khi trả lời máy, ông không trách, thậm chí chẳng cao giọng.
Cô con dâu, đang ngủ với con ở phòng bên vì
chồng đi lao động nước ngoài, sợ có chuyện gì, hé cửa nhìn vào phòng khách, là
nơi ban đêm ông kê thêm chiếc giường bạt để ngủ vì nhà chật.
“Láo lếu. Đang đêm tự dưng dựng người ta
dậy. Sao bố không mắng cho một trận?”
Ông không đáp, lặng lẽ kéo chăn lên sát
mũi.
Chưa đầy mười lăm phút sau, chuông điện
thoại lại réo, có vẻ còn gay gắt hơn.
“Tôi đã bảo là anh nhầm, - ông đáp, lần này
không giấu nổi vẻ bực mình. - Anh gọi cho ai, theo số máy nào?.. Vâng, số máy
thì đúng, nhưng tôi không phải người anh tìm!”
“Đây là số điện thoại bố cháu đưa cho cháu.
- Người đầu kia dây nói. - Bố cháu tên là Tâm, bảo khi nào trong nhà có ai đau
ốm thì nhờ đến bác. Hôm nay vợ cháu không hiểu thế nào cứ ôm bụng quằn quại kêu
đau. Bác là bác An, bác sĩ An, bạn thân của bố cháu, phải không ạ?”
“Không, tôi là Bình và không quen ai là Tâm
cả. Sao vợ anh đau bụng lại phải đánh thức người khác dậy vào giờ này? Đau là
đau thế nào?”
“Xin lỗi bác, cháu cũng chẳng biết nữa...
Có thể chỉ đau bình thường. Cũng có thể phải đi bệnh viện.- Người kia ấp úng
một lát. - Nhưng thú thật, đi bệnh viện phải có tiền, mà tiền thì nhà cháu không
có. Cháu xin lỗi bác. Lần nữa cháu xin lỗi bác”.
Người đầu kia đặt máy. Ông vẫn cầm chiếc
ống nghe kêu tút tút hồi lâu trên tay.
“Ôm bụng đau quằn quại. Đau kiểu ấy chỉ có
thể là ngộ độc thức ăn nặng hoặc viêm ruột thừa cấp tính. Thế thì có cả chục
ông bạn bác sĩ đến nhà cũng vô ích. Phải ngay lập tức đưa đi bệnh viện. Cái anh
này (mà qua giọng ông đoán còn trẻ và ít kinh nghiệm, chắc phải ở vùng ngoại ô
xa) thật rõ ngớ ngẩn. Mất thời gian tìm ông bạn nào đó của bố, trong khi tính
mạng người bệnh đang được tính từng giờ. Lại còn kêu không có tiền. Không có
tiền thì sau hẵng hay. “Phải đưa ngay, đưa ngay đến bệnh viện gần nhất!” bất
chợt ông nói to ý nghĩ thành tiếng. Rồi ông lấy làm tiếc lúc nãy đã không bảo
anh ta làm thế. “Ừ, sao mình lại quên mất nhỉ? Không khéo do ngu ngốc hắn để vợ
chết oan cũng nên”. Tự nhiên ông thấy lạnh ở sống lưng, thầm lo cho gia đình
con người vừa vô cớ làm mất giấc ngủ của ông.
“Phải lập tức đưa người bệnh đi viện!” Ông
lẩm bẩm như đang ra lệnh cho anh chàng ngu ngốc kia. Rồi ông nằm ngửa, trân
trân nhìn trần nhà tối om, một tay đặt lên máy điện thoại, hy vọng anh ta sẽ
gọi lại. Gọi nhầm số điện thoại.
Ông nằm như thế rất lâu. Bên cạnh, chiếc
máy điện thoại vẫn lì lợm im lặng. Nhưng ông cứ chờ, hy vọng còn kịp. Giấc ngủ
đêm nay coi như đã mất. Mà rồi ông cũng không muốn và không thể ngủ tiếp trong
tâm trạng này. Ông nghĩ tới sự trái khoáy và phi lý của cuộc đời. Cứ lấy ông
làm thí dụ. Ông khỏe mạnh, giỏi nghề, còn háo hức muốn giúp ích cho người khác,
thế mà bị tống về hưu non. Chỉ vì ba con số đơn giản nào đó mà ông bị nhốt
trong ngôi nhà ngột ngạt, không được ra sân thượng lộng gió. Bây giờ đến lượt
anh chàng ngớ ngẩn này. Cô vợ tội nghiệp của anh ta đang quằn quại đau đớn hoặc
có thể đã chết, còn anh chồng thì nghĩ chỉ đau bụng bình thường. Dẫu nhầm,
nhưng anh ta đã gọi đúng người có thể cho lời khuyên quí báu. Thế mà người ấy,
tức là ông, lại giận dữ căn vặn đủ điều, trong khi quên không bảo anh ta làm
điều quan trọng nhất là phải đưa vợ đi ngay đến bệnh viện. Nghĩa là rất có thể
chính anh ta đã bắt vợ chết oan uổng. Còn ông thì sao? Ông có can dự gì vào cái
chết ấy không?
Sao anh ta không gọi nữa nhỉ? Biết đâu mình
từng có một người bạn tên là Tâm mà nay đã quên, như quên ba con số của chiếc
khóa? Vả lại, với một bác sĩ, có thực sự phải là bạn mới giúp không? Cú gọi vừa
rồi là nhầm hay đúng số điện thoại?
Với những câu hỏi như thế lởn vởn trong
đầu, ông lướt nhanh quãng đời làm bác sĩ của mình trong quân đội.
Ông tham gia chiến tranh từ ngày đầu cho
đến ngày cuối, và có thể nói không ai chê trách ông điều gì. Ông chưa bao giờ
phải cắn rứt lương tâm vì tắc trách hoặc yếu chuyên môn gây chết người. Tuy
nhiên, không nhiều nhưng cũng có những trường hợp đáng lẽ ông đã có thể cứu
sống đồng đội mà đành bất lực, vì thiếu thuốc, vì được đưa đến trạm quân y dã
chiến quá muộn, và vì trăm nghìn lý do ngẫu nhiên khác của thời chiến. Lỗi
không thuộc về ông nhưng ông vẫn băn khoăn và thường nghĩ đến họ. Đôi tay bác
sĩ của ông đã từng chạm vào hàng trăm, có thể hàng nghìn những cơ thể bị bom đạn
xé nát hoặc còn lành lặn. Nhiều, rất nhiều trong số các cơ thể ấy đã được ông
trả lại cuộc sống. Lúc ấy không có ba con số oái oăm của chiếc khóa rỉ này,
không có những đố kỵ và mưu mô của đồng nghiệp, nên mọi việc đơn giản hơn và
cũng dễ dàng hơn.
Lần nọ ở Ngã Ba Đông Dương, người ta đưa
đến cho ông một chiến sĩ trẻ bị ngất vì sức ép bom. Thoáng nhìn ông biết đã quá
muộn. Tuy nhiên ông vẫn cố làm hết những gì có thể, mặc dù không chút hy vọng.
Khi thay quần áo mới cho người chết để đồng đội chôn cất, tự nhiên ông đứng
lặng trước cơ thể trần truồng của anh. Còn nguyên vẹn, đẹp, trắng trẻo, sạch sẽ
và hoàn toàn thư thản. Cơ thể của một đứa bé. Thậm chí ở bộ phận sinh dục lông
còn chưa mọc hết. Người ta bảo mười tám tuổi nhưng ông đoán nhiều lắm chỉ mười
sáu. Tự nhiên ông thấy bủn rủn cả người và thật buồn. Cái buồn này và hình ảnh
cơ thể trẻ con ấy còn bám theo ông rất lâu sau đó. Đến giờ ông vẫn thấy rân rân
cái cảm giác lúc ấy ông vuốt mắt cho người lính trẻ con ấy...
*
Sáng hôm sau, thấy ông có vẻ như bần thần
điều gì, cô con dâu hỏi:
“Chắc đêm qua bố không ngủ được?”
“Ừ”, ông đáp, rồi kể cô nghe điều ông băn
khoăn.
“Bố cứ hay nghĩ vớ vẩn. Người ta làm phiền
mình, tha cho không mắng là may, hơi đâu còn giúp với chả không”.
Rồi cô ta bỏ đi làm, tới ngõ không hiểu sao
bỗng dừng xe, nói vọng vào:
“Bố muốn biết ai gọi, thì nhờ bưu điện tìm
giúp. Quay 1080 ấy. Họ biết hết”.
“Ừ nhỉ? Sao mình không nghĩ ra điều ấy từ
đầu? Biết đâu có thể còn kip?” Ông vội quay máy hỏi. Người ta cho ông số máy và
địa chỉ người gọi tới nhà ông giờ ấy, ngày ấy. Đó là số máy văn phòng một xã ở
huyện Sóc Sơn, cách Hà Nội bốn mươi cây số. “Không sao, đến đấy hỏi khắc biết!”
Ông lập tức quyết định đi tìm, không thật rõ lắm sẽ định làm gì nhưng vẫn mang
theo bộ đồ nghề bác sĩ và ít thuốc sẵn có trong nhà.
Ông dễ dàng tìm thấy nhà của người cần tìm,
một phần lúc ấy nhà đó đông người vì đang có tang. “Vậy là cô ta đã chết”, ông
buồn bã dựng xe, đứng xa từ bên ngoài nhìn vào, một chốc sau thì quay về. Ông
không muốn vào nhà, không muốn (mà cũng sợ) gặp anh chồng trẻ ngu ngốc kia.
Thậm chí không muốn hỏi xem sự thể thế nào. Cái cảm giác mơ hồ rằng chính mình
phần nào can dự đến cái chết ấy làm ông thấy nặng nề và mệt mỏi.
Tối hôm đó ông nằm mơ thấy ông bất lực đứng
bên cánh cửa sắt nhà ông với chiếc khóa quên mất số mở. Bên kia, chỉ cách mấy
mét là anh lính trẻ con có cơ thể tuyệt đẹp đang dãy dụa vì nghẹt thở. Anh ta
vẫy tay ra hiệu ông tới làm hô hấp nhân tạo. Ông đu cả người lên cánh cửa, cố
hết sức xô đẩy nhưng vô ích. Trong khi nếu nhớ, chỉ cần vặn nhẹ đúng ba con số
là có thể đến được với anh ta, cứu cho anh ta và cho cả thế giới này cái cơ thể
trẻ mới bắt đầu sống ấy. Nhưng ông đã không nhớ. Không sao nhớ nổi. Và ông ôm
mặt khóc.
“Đêm qua bố nói mê ghê quá”, cô con dâu nói
khi cả nhà ăn sáng.
“Thế à? Bố nói những gì?”
“Nhiều lắm. Mấy lần nhắc đi nhắc lại câu
‘Không nhầm đâu! Cứ gọi cho tôi!’. Ra bố vẫn chưa quên việc đang đêm bị người
ta dựng dậy à?”
Trước đó ông đã không cho ai biết việc ông
lên Sóc Sơn và cái chết của cô gái kia.
“Có lẽ bố già thật rồi”, trầm ngâm một lúc,
ông nói.
Buổi tối, khi ông lên gác định thi gan với
ba con số kia lần nữa thì đã thấy chiếc khóa số được thay bằng một chiếc khóa
Minh Khai mới, loại bằng đồng, chìa còn cắm trong ổ. Ông lẳng lặng đi xuống,
không còn muốn bước ra ban công lộng gió, nơi chắc trời vẫn đầy sao và đẹp
như mấy hôm trước.
Từ đó đêm nào ông cũng nằm thao thức mãi,
với cảm giác như đang chờ điện thoại của ai đó.
Hà
Nội, 2004.
QUẢ
BÁO
Không
khí có vẻ lắng xuống, nhưng vì còn sớm nên chưa ai muốn về. Sau mấy chén rượu
thuốc bữa tiệc mừng tân gia, mấy ông bạn già vẫn còn hăng lắm. Ít khi được gặp
nhau nên họ tranh thủ nói đủ chuyện. Từ chuyện "thời xưa" họ học hành
hoặc đi lính với nhau, (cái thời mà khi nhắc lại ai cũng kèm theo hai tiếng
"khó khăn" nhưng "tốt đẹp", mặc dù các ông thừa biết cái
thời ấy cũng khối thứ chẳng hay ho gì), đến chuyện làm ăn kinh tế "thời
nay" cùng trăm nghìn loại tiêu cực của nó. Tuy nhiên nói gì thì nói, các
ông vẫn phải thừa nhận một thực tế không thể phủ nhận, là bây giờ các ông sống
sướng hơn xưa, nếu không muốn nói đổi đời. Bằng chứng là thỉnh thoảng vài năm
một lần các ông lại được gặp nhau để mừng nhà mới cho bạn.
- Các vị có tin chuyện quả báo không?
Tức là cái chuyện ân oán ở đời ấy mà? - một ông chợt hỏi, chẳng ăn nhập với
những gì họ đang nói. Ông này có cái tên nghe rất kêu - Cao Lý Tưởng, mặc dù
ông chỉ làm một nghề rất thực dụng là kinh doanh phế liệu và sống chẳng có lý
tưởng nào cao cả ngoài kiếm tiền. - Tôi hỏi thế là vì vừa mới đọc xong cuốn
sách có nói đến chuyện quả báo. Chuyện một tên tri huyện rất gian ác thường cậy
quyền thế đánh đập, tù tội dân lành. Sau cách mạng bốn lăm, hắn bị người ta
trói quặt cánh khuỷu dẫn đi khắp phố huyện làm nhục, rồi bị một người tức giận
quá đập vỡ đầu. Nhưng chính người đập vỡ đầu hắn sau này bị qui là phản động và
xử bắn. Còn người tuyên án xử bắn anh ta thì hiện đang ốm nằm một chỗ trên
giường hơn mười năm nay... Tác giả cuốn sách đó là một ông nhà văn quân đội hàm
tướng cơ đấy.
- Nhà văn mà có đến cấp tướng cơ à? -
ai đó ngạc nhiên hỏi.
- Sao lại không? Nước ta có hai ông
như thế, còn tá thì đầy.
- Tướng nhà văn chắc phải viết hay lắm
nhỉ. - Ông kia lại nói, chậc lưỡi thán phục. - Không biết những ông như Sêkhốp
và Tônxtôi thì cấp gì. Bét ra cũng phải nguyên soái. Nguyên soái nhà văn!
Không ai đáp lại vì nghĩ hoặc ông ta
đang diễu, hoặc ú ớ đến mức không biết hai nghề viết văn và làm tướng chẳng
liên quan gì đến nhau.
- Cái chuyện ân oán ấy mà, tôi thì tôi
tin, rất tin nữa là khác. - Ông chủ nhà lên tiếng. Ông là cán bộ nghỉ hưu,
trước làm chân gì đó ở ủy ban quận. Ông mới được đứa con trai bên Tiệp cho tiền
dựng lên ngôi nhà ba tầng trên diện tích chưa đầy ba mươi mét vuông ở tít trong
ngõ này. Vốn mê tín, trước khi xây ông mời thầy địa lý chọn ngày chọn hướng,
mặc dù trên mặt bằng hẹp ba bên đã xây nhà, có muốn ông cũng chẳng quay theo
hướng thầy chọn. - Các cụ chả nói "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước"
là gì. Về chuyện này, các tích tây tàu xưa nay không hiếm. Nói đâu xa, hôm nọ
tôi vào bệnh viện thấy có thằng oe con bị ngộ độc phải rửa ruột. Hóa ra do hắn
uống một lon cô-ca thó được trong nhà chùa. Bố mẹ hắn lu loa định bắt hãng nước
ngọt Mỹ bồi thường. Người của hãng và cán bộ y tế đến kiểm tra phần nước còn
lại trong hộp, chẳng phát hiện thấy gì độc hại. Thế mà hắn ngộ độc suýt chết
đấy. Các bác bảo hắn không bị thần phật bắt tội là gì? Khi xây cái nhà này, tôi
cũng bị mất trộm mấy bao xi măng. Tôi biết thằng nào trộm, - ông đưa mắt nhìn
phía ngôi nhà hàng xóm vừa mới xây xong. - Tôi tin là nhà hắn nay mai sẽ đổ vì
mấy bao xi măng đó. Không thoát được đâu! - Ông nói một cách dứt khoát và tự
tin, đến mức mấy ông bạn ngồi nghe cứ tưởng như nhà ông hàng xóm kia sắp sụp
đến nơi, nên vô tình xịch xa bức tường thêm chút ít.
- Còn tôi, tôi chẳng tin. Đơn giản chỉ
là sự ngẫu nhiên. - Một ông khác lên tiếng. Ông này trước ở cùng đơn vị bộ đội
với chủ nhà, hiện là trưởng một phòng gì đó ở sở giáo dục, và là người gần đây
nhất mời mọi người đến "rửa nhà mới" như ông nói. - Cứ theo ý ông thì
ắt con cháu lũ trộm cắp sau này sẽ bị người ta trộm cắp lại, còn bọn lừa đảo,
tham nhũng thì sẽ thành ăn mày hết. Thực tế như ông thấy, lại chẳng vậy. Có
điều chắc chắn là người làm việc thiện sẽ thấy thư thái hơn, hạnh phúc hơn, và
ngược lại. Thế thôi. Nếu có gì xẩy ra thì chỉ là do ngẫu nhiên, ngẫu nhiên hết.
Cứ thế, vô tình chia thành hai phe,
mấy ông bạn già tranh cãi hồi lâu về đề tài này, dù chẳng mấy hăng hái, vì cái
họ tranh cãi thực ra chỉ chuyện đâu đâu, đúng hay sai chẳng chết ai. Rồi một
người trong số họ quay sang một ông già từ nãy tới giờ chỉ ngồi im. Ông là chủ
một cửa hàng thuốc tư nhân, trước làm dược sĩ quân y. Ông vốn được mọi người
kính nể vì tính chín chắn và hào hiệp.
- Còn ý ông thế nào, ông Bảo?
- Tôi ấy à? - Ông cựu dược sĩ quân y lên tiếng
với giọng miễn cưỡng của người bị bắt tham gia góp chuyện. - Tôi cũng không
tin, dù từng gặp những trường hợp đáng lẽ khiến tôi phải tin. Năm kia có một gã
ăn cắp thuốc ở cửa hàng tôi, về uống không đúng bệnh suýt chết. Nhưng tôi nghĩ
đó chỉ do người ta mách cho hắn không phải thứ thuốc hắn cần. Ngẫu nhiên thôi
chứ chẳng phải ác giả ác báo gì hết. Mới đây tôi còn biết một trường hợp nữa
đại loại như thế. Nếu các vị muốn, tôi sẽ kể.
Tất
nhiên mọi người muốn. Ông cựu dược sĩ quân y sửa lại thế ngồi cho thoải mái rồi
bắt đầu.
*
Hắn
ở khu Bách Khoa, trong căn hộ tập thể cách nhà tôi không xa. Bố hắn chết sớm,
bà mẹ về hưu non. Hắn còn đứa em gái học phổ thông. Bản thân hắn chỉ học hết
lớp mười rồi phải nghỉ để đi làm, sau này là trụ cột của cả nhà. Hắn làm thợ nề
tự do, kiêm nghề chỉ trỏ nếu có dịp. Có vẻ cũng kiếm được, vì em hắn vẫn đi học
và hắn còn dành dụm mua được chiếc xe cúp cũ. Hắn rất ham đọc sách, sách văn
học nghiêm túc chứ không phải loại kiếm hiệp rẻ tiền. Tóm lại, so với những đứa
khác cùng tuổi ở đây, hắn không đến nỗi nào. Thế mà hắn đã vào tù một lần, mấy
lần bị gọi ra đồn, và dưới con mắt chính quyền là thành phần bất hảo. Do tuổi
trẻ đua đòi, quấy phá thôi, chứ bản chất hắn không xấu như tôi đã nói. Hắn bị
tù vì bọn xấu rủ rê ăn cắp vật liệu xây dựng công trường bên cạnh để tiêu xài
nhậu nhẹt. Mà việc này xẩy ra cũng lâu rồi. Bây giờ hắn tu chí lắm, không thấy
gây gổ đánh nhau với ai. Hắn đã bước sang tuổi hăm lăm, cái tuổi phải lo làm
ăn, trước để nuôi mẹ và em, sau nữa để còn lấy vợ. Có lẽ hắn thấm thía bài học
mười tám tháng tù và đang quyết chí làm người lương thiện.
Một
tối nọ đi chơi khuya về, hắn phóng xe nhanh trên đường Nguyễn Khát Chân mới mở,
không hiểu thế nào va phải bà công nhân vệ sinh đang gom rác trên đường. Bà kia
ngã xuống đất, còn xe hắn chỉ loạng choạng chút ít. Lúc ấy trời đang mưa, phố
vắng người. Hắn đã định dừng lại xem sao nhưng rồi phóng đi luôn. “Ngã thì dậy
chứ quái gì. Đứng lại có khi thêm rách việc”, hắn vừa đi vừa nghĩ, thực sự tin
bà kia cùng lắm chỉ xây xát chút ít.
Đêm
ấy hắn cũng thoáng băn khuăn một tí về chuyện này, nhưng sáng hôm sau thì đã
hầu như quên hẳn. Và rồi các vị biết không, chỉ hai ngày sau chính mẹ hắn bị
một thằng choai choai phóng xe đánh võng húc ngã ở đường Bạch Mai khi bà đi chợ
Mơ về. Lại giữa ban ngày ban mặt lúc phố đông người. Người ta hô hoán, có ông
xe ôm còn phóng rượt theo nhưng nó chạy mất. Bà già bị gãy chân, đưa vào bệnh
viện bó bột mấy hôm rồi về nhà, phải nằm một chỗ hàng tháng trời.
-
Các vị thấy chưa! - ông Cao Lý Tưởng kêu lên, gần như sung sướng. - Đấy, cứ bảo
là không có chuỵện ân oán nữa đi.
Ông dược sĩ chờ mọi người im lặng trở
lại:
- Tùy các vị cho thế nào cũng được.
Tôi chỉ kể sự việc thôi. Phải nói thêm là thằng cha tôi đang kể đây rất thương
mẹ. Lại còn sợ nữa. Hắn chẳng bao giờ dám trái ý bà điều gì. Vì vậy dễ hiểu hắn
tức giận thế nào cái thằng choai choai đâm mẹ hắn gãy chân rồi bỏ chạy ấy. Hắn
thề sẽ tìm bằng được để trị tội. Hắn phác họa trong đầu kế hoạch thực hiện điều
này. Tôi dám chắc nếu tìm được, thế nào cũng có án mạng.
Một hôm đang nghỉ trưa, hắn bật ti-vi đúng
lúc người ta phát bài phóng sự về những nỗi cực nhọc và nguy hiểm của công nhân
vệ sinh đường phố. Hắn định chuyển sang kênh khác thì chợt dừng lại vì thấy nói
về trường hợp một bà quét rác bị ai đó đâm xe ngã rồi bỏ chạy, bị thương nặng
phải vào bệnh viện. Tôi nghĩ có người trong số các vị đã xem chương trình này.
Chỉ cách đây vài tháng thôi. Quả đúng một trường hợp rất thương tâm. Vì làm hợp
đồng nên bà ta không có bảo hiểm y tế và phải chi trả mọi khoản thuốc men và
viện phí, trong khi ông chồng thất nghiệp, lại kèm theo ba đứa con còn nhỏ. Bài
phóng sự nói rõ ngày giờ, địa điểm xảy ra tai nạn, cả việc hiện công an đang
truy tìm thủ phạm.
Hắn lặng người khi nghe tin này. Tối
đến, hắn hồi hộp chờ xem phát lại lần nữa. Sau đó, các vị biết không, hắn bắt
đầu rơi vào trạng thái ta thường gọi là lương tâm cắn rứt, hối hận hay đại loại
như vậy. Thì tôi đã nói hắn bản chất không phải người xấu mà. Hắn ngơ ngác
không biết phải làm gì. Hắn nghĩ đến chuyện ra trình công an, nhưng liền gạt
ngay ý nghĩ đáng khen đó vì sợ phải vào tù. Vả lại hắn không thể vào tù lúc
này. Cuối cùng hắn quyết định phải bằng mọi giá giấu việc hắn là thủ phạm, và
tìm cách giúp đỡ bà kia. Cách nào thì hắn chưa biết, nhưng phải giúp.
Hắn
tìm đến bệnh viện và thấy bà ta thực sự đang ở trong tình trạng rất nguy kịch.
Bà ta ngã nhẹ nhưng đầu va phải gờ đá vỉa hè, bị chấn thương sọ não đang hôn
mê. Bên cạnh là hai đứa trẻ mười và tám tuổi vừa thút thít khóc vừa gặm bánh mì.
Chiếu cố hoàn cảnh, bệnh viện tạm ứng tiền thuốc men, sẽ yêu cầu cơ quan thanh
toán sau. Một tuần trôi qua mà hắn vẫn chưa biết phải giúp nạn nhân của hắn thế
nào. Nếu có tiền, hắn sẽ tìm được cách đưa cho gia đình bà ta mà không bị phát
hiện. Khốn nỗi tiền là cái hắn không có và hiện đang rất cần, để nuôi cả nhà và
thuốc thang cho mẹ hắn. Bán xe? Không được. Hắn đang làm phụ xây tận Đức Giang,
hơn mười cây số. Mà rồi hắn biết có bán cũng chẳng được bao nhiêu. Tuần sau hắn
tới bệnh viện thì nghe nói bà kia đã chết trước đó hai ngày.
Bây giờ thì hắn hoảng hốt thực sự. Hắn
đã là một tên giết người. Giết người chứ không phải trộm cắp vặt hoặc gây gỗ
đánh nhau như trước. Hắn nghĩ tới chuyện ân oán mà ớn lạnh dọc xương sống. Hắn
sợ mẹ hắn sẽ chết. Mạng đòi mạng mà. Hắn đâm xe vào người ta, mẹ hắn bị người
ta đâm xe. Nay người ta chết thì có thể mẹ hắn cũng sẽ chết. Không. Phải làm
sao để chuyện này không xẩy ra. Hắn đã giết bà kia, không thể chính hắn lại
giết mẹ. Hắn suy nghĩ lung lắm, luôn thẫn thờ cứ như người mất hồn. Cùng một
lúc cả dằn vặt lẫn sợ hãi đang ám ảnh, thôi thúc hắn phải làm cái gì đấy.
Một
cách khôn khéo, hắn đến bệnh viện dò hỏi được địa chỉ bà quét rác nọ. Đó là một
căn nhà cấp bốn tuềnh toàng sát bờ sông Tô Lịch luôn bốc mùi thum thủm. Hắn
thận trọng đứng từ xa nhìn vào.
Nhà
không cổng, cửa lại mở toang hoang nên hắn nhận ra ngay hai đứa bé đã gặp ở
bệnh viện. Đứa nhỏ đang khóc, không hiểu vì sao. Còn đứa lớn thì lúi húi trong
bếp, khói bốc mù mịt. Bố chúng không có nhà. Thoáng nhìn, hắn biết trong nhà
không có gì đáng giá. Ngay sát chiếc giường ọp ẹp là giá thờ với tấm ảnh của
ngưòi xấu số và mấy que hương đã tắt. Hắn tự hỏi không hiểu ông chồng bà ta là
người thế nào, nhưng đoán chắc chẳng ra gì một khi không kiếm nổi việc làm nuôi
vợ con. Không khéo lại là tay cờ bạc, nghiện ngập hoặc vũ phu cũng nên. Hắn
thấy tội cho mấy đứa nhỏ. Chưa chắc chúng đã được ăn hàng ngày.
Hắn
ra ngồi trong quán nước gần đấy, lân la hỏi thêm cho rõ. Đúng như hắn đoán, mấy
đứa trẻ đang đói. Số tiền ít ỏi cơ quan cũ mẹ chúng giúp đỡ chẳng kéo dài được
bao lâu. Cũng may ông bố không phải người xấu, chẳng nghiện ngập gì, chỉ tội
hơi đần và hay đau ốm. Trước còn dựa vào vợ, nay vợ chết, đói quá phải bò đi
kiếm cái ăn bằng cách nào có trời mới biết.
Vốn
tìm đến đây chưa có mục đích cụ thể nào trong đầu, giờ hắn ngồi thần người, cảm
thấy cái tội của hắn thật lớn. Hắn không chỉ giết chết người vợ, mà còn có thể
đẩy người chồng vào con đường tội lỗi, và quan trọng nhất là bắt mấy đứa con họ
phải nhịn đói. Cuối cùng hắn đứng dây. Như người mộng du, hắn lửng thửng quay
lại ngôi nhà kia. Hắn cho tay vào túi quần. Còn đúng mười nghìn. Hắn mân mê mấy
tờ giấy bạc nhàu bẩn trong tay, rồi bất ngờ với cả chính mình, hắn chọn lúc hai
đứa bé quay mặt vào bếp, vứt tiền vào sân rồi bỏ đi. Lúc đầu hắn cố đi bình
thường để khỏi gây nghi ngờ. Rồi hắn bước nhanh, dáng sợ sệt và vội vã như một
tên ăn trộm.
Sau
đó tuần nào hắn cũng đến để lén lút ném tiền vào nhà người ta theo cách ấy.
Tháng đầu hắn đến vào ban ngày, sau sợ lộ chuyển sang ban đêm. Chỉ phóng xe đi
ngang rồi ném tiền vào. Thế thôi. Thường chỉ dăm nghìn, nhưng cũng có khi mấy
chục. Hắn đoán bố con ông kia phải ngạc nhiên lắm khi mỗi sáng dậy lại thấy
tiền ai "đánh rơi" ngoài sân nhà mình. Nhưng đang đói thế, chắc họ chẳng
ngạc nhiên lâu.
Cuối cùng cái phải đến đã đến. Không còn
cách nào khác, hắn bán chiếc xe dẫu cà tàng nhưng vô cùng cần thiết ấy của hắn,
với giá ba triệu rưỡi. Hắn chỉ dám chi một trăm nghìn mua chiếc xe đạp cũ để đi
làm. Hắn để riêng một triệu giúp gia đình người kia, còn lại hắn dành vào việc
thuốc thang cho mẹ và những thứ tối cần thiết trong nhà. Sau khi bán xe, hắn
cũng tự thưởng cho mình hai vại bia hơi và một bao Vina mà đã lâu hắn không dám
mơ tới.
Một
thời gian sau mẹ hắn lành chân và đã có thể tập tễnh ra hè phố bán trà thuốc
như trước. Hơn hai triệu đồng hắn định để dành chi dùng cho gia đình không ngờ
lại hết trước số tiền hắn cất riêng cho mục đích sám hối. Nhưng tuyệt nhiên hắn
không động tay lấy một đồng nào từ đấy, vậy mà nó cũng chỉ đủ cho hắn kéo dài
được mấy tháng.
Một
hôm hắn chẳng còn tiền để vứt vào nhà kia nữa. Mà hắn thì không thể ngừng việc
này được, phần vì cảm thấy vẫn còn trách nhiệm giúp đỡ, tất nhiên không phải
suốt đời, nhưng lâu chừng nào hay chừng ấy, phần vì hắn sợ nếu thôi, có thể mẹ
hắn sẽ ốm trở lại hoặc thậm chí chết. Rủi nữa, việc làm của hắn dạo này lại hôm
có hôm không, nên hắn gần như tuyệt vọng.
"Phải
làm gì bây giờ?" Câu hỏi ấy cứ bám lấy hắn suốt mấy ngày liền mà không sao
tìm được câu trả lời. Chợt một ý định xuất hiện. Lúc đầu chỉ thoáng qua như một
sự điên rồ bị hắn xua đuổi ngay, nhưng nó cứ quay lại và mỗi lúc một rõ nét
hơn. Cuối cùng thì hắn quyết định dứt khoát: Phải ăn trộm! Không còn cách nào
khác. Ăn trộm để có tiền giúp mấy đứa trẻ kia. Đúng thế, hắn sẽ không đụng tới
một xu trong số tiền ăn trộm được vì bất kỳ mục đích nào khác, cho hắn cũng như
gia đình. Ăn trộm một vố thật lớn rồi thôi, thôi vĩnh viễn như trước đây hắn
từng thề với mình. "Ngộ nhỡ bị bắt thì sao? Thì coi như mình đi tù thay
cho việc làm bà kia chết. Sẽ không khai, nhưng tự biết như thế. Đời có ân có
oán, mình làm mình chịu. Mình chịu còn hơn để mẹ chịu!"
Hắn
nghĩ thế và bắt đầu các khâu chuẩn bị cần thiết để hành động. Hắn sẽ rất thận
trọng, quyết không để bị bắt. Và hắn đã gặp may. Chọn đúng giờ ít ai ngờ nhất -
bảy giờ tối, khi mọi người đang ăn cơm, - hắn đột nhập vào một ngôi nhà cạnh
đấy được theo dõi từ trước, cậy tủ lấy gần chục triệu đồng và một cây vàng tấm
còn nguyên giấy bọc nhựa trong suốt. Hắn lách ra khỏi nhà kia cũng nhẹ nhàng, chẳng
bị ai phát hiện như khi vào.
Một
chốc sau hắn thở dài nhẹ nhõm đạp xe đi giữa phố, thầm nhẩm tính số tiền vừa
trộm sẽ giúp được gia đình nạn nhân hắn trong bao lâu, với mức trăm rưởi, vài
trăm nghìn đồng một tháng chẳng hạn. Hắn không muốn đưa nhiều một lúc, dù làm
thế sẽ tiện hơn cho hắn, vì sợ ông bố ngù ngờ kia cậy nhiều tiền lại hoang phí,
rốt cục con vẫn không có gì ăn. "Mà dạo này sao chẳng thấy lão đi làm đâu
cả, - hắn nghĩ. - Cứ suốt ngày ở nhà chờ người ta ném tiền vào sân cho mình.
Sau lần này thì phải tự lo mà sống nhé. Không ai nuôi báo cô suốt đời được
đâu..."
Đúng
lúc hắn vừa đi vừa nghĩ như thế thì bỗng ai đó phóng xe máy ngang qua, quệt vào
xe hắn, làm hắn ngã xuống đường. Nhẹ thôi. Chỉ xây xát chút ít ở khuỷu tay và
tự hắn đứng dậy được ngay sau đó. Người kia, một thanh niên trạc tuổi hắn, vẻ
ngoài tử tế, cho xe dừng lại xem có gì nghiêm trọng không. Thấy không sao, thay
cho câu xin lỗi, anh ta văng một câu: "Lần sau nhớ đi cẩn thận, con
nhé!"
Từ
ngày mẹ bị xe đâm, hắn đã vô cùng căm thù những tay phóng ẩu. Bây giờ nghe thế,
hắn lộn ruột, vội nhảy xổ vào người kia, đấm đá túi bụi trong cơn điên khùng
không kiềm chế được. Chỉ loáng sau, những kẻ hiếu kỳ đã bu kín xung quanh. Rồi
công an đến, đưa cả hai về đồn.
Lúc
này hắn mới nhận thấy hắn đã phạm một sai lầm nghiêm trọng thế nào. Người đâm
xe được thả ngay sau vài lời cảnh cáo, còn hắn thì bị giữ lại, vì người ta thấy
có vàng và tiền trong người hắn, kẻ từng có tiền án, tiền sự...
*
Kể
đến đây, ông cựu dược sĩ quân y dừng lại, đưa mắt nhìn quanh một lượt rồi nói:
-
Bây giờ thì các vị tha hồ mà kêu lên rằng đời này có báo ân báo oán nhé.
-
Tất nhiên. - Ông Cao Lý Tưởng hùng hổ
nói. - Còn ông thì không chắc, sau khi chính ông kể câu chuyện này, một câu
chuyện nghe như bịa nhưng cũng có thể xẩy ra lắm. Rồi sau đó thì sao?
-
Sau đó tôi được mời ra đồn công an.
-
Ông? - mọi người nhao nhao hỏi. - Sao lại dính ông vào chuyện này?
-
Đơn giản thôi, - người kể chuyện thong thả đáp, có vẻ như cố tình kéo dài để
mấy người kia phải sốt ruột. - Vì hắn ăn trộm nhà tôi, là điều khiến tôi ngạc
nhiên. Xưa nay hắn có vẻ quí tôi và thường qua nhà tôi mượn sách. Cũng có thể
vì thế mà hắn biết tôi cất tiền ở đâu. Nếu theo cách lập luận của các ông thì
tại sao tôi đối xử tốt với hắn mà lại bị hắn ăn trộm? Chính tôi cũng băn khuăn
điều đó, vì như đã nói, tôi vẫn luôn nghĩ hắn là người tốt, nên ở đồn công an,
tôi yêu cầu được gặp riêng với hắn một chốc. Hắn đã thành thật kể tất cả những
gì tôi vừa cho các vị biết.
-
Nghe cứ như trong tiểu thuyết ấy nhỉ ? - Ai đó xen vào.
-
Rồi tôi phịa chuyện nói với công an rằng hắn là cháu xa của tôi, rằng hắn tới
vay tiền tôi mua xe máy nhưng vợ tôi không cho nên mới nông nổi làm bậy, và
rằng bây giờ tôi bảo lãnh, xin tha cho hắn về giáo dục trong gia đình.
-
Sau rồi sao?
-
Chẳng sao cả. Tôi lấy lại cây vàng, đưa cho hắn mười triệu kia để làm nốt công
việc sám hối của hắn. Bảo cho vay, khi nào có thì trả. Tôi tin hắn sẽ trả, mà
không trả được cũng chẳng sao. Vì cái việc ấy mà hắn dám liều mình ăn trộm để
có thể bị vào tù lần nữa, thì với tôi, mười triệu đồng cũng không lớn lắm.
Để
kết thúc câu chuyện của mình và cũng là đề tài tranh luận của mấy ông bạn già,
ông cựu dược sĩ quân y nói thêm, vẻ triết lý:
-
Tóm lại, tôi không tin mà cũng chẳng phủ nhận chuyện có hay không ân oán ở đời.
Tôi chỉ nghiệm thấy rằng nếu mình sống ngay thẳng, làm được điều gì đấy tốt cho
đời thì lòng mình sẽ thanh thản. Đó là sự báo ân lớn nhất theo cái nghĩa các vị
nghĩ. Nếu muốn, hôm nào tôi giới thiệu hắn với các vị. Dạo này hắn khá lắm. Khá
lắm!
Hà
Nội, 6.3.2001
HẠNH
PHÚC
Ông
gác chèo, ngả người lên thanh ngang phía đuôi chiếc thuyền nhỏ. Sông Lam mùa
này nước cạn. Chiếc thuyền như đứng yên một chỗ. Bốn xung quanh yên tĩnh, đượm
buồn, cái buồn mênh mang sông nước của một vùng nông thôn vắng vẻ. Trời không
trăng bàng bạc trên dầu. Hai bên bờ không có cây. Một bên là bãi mía bạt ngàn
còn lâu mới đến mùa thu hoạch. Bên kia là nương ngô mới mọc đến ngang lưng.
Thuyền ở gần phía bãi ngô nên ông không nghe có tiếng xào xạc. Thay vào đó chỉ
là tiếng đều đều đơn điệu của những loại côn trùng ông không biết tên và không
hình dung nổi hình dáng chúng thế nào.
Không phải con đò, mà chính ông đang
nhớ về cô chủ, cô lái đò năm xưa của ông. Một cô lái đò thật đẹp, thật mơ mộng,
luôn được thi vị hóa trong thơ và trong tâm trí ông bao năm nay. Hơn thế, cô
còn là người con gái đầu tiên ông yêu, một mối tình cũng thi vị và mộng mơ
không kém.
Nay
ông đã già. Khoảng chục năm lại đây năm nào ông cũng đến khúc sông này, vào
thời gian này để sống lại những giây phút hạnh phúc xa xưa với cô lái đò của
ông. Nhiều thì mươi ngày, ít cũng một tuần. Dân làng Mía coi ông như người thân
quen, nhà nào cũng sẵn sàng cho ông mượn thuyền để làm cái việc họ thấy hơi kỳ
cục, là đêm đêm chèo ra sông ngồi lặng một mình đến tận khuya. "Tôi thích
sông nước, - ông nói. - Ngoài ấy thoáng đãng và dễ chịu". Họ cười và gật
đầu, nhưng cũng lờ mờ đoán hiểu. Nếu chỉ cần thế thì thuê thuyền ra hồ Tây hoặc
sông Hồng chứ chẳng phải vất vả từ Hà Nội vào đây.
*
... Hôm ấy là một ngày nắng gắt. Khi
ông đạp xe vượt mười lăm cây số đường đất gồ ghề từ thành phố Vinh tới đây thì
đã quá trưa. Ông là phóng viên một tờ báo trung ương, gần ba mươi tuổi, chưa
vợ, có việc phải tới vùng này. Từ xa ông nhìn thấy con đò sắp sửa rời bến, định
đạp dấn lên cho kịp nhưng tới nơi thì nó đã cách bờ khoảng mười mét. Thế là
đành phải đợi khá lâu mới có chuyến khác.
Ông ngồi nép vào ruộng mía cho đỡ
nắng. Trời không gió, ngột ngạt. Mồ hôi chảy đầm đìa, và ông có cảm giác như bị
say nắng. Cuối cùng thì con đò cũng quay lại, ông là một trong hai người khách
đang chờ. Người kia là một bà lão không hiểu vừa đi đâu về, tay xách chiếc lồng
gà trống rỗng. Bà bõm bẽm nhai trầu, chốc chốc lại dùng hai ngón tay khẳng khiu
vuốt chiếc miệng móm.
- Mẹ đâu mà hôm nay mày phải chèo đò,
Thắm? - bà lão hỏi khi hai người đã lên thuyền. Chắc người cùng làng.
- Mẹ cháu mấy hôm nay không được khỏe,
cháu phải thay.
- Người ta vẫn chưa gọi đi học à?
- Dạ chưa. Có lẽ rồi không. Cũng chẳng
sao. Cháu ở nhà với mẹ và con đò này cũng được. Chứ đi xa, bỏ mẹ một mình cháu
không yên tâm.
Thắm đáp rồi im, đều đều chém hai mái
chèo mảnh xuống làn nước trong xanh phẳng lặng. Bà lão chẳng nói gì thêm. Chiếc
thuyền bé tí có hình thon dài, mút nhọn hai đầu. Từ trên bờ nhìn xuống có lẽ nó
giống "chiếc lá tre vàng" thật. Bà lão ngồi đằng đuôi, còn ông phía
trước mũi, tức là đối diện với cô lái đò có tên Thắm ấy.
Ngay
từ đầu ông đã nhận thấy Thắm là cô gái xinh đẹp. Xinh đẹp đến khiến ông phải
ngỡ ngàng. Ở cô còn có cái gì đấy rất quyến rũ. Cái gì cụ thể thì không biết,
chỉ biết ngay từ cái nhìn đầu tiên ông đã như bị thôi miên. "Chắc do cảm
nắng thành lóa mắt", ông thầm nghĩ nhưng sau nhìn lại nhiều lần, ông vẫn
phải thừa nhận cô xinh, có lẽ là người con gái xinh nhất xưa nay ông từng gặp.
Một vẻ đẹp tự nhiên, giản dị và ông dám chắc chính cô không ý thức rõ điều ấy.
Như
phần lớn các cô gái nông thôn thời ấy, Thắm mặc áo phin gụ và quần vải phíp
đen. Mọi đường nét ở cô thật hài hòa - từ khuôn mặt trái xoan đỏ ửng vì chèo và
vì nắng nóng đến các làn cong mềm mại của bờ vai, eo hông và cặp vú tuy còn nhỏ
nhưng căng phồng dưới lớp vải mỏng. Tóc cô búi ngược để lộ chiếc cổ thon dài
trắng hồng với những sợi tóc ngắn mềm, xoăn xoăn phía trên trông thật gợi cảm.
Vành tai mỏng được nắng chiếu qua có màu nửa hồng, nửa vàng.
Ông
đoán cô chỉ khoảng mười sáu, mười bảy, cái tuổi lưng chừng giữa "cô
bé" và "cô gái". Về thể chất cô cũng ở giai đoạn phát triển lưng
chừng ấy. Phải cố lắm ông mới kìm được mình để không nhìn cô chằm chằm. Ông giả
vờ đưa mắt lơ đãng nhìn quanh, nhưng cả tâm trí ông đang bị cuốn hút bởi cái
đẹp vừa phát hiện. Chưa bao giờ trong đời ông có cảm giác tương tự. Có thể cô
đã nhận thấy sự chú ý quá mức của ông, cũng có thế không. Cô không tỏ một thái
độ nào đặc biệt.
Ông
lấy làm tiếc khi con đò cập bờ bên kia, và ông phải đạp xe đi tiếp.
Buổi
chiều, ông quay lại đúng lúc cả hai bờ đều không có khách. Thắm đang hý húi múc
nước từ chiếc thuyền đổ ra ngoài. Ông hỏi đò còn đi không. Cô mỉm cười gật đầu,
ra hiệu cho xe đạp xuống thuyền. Cô chờ thêm chốc nữa nhưng không thấy người
nào, trong khi bên kia sông có ai đó vừa đến, đang giơ tay vẫy đò. Sông Lam
đoạn này rộng nên người ta không gọi mà chỉ vẫy tay ra hiệu.
Vậy
là chỉ mình ông và Thắm trên thuyền. Cô lặng lẽ chèo, dường như không chú ý đến
ông. Ông cũng cố tỏ ra như vậy. Tuy nhiên khi ra đến giữa dòng, ông lên tiếng
hỏi:
-
Cô Thắm thi vào trường nào mà người ta chưa gọi?
Thắm
hơi ngạc nhiên vì người khách lạ gọi đúng tên mình, nhưng cô liền nhớ mấy câu
trao đổi với bà lão làng Mía buổi trưa. Cô nhìn ông vẻ dò xét.
-
Em thi vào Đại học sư phạm Vinh nhưng không đủ điểm. Còn trường Cao đẳng nhạc
họa Hà Nội thì thuộc diện có thể được xét vớt. Vì chiếu cố con em liệt sĩ...
-
Cô có khiếu nhạc họa à?
Thắm
im lặng hồi lâu, chắc không muốn quá bộc bạch với người lạ. Cuối cùng cô đáp:
-
Không. Em thích vẽ. Thầy Chúc chủ nhiệm bảo em vẽ không xấu. - Rồi cô mải miết
chèo như muốn ra hiệu ông không nên hỏi thêm. Biết ý, ông im lặng.
Suốt
cả tuần sau đó nằm ở nhà khách tỉnh ủy, ông chẳng làm được gì khác ngoài việc
luôn suy nghĩ về cô. Thầm ngạc nhiên với cả chính mình, ông thấy hình như ông
đã yêu cô. Yêu ghê gớm. Rồi một hôm, ông lại đạp xe lên bến đò làng Mía.
Thắm
vẫn chèo đò thay mẹ. Cô không tỏ một thái độ nào khi lại gặp ông. Ông cũng cố
đóng vai một khách đò bình thường. Có điều mỗi lần sang bên kia, ông giả vờ đi
đâu đó khoảng nửa tiếng rồi quay lại và... sang sông. Hôm ấy ông đã đi lại sáu
lần như thế. Cả sáu lần Thắm tỏ vẻ không để ý. Ông cũng ngồi im, phần vì lúc
nào đò cũng có người, phần vì ông như muốn thi gan với cô. Lần cuối cùng, lúc
này đã chập tối và trên đò chỉ có hai người, ông nói:
-
Sao Thắm không hỏi vì sao tôi cứ đi đi lại lại mãi thế?
-
Việc của em là chèo đò, còn đi bao nhiêu lần là việc của khách. - Cô lạnh lùng
đáp.
-
Xưa nay có ai đi đò của cô sáu lần trong một buổi chiều chưa?
-
Chưa... - Thắm ngập ngừng lúng túng. Chắc cô không quen nói dối.
-
Thế Thắm không nghĩ vì sao tôi làm thế à?
-
Không.
Lúc này con đò đã cập bến. Thắm nói:
-
Bây giờ em nghỉ. Anh không đi lần thứ bảy được đâu.
-
Nhưng mai tôi lại tới và sẽ đi mười bảy lần, được không?
Cô
không đáp, chỉ vội vã chèo thuyền đi. Từ bờ nhìn theo, ông thấy cô như đang sợ
hãi điều gì.
Hôm
sau ông lại đến, và đi đò của Thắm không phải mười bảy, mà chỉ năm lần, vì ông
đến muộn do giữa đường xe hỏng. Họ không nói với nhau lời nào. Mỗi lần bắt gặp
cái nhìn của ông, cô ngượng ngùng quay đi. Còn ông thì vừa nhìn cô nhịp nhàng
khua mái chèo, vừa nghĩ:
Một mình một chiếc đò
ngang,
Nước
xanh, mây trắng, nắng vàng.
Cô
lái, như đò, rất mảnh,
Nhẹ
khua mái chèo đôi cánh...
Nghe
nói đây sắp xây cầu,
Liệu
cô bỏ đò về đâu?
Rồi
ông hình dung cảnh chiếc cầu được xây xong, không còn đò nữa, và...
Bỏ lại bến đò, dòng sông,
Cô
lái đã đi lấy chồng.
Cũng
việc bình thường, ấy vậy
Mà
khách bâng khuâng như thấy
Cả
mình, cả sông, cả đò
Hơi
hơi buồn buồn nhớ cô.
Những
mối tình đầu thường trắc trở, càng đẹp càng trắc trở. Xưa nay vẫn vậy và có vậy
mới đáng nói. Nếu cô lấy chồng chắc ông phải buồn lắm. Nhưng ông đã không có được
cái buồn đầy chất thơ ấy. Vì cô đã đi lấy chồng, và chồng cô chính là ông chứ
chẳng phải ai khác. Tức là mối tình giữa ông và cô đẹp mà không có trắc trở
nào. Trái với cái lô gích thường gặp trong văn thơ.
Lần
thứ năm ông đi đò cô hôm ấy, lần cuối cùng trong ngày, thật may cũng chỉ có hai
người. Cô cười bảo ông:
-
Xong chuyến này em nghỉ. Em sẽ không đưa anh trở lại bên này nữa đâu.
-
Không sao. Nếu em muốn anh ở lại bên ấy thì anh sẽ ở. - Ông đáp, đổi cách xưng
hô một cách tự nhiên, như thể hai người quen nhau từ lâu. Với lợi thế hơn những
mười tuổi và dân thành phố, ông tự giành quyền chủ động. Hơn nữa ông biết cô
không hoàn toàn dửng dưng với ông. Không chỉ lần này mà cả những lần trước cũng
thế. Ông nghĩ có lẽ trong lồng ngực trẻ trung kia trái tim cô đang đập mạnh, và
đầu cô đang đầy những ý nghĩ lẫn lộn mừng vui và lo sợ mơ hồ.
Bề
ngoài Thắm vẫn giữ được vẻ thản nhiên. Cô lặng lẽ chèo, trả lời những câu ông
hỏi một cách ngắn gọn và thận trọng. Khi thuyền đến giữa sông, bất ngờ ông tự
ngã xuống nước, còn cố tình kêu lên hoảng sợ. Vốn bơi giỏi, ông lặn một hơi
thật lâu, thầm hình dung trên thuyền Thắm đang làm gì. Khoảng một phút sau,
ngoi lên, như dự đoán, ông thấy Thắm đang cuống quýt kêu cứu. Hình như hai má
cô long lanh nước mắt. Cô vội cho thuyền lại gần, đưa tay kéo ông lên. Ông vẫn
nắm chặt bàn tay nhỏ nhắn ấy cả khi đã ngồi yên trên thuyền.
-
Trời ơi, anh làm em sợ hết hồn. - Thắm thốt lên. - Anh ngã thật hay giả vờ đấy?
-
Thật chứ, và anh không hề biết bơi. - Ông cười đáp. - Em đã cứu anh. Từ nay anh
mang ơn em suốt đời.
Thắm
biết ông đùa, liền giận dỗi rút tay ra, ngồi quay lưng. Hồi lâu con thuyền
không ai chèo cứ chầm chậm trôi về phía đông.
-
Em không mời anh về nhà em hong khô quần áo và nghỉ ngơi chút ít sau một tai
nạn thế này à? - Ông hỏi khi hai người cột đò vào gốc cây và cùng bước lên bờ.
Thắm không đáp, lặng lẽ rảo bước đi nhanh. Ông đi theo mà không cần cho phép.
Ba
tháng sau họ làm lễ cưới. Mẹ Thắm được mời ra sống hẳn ở Hà Nội với vợ chồng
ông. Cụ vừa mất cách đây năm năm. Cô lái đò của ông cuối cùng cũng được học môn
họa mình yêu thích, không phải ở trường Cao đẳng nhạc họa mà ở Đại học mỹ thuật
quốc gia tại phố Yết Kiêu. Cô tốt nghiệp loại giỏi và được giữ lại làm cán bộ
giảng dạy.
Đến
nay cô Thắm lái đò năm xưa đã là một họa sĩ nổi tiếng, từng tổ chức nhiều triển
lãm cá nhân cả trong và ngoài nước. Bà có phòng tranh riêng. Tiền bán tranh,
nhất là thời kỳ đất nước mới mở cửa, đủ cho họ xây được ngôi nhà khang trang
với cuộc sống vật chất đầy đủ. Còn ông, trong giới văn chương, ông cũng được
nhiều người biết đến và kính trọng, không chỉ về nghề nghiệp mà cả về nhân
cách. Họ chỉ có một cô con gái mới tốt nghiệp nhạc viện, bộ môn pi-a-nô. Một
nghệ sĩ trẻ được xếp vào loại "có triển vọng" như ông ngày nào. Nếu
mọi việc suôn sẻ, năm tới nó sang tu nghiệp ở Canađa. Nghĩa là chuyện gia đình,
chuyện sự nghiệp của cả nhà ông đều tốt đẹp. Cả chuyện tình cũng tốt đẹp. Ông
lấy được người mình yêu, một phụ nữ lý tưởng như ông vẫn nghĩ và thầm cảm ơn số
phận điều này.
Vậy
ông còn muốn gì hơn?
*
Hình
như đêm đã khuya. Trăng đầu tháng mỏng tang, mờ mờ sau lớp mây khói phía chân
trời. Có đôi le le bỗng giật mình bay lên từ bờ bên phải, cánh đập mạnh. Ông có
cảm giác như không khí khẽ rung lên vì những tiếng đập ấy.
Ông
vẫn nằm yên, ngửa mặt bâng quơ nhìn lên trời. Ừ nhỉ, ông còn cần gì nữa? Ông
không có gì phải phàn nàn về cuộc đời mình. Có thể nói ông là người thành đạt
và gặp may trong mọi chuyện. Vậy ông có thực sự hạnh phúc không? Lúc này ông
đang tự hỏi mình câu ấy. Có lẽ có, nếu hiểu hạnh phúc theo nghĩa thông thường
người ta quan niệm xưa nay.
Vâng,
ông là người hạnh phúc. Thế mà không hiểu sao đôi khi ông vẫn cảm thấy như
thiêu thiếu cái gì để hạnh phúc của ông thực sự trọn vẹn. Như chuyện tình yêu
chẳng hạn. Từ người yêu thơ mộng ở bến sông này, cô lái đò của ông đã trở thành
người vợ, một họa sĩ danh tiếng. Dù cả hai người ấy vẫn yêu ông và ông vẫn yêu
họ với tất cả tấm lòng, dù đó là một sự phát triển tự nhiên đáng mong muốn, thế
mà ông cứ quẩn quanh nghĩ mãi về cô Thắm lái đò ngày xưa, về việc ông giả vờ
ngã xuống sông để sau đó được cầm tay cô với cảm giác lâng lâng đến tê người.
Bây giờ thỉnh thoảng ông vẫn cầm tay bà những lúc đi dạo quanh hồ Thuyền Quang,
nhưng không còn nữa cái cảm giác bồi hồi "điện giật" ngày nào. Ông
không bị cuộc sống đời thường làm chai sạn tình cảm, nhưng quả thực trong ông
không còn nữa điều mà bây giờ ông đang mong tìm lại. Đó là sự bồng bột lãng mạn
của mối tình đầu. Ít ra ông cũng muốn được sống lại những giây phút ấy, dù chỉ
trong tâm tưởng.
Nhiều khi ông cứ vẩn vơ nghĩ, rằng biết đâu
cuộc đời ông sẽ trở nên ý nghĩa hơn, hạnh phúc hơn, nếu ngày ấy có ai đó hoặc
việc gì đó đứng cản đường, bắt ông phải vượt qua để đến được với Thắm. Thậm chí
nếu ông thất bại, Thắm bị ép lấy người khác và cả hai sẽ đau khổ, lúc ấy mối
tình của họ sẽ trọn vẹn hơn, cũng có nghĩa là đẹp hơn và cuộc đời ông sẽ đỡ
trơn tru, tẻ nhạt hơn chăng?
"Mình
đúng là già, đâm ra lẩn thẩn mất rồi", ông mỉm cuời một mình trong đêm
vắng. Vậy thì hạnh phúc là gì? Không lẽ như một nhà văn Nga đã nói, hạnh phúc
chỉ là khi ta mong muốn cái gì đấy mà không đạt được? Thế đạt được thì sao? Sẽ
không còn là hạnh phúc nữa ư? Nhảm nhí. Cũng nhảm nhí cái câu "tình chỉ
đẹp khi còn dang dở" trong một bài thơ ông từng đọc.
Vâng,
vậy thì rốt cục, hạnh phúc là gì? Ông suýt nói to thành tiếng cái câu hỏi oái
oăm ấy mà ông không sao tìm nổi câu trả lời. Con người kể cũng lạ, như ông đây
chẳng hạn. Ông vui mừng, hạnh phúc khi cô Thắm lái đò trở thành bà họa sĩ vợ
ông, hàng ngày sống cạnh ông và hoàn toàn thuộc sở hữu ông, nhưng ông chưa lấy
thế làm đủ, còn muốn có một cô Thắm khác mãi mãi là cô lái đò nhỏ bé, thơ ngây
mà vì tình yêu trắc trở ông không vươn tới được. Bây giờ, khi cái điều trắc trở
ấy không xẩy ra, ông lại về đây tìm cách sống lại với những gì nhờ may mắn ông
đã bỏ mất...
"Mình
đúng lẩn thẩn thật rồi!", ông lại mỉm cười nghĩ thầm, khoan khoái tận
hưởng sự tĩnh lặng của thiên nhiên và những kỷ niệm đẹp của quá khứ. Trong đầu
ông lần nữa lại vang lên bài thơ buồn buồn ông viết để minh họa cho bức tranh sơn
dầu khổ lớn treo chính giữa phòng khách nhà ông. Bức tranh bà vẽ theo gợi ý của
chồng, về một bến đò vắng trong đêm trăng, với chiếc thuyền con không người
trên nền xanh xẫm của dòng sông và bãi mía.
Con đò trên bến vắng
Như
chiếc lá tre vàng
Chao
trên dòng nước lặng,
Dòng
sông buồn mênh mang.
Trăng
cuối tháng mờ mờ,
Trời
không sao, man mác.
Như
nửa tỉnh, nửa mơ,
Cây
bên sông xào xạc.
Con
chim gì giật mình
Bay
lên từ bãi cỏ.
Không
khí khẽ rung rinh
Vì
cánh chim đang vỗ.
Như
chiếc lá tre vàng,
Con
đò khuya ngái ngủ
Giữa
dòng sông mênh mang,
Đang
nhớ về cô chủ...
Hà Nội, 3.5.2001
CÁC
CÔ GÁI LÀNG TÔI
Viết
truyện này tức là vô tình tôi đã chạm đến một nỗi đau khác của chiến tranh. Một
nỗi đau âm thầm, đặc biệt và khó nói. Cũng vì thế mà xưa nay dù biết, người ta
cứ ngài ngại không muốn nhắc tới. Vì tế nhị và cả vì thương mà đành bất lực. Đó
là việc từ chiến tranh trở về, hàng vạn, có thể hàng chục vạn các cô gái nhỡ
thì không lấy được chồng. Với phụ nữ, thử hỏi còn nỗi đau nào lớn và "khó
nói" hơn?
Tôi
được nghe kể và biết khá nhiều chuyện như thế. Trong một truyện ngắn gần đây
tôi có sử dụng ít chi tiết từ câu chuyện của một bà bạn. Bà kể với tôi mà cứ
như xưng tội với cha đạo. Theo bà thì chính bà đã giết chết một cô thanh niên
xung phong tội nghiệp.
Số là vào cuối năm 1971, cô gái thanh niên
xung phong trong một đơn vị toàn nữ suốt nhiều năm liền ở rừng Trường Sơn heo
hút ấy đã bị phát hiện "làm chuyện bậy bạ" bên bờ suối khi lén đi tắm
một mình. Và bà bạn tôi, lúc đó là người phụ trách đơn vị, chẳng nhiều tuổi hơn
bao nhiêu, đã đem cô ra kiểm kiểm trước mọi người. "Chúng tôi
"quần" cô ấy ghê lắm. Đặc biệt là tôi. Chỉ huy mà. Tuy nhiên, miệng
nói vậy thôi, chứ trong lòng thì thương. Bây giờ nghĩ lại thấy thật chua xót và
cũng buồn cười. Nghĩ một đường mà nói một nẻo. Không ít người cũng lớn tiếng
phê bình cô gái đó như tôi. Đem cả đạo đức cách mạng và lý tưởng ra mà phê
bình. Cái thời ấy là thế và nó phải thế." Bà buồn bã nói thêm: "Sáng
hôm sau chúng tôi thấy cô ấy treo cổ chết trên cành cây sau lán. Tất cả do tôi,
do tôi hết!" Bà còn cho biết cũng vì lý do tâm, sinh lý ấy mà đơn vị bà
ngày càng có nhiều chuyện kỳ cục, thí dụ bỗng dưng vô cớ mấy đứa cười sằng sặc
như một lũ điên, rồi sau lại ôm nhau khóc. "Có đứa điên thật. Cứ trần
truồng chạy tồng ngồng giữa rừng. Tội nghiệp."
Ở
chiến trường đã thế, về nhà các cô càng khổ hơn vì phần lớn đã ngoài ba mươi,
lại ở nông thôn. Mà nông thôn thì ai lấy gái già, nếu còn người để lấy?
Khoảng
mươi năm đầu sau chiến tranh, một số tờ báo mạnh dạn đề cập vấn đề này. Cũng
chỉ nói chung chung, thương chung chung chứ chẳng gợi ra được giải pháp cụ thể
nào. Cả xã hội biết. Cả xã hội muốn làm cái gì đó giúp họ mà cuối cùng vẫn bất
lực. Không lẽ cho quay lại chế độ đa thê? Thế là hàng vạn, hàng chục vạn các
cựu thanh niên xung phong cứ lầm lũi sống một mình và chuẩn bị tinh thần để kéo
dài như thế suốt đời. May công đoàn và các cấp chính quyền không còn khắt khe
như trước về tội chửa hoang. Con ngoài giá thú cuối cùng cũng được luật pháp và
người đời thừa nhận.
Tôi
nhớ một lần, năm 1983, trên đường đi Bảo Lộc, Cao Bằng, thì xe chết máy và
chúng tôi phải ngủ lại qua đêm ở một đơn vị sửa chữa đường bộ, đúng ngày đơn vị
này được tuyên dương thành tích gì đấy. Liên hoan, ăn uống vui vẻ lắm. Nhưng
chỉ toàn đàn bà và đều đã ba bốn chục tuổi. Thì ra họ cũng là thanh niên xung
phong chuyển ngành. Cụ thể là sau chiến tranh, cả một đơn vị được bê hầu như
nguyên xi từ Trường Sơn ra đây.
Đêm
hôm ấy, sau bữa liên hoan mà chúng tôi được mời dự, tôi nghe có tiếng khóc,
không phải một mà hình như nhiều người. Thủ trưởng đơn vị, một ông già hom hem
đang chờ về hưu, bảo tôi:
-
Các bà ấy vẫn thế đấy. Cứ có dịp vui lại đêm nằm ôm nhau khóc. Chuyện chồng con
ấy mà. Tội nghiệp.
-
Thế quanh đây không có đàn ông à? - tôi hỏi. - Các cơ quan, xí nghiệp hay đơn
vị bộ đội nào chẳng hạn?
-
Trong vòng bán kính hai mươi cây số thì không. Xa hơn một chút có công trường
khai thác đá và một đội biên phòng. Cũng kết nghĩa, giao lưu, thăm hỏi nhau đủ
chuyện, nhưng chẳng ích gì. Chỉ thêm nhiều vụ chửa hoang. - Rồi ông thủ trưởng
của hơn hai mươi bà công nhân ấy thở dài chép miệng: - Tôi đến khổ với các bà
ấy.
Tôi
không hiểu ông nói khổ là khổ theo nghĩa nào.
*
Nếu làng là hình ảnh xã hội thu nhỏ, thì
làng tôi phản ánh đầy đủ tình trạng này của toàn xã hội. Thời chỗng Mỹ, nhiều
cô gái làng tôi là thanh niên xung phong, một số hy sinh nhưng phần lớn sống
sót trở về, (bỏ lại đằng sau gần mười năm tuổi trẻ, cái tuổi dễ lấy chồng nhất)
và rồi... ế chồng. Ở quê tôi con gái ngoài hai mươi lăm chưa lấy được chồng thì
bị chính thức coi là ế, bị gạt khỏi danh sách những đối tượng có thể đặt vấn
đề.
Như những người cùng tuổi thời ấy, từ những
cô bé tóc vàng hoe vì chang nắng suốt ngày ngoài đồng để chăn trâu, bắt cua,
làm ruộng, tất cả các cô gái làng tôi học xong phổ thông đều đua nhau viết đơn
xung phong, rồi ra đi, miệng hát vang bài ca "đường ra trận ngày này đẹp lắm". Mọi người, mọi chuyện
thật hồn nhiên, vô tư. Thật vui. Thật đẹp. Và cái cuộc sống dẫu gian nguy nhưng
hồn nhiên và vui vẻ ấy chỉ bị hẫng hụt khi chiến tranh kết thúc, họ bất chợt
thấy mình đã không còn trẻ, lờ mờ cảm thấy những mối lo đang đợi. Tôi có một
bài thơ thế này, viết trong một dịp về quê và gặp một vài người trong số họ.
Các cô gái làng tôi
Lên đường đi diệt Mỹ,
Khoác
ba-lô, và rồi
Từ
cô, thành đồng chí.
Họ
đi vào chiến tranh
Mà
như đi vào hội,
Những
cô gái hiền lành,
Vui,
hồn nhiên quá đỗi.
Nhiều,
nhiều năm chiến trường
Họ
cũng vui như vậy,
Dù
đói, dù bị thương,
Bom
rơi và lửa cháy.
Và
chỉ ngày hòa bình
Họ
buồn khi trở lại
Bỗng
sững sờ thấy mình
Không
còn là con gái.
Buồn
càng buồn gấp đôi,
Vì
hình như lúc ấy
Không
người nào làng tôi
Biết
họ buồn như vậy.
Nói
trong làng không ai biết họ buồn là cách nói của thơ, để nhấn mạnh nỗi buồn và
sự mặc cảm của họ. Trên thực tế ai cũng dễ dàng nhận thấy điều đó. Gì thì gì,
với phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn, chuyện chồng con vẫn là điều quan trọng
nhất. Nó không đơn thuần là hạnh phúc riêng tư, mà còn uy tín của cả gia đình.
Dân làng thông cảm và thương họ lắm. Tuy vậy, khi kén vợ cho con trai thì lại
chọn những cô mới lớn.
Ở
nông thôn xưa nay người ta lấy vợ gả chồng cho con rất sớm. Đàn ông ở tuổi các
cô mà chưa vợ thì chỉ có thể là mới đi bộ đội về - số này không nhiều do đã hy
sinh hay được bố mẹ lo cưới xin trước khi lên đường - hoặc những người
"nhỡ nhàng" do vợ chết, li dị, hoặc những người tật nguyền và cả loại
thuộc "thành phần bất hảo". Không còn ai khác, một số cô thành vợ
những người ấy. Số khác xin đi làm công nhân ở mỏ đá Hoàng Mai để cạnh tranh
với những cô khác cũng đang ế chồng ở đấy. Còn phần đông ở lại làng làm ruộng,
sống cùng nhà với bố mẹ già, hoặc nếu bố mẹ chết thì thui thủi một mình. Đơn
giản là sự cân bằng của cái quy luật cung cầu tự nhiên về nam nữ trong hôn nhân
đã bị phá vỡ.
Thường
vẫn thế, trong muôn vàn cái thiếu thốn sau chiến tranh, có một cái thiếu mà phụ
nữ thấm thía hơn ai hết. Đó là thiếu đàn ông để lấy chồng. Thời nào cũng vậy, ở
đâu cũng vậy. Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến bài thơ của Iulia Đrunhina về đề
tài này. Bà từng là nữ sinh trung học xung phong ra trận trong cuộc chiến tranh
vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô. Đời tư bà cũng không mấy xuôn xẻ. Bà mới
tự tử chết cách đây mấy năm, nghe nói có liên quan đến sự sụp đổ của nhà nước
Xô-viết mà bà đã hy sinh tuổi trẻ của mình để bảo vệ.
Thắng trận, trở về nhà,
Các
nữ sinh - chiến sĩ
Mang hai mươi tuổi đời
Như
hai mươi thế kỷ.
Các
huân chương, dù sao,
Vẫn
ít hơn vết sẹo.
Hình như đời còn dài
Mà đã thành các "cựu".
Các cô gái về nhà.
Nhà không còn, giặc đốt.
Không cha mẹ, anh em,
Không chiếc dao, cái cột...
Nghĩa là lại từ đầu
Bắt đầu vào cuộc sống.
Bắt đầu diện đôi giày
Kiểu nhà binh thô rộng.
Vâng, nhưng diện với ai
Khi khắp làng không thấy
Bóng một chàng trai nào?
Sau chiến tranh là vậy.
Thiếu đàn ông để yêu
Đã
trở thành nỗi khổ.
Các thế hệ sau này
Chắc khó tin điều đó.
Ba
mươi năm sau, ở Việt Nam, các cô gái làng tôi cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự.
Còn bây giờ, tức là thêm ba mươi năm nữa, chúng ta vẫn cảm thấy khó tin vào cái
sự thật ấy, dù nó đã thực sự tồn tại, ngay trong làng ta, quanh ta, hay thậm
chí với người thân của ta. Một nỗi đau nhức nhối mà xưa nay chẳng ai có thể làm
gì được để giúp đỡ. Không cả một lời an ủi hay một cử chỉ nhỏ để bày tỏ sự
thông cảm âu yếm.
*
Cuối
năm 1978, trên đường công tác từ Hà Nội vào Sài Gòn, tôi ghé thăm nhà và được
biết cô Duyên đi tu. Cô cũng là một trong những cựu thanh niên xung phong ở
làng tôi và cùng cảnh ngộ.
Cô
Duyên là con gái nhà hàng xóm, hơn tôi hai tuổi, nhập ngũ từ năm 1965. Không
hiểu sao phải hơn một năm sau khi chiến tranh kết thúc mới thấy cô trở về. Cô
là người nổi tiếng xinh đẹp trong làng. Nghe nói đã có hẹn ước gì đó với ông
anh con bác tôi. Sau này, khi anh tôi hy sinh ở Quảng Trị năm 1968, không thấy
ai nhắc đến chuyện ấy nữa. Có thể người ta ý tứ
tránh cho cô những phiền toái trong việc chồng con sau này.
Đúng
như trong bài thơ của Đrunhina, khi cô trở về thì chẳng còn gì. Nhà trúng bom,
cả bố mẹ và cậu em trai cô đều chết. Cô cũng phải tự mình làm lại tất cả, bắt
đầu từ việc dựng một ngôi nhà lá, sắm sửa đồ đạc, rồi hòa dần vào nếp sống
chung của làng và... để ý tìm chồng. Chính xác hơn là chờ người ta đến hỏi mình
làm vợ. Nghe kể lại thì cũng có khá nhiều người tìm đến với cô, nhưng vẫn chỉ
là những người "có vấn đề", chắc vì thế nên cô từ chối. Có vẻ như cô
sẵn sàng sống độc thân suốt đời chứ không chịu lấy những người cô thấy không
xứng đáng.
Trước
đây, tuy thuộc hạng em út, nhưng nhờ ông anh, tôi thường được cô cho đi chơi
cùng, kể cả những đêm hai người và đám thanh niên lớn hơn ra bờ Kênh Nhà Lê hát
đối cùng con trai, con gái làng Phúc Nhạn bên kia kênh. Cô hát hay, đối đáp
nhanh và sắc sảo. Chắc thời ấy nhiều người mê cô chứ không riêng gì anh tôi.
Hơn thế, cô lại chín chắn, có bản lĩnh và luôn được bầu làm bí thư chi đoàn.
Sau chiến tranh, dù không tích cực như trước nhưng cô vẫn tham gia đầy đủ các
hoạt động xã hội trong làng xã. Cô cũng là người lao động giỏi, biết lo toan,
sống hòa thuận với xóm giềng và được mọi người yêu mến. Tóm lại, trừ chuyện
chồng con, mọi việc với cô đều ổn. Vậy sao bỗng nhiên cô bỏ đi tu?
Theo
người ta kể lại thì cách đấy độ nửa năm có anh cán bộ tỉnh về làm việc ở xã.
Chắng hiểu quan hệ hai người thế nào mà sau đó cô Duyên bỏ làng vào Vinh, nói
đã xin được việc làm nhà nước ở đấy. Thế mà chưa đầy hai tháng sau đã thấy cô
quay về rồi xin vào nhà chùa, cũng cắt tóc, mặc áo nâu và sống hẳn ở chùa.
Đó
là chùa Yên Quang, nằm cạnh quốc lộ, phía bên kia sông Bùng, chùa lớn nhất
trong cả huyện Diễn Châu, cách làng chúng tôi khoảng mười cây số. Cô chẳng giải
thích vì sao. Người ta chỉ có thể đoán già đoán non, rằng phải có chuyện gì đấy
nghiêm trọng xẩy ra giữa cô và anh cán bộ nọ, nên một người bản lĩnh và yêu đời
như cô mới có một quyết định cực đoan như vậy. Có người bảo cô bị lừa, rằng anh
kia đã có vợ và chỉ muốn quan hệ với cô như bồ bịch hay một dạng vợ lẽ. Cũng có
người nói chuyện phức tạp hơn nhiều.
Dần
dần sự kiện giật gân này cũng lắng xuống. Người ta đã ít bàn tán về cô và cuối
cùng chấp nhận mọi việc như nó hiện có. Thay cho hai tiếng "cô Duyên"
giản dị trước đây, bây giờ mọi người, cả già lẫn trẻ, đều gọi cô là "sư cô
Đàm Duyên". Không biết nhà chùa có chức danh "sư cô" không, hay
chỉ sư ông, sư bà và chú tiểu thôi. Cũng không biết vì đâu có chữ
"Đàm" ấy. Tôi thấy dân làng gọi thế: Sư cô Đàm Duyên.
Lần
ấy vì vội, tôi không có thời gian tới chùa Yên Quang xem cụ thể thế nào, nhân
tiện nói chuyện đôi câu với cô Duyên, nếu cô chịu nói. Dù sao cô cũng suýt là
chị dâu tôi, và ngày trước chúng tôi từng chơi thân với nhau.
Mãi
ba năm sau tôi mới gặp cô, lần gặp thứ hai kể từ ngày cô đi thanh niên xung
phong. Hôm ấy trời không mưa nhưng u ám, lại không đúng ngày lễ nên cảnh chùa
có vẻ buồn và cô tịch.
Tôi
dựng xe vào gốc cây bên đường, định không vào chùa vội mà đứng bên ngoài quan
sát một chốc đã. Chùa chỉ có bốn người. Một vị sư già trụ trì, một bà sư nữa
cũng già, và hai người khác trẻ hơn. Một trong hai người ấy là cô Duyên, bây
giờ là "sư cô Đàm Duyên".
Khi tôi đến, cô đang quét sân chùa. Mặt cô
buồn buồn nhưng thanh thản và vô cảm. Một khuôn mặt còn giữ được nhiều nét đẹp,
khiến tôi không thể không nhớ tới một cô Duyên linh hoạt và yêu đời ngày nào,
khi cô cho tôi đi theo trong những đêm hát ghẹo bên Kênh Nhà Lê. Tôi cố hình
dung mà không được khuôn mặt ấy thế nào suốt mười năm chiến trường khói lửa.
Mỗi người một số phận, một hoàn cảnh, tất nhiên. Một khi cô chọn cách sống
thoát tục này thì hẳn phải có lý do của nó. Tôi không có quyền và không muốn can
thiệp. Tuy nhiên, đứng nhìn cô từ từ đưa những nhát chổi trên sân chùa vốn đã
sạch bóng, tôi cbỗng cảm thấy buồn, và thầm nghĩ:
Đường đời lỡ bước nhân duyên,
Cô
bước chân vào cửa thiền,
Quét
nhặt từng bông hoa đại,
Để
qua cái thời con gái.
Nay già... Nếu không trọc
đầu,
Chẳng
biết tóc bạc đến đâu.
Tôi
đứng thêm chốc nữa rồi lặng lẽ đạp xe về làng, không muốn khuấy động sự yên
tĩnh trong lòng cô sau bao sóng gió của cuộc đời. Mà rồi cô có thực sự cảm thấy
thanh thản trong lòng không? Cô có hoàn toàn dửng dưng với những gì sôi động
đang diễn ra xung quanh không?
Từ
đấy, những lần hiếm hoi về thăm quê (cả nhà tôi từ lâu đã dọn lên thành phố),
tôi đều tranh thủ tới chùa Yên Quang. Lần nào cũng chỉ đứng ngoài nhìn vào. Sau
lần gần đây nhất, tức là vào năm 1995, trở lại Hà Nội, tôi có viết bài thơ về
cô Duyên, một trong những cô gái làng tôi mà cũng là của nhiều làng khác khắp
cả nước. Bài thơ đã đăng báo. Tôi nghĩ nó nói đủ những gì tôi muốn nói về nỗi
đau này của chiến tranh. Nỗi đau không của riêng ai.
Sư cô Đàm Duyên
Lại
vãn chùa Yên Quang -
Vẫn
đều đều tiếng mõ,
Hoa
đại vẫn rơi vàng
Trên
sân nền gạch đỏ.
Ngoài
đường tiếng ô tô
Xen
lẫn lời niệm Phật.
Chỉ
sau chùa, ven hồ
Không
còn ba chậu quất.
Và sư cô Đàm Duyên
Tay
vẫn lần tràng hạt
Như
ngày mới nhập thiền
Còn
ngỡ ngàng, dút dát.
Là
thanh niên xung phong
Những
năm gian khổ nhất,
Về,
nhỡ thì, muộn chồng,
Cô
nương nhờ cửa Phật
Để
tìm sự thảnh thơi
Trong
lời kinh, hương khói,
Mong
rũ sạch bụi đời
Đã
làm cô mệt mỏi.
Kia, sư cô đang ngồi
Quay
lưng ra mặt phố,
Quay
lưng cả với đời,
Lặng
yên như tượng gỗ.
Sư
cô đang nghĩ gì?
Phải
chăng còn vương vấn
Chút
bụi đời, nhiều khi
Nhớ
những ngày mặt trận?
Phải
chăng nơi cửa thiền
Sư
tĩnh tâm, hạnh phúc,
Hay
sư cô Đàm Duyên
Vẫn
cô Duyên trần tục?
Vẫn
thế chùa Yên Quang,
Vẫn
đều đều tiếng mõ,
Hoa
đại vẫn rơi vàng
Trên
sân nền gạch đỏ.
Và
tiếng còi ô tô
Vẫn
bay vào inh ỏi...
Tôi
đứng nhìn sư cô
Thấy
mình như có lỗi
Trong
việc để sư ngồi
Quay
lưng ra mặt phố,
Quay
lưng cả với đời,
Lặng
yên như tượng gỗ...
Hà
Nội, 21.4.2001
SAY
NẮNG
Sáng
thứ bảy hôm ấy trời thật đẹp. Sau đợt rét kéo dài kèm theo những đợt mưa phùn
dai dẳng ẩm ướt và khó chịu, bỗng nhiên Hà Nội có được một ngày nắng ấm và khô
ráo bất ngờ, dù trước đó người ta dự báo không khí lạnh từ phía bắc đang tràn
xuống. Có thể vì thế mà phố xá như nhộn nhịp hẳn lên. Nhiều người đã thay những
chiếc áo ấm xẫm màu bằng những bộ cánh nhẹ sặc sỡ hơn.
Nắng
ban mai yếu ớt, hoe vàng. Gió thổi nhẹ làm những cành cây cao khẽ xao động như
đang rùng mình muốn rũ sạch cái ẩm và những giọt nước nhỏ còn sót lại. Các điểm
rửa xe tấp nập người vào ra. Trên ghế đá công viên các cụ già ngồi sưởi nắng
hoặc chơi cờ. Trẻ con nô đùa bên các thảm hoa trên vỉa hè những đường phố rộng
mới mở. Có cảm giác như cả thành phố chợt bừng tỉnh sau giấc ngủ chập chờn suốt
mùa đông ảm đạm. Những tia nắng ấm đầu xuân làm mọi người bỗng thấy ngỡ ngàng,
ngây ngất. Họ bước ra phố trong cái tâm trạng ngỡ ngàng ngây ngất ấy, ngơ ngác
nhìn quanh như người từ tỉnh xa mới tới.
Giáo sư N. là một người trong số họ.
Tối qua ông ngủ muộn vì viết nốt bài báo cho tờ tạp chí khoa học. Sáng dậy, còn
nằm trong chăn, ông quyết định sẽ dành cả ngày đọc cuốn sách chuyên ngành con
gái vừa gửi từ nước ngoài về. Nhưng khi bước ra ban công để vươn vai, hít thở
một chốc như thường lệ, ông chợt hiểu dự định của ông hôm nay sẽ không thực
hiện được.
Ba
mươi phút sau, ông bước ra khỏi căn hộ tập thể mà ông thường đùa gọi là “hang
chuột”. Bây giờ ông đang đi dọc phố Nguyễn Du, chỗ giáp hồ Thiền Quang. Mặt hồ
phẳng lặng, xanh trong, dưới ánh mặt trời rực rỡ trở nên sáng loáng đến chói
mắt. Cố không suy nghĩ gì và bước thật chậm, ông dạo một vòng quanh hồ. Sau đó
ông rẽ vào một quán ca phê xinh xắn thuộc loại đắt tiền ở phố Hồ Xuân Hương,
nơi ông thong thả ăn bữa điểm tâm kèm theo một cốc vang đỏ và một điếu ba số.
Ông ít khi uống rượu nhưng thuốc thì nghiện nặng và chỉ hút Thăng Long, loại
thuốc ông hút từ lâu và thấy thích hợp nhất, cả về hương vị lẫn giá tiền. Ông
gọi hai thứ trên ở cái quán cao cấp này đơn giản vì muốn làm cái gì đó để nhấn
thêm ý nghĩa của một ngày như hôm nay, một ngày nắng đẹp, rỗi rãi mà ông tự cho
phép mình “buông thả chút ít”, và “hưởng thụ cuộc sống” như bạn bè đôi khi vẫn
nói. Rồi ông đi tiếp, ít nhiều phấn chấn hơn nhờ cốc rượu và những ý nghĩ lạc
quan về cuộc đời. Ông quay lại phố Quang Trung, qua Trần Bình Trọng rồi theo
phố Quán Sứ đi tiếp về phía Bờ Hồ.
Ông vừa qua cái tuổi sáu mươi cuối năm
ngoái, mặc dù bề ngoài trông trẻ hơn nhiều. Ba mươi năm dạy môn vật lý lý
thuyết ở một trường đại học lớn của thủ đô, ông là một nhà nghiên cứu và chuyên
gia đầu ngành có uy tín không chỉ trong mà cả ngoài nước, một nhà giáo ưu tú
được cả sinh viên lẫn đồng nghiệp kính trọng. Theo chế độ đáng lẽ ông phải nghỉ
hưu nhưng Bộ linh động điều ông về một cơ quan nghiên cứu, chủ yếu làm việc ở
nhà. Hầu như đều đặn mỗi năm một lần ông được mời đi nước ngoài tham dự các cuộc
họp hoặc hội thảo quốc tế thuộc ngành mình.
Trong
giao tiếp, ông ít nói, khiêm tốn. Dưới con mắt một số người, ông có vẻ hơi lạnh
lùng, đạo mạo mặc dù thực ra tính ông giản dị, nhiệt tình và tốt bụng. Như phần
lớn các nhà khoa học chân chính khác, ông không để ý mấy đến cuộc sống bên
ngoài mà chỉ chú tâm vào công việc. Có thể nói ông sống khá đơn điệu và buồn
tẻ, ít khi ra khỏi "hang chuột" của mình, trừ những trường hợp bắt
buộc. Đi dạo phố như hôm nay lại càng hiếm. Vợ ông mắc bệnh ung thư vú chết
cách đây hai mươi năm, để lại hai người con gái hiện đang làm việc ở nước
ngoài, một ở Singapore, một lấy chồng, sống hẳn ở Canađa. Có thể vì quá say mê
khoa học, cũng có thể vì những lý do khác không ai biết, từ ấy đến nay ông ở
vậy nuôi con, không giao du với một người đàn bà nào ngoài công việc. Mức lương
giáo sư cộng các khoản nhuận bút và thỉnh thoảng thêm tiền dự án thừa đủ cho
cuộc sống giản dị của ông hiện nay, do vậy ông từ chối mọi khoản giúp đỡ của
các con, trừ những cuốn sách hoặc tạp chí chúng gửi theo yêu cầu.
Thong thả bước đi dọc các phố Hà Nội
lúc này, giáo sư N. cảm thấy mình quả đúng như con chuột lâu ngày ở mãi trong
hang. Ông không ngờ cuộc sống quanh ông thay đổi nhiều và nhanh đến thế. Bây
giờ có dịp quan sát kỹ, ông nhận thấy con người, cảnh vật và lối sống khác hẳn
trước đây, và thầm vui vì điều đó.
Như
anh nhà quê lần đầu ra tỉnh, ông dừng lại khá lâu trước tòa nhà Hanoi Tower trên nền cũ nhà tù Hỏa Lò,
còn ngước mặt đếm số tầng. Đếm lần đầu bị nhầm, ông đếm lại lần nữa. Rồi ông đi
tiếp, vui vui với việc làm trẻ con ấy của mình. Trước đấy, ở chùa Quán Sứ, là
nơi lần cuối cùng ông tới có lẽ cách đây hơn ba mươi năm cùng vợ nhân một dịp
nào đó, ông ngạc nhiên thấy có rất nhiều thanh niên ăn mặc hiện đại đang vừa
vái lạy trước bàn thờ, vừa lẩm bẩm cầu xin thần phật. Trong những trường hợp
khác, chắc ông đã khó chịu thầm trách họ còn trẻ mà mê tín, nhưng lần này thì
ông thấy bình thường, thậm chí còn xem như biểu hiện của văn hóa tín ngưỡng.
Ông cảm thấy người mềm ra, yêu đời, yêu người và bao dung hơn. Một thứ tình cảm
mới mẻ, có thể gọi pha màu ủy mị. Vốn là người thiên về lý trí, ông hơi ngường
ngượng với chính bản thân mình về sự thay đổi bất ngờ đó.
Cứ
thế, như người choáng váng vì cơn say nắng nhẹ, ông bước đi không cần biết đi
đâu, từ phố này đến phố khác, với những khám phá mới, những ý nghĩ mới. Cuối
cùng, lúc ấy đã gần một giờ chiều và ông vừa ăn xong bữa trưa tại nhà hàng Phú
Gia, cũng với một cốc vang Pháp và một điếu ba số, ông thấm mệt. Cái cảm giác
say nắng trở nên rõ nét hơn. Đôi chân không quen đi bộ bắt đầu mỏi và nhưng
nhức ở hai gót.
Sau
một thoáng do dự, ông bước vào một tiệm gội đầu (tiệm thứ tư ông nhìn thấy trên
đoạn phố ngắn vừa đi qua) với tấm biển lớn có dòng chữ mà ông không hiểu lắm: "Hớt tóc máy lạnh". Máy lạnh
nghĩa là gì? À, chắc quảng cáo cửa hàng
có máy điều hòa nhiệt độ. Nhưng điều hòa nhiệt độ thì có gì phải khoe, nhất là
vào mùa đông? Xưa nay ông tự gội đầu ở nhà nhưng bây giờ bỗng nhiên ông muốn
người khác làm điều ấy hộ ông. Cũng để đánh dấu một ngày như hôm nay. Để được
nghỉ ngơi chút ít sau cuộc dạo bộ kéo dài. Để biết thêm về cuộc sống mới cùng
rất nhiều các loại dịch vụ đang mời chào nhan nhản trên phố.
-
Tôi muốn gội đầu. - Ông nói với một phụ nữ đang ngồi đọc báo trong góc phòng.
Người này to béo, đã có tuổi, mặt tròn, trán thấp, da bự một lớp phấn dày,
không ra trắng cũng chẳng hồng. Người khác hoặc dịp khác, chắc bà ta sẽ bị cho
là xấu xí, kệch cỡm, nhưng lúc này giáo sư N. thấy chẳng sao. "Đàn bà phải
có xương, có thịt, thêm chút son phấn càng hay, - ông thầm nghĩ với lòng độ
lượng. - Có điều sao môi không đỏ mà lại tím đen thế nhỉ?"
-
Vâng, mời bác. Xin chờ cho một lát ạ. - Bà kia bỏ tờ báo xuống, đi vào phòng
trong.
Ông
đưa mắt nhìn quanh, ngạc nhiên không thấy bàn ghế, dụng cụ cắt tóc, gội đầu như
quảng cáo ngoài cửa hiệu. Trong phòng chẳng có gì ngoài chiếc bàn trà mặt kính,
chiếc ghế sô-pha bà kia vừa ngồi, chiếc ghế da không tay vịn ông đang ngồi,
chiếc ti-vi loại lớn và mấy bức ảnh phụ nữ nửa kín nửa hở trên tường.
Lát
sau, một cô gái còn trẻ và xinh đẹp đi ra, mỉm cười rất tươi với ông rồi nói
như hát:
-
Mời anh đi theo em.
"Ủa,
sao chị kia già gọi mình bằng bác, mà cô gái trẻ này lại anh em? - giáo sư N.
ngạc nhiên tự hỏi. - Mà đi đâu? Sao không gội ở đây còn phải đi đâu?" Rõ
ràng ông đang lúng túng, không biết xử sự thế nào. Ông thấy mình lớ ngớ như anh
nhà quê lên tỉnh thật. Và để che giấu sự lớ ngớ nhà quê ấy, ông quyết định
không hỏi những câu ngốc ngếch. "Bây giờ mọi thứ hiện đại, đâu còn như
xưa. Cứ thử rồi khắc biết. Mình lạc hậu quá rồi".
Thế
là ông lặng lẽ đi theo cô kia. Cô ta có dáng người cao, thon thẳng như các thí
sinh hoa hậu. Chiều cao ấy càng được tôn thêm bởi đôi giày xốp mười xăng-ti-met
và chiếc váy bó quá ngắn. Ông thoáng ngượng khi bắt gặp mình đang nhìn bộ ngực
căng phồng và chiếc mông rất nở của cô.
Cô
đưa ông vào một căn phòng bé tí chỉ khoảng bốn mét vuông, không có máy lạnh,
được ngăn bằng kính mờ, bên cạnh một dãy các phòng khác tương tự nằm sâu phía
trong. Ông không hiểu vì sao gội đầu lại phải vào phòng kín và kéo hết ri-đô
che bốn phía, nhưng đã quyết định không hỏi gì nên ông im lặng, bị động làm
theo những điều cô gái yêu cầu.
Sau
khi bỏ cặp kính cận và áo ngoài, ông được đôi tay người đẹp nhẹ nhàng đỡ nằm
xuống chiếc ghế da mềm, gần như song song với mặt sàn nhà. Cô gái bắt đầu làm
việc. Còn ông thì nhắm mắt và cũng bắt đầu tận hưởng những giây phút thoải mái.
Đôi chân nhức mỏi của ông đang được nghỉ trên chiếc ghế kê cao, cũng bằng nệm
da. Cái đầu ngứa đang được những ngón tay búp măng có móng cứng và nhọn cào cào,
đau đau mà dễ chịu. Mùi nước gội đầu, mùi nước hoa và son phấn của cô gái làm
ông thích. Ông cũng thấy thấy thích mùi da thịt và những ngón tay mơn trớn của
cô, hình như còn thích hơn cả mùi son phấn và nước gội đầu. Khi bắt gặp mình
nghĩ tới điều này, ông lại thấy xấu hổ như vừa làm việc gì không tế nhị. Ông
thả lõng các cơ bắp, thư giản và cố không nghĩ. Một lúc sau ông rơi vào trạng
thái nửa thức, nửa ngủ...
Trong
trạng thái nửa ngủ nửa thức mơ hồ và đê mê ấy, ông có cảm giác như cô gái cố
kéo dài công việc gội đầu đơn giản của mình. "Cũng chẳng sao, - ông nghĩ.
- Thư giản thêm chút nữa càng hay. Đi đâu mà vội". Rồi ông, vẫn nhắm mắt
khoan khoái để cô gái dịu dàng xoa bóp mặt, thái dương và cổ. Tiếp đến, những
ngón tay thon dài của cô lần xuống sâu hơn, sâu hơn, và cũng âu yếm, mơn trớn
hơn.
Việc
này làm ông giật mình, gần như hoảng sợ. Ông đã định ngăn lại, vậy mà vẫn nằm
yên, phần vì ông thích thế, phần tò mò muốn biết chuyện gì sẽ xẩy ra tiếp.
"Thời bây giờ tự nhiên và hiện đại thật, - ông nghĩ. (Ông tránh không dùng
từ trâng tráo và hư đốn đang lởn vởn trong đầu) - Nhưng con gái thế thì cũng
hơi quá. Hay những chuyện thế này đã thành bình thường, chỉ tại mình nằm mãi
trong "hang chuột" nên không biết?"
Trong
khi đó cô gái vẫn tiếp tục "gội đầu". Không hiểu vô tình hay cố ý,
cặp vú căng tròn của cô thỉnh thoảng lại chạm vào người ông. Chạm cả lên hai
má. Ông cảm nhận được làn da mềm ấm của cặp vú đó, làn da trần chứ không phải
sau lớp vải mỏng. Nhưng ông không tin vào cảm giác của mình. "Cô ấy mặc áo
cơ mà? Chiếc áo ngắn, cổ rất sâu và
rộng, nhưng dẫu sao vẫn là áo. Hay cô ta cởi ra rồi?" Ông lại giật mình,
vẫn không mở mắt để biết sự thật, vì ông ngượng. Còn vì cả trong thâm tâm, ông
muốn cô tiếp tục làm thế, dù biết nó "không đẹp lắm" (cái từ ông nói
tránh cho hai chữ "đồi bại" đang len lói đâu đó rất sâu trong tiềm
thức).
Cứ
thế, ông tiếp tục buông mình để rơi vào một thế giới mới, xa lạ nhưng cũng đầy
cám dỗ, khác hẳn cái thế giới bé nhỏ, khắc khổ và buồn tẻ của ông suốt mấy mươi
năm qua. Vô tình, những câu đùa của bạn bè về "xả hơi', "hưởng thụ
cuộc sống" thoáng xuất hiện trong đầu.
Bỗng
cô gái nằm vắt lên người ông, như để với tay xoa bóp phía bên kia thái dương. Khe vú trắng nõn của
cô chạm vào mũi ông. Đúng là cô ta ở trần. Lần này thì ông biết chắc như thế.
Cả thân hình mềm ấm của cô đang đè nặng lên ông. Ông vội vàng nhỏm dậy, nhưng
không nói gì. Làm sao ông nỡ trách một người phụ nữ đã cho ông cái cảm giác dễ
chịu và mới lạ đến thế? Ông chỉ mỉm cười, một nụ cười ông biết chắc phải ngớ
ngẩn lắm.
Cô
gái kéo áo xuống, vòng tay ôm cổ ông và hôn lên môi. Ông định lùi ra nhưng
không đủ sức.
-
Anh không thích em à? - cô gái nũng nịu hỏi.
-
Thích, - ông khẽ đáp như cái máy. Trong trường hợp như thế và trước một câu hỏi
như thế, chắc ít người đàn ông nào có thể trả lời khác.
-
Vậy em chiều anh nhé?
Ông
không hiểu “chiều” nghĩa là gì. Quả tình không hiểu thật. Ít ra thì lúc đầu.
Ông đứng ngẩn người.
-
Ta lên tầng trên đi anh. Trên ấy kín đáo. Thoải mái lắm.
Lần
nữa ông lại thụ động để cô gái kéo tay dắt lên theo chiếc cầu thang mờ tối. Bây
giờ thì ông biết đi đâu và cái gì đang đợi, nhưng ông bất lực không cưỡng lại
được, mà rồi hình như ông cũng chẳng quyết tâm lắm trong cố gắng cưỡng lại ấy.
Ông thấy bị choáng, như cái choáng say nắng ban trưa. Tuy nhiên, lên đến tầng
ba, khi cô gái mở cửa phòng và ông nhìn thấy một chiếc giường đôi có đệm mút
phủ vải trắng với chiếc gương lớn hình chữ nhật treo thấp sát mép giường, ông
chững lại, định kiên quyết không vào. Nhưng cô gái đã nhanh tay kéo ông vào
phòng và chốt cửa lại...
*
-
Họ tên?
Ông
nói họ tên mình.
-
Nghề nghiệp?
Ông
nói nghề nghiệp mình.
-
Ông có giấy tờ tùy thân không?
-
Hình như có, - ông đáp rồi lúng túng moi túi áo vét, tìm mãi không thấy giấy
chứng minh, cuối cùng lôi ra cuốn hộ chiếu công vụ cùng một số giấy tờ kèm theo
mà ông đã dùng để đi nước ngoài tháng trước, không hiểu sao vẫn còn nằm trong
túi áo. Ông run run đặt tấm hộ chiếu lên bàn, bằng cả hai tay. Ông thấy xấu hổ
vì thái độ khúm núm đó. Để chữa lại, ông cố ngồi thẳng người với vẻ bình tĩnh
nhất có thể được.
Anh
công an ngồi đối diện ông còn rất trẻ nhưng khuôn mặt thật nghiêm túc. Cả giọng
nói và cử chỉ cũng nghiêm túc. Anh ta hồi lâu lật giở cuốn hộ chiếu, tò mò xem
ông đã đi mấy nước và những nước nào. Cuối cùng anh ta hỏi:
-
Vậy ông... Vậy bác là giáo sư?
-
Vâng.
-
Nhà giáo ưu tú?
-
Vâng.
-
Và thường đi công tác nước ngoài?
-
Vâng.
-
Bác bị bắt quả tang về hành vi mua dâm tại cửa hàng cắt tóc kiêm ổ chứa Minh Hồng
cùng cô này. - Anh ta hất hàm chỉ cô gái xinh đẹp đã gội đầu cho ông, hiện đang cúi mặt ngồi
trên chiếc ghế dài cạnh đó với người đàn bà to béo cùng hai đôi nam nữ khác.
Hai người đàn ông kia chắc cũng khách như ông. Một người trạc hai mươi lăm
tuổi, mặt sần sùi, tái xám và mệt mỏi như người nghiện ma túy. Người kia có dáng
cán bộ nhà nước, giọng miền Nam.
-
Tôi vào hiệu gội đầu. Sau cô kia rủ lên gác, rồi các ông ập đến. Nếu đó là tội
mua bán dâm thì đúng là tôi phạm tội ấy, - ông thành thật nói. - Các ông cứ xử
lý theo luật pháp. Tôi là công dân gương mẫu...
-
Gương mẫu gớm! Già rồi mà còn dê! - hai phụ nữ mặc đồng phục công an đi ngang,
lườm ông rồi nói, không hiểu với nhau hay với ông. - Lại còn giáo sư, nhà giáo
ưu tú nữa!
Ông
cảm thấy đau nhói trong ngực. Đau vì đó là sự thật. Đau cả vì đây là lần đầu
người ta công khai xỉ vả ông như thế mà đành bất lực. Mình làm mình chịu thôi,
còn kêu vào đâu. Thậm chí ông không oán giận cô gái kia đã đưa ông đến nỗi này.
Ngay từ khi bị bắt về đồn, ông chỉ sợ, sợ đến nghẹt thở việc các đồng nghiệp,
học trò và tất cả những người quen biết ông xưa nay sẽ nghĩ gì khi biết tin
này. Do vậy, câu hỏi đầu tiên và quan trọng nhất đối với ông bây giờ là liệu
người ta có đăng báo, nêu đích danh tên ông hay không? Nếu có thì liệu có cách
nào ngăn được không? Ông muốn nói điều này với anh công an nhưng không dám.
-
Bác đã vi phạm mục...điều...của bộ luật hình sự. - Anh công an lên tiếng, cắt
đứt dòng suy nghĩ của ông. Rồi anh ta nhìn thẳng vào mắt ông với vẻ không hiểu
thương hại hay khinh bỉ: - Một người như bác đáng lẽ phải nêu gương tốt cho lớp
trẻ. Đằng này...Bác có hay tới hiệu này không?
-
Không, đây là lần đầu. Cũng lần đầu tôi vào hiệu gội đầu hay các điểm dịch vụ
tương tự. - Ông định nói bởi hôm nay trời đẹp, nắng ấm quá, nhưng nghĩ thế nào
lại thôi.
-
Đây là một ổ mại dâm trắng trợn. Một cái ung nhọt ở địa bàn chúng tôi và cần
phải nhổ tận gốc. Chúng tôi đã theo dõi mấy ngày qua, hôm nay quyết định phá
án. Với một người như bác, thiết nghĩ không cần nói nhiều về tác hại của tệ nạn
mại dâm. Tự bác biết rõ điều ấy và rút
ra bài học cho mình. Theo luật, bác sẽ bị xử phạt hành chính, thông báo về cơ
quan xử lý nội bộ. Sau đó chúng tôi sẽ cho mời vợ bác đến đưa về.
-
Tôi sống độc thân. Vợ tôi chết cách đây hai mươi năm. Các con đều đi làm xa.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về hành vi của mình. Có điều... - ông dừng lại, vẻ
thăm dò. - Tôi muốn hỏi đồng chí một câu, được không ạ?
-
Bác cứ nói, - anh công an đáp, giọng đỡ nghiêm khắc hơn.
-
Nếu được, tôi xin các đồng chí đừng báo về cơ quan, nhất là đừng đưa đích danh
tên tôi lên báo. Đồng chí thấy thế nào? Dẫu sao, tôi...
-
Việc này không thuộc thẩm quyền tôi. Tôi hiểu hoàn cảnh bác. Theo luật thì tất
cả các bên liên quan đều phải chịu trách nhiệm, tất nhiên ở mức độ khác nhau và
phải bị công luận lên án. Dạo này thành phố mở chiến dịch truy quét tệ nạn xã
hội và có chủ trương nghiêm trị những cán bộ thoái hóa. Thôi, bây giờ bác ngồi
sang dãy ghế kia để tôi làm việc với người khác. Sau đó bác sẽ phải làm một số
thủ tục nữa rồi có thể về nhà.
*
Phải
hơn hai tiếng sau, lúc này đã năm giờ chiều, giáo sư N. mới được rời đồn công
an. Ông chậm chạp lê bước như người mất hồn, khác hẳn trạng thái hưng phấn lâng
lâng buổi sáng. Khi leo đến cửa căn hộ "hang chuột" của mình, ông
loạng choạng suýt ngã.
-
Ấy chết, bác N., bác sao thế, ốm à? - Bà hàng xóm lúc ấy đang xách xô rác xuống
sân tình cờ nhìn thấy, lo lắng kêu lên. Bà vẫn thỉnh thoảng giúp ông mua cái
này cái nọ ngoài chợ những lúc ông thổi cơm ở nhà chứ không ăn tại hàng cơm bụi
phố cạnh.
-
Không, cảm ơn bà, - ông cố mỉm cười yếu ớt. - Tôi chỉ hơi bị choáng. Hôm nay
đẹp trời, tôi đi dạo hơi lâu nên có lẽ bị say nắng.
-
Bác phải cẩn thận. Những lúc thời tiết thay đổi bất ngờ là dễ ốm lắm đấy. Vả
lại, đâu còn trẻ nữa. - Bà kia im lặng rồi không hiểu sao lại thở dài. - Mà hôm
nay kể trời đẹp thật. Tôi cũng dạo loanh quanh một chốc. Chỉ một chốc thôi, chứ
không chắc lại say nắng như bác không chừng.
Rồi
bà xách xô rác đi xuống. Bà người đẫy đà, bước chân mạnh còn âm vang mãi trên
cầu thang.
*
Hai
ngày sau, cũng bà hàng xóm tốt bụng ấy thấy cánh cửa căn hộ giáo sư N. đóng im
ỉm mãi, bỗng sinh nghi. Bà gõ cửa nhưng không có tiếng trả lời. Bà gõ lần nữa,
to hơn. Vẫn im lặng. Bây giờ thì bà lo lắng thực sự. Bà đấm cửa thình thình.
Nghĩ có chuyện chẳng lành, bà ù té chạy gọi thêm mấy người nữa, trong đó có ông
trưởng khu tập thể.
Khi
họ phá cửa vào nhà thì thấy giáo sư N. đang treo lủng lẳng trên sợi dây ni-lông
cột vào chiếc quạt trần. Cổ ông ngoẹo sang một bên, mặt sưng phù, mái tóc điểm
bạc xõa xuống trán. Chiếc ghế cao bị đạp đổ nằm chỏng chơ dưới sàn nhà. Trên
mặt bàn trà có cốc cà phê đen uống dở, chiếc gạt tàn đầy ắp mẩu thuốc lá. Bên
cạnh là tờ báo X. số ra hôm qua, giở đúng trang có bài viết về thành tích công
an triệt phá ổ mại dâm tại hiệu "Hớt
tóc máy lạnh Minh Hồng”. Bài báo đăng ảnh mụ tú bà cùng ba nhân viên bán dâm đang cúi đầu nên không nhìn rõ
mặt. Phía dưới ghi rõ tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp của ba khách mua dâm, gồm
một tên trộm cướp từng có nhiều tiền án, tiền sự, lại nghiện ma túy nặng. Một
người nữa là phó giám đốc công ty M. ở Đồng Nai ra Hà Nội công tác. Người cuối
cùng là một vị giáo sư đáng kính, một nhà giáo ưu tú, một nhà khoa học có danh
tiếng. Liên quan đến hai người sau, bài báo dành một đoạn dài nói về sự thoái
hóa, sa đọa của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong cơ quan nhà nước, coi đó
như một bài học đau xót mọi người phải ghi nhớ.
Hà Nội, 23. 2. 2001
NGƯỜI
KHỔNG LỒ MẮT XANH
Một lần đến chơi nhà người quen, ngẫu nhiên
ông đọc được bài thơ đó trong một cuốn tạp chí cũ. Dọc xong, ông ngồi thừ người
hồi lâu, lưng tựa vào chiếc ghế bành bọc da, hai tay đặt ngay ngắn trên đầu
gối, mắt nhắm chặt, đến mức chủ nhà hoảng hốt tưởng khách đột tử vì nhồi máu cơ
tim, chứng bệnh ông mắc hai mươi năm nay và theo lời bác sĩ thì có thể chết bất
cứ lúc nào.
Bài
thơ của một tác giả nước ngoài, có đầu đề “Người
khổng lồ mắt xanh”. Toàn bộ chỉ thế này:
Có một người khổng lồ mắt xanh
Yêu
một người đàn bà bé nhỏ.
Người
đàn bà chỉ mơ ước làm sao
Có
ngôi nhà xinh xinh
Cùng
giàn hoa bên cửa sổ.
Người
khổng lồ yêu theo cách khổng lồ,
Và
làm việc, quen làm điều to tát,
Nên
đã không xây tặng người yêu
Một
ngôi nhà con con
Cùng
giàn hoa râm mát.
Có
một người khổng lồ mắt xanh
Yêu
một người đàn bà bé nhỏ.
Người
đàn bà đi theo chàng, mỏi chân,
Muốn
ngồi nghỉ trong vườn đâu đó.
Rồi
nàng nói với đôi mắt xanh:
“Chào
vĩnh biệt!”
Một người lùn tử tế
Dẫn
nàng vào một ngôi nhà xinh xinh
Cùng
giàn hoa nhỏ bé.
Giờ
thì chàng khổng lồ hiểu ra
Rằng
tình yêu khổng lồ chàng có
Không
đủ chỗ cho ngôi nhà con con
Cùng
giàn hoa bên cửa sổ.
Bài thơ khiến ông nhớ lại quá khứ, cái quá
khứ xa xăm tưởng như không có có thật. Hơn thế, ông ngạc nhiên thấy như nó phần
nào nói về chính mình.
Ông không là người khổng lồ, tất nhiên, mắt
cũng chẳng xanh mà xám nhạt, khác màu mắt người Á đông. Có thể khi nhìn cái gì
đó màu xanh, nó có màu xanh thật. Năm 1942, đang theo học năm cuối khoa triết
trường Sorbonne ở Paris, ông yêu một cô gái, cũng người Việt, học môn canh nông
nhưng sau ông hai lớp. Lúc ấy cô có dáng người nhỏ bé, nhí nhảnh và cũng xinh.
Ba năm sau, theo tiếng gọi của tổ quốc, cả hai trở về Hà Nội tham gia xây dựng
chế độ mới. Rồi kháng chiến, họ cùng lên chiến khu và chẳng bao lâu sau thì hai
người chia tay. Chủ yếu do bà.
Không phải vì ông không xây được cho bà “một ngôi nhà con con cùng dàn hoa bé nhỏ”.
Việt Bắc không phải Paris, không ai có lương và cũng không có nhu cầu xây một
ngôi nhà như thế. Bà biết nên chẳng trách ông điều ấy. Tuy nhiên vì tình yêu,
bà theo ông về Việt Nam, bỏ lại mọi tiên nghi ở thủ đô để lên đây. Vì vậy bà
nghĩ bà có quyền đòi hỏi ở ông một tình yêu tận tụy, đời thường, qua những cử
chỉ chăm sóc nhỏ nhặt và thường nhật, là cái ông không có và cũng không muốn
có, dù rất yêu bà, vì dẫu không là người khổng lồ nhưng ông luôn bận “làm những điều to tát”. Ông nghiên cứu
triết học, từ triết học cổ Hy Lạp đến những trường phái phương Tây hiện đại
nhất. Triết học phương Đông mãi sau này ông mới quan tâm. Kháng chiến thời đó
chưa cần những nghiên cứu trừu tượng vô bổ ấy, nên dễ hiểu vì sao người ta
không đánh giá cao ông ngoài cái danh “trí thức Việt Kiều yêu nước”.
Chẳng có “người lùn tử tế” nào đến “dẫn
bà đi”. Đúng hơn, bà đi theo ông ta, một chính ủy sư đoàn cao to có nước da
ngăm đen của người nông dân vùng chiêm trũng Hà Bắc. Khi về tiếp quản Thủ Đô
năm 1955, hai người nghiễm nhiên được vào ở một trong những ngôi nhà đẹp nhất
khu Ba Đình, một ngôi nhà lớn có vườn rộng, hai tầng, nhiều cửa sổ và cửa sổ
nào cũng có hoa. Sau này ông chồng làm tới cấp tướng, còn bà khi về hưu là vụ
trưởng một bộ quan trọng, nếu không vì tuổi tác có thể còn được đề bạt thành
thứ trưởng.
Vậy là gần sáu mươi năm đã trôi qua kể từ
ngày ấy. Ông nay đã tám mươi hai tuổi nhưng còn minh mẫn và khỏe mạnh và vẫn
một mình sống trong căn phòng tập thể mười lăm mét vuông ở phố Hàng Chuối, vẫn “làm những điều to tát” là nghiên cứu
triết học, khác chăng, bây giờ ông đã nổi tiếng không chỉ trong mà cả ngoài
nước.
Mấy chục năm gần đây ông còn thêm một đam
mê mới là nhạc cổ điển. Chắc cả nước không ai có được bộ sưu tập đĩa lớn như
ông, biết nghe nhạc nghiêm túc và bài bản như ông. Như trong triết học, ông
thích lối tư duy âm nhạc vừa khô khan triết lý nhưng cũng vừa lãng mạn, kịch
tính của người Đức. Hiện ông đang ngất ngây sống trong những bản giao hưởng dài
lê thê và khó hiểu của Gustav Mahler, môn đệ của Richard Wagner, người ông mê
đến mức nhờ hiệu phóng to ảnh treo ngay đầu giường. Thành ra trái tim của ông
dẫu to lớn và đầy cảm xúc nhưng đã quá chật vì Socrat, Platon, Kant,
Nieztsche... bây giờ thêm cả Beethoven, Schubert, Wagner và Mahler nên không còn
chỗ trống cho “người đàn bà bé nhỏ”
nào nữa.
Thực ra xưa nay ông cũng không cần họ,
không nghĩ nhiều tới họ. Thế mà đọc bài thơ này, bỗng nhiên như có cái gì đó
khang khác trong người. Một sự ủy mị mơ hồ. Đầu óc duy lý, rành rọt của ông
bỗng trở nên mờ mịt, lẫn lộn...
*
Nó mờ mịt, lẫn lộn đến mức chẳng vì cớ gì,
ông thong thả chống gậy đi tới khu phố có ngôi nhà “con con” mà “người đàn bà bé
nhỏ” ngày nào của ông đang sống.
Cạnh đấy có một vườn hoa. Ông ngồi xuống
chiếc ghế đá đối diện, lơ đãng nhìn ngôi nhà.
Vị tướng già (người lùn) đang vừa sưởi nắng vừa ngủ gật trên ban công tầng hai,
bên bụi hoa giấy màu đỏ gắt dưới ánh nắng vàng hoe buổi chiều, mái tóc bạc lơ
thơ xõa kín mặt. Chốc chốc ông ta lại giật mình ngồi thẳng người để đầu khỏi va
vào thành lan can, nơi chắc có dính một ít nước dãi đang ri rỉ từ khóe miệng.
“Người
đàn bà bé nhỏ” của ông lúc ấy vừa đi chợ về, tay xách chiếc làn vải nhựa
nặng cáu bẩn. Một bà già chẳng bé nhỏ chút nào. Người thấp lùn, dáng ục ịch,
vừa đi vừa thở khò khè vì chứng bệnh hen xuyễn. Đôi má xệ, mắt hơi lồi. Hơn
thế, ăn mặc cũng chẳng lấy gì làm trau chuốt. Vài năm một lần, ông ngẫu nhiên
gặp bà ngoài phố. Chỉ gật đầu chào chứ chẳng bao giờ dừng lại nói chuyện. Bà là
người nhỏ nhen, thậm chí độc ác. Thời ở chiến khu bà từng xúi người ta đấu ông
về tội “tiểu tư sản”, “mất lập trường”. Sau này bà còn nhiều lần tìm cách hại
ông vì những lý do sâu xa nào đấy không ai hiểu. Nhưng vì luôn bận với những ý
tưởng cao siêu của mình nên ông không quan tâm mà cũng chẳng giận. Ông chỉ thấy
lạ lùng và khó chịu khi nghĩ đã có thời ông từng yêu người đàn bà này.
Lát sau có tiếng ai mắng chửi the thé vang
lên từ trong nhà. Rồi một con bé chay ra, bà già kia cầm ngược cán chổi đuổi
theo.
“Mày cút mẹ về nhà quê mày đi! Dám nhân lúc
tao đi vắng ăn cắp những hai mươi nghìn đồng! To gan thật! Liệu trả lại cho tao
không thì tao đuổi. Đuổi về với thằng bố, con mẹ mày!”
Tự nhiên ông thấy buồn, lờ mờ nhớ lại những
buổi chiều hai người cầm tay nhau dạo chơi trên bờ sông Seine hoặc vào bảo tàng
Louvre.
Con bé nhà quê chừng mười một, mười hai
tuổi. Nó đang thút thít khóc, lí nhí kêu oan. Có lẽ nó bị oan thật và đang lo
mất việc.
Ông ra hiệu gọi nó lại gần, rút ra tờ một
trăm nghìn đồng còn mới.
“Cháu mang vào đưa cho bà ấy. Bảo có ông
bạn cùng ở Paris ngày xưa cho để đền cho
bà.”
Con bé lưỡng lự một chốc rồi cầm tờ giấy
bạc chạy vào nhà.
Không còn nghe tiếng chửi. Bà kia cũng
chẳng bước ra khỏi nhà, chí ít để tò mò nhìn lại “người khổng lồ” của mình. Mặt trời khuất sau rặng cây. Vị tướng già
thấy hết nắng, đã vào giường ngủ từ lúc nào.
Chẳng còn gì để nhìn, để nghe, nhưng ông
vẫn ngồi yên trên ghế đá. Đúng là ông già thật rồi, tâm trí mụ mị, lẫn lộn.
Trong đầu ông cùng một lúc vang lên giai điệu bè vi-ô-lông cao tinh khiết đến
mức thần thánh trong bản Ouverture vở
ôpêra Lohengrin của Wagner (nhiều lần ông đã quì xuống, rơm rớm nước mắt khi
nghe bản nhạc này), tiếng chửi the thé của bà già kia, và cả tiếng thút thít
của con bé tội nghiệp.
Ông lú lẫn đến mức không hiểu vì trái tim
ông quá lớn hay quá bé mà không chứa nổi ngôi nhà có nhiều hoa trước mặt cùng
bà già chủ nó. Mà nó “con con” hay to
lớn nhỉ? Và ông là người khổng lồ hay
anh lùn?
Trong tâm trạng mập mờ lẫn lộn như thế, ông
ngả người lên thành ghế và ngủ thiếp. Cũng có thể ông đã chết vì mãi rất lâu
không thấy ông động đậy...
Hà Nội, 18. 7. 2003
NÀNG
TIÊN ÁO TRẮNG
Trong
tập thơ "Bàn tay hình chiếc lá"
của tôi xuất bản năm 1997 có một bài thế này:
Nàng
tiên áo trắng
Như cuốn phim quay chậm,
Em
thường đến trong mơ.
Bàn tay em rất ấm,
Đôi môi
em đợi chờ.
Ngày nhỏ
nhà hai đứa
Cách
nhau một cánh đồng.
Anh tặng
em hoa sữa,
Em quẳng
đi, nhớ không ?
Và lớn
lên, có lẽ
Ta đã
thầm yêu nhau.
Mà hình
như không thế -
Cái thuở
ấy ban đầu.
Một lần,
sau buổi học
Ta dừng
lại đầu thôn,
Em nhìn
anh trách móc,
Hình như
chờ được hôn.
Hình như anh nhận thấy,
Cũng có
thể là không,
Nhưng cả
hai lúc ấy
Đứng
lặng im giữa đồng.
Rồi anh
đi, đi xa.
Còn trẻ
con, e thẹn,
Hình như
hai chúng ta
Không
nói lời hò hẹn.
Và bất
ngờ, một hôm,
Biết
không, anh đã khóc
Nghe tin
em trúng bom
Ở ngã ba
Đồng Lộc.
Cũng từ
đấy, trong mơ,
Như
trong phim quay chậm,
Với đôi
môi đợi chờ,
Với bàn tay
rất ấm
Em
thường đến cùng anh,
Buồn
buồn nhìn, im lặng.
Em - nỗi
đau của anh.
Em -
nàng tiên áo trắng.
Nếu có thể gọi là tình yêu, thì đó là
mối tình đầu của tôi, thơ mộng và buồn như hầu hết những mối tình đầu khác. Và
nếu chỉ để nói về nó, có lẽ với chừng ấy dòng, bài thơ đã nói đủ.
Trong
ký ức mọi người, đặc biệt khi về già, những mối tình như thế luôn là một kỷ
niệm lãng mạn không rõ nét và đẹp. Người ta nói chung thường chỉ muốn giữ lại
và nâng niu những kỷ niệm đẹp. Tuy nhiên, đấy không phải là điều tôi muốn nói ở
đây. Câu chuyện này của tôi có ý nghĩa khác hẳn. Suốt nhiều năm qua tôi thường
nghĩ, hay đúng hơn, bị ám ảnh bởi hình ảnh "nàng tiên áo trắng" vẫn đêm đêm đến cùng tôi trong giấc ngủ
với "bàn tay rất ấm và đôi môi đợi chờ"
như đã viết.
Trong thơ, ít hoặc nhiều những sự việc
có thật đã được thi vị hóa. "Nàng
tiên áo trắng" là Liên, cô bạn gái tuổi học trò của tôi. Nhà hai đứa
không cách nhau một cánh đồng mà cùng thôn, chỉ khác ngõ. Vâng, chúng tôi chơi
thân với nhau, rất thân. Có thể gọi yêu nhau cũng được, mặc dù ở lứa tuổi ấy
vào thời ấy chúng tôi chưa hiểu thế nào là tình yêu nên khó có thể làm cái việc
gọi là tỏ tình, lại càng không thể nói đến chuyện "thề ước". Đơn giản
thích nhau, "yêu nhau" nhưng chẳng ai nói gì. Có thể lỗi tại tôi vì
dẫu sao tôi cũng là con trai, đáng lẽ phải chủ động. Nhưng lúc ấy tôi mới chỉ
bước sang tuổi mười bảy. Thời ấy con trai mười bảy tuổi, lại ở nông thôn, ngờ
nghệch lắm. Nói chung, hẵng còn là những đứa trẻ.
Liên
kém tôi một tuổi, học lớp dưới, nhưng là con gái, chắc cô nhạy cảm và phát
triển hơn tôi về chuyện này. Đúng là có một lần tôi tặng cô mấy bông dâm bụt
(chứ không phải hoa sữa) hái trộm trong vườn bà Chắt Hoét, nhưng không hiểu sao
cô giận dữ vứt đi. Sau đó vì tự ái, tôi chẳng bao giờ tặng hoa cho Liên nữa.
Cũng có cả việc một lần cô nhìn tôi với vẻ trách móc, có thể là cái nhìn
"đắm đuối" như người ta vẫn nói, và cũng có thể "chờ được hôn" như trong thơ tôi
viết. Tôi không biết có đúng thế không, chỉ nhớ lúc ấy tôi đã không hôn Liên.
Chưa một lần chúng tôi hôn nhau. Không phải không thích mà vì ngượng, vì không
biết hôn. Thế thôi. Chuyện này xẩy ra không phải "một lần sau buổi học, ta dừng lại đầu thôn" mà ở trong hầm trú
ẩn.
Hôm
ấy đi học về, gần tới nhà thì bỗng máy bay Mỹ kéo đến ném bom Bến Kiềng. Chúng
tôi vội chui xuống một trong những chiếc hầm được đào sẵn cạnh đấy. Nhà chúng
tôi cách Bến Kiềng không xa. Bom nổ to lắm, và vì sợ, Liên cứ ôm chặt lấy tôi.
Tôi cũng sợ nhưng cố tỏ ra bình tĩnh để thể hiện sự dũng cảm của mình. Tôi
không chủ động ôm Liên nhưng cũng không đẩy cô ra. Khi hết máy bay, Liên vẫn ôm
chặt tôi. Có thể vì vẫn còn sợ, cũng có thể vì những lý do khác. Tôi không
biết. Cô ngước lên nhìn tôi hồi lâu. Đến nay tôi còn nhớ rất rõ khuôn mặt cô
lúc ấy, một khuôn mặt thật xinh, thật trong trắng, đôi mắt tròn, ươn ướt và xa
vời. Đôi môi mọng hé mở. Cặp vú nhỏ của cô áp chặt ngực tôi nóng ran. Thế mà
không hiểu sao tôi lại ngoảnh đi nơi khác. Chắc lúc ấy tôi trông đần độn và
buồn cười lắm.
Mấy tháng sau chúng tôi xa nhau, không
ngờ chẳng còn bao giờ gặp lại. Ngày 10 tháng Tám năm 1967 tôi lên đường đi học
xa (tôi nhớ chính xác ngày ấy vì đã khắc nó lên xà nhà, bây giờ vẫn còn). Liên
thì một năm sau tình nguyện đi thanh niên xung phong và hy sinh cuối năm 1971.
Có điều không phải ở ngã ba Đồng Lộc mà ở một bến phà sông Gianh, Quảng Bình.
Lúc
ấy tôi đang học ở Mátxcơva, khi nghe tin này quả thật tôi đã khóc. Hay thầm
khóc. Hình như vậy. Tôi không là người ủy mị nhưng dễ bị xúc động. Hơn nữa Liên
lại là bạn gái duy nhất của tôi thời học sinh, dù phải thú nhận rằng trước đấy
tôi không hay nghĩ đến cô. Thậm chí cả thư cũng không viết. Nói bận cũng được
hoặc vô tâm cũng được, nhưng quả đúng như thế. Bây giờ, khi biết Liên hy sinh,
tôi khóc vì xúc động. Vì cả mặc cảm về sự thờ ơ, hời hợt của chính mình. Sau đó
tôi lại bị cuốn vào cuộc sống sinh viên sôi động chẳng còn lúc nào rỗi để nghĩ
về Liên. Nếu có cũng chỉ thoáng qua với nỗi thương tiếc mơ hồ, chung chung như
đối với nhiều người bạn cùng tuổi đã hy sinh trong chiến tranh. Suy cho cùng,
giữa tôi và Liên mới chỉ là tình bạn tuổi học trò chứ chưa phải gì khác. Ít ra
lúc ấy tôi nghĩ thế.
Tháng bảy 1974 tôi về nước, tình cờ
được bà mẹ Liên cho xem cuốn nhật ký của cô người ta gửi về trong chiếc ba lô
cùng một số vật dụng cá nhân khác. Cuốn nhật ký đã làm tôi rất xúc động. Nhờ nó
tôi mới biết rằng Liên vẫn thầm yêu tôi và đã sống cùng tình yêu ấy suốt những
năm tháng ngoài mặt trận. Cảm giác day dứt, hối hận ngày càng lớn dần trong
tôi.
Sau
đó tôi viết một truyện ngắn có tên "Những
cô gái áo trắng" về Liên và bốn cô bạn thanh niên xung phong cùng
nhóm. Công việc của họ là ban đêm mặc áo trắng đi trước dẫn đường cho ô tô bộ
đội vượt qua hố bom và tránh những nơi có bom nổ chậm. Cuối cùng cả nhóm hy
sinh, trong đó có Liên. Trong cuốn nhật ký có một số chi tiết rất cảm động. Đó
là việc các cô chỉ mơ ước một điều giản dị và rất con gái, là mong hết chiến
tranh để được diện những chiếc áo trắng làm duyên với các chàng trai chứ không
phải những chiếc ô tô mù. Các cô còn âm ỉ một nỗi sợ nữa, là sợ phải chết mà
chưa được chàng trai nào hôn. Nghĩa là Liên cũng đã chết với nỗi sợ thơ ngây mà
nhức nhối ấy.
Giá
những năm ở nước ngoài tôi viết thư cho Liên... Giá cái lần cùng ở trong hầm
trú ẩn nọ tôi hôn cô... Nhưng tôi đã không làm điều có lẽ Liên rất mong đợi ấy.
Bây giờ nó đang day dứt tôi. Tôi bắt đầu nghĩ nhiều về Liên và cái chết của cô.
Hình ảnh Liên như thiên thần áo trắng cũng bắt đầu đến với tôi ban đêm. Tôi
thương cô nhường nào. Tôi thấy mình gần như là người có tội.
Sau khi các cô chết, đọc nhật ký của
Liên với mong ước được mặc áo trắng đi giữa ban ngày ấy, người ta đã cho xây mộ
năm cô thành hình bông hoa năm cánh luôn quét vôi màu trắng trên ngọn đồi xanh
bên bờ sông Gianh, nơi các cô hy sinh. Năm 1982 tôi đã tới thăm ngôi mộ bông
hoa trắng ấy. Sau đó tôi lên Trại sáng tác Đà Lạt và viết truyện "Những cô giá áo trắng" đã nói. Tôi
định thế nào cũng sẽ còn quay lại nơi ấy.
Năm
tháng cứ lặng lẽ trôi qua. Từ lúc nào không biết, tôi đã trở thành một ông già
với những suy nghĩ vẩn vơ, nhiều khi lẩm cẩm, đặc trưng của người già. Đôi khi
đi giữa phố, nhìn những cô gái trẻ hạnh phúc ăn diện tuyệt đẹp, tôi những muốn
nói to với họ, rằng một thời đã có những cô gái cũng trẻ trung như họ từng khao
khát một điều duy nhất là được mặc áo trắng đi lại giữa ban ngày, những chiếc
áo trắng vải phin bình dị bây giờ chẳng ai thèm mặc. Tất nhiên tôi đã không
nói, phần vì không thể bỗng dưng nói to như thế với người không quen, phần vì
tôi không muốn làm họ mất đi dù chút ít cái hạnh phúc họ đang được hưởng. Chẳng
phải Liên và những người như cô đã lặng lẽ chiến đấu và lặng lẽ hy sinh để hôm
nay người khác được hạnh phúc đấy sao?
Những
lúc ấy, tôi lại buồn buồn nghĩ đến Liên, trong đầu vô tình vang lên bài thơ về
nàng tiên áo trắng của tôi:
Như cuốn phim quay chậm
Em
thường đến trong mơ.
Bàn tay
em rất ấm,
Đôi môi
em đợi chờ.
Ngày nhỏ
nhà hai đứa
Cách
nhau một cánh đồng.
Anh tặng
em hoa sữa,
Em quẳng
đi, nhớ không?
Và lớn
lên, có lẽ
Ta đã
thầm yêu nhau,
Mà hình
như không thế -
Cái thuở
ấy ban đầu.
Một lần
sau buổi học
Ta dừng
lại đầu thôn,
Em nhìn
anh trách móc,
Hình như
chờ được hôn.
Hình như
anh nhận thấy,
Cũng có
thể là không,
Nhưng cả
hai lúc ấy
Lặng im
đi giữa đồng.
Rồi
anh đi, đi xa.
Còn trẻ
con, e thẹn,
Hình như
hai chúng ta
Không
nói lời hò hẹn.
Và bất
ngờ một hôm,
Biết
không, anh đã khóc
Nghe tin
em trúng bom
Ở ngã ba
Đồng Lộc.
Cũng từ
đấy, trong mơ,
Như
trong phim quay chậm,
Đôi môi
em đợi chờ,
Với bàn
tay rất ấm
Em
thường đến với anh,
Buồn
buồn nhìn, im lặng.
Em - nỗi
đau của anh.
Em -
nàng tiên áo trắng...
*
Câu chuyện này có thể kết thúc ở đây,
nhưng nhân tiện tôi muốn nói thêm đôi điều. Vả lại chuyện này cũng ít nhiều
liên quan đến Liên.
Trong nhà, tôi được vợ con đặt cho cái
tên "ông ngày xưa", vì tôi
thường đem chuyện "ngày xưa" để giáo dục con. Một lần, khi tôi đang
lặp lại điệp khúc "ngày xưa"
ấy thì con gái tôi bỗng cắt ngang và hỏi:
- Vì sao bố không phải đi bộ đội mà
được đi học nước ngoài?
- Trước hết thời ấy không có từ
"phải" và "được" như con nói. - Tôi đáp. - Đất nước cần gì,
mọi người làm việc đó. Chẳng ai tranh cãi hay trốn tránh. Bố đi học nước ngoài
là vì sau chiến tranh đất nước cần người có kiến thức để xây dựng lại.
- Thế bố có viết đơn xung phong ra
trận không?
- Có. Tất cả học sinh đến tuổi ở
trường bố đều viết đơn xung phong ra
trận. Đơn của cả tập thể và từng cá nhân.
- Con đọc sách thấy nói nhiều người
được đi nước ngoài nhưng cứ nằng nặc viết đơn xin ở lại chiến đấu. Sao bố không
làm thế?
Vợ tôi lườm con, ra hiệu im để tránh
cho tôi khỏi lúng túng, nhưng tôi bảo không cần, cứ để nó nói.
- Lúc ấy bố không nghĩ tới việc này.
Theo con, bố có nên làm thế không?
Con bé không trả lời mà hỏi thêm:
- Bố nói thật đi: Có phải lúc ấy bố đã
mừng vì không phải ra trận, mà được cử đi học ở Liên Xô không?
- Đúng thế, - tôi đáp sau mấy giây suy
nghĩ. Tôi đã nói đúng sự thật vì vốn không quen nói dối.
Sau đó không ai nói gì thêm. Bàn ăn
được dọn sạch và mỗi người bắt đầu làm việc của mình như thường ngày. Con bé
lên học bài. Hình như mẹ nó đang trách mắng điều gì. Còn tôi thì lại ngồi trước
chiếc máy vi tính quen thuộc nhưng hồi lâu chẳng gõ được chữ nào cả. Tôi cứ vẩn
vơ suy nghĩ mãi về câu chuyện vừa rồi với con gái.
Đúng,
tôi kịp ra đi trước khi cuộc chiến tranh ác liệt thực sự bắt đầu, và lúc trở về
nó đã kết thúc, hay chính xác hơn, gần như kết thúc. Cuộc đời tôi diễn ra suôn
sẻ, ít ra tôi còn được sống lành lặn chứ không bị thương hoặc phải chết như
Liên. Đành rằng tôi chẳng có lỗi gì trong việc này. Nhưng dẫu sao... Chính cái
"dẫu sao" ấy luôn làm tôi mặc cảm, đặc biệt từ sau cái chết của Liên,
như thể tôi cố tình trốn tránh cuộc chiến tranh ấy. Quả đúng tôi đã không viết
đơn xin được ở lại chiến đấu. Tôi đã thầm mừng thoát khỏi cảnh chiến tranh để
được học hành tử tế ở một nước châu Âu. Tôi biết mỗi người một việc, không việc
nào cao sang hay thấp hèn hơn việc nào, miễn là mỗi người làm tốt việc của
mình.
Tôi
nghĩ tôi đã không bỏ phí những tháng năm lưu học cùng kiến thức tích lũy được. Nếu được phân công ở lại để ra
tiền tuyến như bao người khác thời ấy, tôi sẽ chấp nhận việc này một cách tự
nhiên và có lẽ sẽ chẳng là người lính hèn nhát. Tôi cũng sẽ sẵn sàng chấp nhận
điều tồi tệ nhất. Tôi biết thế. Tôi biết tôi chẳng có gì phải băn khuăn, và mọi
lập luận của tôi đều có lý. Vâng, quả
đúng thế, nhưng dẫu sao, dẫu sao...
Sau mỗi đêm gặp lại nàng tiên của tôi với
đôi môi đợi chờ và ước mơ áo trắng ấy, tôi lại quẩn quanh suy nghĩ rất lâu. Ai
đó có thể cho tôi nói thế để tỏ ra này nọ. Không. Tôi chỉ nói thật lòng mình.
Tiện đây thì nói thế thôi, chứ không hề có ý thanh minh. Có chăng, chỉ trong
thơ. Thơ giúp ta nói những điều sâu kín nhất mà không sợ bị người đời hiểu lầm.
Và
trong một đêm mất ngủ như thế, tôi đã viết một bài thơ thế này. Tiếc bây giờ ít
ai đọc thơ nên không biết:
Từ
cuộc chiến tranh kia
Không hiểu sao gần đây
Đêm nào
nằm cũng vậy,
Tôi mơ
toàn máy bay,
Bom rơi
và lửa cháy.
Từ cuộc
chiến tranh kia
Mà tôi
không tham dự,
Máy bay
Mỹ hiện về,
Hoàn
toàn không hung dữ.
Chúng
lặng lẽ tìm tôi,
Chỉ tìm
tôi, thật lạ,
Rồi từ
từ bom rơi,
Nhẹ
nhàng như chiếc lá.
Bom nổ
cũng rất êm.
Không bị
thương, máu chảy,
Tôi nằm
chết, trái tim,
Chỉ trái
tim bốc cháy.
Tôi kêu,
tôi van nài
Hãy cứu
tôi, và đợi.
Nhưng
hình như không ai
Muốn
nghe và muốn tới.
Từ cuộc
chiến tranh kia
Mà tôi
như lẩn tránh,
Nay
chiến tranh lại về
Để làm
tôi bất hạnh.
Và cứ
thế, đêm đêm,
Sau một
ngày mỏi mệt,
Dù không
đau, dù êm,
Tôi lại
nằm - để chết...
Hà Nội, 17.4.2001
CON
CHÓ HOANG
Con chó nhỏ và đứa bé gái đang chơi
với nhau trên hè phố tráng xi măng loang lổ. Cạnh đấy là một chợ cóc đông người
nhưng chẳng ai để ý đến chúng. Có lẽ hôm nào chúng cũng ở đây nên thành quen.
Con chó nhỏ, nửa Nhật nửa ta, trước màu trắng, giờ chẳng ra màu gì vì quá bẩn.
Hơn thế, nó lại có hai vết ghẻ lớn, ở hông phải và đỉnh đầu. Nó là con chó
hoang.
Còn
đứa bé, nếu dùng được từ này với người, thì cũng có thể gọi là đứa bé hoang hay
đại loại như thế. Nó khoảng năm sáu tuổi, không bị ghẻ nhưng cũng bẩn và nhếch
nhác như bạn nó là con chó. Nó có khuôn mặt bầu bĩnh, da ngăm ngăm, có thể gọi
là xinh nếu được rửa ráy sạch sẽ. Tóc nó rối bù do lâu không gội nên thỉnh
thoảng nó đưa tay gãi rất mạnh. Nó mặc bộ quần áo hoa vải phin mỏng, hai ống
tay cứng đờ và đen xịt vì luôn được dùng để quệt nước mũi. Chừng ấy tuổi, nó đã
là đứa trẻ bụi đời. Cũng có thể không, đơn giản ai đó hàng ngày đưa nó đến đây,
mẹ nó chẳng hạn, rồi bỏ đấy đi kiếm sống trong chợ - buôn bán vặt, bưng bê vặt,
hay ăn cắp vặt. Những người như thế khó có thể làm khác.
Con chó vừa ăn xong. Nó đã gặm trụi
một cục xương lớn tha từ chợ về. Con bé nhìn nó gặm xương mà không có ý thèm.
Nghĩa là chưa đói lắm. Lúc này chúng đang chơi với nhau có vẻ rất vui.
Con
bé ôm một con búp bê được làm bằng vải vụn nhiều mầu mà người ta thường thấy
các bà già xách từng dây rao bán trong các hẻm phố. Con búp bê bị cụt nửa cánh
tay, một bên vai rách lòi bông. Nó đang chơi trò ru con, ra chiều âu yếm lắm.
Còn ư ử hát. Con chó thì ngồi cạnh,
ngoẹo đầu nhìn, thỉnh thoảng ngoe nguẩy đuôi chẳng hiểu muốn gì. A, thì ra nó
chờ đến lượt mình. Thấy "con" đã ngủ, con bé nhẹ nhàng đặt nó xuống
đất, phủ một mảnh báo rách làm chăn, rồi giả bộ tất bật quay sang làm việc khác
như một bà mẹ thực thụ.
Con
chó chỉ chờ có thế. Nó rón rén lại gần rồi ngoạm con búp bê kéo đi. Nó dùng
chân lật lật con búp bê, chạy đi chạy lại xung quanh, đuôi vẫy tít, rồi khe khẽ
sủa như đang trò chuyện. Con búp bê không đứng mà nằm ngửa, cánh tay gãy giơ
lên trời. Nó thờ ơ im lặng. Cũng có thể nó đang nói chuyện với các bạn nó mà
người ngoài không nghe thấy.
Con
bé vẫn giả vờ bận công việc "nội trợ". Nhưng nó nghe hết, biết hết.
Có điều nó phải chờ đến lúc con chó xong trò "rủ búp bê trốn nhà đi
chơi" mới quay lại. Luật chơi là vậy. Lúc ấy nó sẽ giả bộ tức giận, hốt
hoảng "gọi con", mắng bạn của nó. Và con chó, dù miễn cưỡng, lại ngoan
ngoãn kéo lê con búp bê về chỗ cũ. Con bé bế "con" vào lòng, vừa giả
vờ mắng yêu vừa ru ngủ, cuối cùng đặt nó xuống mặt hè phố đầy bụi bẩn và
"đắp chăn" bằng mảnh báo rách như cũ.
Sau đó lần nữa nó quay mặt để con chó lại lôi búp bê đi.
Cứ
thế trò chơi đơn điệu này được lặp đi lặp lại mấy lần cho đến lúc cả hai thấy chán, bỏ con búp bê vô tri giác sang một
bên để ngồi cạnh nhau, thân tình như hai chị em ruột. Hình như hai đứa đang tâm
sự điều gì. Con bé vừa mấp máy môi vừa bắt chấy cho con chó. Nó còn dùng những
móng tay dài cáu ghét gãi gãi lên hai vết ghẻ của nó. Con chó tựa người vào
chân bạn với vẻ thỏa mãn lười biếng, thỉnh thoảng lại "gâu" một tiếng
góp chuyện. Nó thè cái lưỡi ươn ướt đỏ hỏn liếm tay con bé. Khi con bé cúi
xuống nựng, nó liếm cả lên mặt. Những chỗ chó liếm trở nên sạch hơn, như được
lau bằng khăn ướt...
Lúc ấy ngày mới ngả sang chiều, mặt
trời mùa đông chiếu sáng một cách ấm áp, dễ chịu. Cả hai đứa, một con chó hoang
và một đứa bé hoang, cùng thiu thiu rồi thiếp đi lúc nào không biết. Một tay
con bé ôm con búp bê bằng giẻ vụn, tay kia để lên lưng con chó ghẻ.
Như mọi bé gái khác cùng tuổi, đứa bé
hoang này khi ngủ cũng có những giấc mơ đẹp. Trong mơ, tất cả trẻ con đều hạnh
phúc như nhau.
Lần
này nó mơ thấy một bà tiên tuyệt đẹp bay đến với nó bằng đôi cánh mỏng như cánh
chuồn chuồn. Đến nơi, đôi cánh khép lại sau lưng thành bộ áo dài lấp lánh như
được gắn hàng nghìn mảnh gương nhỏ. Bà tiên đưa nó bay một vòng khắp thế giới,
đến tận Nhà hàng Thủy Tạ ở Bờ Hồ, nơi nó được ăn một lúc hai mươi que kem có
màu khác nhau. Bỗng nhớ tới con chó hoang, nó đòi bà đưa về. Họ lại bay một
vòng nữa khắp thể giới để quay về chỗ cũ, nơi con chó đang hậm hực chờ họ.
Con
chó không thèm ăn que kem tuyệt ngon bạn nó mang về. Nó dỗi vì không được cho
đi chơi cùng. Bà tiên mỉm cười. Để bù lại thiệt thòi ấy, bà vuốt nhẹ tay lên
người nó. Ngay lập tức cả hai vết ghẻ lớn biến mất. Bà hỏi con bé muốn gì để bà
cho nhưng nó chỉ cười, lắc đầu. Với nó chừng ấy đã quá đủ.
Nhìn
thấy con búp bê bằng giẻ nó vẫn ôm khư khư trên tay, bà tiên liền đưa nó vào
cửa hàng đồ chơi bên cạnh. Cửa hàng này lớn và đẹp lắm. Đầy ắp búp bê và thú
nhồi bông đủ loại. Trước đó nó và con chó nhiều lần đứng ngắm từ xa chứ chẳng
dám đặt chân vào. Bà bảo thích cái gì cứ nói nhưng nó chẳng dám. Cuối cùng, bà
chọn mua cho nó một con búp bê to bằng người thật, tóc vàng, váy hồng, biết
chớp mắt, biết khóc, biết nói chuyện như người thật. Còn con chó thì chẳng được
bà cho gì. Nhưng nó không lấy thế làm buồn...
*
Khi con bé đang ngủ trên vỉa hè cạnh
con chó hoang thì chính từ cái của hàng sang trọng ấy có một ông già và đứa
cháu gái khoảng mười tuổi đi ra, tay ôm một bó lớn đồ chơi. Cô bé chợt đứng lại
nói gì đấy với ông nó. Ông già mỉm cười gật đầu. Nó vội chạy lại, nhẹ nhàng đặt
một con chó nhồi bông rất đẹp cạnh đứa bé tội nghiệp lúc ấy đang mỉm cười trong
mơ.
Lát
sau, có gã đàn ông mặt mũi sần sùi đi ngang, chốc chốc lại ngoác rộng mồm ngáp.
Thấy món đồ chơi đắt tiền bên cạnh một đứa bé đang ngủ và con chó ghẻ, hắn bỗng
đứng khựng lại, lấm lét nhìn trước ngó sau rồi cúi xuống cầm lên, rảo bước đi
thẳng. Con chó ghẻ thấy hết, biết hết. Nhưng nó vẫn nằm im như không có gì xẩy
ra. Trường hợp khác thì nó đã nhảy bổ lên mà cào cắn thằng ăn cắp kia, dẫu nó
chỉ là con chó hoang bé xíu. Chắc nó đã kịp hiểu rằng con chó bông kia sẽ là
đối thủ đáng gờm trong việc tranh dành tình yêu của con bé bạn nó. Một đứa bạn
tốt gớm.
Con bé tỉnh dậy, ngạc nhiên vì không
thấy con búp bê bà tiên cho. Nhưng rồi nó cũng hiểu đó chỉ là giấc mơ. Đây
không phải lần đầu nó nhận được nhiều thứ trong mơ mà lúc dậy chẳng thấy gì.
Con chó ghẻ cũng ỉm chuyện thằng ăn cắp có bộ mặt sần sùi và hay ngáp vặt. Tuy
nhiên, hình như nó cảm thấy xấu hổ về thái độ không trung thực của mình, nên
đáng lẽ phải rúc vào lòng bạn như mọi lần ngủ dậy trước đấy, bây giờ nó quay
mặt, lơ đãng nhìn đâu đó.
Lát
sau hai đứa lại chơi cái trò nhàm chán của chúng với con búp bê cụt tay bằng
giẻ. Có điều lần này không còn thích thú như trước. Con chó vẫn chưa hết băn
khoăn về sự phản bội của nó. Đứa bé thì còn tiếc món quà của bà tiên. Nó cũng
buồn vì thấy con chó chưa khỏi ghẻ. Tuy nhiên chúng vẫn tiếp tục chơi, bình
thường và vô hại. Chúng không biết một tai họa lớn đang đến gần...
*
Lúc ấy khoảng bốn, năm giờ chiều. Hai
đứa chơi chán và đang ngồi tán gẫu với nhau theo cách riêng của chúng. Nắng mùa
đông vẫn còn rực rỡ. Mọi việc diễn ra theo đúng trình tự và qui luật thường
ngày. Phố đông hơn vì đang là giờ tan tầm, nhưng không vì thế mà người ta chú ý
hơn tới chúng. Càng tốt. Con bé đang gãi chỗ ghẻ cho con chó, con chó thì nhìn
nó vẻ biết ơn, đôi mắt ươn ướt.
Bỗng một chiếc xe hòm từ đâu phóng
tới, đỗ xịch phía bên kia đường. Hai gã thanh niên nhảy xuống, một đứa cầm gậy,
một đứa cầm chiếc vợt lưới như vợt trẻ con bắt bướm, có điều to hơn nhiều.
Trong xe có tiếng rên ư ử như tiếng chó. Nhiều tiếng một lúc.
"Ta
làm thật gọn nhé!'" Một đứa nói, rồi cả hai tiến lại gần đứa bé và con
chó. Con chó tinh lắm. Nó lờ mờ đoán có chuyện chẳng lành, liền vùng dậy định
bỏ chạy, nhưng con bé đã kịp giữ chặt nó. Vì thế mà hai gã kia dễ dàng giật lấy
con chó rồi ném vào thùng xe cùng những con chó hoang khác. Chính quyền đang có
chủ trương giảm bớt, nếu triệt hết càng tốt, số lượng chó hoang đông đúc trong
thành phố. Chúng có vẻ hài lòng, vì thêm một con, chúng được thưởng thêm một số
tiền. Rồi chúng rồ máy cho xe đi tiếp. Bầy chó lại tru lên, trong đó chắn chắn
có tiếng tru không nhỏ của con chó ghẻ.
Còn
con bé tội nghiệp thì mãi lúc sau mới hiểu hết tai họa vừa bất ngờ đổ xuống đầu
nó. Người ta đã bắt mang đi và có thể sẽ giết chết con chó ghẻ, người bạn duy
nhất của nó. Thế mà lúc ấy nó lại ngu ngốc giữ chặt con chó để người ta bắt.
Nếu không, chắc nó đã thoát.
Con
bé lặng lẽ khóc. Hai dòng nước mắt chảy trên má. Trước đây mỗi lần nó khóc, con
chó liếm nước mắt cho nó. Bây giờ nó còn lại một mình. Từ nay sẽ không có ai
chơi, trò chuyện cùng, và quan trọng nhất là vào chợ tha nhặt những mẩu thức ăn
thừa cho nó nữa. Mà nó thì đã bắt đầu đói. Vì còn bé, nó chưa có khái niệm thế
nào là những con chó hoang và những đứa trẻ hoang như nó. Thế cũng may, nếu
không, nó sẽ lo người ta có thể bắt và giết nó như con chó bạn nó.
Khi không còn nước mắt nữa để khóc, nó
cúi xuống bắt chấy cho con búp bê cụt tay bằng giẻ rách. Như mọi ngày, mọi
người vẫn thản nhiên đi ngang, và vẫn không ai mảy may để ý đến nó.
Hà
Nội, 30. 3. 2001
HÈN
- Nhà báo?
- Cũng gần như thế, - anh đáp. - Chính
xác hơn, tôi viết văn.
- Nghe kêu đấy. Nghĩa là thêm một anh
đạo đức giả nữa mò đến cái địa ngục thiên đường này. Xin chúc mừng. Dẫu sao thì
ở địa ngục hay thiên đường, người ta vẫn cần có bạn, mà tôi thì ở đây một mình
đến phát ngấy lên rồi.
Đoạn,
ông ta chìa bàn tay thô kệch, đen trũi và đầy lông lá cho anh. Anh thấy khó
chịu với con người bỗ bã có vẻ ngoài khác thường này: béo, lùn, cụt một chân,
tóc bù xù đốm bạc và nét mặt dữ tợn. Cánh tay phải xăm hình chiếc neo khổng lồ.
Trên hơn một chút là trái tim với mũi tên xuyên qua. Anh đoán bên trong chiếc
áo phông cáu bẩn chắc còn nhiều hình xăm ấn tượng khác. "Thêm miếng vải
đen che một mắt thì sẽ là tên cướp biển chính hiệu", anh nghĩ.
Anh vừa từ Sài Gòn bay ra Côn Đảo,
được bố trí ở ngôi nhà to nhất trên đảo. Nó vốn là tư dinh của bao đời chúa đảo
người Pháp ngày trước. Bây giờ là nhà ở và nơi làm việc của trưởng đảo cách
mạng. Khi anh đến chẳng có ai, ngoài con người đang ngồi trước mặt.
- Còn ông?
- Tôi là Cướp Biển. Tên chứ không phải
nghề. - Ông kia đáp, có vẻ thích thú. -
Nhưng tôi hiền, đừng lo. Tôi là nhà hải dương học từ Nha Trang ra cắm
chốt ở đây lâu rồi. Trước lặn dưới biển nghiên cứu biển, nay cá mập xin mất một
chân đành nằm cạn, nghiên cứu cạn.
- Sao ông gọi tôi đạo đức giả?
- Vì năm ngoái một nhà báo như anh ra
đây rồi viết một bài tôi không thể gọi bằng cái tên nào khác. Còn tởm hơn cả
nói láo. Nhưng lần này thì tôi quyết giúp anh không phạm sai lầm đó.
- Tôi không định viết bài báo nào cả,
cũng chẳng hề muốn thành kẻ đạo đức giả.
- Vậy anh ra đây làm gì ?
- Để tận mắt thấy Côn Đảo và nếu có
thể, tìm hiểu thêm về nó.
- Vậy thì gặp may rồi đấy. Tôi là
người thích hợp nhất cho anh trong việc này. Có điều xin nói trước: Tôi lắm lời
lắm. Chả là bao lâu rồi không có người để nói chuyện mà. Lúc nào không muốn
nghe, cứ thẳng thừng ngắt lời. Tôi không tự ái đâu. Tôi còn thích ra lệnh cho
người khác nữa. Bây giờ thì anh đi tắm rửa, nghỉ ngơi đi. Phòng số ba, cạnh
phòng tôi. Bà Bảy sẽ nấu cơm cho anh. Còn cô Lý, chủ nhiệm kiêm lễ tân, kiêm
làm phòng ở đây thì đang ốm nằm ở trạm xá. Chắc tuần nữa mới về.
Tối
hôm ấy cô Lý về, nhưng sáng hôm sau anh mới thấy mặt. Đó là một cô gái đặc sệt
Nam Bộ thời kháng chiến, từ bộ bà ba màu đen, chiếc khăn rằn đến giọng nói, cử
chỉ. Anh lấy làm lạ sao bây giờ cô vẫn ăn mặc kiểu ấy, cứ như vừa từ R ra. Cô
nhỏ người, thon lẳn, nét mặt buồn buồn, ít nói và hay cả thẹn. Toàn bộ con
người cô toát ra cái gì đấy rất dịu dàng. "Một cô gái thật xinh và dễ
thương", anh nghĩ. Anh mới kịp trao đổi với cô mấy lời thì ông Cướp Biển
đã lôi anh đi, gọi là "làm một vòng tham quan quanh đảo".
*
-
Tù đấy, - ông Cướp Biển bảo anh khi họ đi ngang một tốp người đang chơi bóng
chuyền.
-
Tù? - anh ngạc nhiên hỏi. - Ở Côn Đảo bây giờ vẫn còn tù à?
-
Còn chứ. Nhiều. Không phải tù chính trị hay hình sự mà tù bất đắc dĩ. Đám
thuyền nhân vượt biên ấy mà. Nhiều người vì gặp bão, hết xăng, nhiều người
tưởng đây đã là đất tự do, reo hò ầm lên cho đến khi nhìn thấy công an ta. Thế
là hòn đảo này phải nuôi báo cô họ. Hàng ngày đúng giờ đi làm, cuốc xới nhăng
nhít gì đấy ngoài Bãi Dương, đúng giờ về điểm danh, chơi bóng, ăn cơm và đi
ngủ. Chẳng giam giữ, chẳng quần áo tù, chẳng phải lo canh gác. Họ còn chạy đi
đâu được nữa? Có cấp thuyền cho cũng chịu. Ấy là nói thuyền nhỏ, tất nhiên.
Lát
sau, chỉ tay vào một người đàn ông to béo ngồi bán nước trong quán, ông Cướp
Biển lại nói:
-
Cũng tù đấy. Chính xác hơn là cựu tù hình sự chế độ cũ. Quá nguy hiểm và chưa
hết hạn thụ án nên còn phải ở đây. Loại này cũng nhiều.
Liền
lúc ấy một người đàn ông trạc sáu mươi tuổi đạp xe đi ngang, tóc húi cua, dáng
gầy gò khắc khổ, mặc bộ quần áo bộ đội mới và rộng thùng thình. Ông Cướp Biển
cúi chào cung kính, rồi quay sang bảo anh:
-
Cũng tù nốt. Tù chính trị khổ sai, bây giờ là chúa đảo cách mạng, đã hơn ba
mươi năm thâm niên ở đây. Vì không có người, vì am hiểu nơi này nên bị người ta
yêu cầu ở lại, sau khi về thăm quê đúng một tháng. Không gia đình, không vợ
con. Nói chuyện với "cụ" vui lắm, cứ như người của cái thời cách mạng
cách đây ba bốn chục năm. Tháng trước "cụ" vừa ban lệnh cấm uống
rượu, cấm để tóc dài, cấm mặc quần loe và nhiều lệnh cấm khác. Không tin à? Rồi
sẽ biết.
-
Như bác nói thì ở đây toàn tù.
-
Đúng thế, trừ mấy ông công an, một đơn vị bộ đội đóng tít trên núi và những
người như tớ, cậu và cô Lý. À mà đừng léng phéng rủ cô ấy đi chơi đấy nhé. Ông
trưởng đảo sẽ bắt hai người lấy nhau đấy. - Rồi ông hạ giọng nói thêm: - Tội
nghiệp con bé. Suy cho cùng, nó cũng là tù nốt...
-
Sao lại vậy? - anh ngạc nhiên hỏi.
-
Vì năm bảy lăm cô ấy tới đây theo lời kêu gọi ra xây dựng đảo anh hùng, tưởng
sáu tháng, một năm, ai dè bây giờ hơn bảy năm rồi vẫn chưa được về đất liền...
-
Vì sao?
-
Vì không ai chịu ra thay. Tự ý bỏ về thì vướng Đoàn, Đảng. Định đào ngũ à?
-
Nhưng không thể kéo dài mãi thế được. Còn chồng con người ta và bao nhiêu
chuyện khác nữa.
-
Đúng vậy. Thế mới gọi là tù. Cả ông trưởng đảo cũng tù nốt. Ấy là nói theo cách
văn vẻ. Chỉ tớ và cậu thì không. Cậu sẽ bay về Sài Gòn chuyến bay thứ năm tuần
tới. Tớ muốn về lúc nào cũng được, nhưng không về. Tớ ghét đất liền. Vả lại còn
công việc.
Lúc ấy trời đã xế chiều. Họ ngồi trên tảng
đá lớn nhìn ra biển, ngắm mặt trời lặn và nói chuyện. Chủ yếu ông Cướp Biển
nói, anh chỉ nghe. Gió thổi nhẹ. Nước biển ở đây sâu và có màu xanh tím. Phía
xa xa lác đác một vài con thuyền, không hiểu thuyền đánh cá hay thuyền gì. Nếu
không có câu chuyện vừa rồi về những người tù đủ loại và lịch sử rùng rợn của
hòn đảo, thì có thể nói đây là nơi tuyệt đẹp. Chí ít cũng là một địa điểm du
lịch lý tưởng trong tương lai, với bãi biển cát mịn trắng phau và những dãy
núi, những hàng dừa thơ mộng.
Ông
Cướp Biển quả "rất hiền" như ông nói, lại xởi lởi và hay chuyện. Chắc
túm được anh, ông mừng lắm. Ông kể nhiều điều thú vị về hòn đảo này, đặc biệt
về các loài tôm cá và san hô, là cái thực tình anh chẳng quan tâm mấy.
Không
hiểu đúng sai thế nào, nhưng theo ông cho biết thì cái tên Côn Đảo bắt nguồn từ
chữ "Condore" của người Pháp trước đây, mà “Condore” lại là chữ đọc
chệch của "Cundur", cái tên được người Ả-rập đặt cho hòn đảo này vào
thế kỷ thứ chín. Nghĩa là từ xa xưa nó đã từng in dấu chân của không chỉ các
nhà hằng hải phiêu lưu Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh và Pháp, mà cả đại diện của
xứ Trung Đông ít ai ngờ tới. Thậm chí cả Marco Polo cũng từng có mặt ở đây.
-
Vào năm 1294, cả đoàn tàu gồm 14 chiếc của nhà thám hiểm lừng danh người Bồ Đào
Nha này ghé vào Côn Đảo để tránh một cơn bão khủng khiếp trước đó đã làm chìm
tám chiếc tàu của ông. Vậy mà sau một mất mát to lớn như thế, ông còn đủ cảm
hứng ghi vào nhật ký (sau này viết lại thành những câu chuyện ly kỳ nổi tiếng
thế giới) hai chữ "thần tiên" khi nói về hòn đảo xa lạ này. - Ông Cướp
Biển vừa hào hứng nói, vừa chỉ ngón tay trỏ múp míp lên trời, như muốn thề rằng
ông không phịa.
Anh
tin ông, không chỉ vì các con số và tên người cụ thể, mà vì ông có vẻ hiểu biết
rất nhiều về hòn đảo nơi ông bị "cầm tù" lâu nay.
-
Chưa hết. Cậu là nhà văn, chắc phải thú vị lắm khi tớ cho biết điều này nữa.
Tin hay không thì tùy chứ từng có một nhà thơ lớn châu Âu thời Phục Hưng đã tới
Côn Đảo và viết những vần thơ lai láng về nó. Ngạc nhiên à? Nói có sách, mách
có chứng nhé. Cậu đã bao giờ nghe nhắc đến tập "os Lusiadas" của nhà thơ vĩ đại Bồ Đào Nha Luis Vaz de Campes
chưa? Chưa? Thế mà ông ta đã viết nó ở đây đấy, viết vào giữa những năm sáu
mươi của thế kỷ mười sáu, một phần hay tất cả tớ không biết chính xác. Có thể
ông ta viết chính nơi ta đang ngồi. Sau đó tàu ông gặp bão, chìm ở cửa sông
Tiền. Thế mà bản thảo tác phẩm "os Lusiadas" bất hủ ấy vẫn được giữ
nguyên vẹn và lưu truyền đến tận ngày nay. Nó là một trong những tác phẩm văn
học đầu tiên của phương Tây nói về Việt Nam. Tớ định sau này có dịp ra Hà Nội
sẽ đến các thư viện lớn, nếu có thì đọc xem sao. Tớ biết tiếng Bồ đấy. Cậu lại
không tin? Chả là tớ từng làm chuyên gia ở Ănggôla mấy năm, dạy trung học thôi
chứ chẳng liên quan gì đến biển.
-
Sao bác biết được những chuyện ấy? Tôi chẳng thấy sách báo ta nói gì cả.
-
Thì tớ đã bảo tớ biết tiếng Bồ mà lại. Dạo ở Ănggôla, gặp nội chiến chẳng dạy
dỗ gì được, tớ lên thủ đô nằm dài cả mấy tháng trời và vào thư viện đọc sách.
Ngẫu nhiên đọc rồi biết. Thế thôi. Có thể sách báo mình cũng viết nhưng tớ và
cậu không đọc nên không biết.
Hôm sau, lúc đi dạo một mình vào buổi
sáng sớm, anh phát hiện thêm một điều lý thú nữa về Côn Đảo mà ông Cướp Biển
không biết hoặc quên chưa nói. Trong ngôi nhà gạch to lớn một cách nặng nề sát
bờ biển anh thấy có tấm biển bằng đồng đã han gỉ với dòng chữ tiếng Pháp:
"Nơi đây nhạc sĩ vĩ đại Camille Saint -Saens đã sống và làm
việc từ ngày 20 tháng Ba tới 19 tháng Tư năm 1895". Sau này anh biết
thêm là trong quãng thời gian ấy ông đã hoàn tất vở ôpêra nổi tiếng
"Brunechilda", và rằng ông tới Côn Đảo theo lời mời của bạn ông, lúc
đó đang làm chúa đảo ở đây.
-
Tớ mà còn không biết chuyện ấy! Biết nhiều nữa là khác. - Ông Cướp Biển vội nói
khi anh kể với ông. - Đừng hỏi vì sao tớ biết, nhưng cứ tin đi, rằng con tàu
"Fair Margaret" chuyên chạy tuyến Macxây - Sài Gòn và ngược lại hôm
ấy chỉ vì cái ông nhạc sĩ đó mà phá lộ trình, dừng lại ở Côn Đảo những nửa
ngày. Trên tàu người ta thổi kèn tiễn ông lên bờ. Trên bờ, ông bạn chúa đảo bắt
lính bồng súng đứng thành hai hàng dài từ cầu tàu cho đến tận nhà khách, nơi có
chiếc đàn dương cầm loại lớn màu trắng được ông ta đưa từ đất liền ra đang chờ
sẵn. Không có các thiếu nữ Việt Nam xinh đẹp tặng hoa cho khách quí, vì lúc ấy
ở đây chỉ toàn tù chính trị, nhưng hai cô con chúa đảo đã làm việc này. Cái tay
thực dân khét tiếng ấy cũng mê âm nhạc và quí người tài. Nghe nói trong một
tháng nhạc sĩ ở đây, hắn cố tình để ông không nhìn thấy nhà tù và tù nhân, thế
mà ông ấy vẫn làm quen được và tranh luận khá nhiều về triết học, chính trị với
một nhà cách mạng người bản xứ. Nghe nói ông đã xin tên chúa đảo thả ông ta ra
nhưng hắn không chịu. Cũng có thể hắn nghe và làm theo mà ta không biết.
*
Họ
lặng lẽ đi bên nhau, đôi lúc tay cầm tay. Mới tám giờ rưỡi mà con đường rải
nhựa và cũng là đường phố duy nhất chạy men theo bờ biển Côn Đảo chẳng còn ai
ngoài họ. Các tù nhân bất đắc dĩ đã đi ngủ từ lâu theo kẻng. Hàng quán không
có, do vậy không có cả tiếng nhạc và tiếng ồn. Chỉ thấp thoáng đây đó một vài
ngọn đèn mờ còn tù mù hơn cả ánh trăng tròn và rất to kề sát mặt nước.
Cuối
cùng họ dừng lại ở mép ngoài cầu tàu 787. Nghe nói nó có cái tên này là vì 787
người tù đã bỏ mạng khi cõng đá từ trên núi cao xuống xây nó năm nào. Mặt cầu
tàu gồ ghề những hòn đá tròn khiến khi đi anh có cảm giác rờn rợn như đang dẫm
lên đầu 787 người đã chết.
-
Có phải em ngần ngại mãi không chịu đi chơi với anh vì ở đây có quy định đã đi
chơi là phải lấy nhau không? - anh hỏi, nửa đùa nửa thật.
Lý
không đáp ngay, vẫn im lặng đi bên anh, mắt không ngắm đêm trăng tuyệt đẹp trên
biển mà thường cúi nhìn xuống đất, tay mân mê tà áo phin trắng mà anh để ý cô
chỉ mặc những lần đi dạo cùng anh. Ban ngày cô luôn mặc bộ bà ba quen thuộc,
đôi lúc quàng cả khăn rằn.
-
Bác Thắng (ông Cướp Biển) đùa đấy thôi. Anh biết rồi còn gì. - Cuối cùng cô lí
nhí nói. Bất chợt ngước lên nhìn anh, cô hỏi: - Thế anh không sợ đi chơi thế
này sẽ bị bắt phải lấy em à?
Anh
phá lên cười, vòng tay ôm vai cô, định hôn nhưng cô né ra dù trước đấy họ đã
từng hôn nhau.
-
Anh đang mong bị bắt làm thế đây. Mà rồi không bị bắt, anh cũng sẽ lấy em và
đưa em về đất liền. Về tận Hà Nội cơ.
-
Vì thực sự yêu em hay chỉ vì thương em bị tù ở đây như anh nói?
- Cả hai. Em đồng ý chứ?
Lý không đáp, chỉ lặng lẽ quay về phía anh.
Anh dịu dàng áp hai tay vào má cô, nâng lên. Dưới ánh trăng rằm, khuôn mặt cô
thật đẹp. Hơi nước biển và ánh trăng tạo thành một màng mỏng kỳ ảo nửa xanh nửa
vàng phủ lên mái tóc cô. Họ không nói gì thêm, chầm chậm bước đi.
Những gì cần nói đã được nói từ trước. Cả
đảo đã biết hết mọi chuyện, kể cả ông trưởng đảo nghiêm khắc. Ông chỉ cười, đó
là dấu hiệu tán thành. Còn ông Cướp Biển trong chuyện này thì rõ ràng giữ một
vai trò rất quan trọng. Vai trò người làm mối, và ông đã thành công mĩ mãn. Ông
giới thiệu họ với nhau, khích lệ, bố trí họ đi chơi. Khi thấy công việc có vẻ
tiến triển, chính ông thu xếp để anh nhỡ hai chuyến bay vào đất liền. Chuyến
thứ ba tự anh xin hoãn vì tình yêu đã xuất hiện và anh muốn ở lại thêm với cô
một tuần nữa. Thứ năm tới, tức là đúng một tháng sau khi tới đảo, anh về Hà Nội
thưa chuyện với bố mẹ, một tháng nữa sẽ quay lại cùng Lý về Minh Hải xin phép
gia đình cô. Bao giờ cưới bàn sau. Anh đã nói chắc chắn với cô như vậy, với sự
chân thành và bồng bột của tuổi trẻ. Đây không phải mối tình đầu của anh, nhưng
là mối tình sét đánh. Anh yêu Lý, yêu từ cái nhìn đầu tiên như người ta vẫn
nói, và tin vào tình yêu ấy, không chút tính toán hơn thiệt.
Đêm
trước ngày lên đường, ông Cướp Biển đùa bảo anh:
-
Cậu mà không lấy cái Lý thì liệu, thằng cướp biển này sẽ không tha đâu. Nhớ
lấy!
Anh
chỉ cười, không tin chuyện ấy có thể xẩy ra. Ở sân bay, anh hôn Lý trước mặt
mọi người, nhấn thêm một dấu khẳng định nữa cho quyết tâm không gì lay chuyển
được của mình.
- Một tháng nữa anh sẽ quay lại với em.
*
Từ
ấy đến nay đã hai mươi năm trôi qua. Anh đã là một người đàn ông chững chạc,
thậm chí một nhà khoa học nổi tiếng. Tự lúc nào không biết, anh đã thành ông.
Ông có vợ và hai con đang học đại học. Việc công, việc tư đều suôn sẻ. Ông
chẳng có gì phải than phiền về cuộc đời mình, chỉ tiếc vợ ông không phải cô Lý,
và điều này làm ông buồn, đôi khi xấu hổ. Ông đã không quay lại với cô sau một
tháng như đã hứa. Chẳng bao giờ quay lại. Chẳng gặp cô thêm lần nào.
Gia
đình ông, vốn thuộc loại danh giá và ít nhiều phong kiến ở Hà Nội, đã kịch liệt
phản đối khi ông xin phép cưới Lý, một cô gái được coi là “không môn đăng hộ
đối”, “làm cấp dưỡng ở tít ngoài Côn Đảo”, “không ai biết lai lịch thế nào,
thậm chí học hết lớp mấy cũng chẳng rõ!” Ông nhất quyết không chịu và mấy lần dọa
bỏ nhà ra đi, nhưng rồi mọi người thuyết phục, bà mẹ suốt ngày than khóc van
xin - một đòn tâm lý lợi hại và luôn có kết quả. Cuối cùng, trước khi hết cái
thời hạn một tháng đã hứa, ông gửi Lý một bức thư với vẻn vẹn dòng chữ
"Hãy tha thứ cho anh, bố mẹ anh không đồng ý". Ông không muốn viết
dài, vả lại cũng chẳng biết viết gì thêm. Chưa đầy một tháng sau, ông nhận được
thư của ông Cướp Biển với duy nhất một chữ "Hèn!" Chữ ấy được viết
hoa, tô đậm ngay chính giữa tờ giấy. Sau đấy họ chẳng liên hệ gì hay biết tin
gì về nhau nữa.
Cùng năm tháng, ông cũng nguôi ngoai dần,
chỉ thỉnh thoảng nhớ về cô với chút ít lương tâm cắn rứt. Ông biết ông thật có
lỗi với Lý. Bằng sự đầu hàng quá nhanh chóng và hèn nhát như vậy, ông đã gây
cho cô đau khổ, có thể cả phiền toái khi tiếp tục sống ở Côn Đảo. Ông Cướp Biển
chỉ dùng một từ mà nói đúng thực trạng con người ông lúc ấy. Hèn! Vâng, ông xử
sự như một thằng hèn. Nếu can đảm hơn, kiên quyết hơn, ông đã không bỏ rơi cô,
có thể không bỏ rơi cả hạnh phúc cuộc đời mình. Ông thực sự yêu Lý, yêu khuôn
mặt xinh đẹp được ánh trăng và hơi biển phủ nhẹ một màng xanh vàng kỳ ảo đêm
ấy. Nếu không hèn, ông đã với tới được cái đẹp kỳ ảo ấy. Sống ở đời, ông biết,
ai cũng phạm sai lầm, nhưng sai lầm dưới dạng hèn nhát thuộc phạm trù khác,
phức tạp hơn và cũng khó tha thứ hơn. Có thể một ngày nào đấy ông sẽ quên không
nghĩ tới Lý và ông Cướp Biển nữa, nhưng chữ "hèn" ông ta dành cho ông
thì chắc chắn còn ám ảnh suốt đời...
*
Lúc
này ông đang ở Côn Đảo. Ông tới đây bằng trực thăng như nhiều khách du lịch
khác, và ở khách sạn có điều hòa chứ không phải tư dinh các chúa đảo người
Pháp. Côn Đảo đã thay đổi nhiều, đến mức không còn nhận ra nổi. Cầu tàu 787 nơi
ông đang ngồi không còn những viên đá tròn gồ ghề như đầu tử tù ngày xưa ông
tưởng tượng. Không còn cô Lý mặc áo bà ba, quàng khăn rằn. Không còn ông Cướp
Biển bỗ bã mà tốt bụng. Nhưng vẫn còn đó những lời ông kể về nhà thơ Bồ Đào Nha
thời Phục Hưng cùng bản trường ca bất hủ ông viết ở đây. Còn đó tấm biển đồng
nói về nhạc sĩ Camille Saint-Saens vĩ đại. Ông nhắm mắt, hình dung thấy nhạc sĩ
đang mỉm cười bước từ tàu "Fair Margaret" xuống, và giữa hai hàng
lính bồng súng đứng nghiêm, ông đi về phía chiếc đàn dương cầm lớn màu trắng
... Còn đó tiếng sóng biển rì rào và mặt trăng, cũng tròn và sáng như đêm nào
ông ở đây cùng Lý.
Ông
khum hai bàn tay, giơ cao nâng ánh trăng. Hơi nước và ánh trăng cũng phủ nhẹ
lên tay ông một màng mỏng màu xanh vàng kỳ ảo. Thật tiếc trong đôi tay đã không
còn khuôn mặt xinh đẹp của người ông yêu. Cái còn lại bây giờ là một sự trống
rỗng, cả trong tay lẫn trong lòng ông. Cuối cùng, cả sự trống rỗng ấy cũng biến
mất để nhường chỗ cho một cảm giác chua xót. Cảm giác rằng mình là một thằng
hèn.
Hà
Nội, 12. 8. 2001
TUYẾT
TRẮNG
1
-
Con đi Mỹ lần này thế nào cũng phải tìm gặp bằng được bà ấy, - mẹ tôi nói,
không biết đã là lần thứ mấy. - Tội nghiệp bà lão!
-
Làm sao con gặp được? Nước Mỹ lớn lắm, đâu như làng Vĩnh Yên nhà mình. - Tôi
đáp, cũng không phải lần đầu. Tôi vừa thấy bực mình vừa buồn cười vì nói mãi mẹ
tôi vẫn không chịu hiểu điều đơn giản đó. - Bà ấy sang Mỹ sống với con trai thì
sướng, sao mẹ bảo "tội nghiệp"?
Mẹ
tôi thở dài, thong thả nhổ vào chiếc ống đồng miếng bã trầu cụ ngậm đã hơn một
tiếng đồng hồ.
- Các anh hiện đại, sống ở thành phố, đâu hiểu được lòng
người già.
"Bà ấy" là bà cụ Mật, bảy mươi tuổi, bạn thân
của mẹ tôi từ thời con gái. Hai cụ quen sống có nhau đã mấy chục năm, nay xa
nhau mẹ tôi nhớ cũng dễ hiểu. Tôi biết thế nên cũng muốn gặp bà Mật để sau này
kể cho mẹ tôi nghe về bà ấy. Nhưng làm điều này đâu dễ? Trước khi về quê, tôi
được báo có tên trong đoàn nhà văn Việt Nam sắp thăm Mỹ. Cụ thể đi đâu, làm gì
thì đến bây giờ vẫn chưa biết. Tuy nhiên, hiểu tính khí người già, tôi đành cầm
chiếc phong bì có địa chỉ anh con bà Mật ở Mỹ mà một lần anh ta gửi cho họ hàng
ở làng tôi. Tôi hứa sẽ cố tìm bà bạn của cụ nếu có thể. Còn gói cau khô và bó
trầu xanh thì cương quyết không nhận mang hộ, vì nghĩ khả năng gặp được bà cụ
cùng làng ở tít bên ấy là rất ít, nếu không muốn nói là điều không thể.
2
Chuyện
bà cụ Mật đi Mỹ một thời từng làm xôn xao làng tôi và cả mấy làng lân cận. Số
là cách đây năm năm, đùng một cái, bà cụ Mật được anh con trai cùng cô vợ đầm
trắng hếu, tóc vàng và đứa con lai bốn tuổi từ Mỹ về, tuyên bố đón bà sang sống
"bên ấy" với anh ta.
Chà,
người kéo đến xem cứ như hội. Mọi người ngạc nhiên không chỉ vì thấy anh Hòa
con bà, ngày nào còn là một thanh niên làng chài rất ít khi mặc quần áo, gầy và
đen chùi chũi, thế mà bây giờ cứ trắng hồng, com-lê, cà vạt nghiêm chỉnh, lại
để cả ria mép nữa. Họ còn ngạc nhiên khi thấy "bà đầm" vợ anh nói
được tiếng Việt, thậm chí thuộc lòng cả một đoạn Kiều dài. Chưa hết, "bà
ấy" rất thoải mái, dễ gần, hay cười và đặc biệt gặp ai cũng chào. Thằng
con lai thì về hôm trước, hôm sau đã thấy chổng mông chơi bi với lũ trẻ chân
trần, mũi thò lò trong xóm. Hóa ra người Mỹ họ bình dân như ta. Mà "thằng
Hòa" cũng chẳng kiểu cách ta đây như ối anh Việt Kiều khác. Trừ vẻ ngoài,
"nó" vẫn là "thằng Hòa" ngày xưa như họ biết - chăm làm,
yêu thương mẹ, chất phác và biết kính trọng người khác.
"Đúng
là nhà có phúc!"
"Sang
bên ấy tha hồ mà sướng nhé!"
Bà cụ Mật góa chồng từ ngày mới sinh anh Hòa. Từ đó hai
mẹ con ở vậy nuôi nhau. Như mọi người khác trong làng, bà làm ruộng, lúc rỗi
việc nhà nông, bà cùng mẹ tôi hàng ngày xuống chợ Hôm cách làng mấy cây số ngồi
bán mấy mớ trầu, buồng cau, chục trứng hoặc vài thứ lặt vặt khác.
Anh Hòa lúc nhỏ cũng được đi học như những đứa trẻ khác.
Anh học giỏi, thi đại học hai lần nhưng không hiểu sao đều trượt. Vì con một
phải nuôi mẹ già nên thời chiến tranh anh không bị gọi nhập ngũ, chỉ ở nhà tham
gia dân quân và ra biển đánh cá, lúc đầu còn trong hợp tác xã ngư nghiệp, sau
hợp tác tan, anh cùng mấy người nữa sắm thuyền đi riêng. Năm 1979, lúc này đã
gần ba mươi nhưng vẫn chưa vợ, một lần anh cùng hai người nữa lên thuyền ra
biển như mọi ngày, không may gặp bão lớn không về kịp, thuyền anh bị sóng đánh
vỡ, mỗi người dạt đi một nơi.
Ở nhà ai cũng tin họ đã chết. Bà Mật khóc cả tháng trời, sau
đó ốm một trận may lắm mới khỏi. Rồi bà được một người cháu đằng nội, nửa khôn
nửa dại, không chồng đến ở chung. Cô cháu này tuy dở người nhưng chịu khó nên
hai cô cháu sống cũng tàm tạm. Bà vẫn nhận làm sào rưỡi ruộng khoán, lúc nào
cũng có bầy gà và đôi lợn trong chuồng, vẫn đều đều đi chợ Hôm cùng bà bạn thân
là mẹ tôi.
Một năm sau, bà bất ngờ nhận được thư con trai. Lại từ
nước Mỹ. Hóa ra lúc đắm thuyền, con trai bà vớ được tấm ván, lênh đênh trên
biển đúng hai ngày hai đêm và đang lúc sắp chết thì được một tàu nước ngoài vớt
lên, đưa tới hòn đảo nào đó bên Malayxia, ở đấy mấy tháng, làm thủ tục và được
người ta cho sang Mỹ.
Thư anh viết ngắn, hỏi hai người kia còn
sống không, cho mẹ biết anh mạnh khỏe và đang chuẩn bị vào học một trường Đại
học lớn tại Mỹ. Từ đó anh đều đều viết thư cho bà, thỉnh thoảng gửi cả tiền.
Cùng với thời gian, anh báo tin học xong, tìm được việc làm, mua ô tô, nhà
riêng, lấy vợ rồi có con...
Hôm nay, đúng mười năm kể từ ngày gặp nạn ngoài biển, lần
đầu tiên anh về quê thăm mẹ, và như mọi người đang kháo nhau trong làng, sẽ đưa
bà sang "bên ấy" sống hẳn.
-
Thế con Sáu thì sao? - bà cụ Mật hỏi. "Con Sáu" là tên cô cháu dở
người vẫn sống với bà cụ.
-
Thì cô ấy trước ở đâu nay về đấy. Hoặc ở lại nhà này, nếu muốn. Thỉnh thoảng con
gửi tiền giúp đỡ.
-
Còn đôi lợn và bầy gà?
Anh
con cười:
-
Không lẽ mẹ định đem theo sang Mỹ?
Thằng con lai đang ngồi cạnh kêu lên thích chí, giọng lơ
lớ:
-
Đem đi theo! Đem đi theo!
-
Còn sào rưỡi ruộng và cái ao mùng?
Đứa
cháu lần nữa lại kêu lên:
-
Đem đi theo! Đem đi theo!
Bà cụ Mật ngồi im. Bà ngồi im rất lâu vì quả không biết
nên nghĩ gì, làm gì. Bà mừng vì cuối cùng lại được gặp con. Mừng cả vì người
con dâu và đứa cháu, tuy vẫn thấy họ là lạ và sờ sợ thế nào. Bà muốn được sống
cùng con, muốn biết cái nước Mỹ ấy là gì mà người ta hay nhắc đến thế. Nhưng gì
thì gì, bà không thể bỏ quê hương làng xóm mà đi được. Bà đi, ai chăm sóc con
Sáu mỗi lần nó lên cơn động kinh? Ai biết rõ hơn bà tính khí đôi lợn, đàn gà và
con chó để chiều chúng, cho chúng ăn, hoặc biết lúc nào thì nên hái mùng, những
cây mùng bà biết rõ từng gốc? Mà rồi bà sẽ sống thế nào bên ấy? Không lẽ bà sẽ
chết đâu đó và không được chôn cạnh ông Mật chồng bà?
Bà Mật đem những điều này tâm sự với mẹ tôi và hỏi nên
làm gì.
- Thì bà bảo con và dâu bà ở lại đây, - mẹ tôi nói. - Thế
là vừa sống chung, lại vừa được nuôi lợn, làm ruộng như bà muốn. Tôi và bà cũng
được đi chợ với nhau.
Bà cụ Mật lặng thinh, chắc nghĩ mẹ tôi nói có lý. Đêm hôm
ấy bà ướm hỏi con trai điều này, tuy tự bà cũng biết việc đó khó có thể xảy ra.
- Trời, mẹ! Làm sao con ở lại đây được? Vả lại có muốn,
nhà nước ta cũng không cho.
Bà Mật không tin nước ta không cho con bà về sống với mẹ.
Bà nghĩ con bà chỉ tìm cách thoái thác mà thôi, nên im không nói thêm gì nữa.
Từ đó bà cứ thơ thẩn đi lại khắp nhà, lúc xuống bếp, xuống chuồng lợn, lúc ra
vườn, có lúc ra cả ngoài đồng xa dù chẳng làm gì. Bà bước đi vật vờ như cái
bóng, đầu chít chiếc khăn nâu mỏ quạ, áo gụ sờn vai, quần đen, da nhăn nheo và
đen sẫm như màu bờ ruộng bà đang bước lên. Trong cảnh hoàng hôn sắp tàn, bóng
bà như hòa lẫn vào đất.
Mấy hôm sau bà theo con ra đi, chỉ mang hai bộ quần áo và
chiếc cơi trầu. Cô Sáu ở lại nhà bà, chăm sóc đàn gà, đôi lợn và sào rưỡi lúa
chiêm mới cấy. Cả làng ai cũng mừng cho mẹ con bà. Chỉ mấy người, trong đấy có
mẹ tôi, thì im không nói gì.
Đấy,
câu chuyện bà cụ Mật làng tôi đi Mỹ cách đây năm năm là thế. Và bây giờ mẹ tôi
bắt tôi phải tìm gặp bà cụ “bên ấy”, cái bên mà tôi chưa một lần đặt chân tới
và chỉ biết loáng thoáng qua ti-vi, sách báo.
3
Trong
một tháng ở Mỹ, may mắn tôi được tới Chicagô, nơi bà cụ Mật đang sống cùng con
trai. Trên chiếc bì thư mẹ tôi đưa có ghi như vậy. Chicago 2180, Lakeside Drive 370-21, State of Illinois, USA. Nhưng đây là địa chỉ cách đây đã
lâu, khi anh Hòa gửi thư báo ý định sẽ đưa mẹ đi cùng. Nghe nói người Mỹ thích
thay đổi chỗ ở, nên tôi chẳng dám chắc có tìm được họ theo địa chỉ này không.
Chỉ còn mấy ngày nữa là Noen. Ở Chicagô trời rất rét. Gió
thổi mạnh không dứt từ phía hồ Michigân. Thành phố hiện đại nhất và cũng là một
trong những trung tâm công nghiệp lớn nhất nước Mỹ này, đúng hơn là một rừng
những tòa nhà chọc trời bằng bê tông và kính. Ngồi trên tắc-xi, tôi cố nhưng
không thể hình dung nổi làm sao một bà cụ nông dân làng tôi có thể sống, chứ chưa
nói hòa nhập được với khu rừng đá lạnh lẽo, xám xịt ấy.
Tôi đang đứng trước cửa căn hộ cần tìm. Nó nằm tít trên
tầng 35 của một chung cư năm mươi sáu tầng. Ở Mỹ, nội điều này đủ rõ chủ nhân
nó thuộc loại bình dân, nếu không muốn nói là nghèo. Những người thuộc tầng lớp
trung lưu thường sống ở những ngôi nhà một hoặc hai tầng xa trung tâm thành
phố.
Tôi bấm chuông và đứng chờ. Không có ai trả lời. Tôi cố
tình đứng trước lỗ kính nhỏ ở cánh cửa để người bên trong nhìn thấy, sau đó bấm
chuông hai lần nữa. Kinh nghiệm dạy tôi phải kiên nhẫn. Chả là cách đây mấy
năm, tôi và nhà thơ Phạm Hổ lặn lội tới tận thành phố Thessaloniki, Hy Lạp, để
thăm một người bạn từng là lính lê dương Pháp sau chạy sang hàng ngũ Việt Minh.
Chúng tôi cũng bấm chuông chờ như rất lâu, nhưng không thấy ai mở cửa nên cuối
cùng đã bỏ đi. Thế mà năm sau gặp nhau ở Hà Nội, người bạn Hy Lạp ấy khẳng định
đúng lúc chúng tôi gọi, ông đang ngủ trong nhà và khi ông, vốn già và chậm
chạp, mặc quần áo xong đi ra thì chẳng thấy ai.
Tuy nhiên, lần này tôi đã chờ đủ lâu để đoán chắc trong
nhà không có người. Khả năng nhầm phòng được loại ngay từ đầu, vì trên cửa có
tấm biển nhỏ bằng kim loại ghi rõ tên ông bà Robert Nguyễn và Mary Nguyễn, tức
là Nguyễn Văn Hòa, cùng làng và cùng học một trường với tôi.
Đang
lúc thất vọng định vào thang máy đi xuống thì tôi thấy phòng bên có người mở
cửa. Một bà già da trắng dắt con chó giống bulldog màu nâu, mõm to và ngắn đi
ra. Sau khi chào và tự giới thiệu mình, tôi nói với bà mục đích tôi đến đây.
-
Bà cụ trong nhà ấy, - bà già đáp.
-
Nhưng tôi bấm chuông mãi không thấy ai mở cửa?
-
Thì bà cụ vẫn vậy. Đâu biết gì mà nói. Vả lại có muốn mở cũng không có chìa
khóa...
Thấy
tôi ngạc nhiên, bà hàng xóm nói tiếp:
-
Thằng bé giờ này ở trường. Ông bà Nguyễn đi làm cầm luôn chìa khóa. Một phần sợ
ở nhà cụ không biết, mở cửa cho kẻ xấu vào. Thành ra coi như suốt ngày cụ bị
nhốt trong ấy. Tội nghiệp. Tối anh lại, chắc chắn họ có nhà.
Bà già hàng xóm là người cởi mở. Ra phố tôi còn đi với bà
một quãng. Bà cho biết anh Hòa hiện làm việc tại một công ty điện toán, chị vợ
vốn trước học tiếng Việt và văn hóa phương Đông, nay dạy ở trường tổng hợp
Chicagô. Kinh tế gia đình bình thường như nhiều người ở đây. Căn hộ không thuê
mà mua theo kiểu trả góp. Cả hai chiếc ô tô cũng vậy. Còn thằng bé thì học lớp
ba. Học bán trú, hết giờ làm bố mẹ mới đón về.
- Bà cụ sống thế nào?
- Chúng tôi là láng giềng tốt, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới
sang thăm nhau vào các dịp lễ. Bà cụ ở riết một mình trong phòng riêng. Chừng
ấy năm tôi chỉ nhìn thấy cụ vài lần khi con cháu đưa ra giới thiệu. Không thấy
cụ bước chân khỏi nhà bao giờ. Phải nói cả hai ông bà Nguyễn và đứa cháu rất
quý cụ. Chỉ tại tính cụ thích thế.
Tôi
cảm ơn bà già tốt bụng, thầm mừng vì đã có những thông tin cần thiết về cụ Mật,
coi như việc mẹ tôi giao đã làm xong, nếu không quay lại được thì cũng không có
gì phải băn khoăn.
4
Nhưng
ngay tối hôm ấy tôi quay lại, dù đã quá chín giờ tối. Chỉ mấy giây sau khi bấm
chuông, chính anh Hòa ra mở cửa. Anh nhận ngay ra tôi và vồn vã dẫn vào phòng
khách, cứ chân giày bám đầy tuyết dẫm lên thảm, theo đúng phong cách Mỹ. Chúng
tôi từng là bạn chăn trâu thời bé cho đến khi tôi đi học xa. Sau đó hình như
chúng tôi còn gặp nhau vài lần nữa trước ngày anh “mất tích” trên biển. Anh tíu
tít gọi vợ con ra chào khách. Chúng tôi nói với nhau bằng tiếng Việt. Anh Hòa
vẫn giữ nguyên giọng Diễn Châu rất nặng.
Chị
Mary vợ anh nói giọng miền Nam, chắc thầy dạy trước đây người Nam Bộ. Còn thằng
con thì chẳng ra giọng vùng nào, mặc dù nó nói khá sõi.
Sau
một lúc ôn lại kỷ niệm xưa, anh Hòa nói:
-
Chiều nay đi làm về, bà hàng xóm cho biết có người từ bên nước sang tìm gặp,
nghĩ mãi không biết ai, hóa ra là anh.
-
Bà cụ đâu? - Tôi hỏi khi mãi không thấy
anh nhắc gì về mẹ.
-
Cụ ở đây và vẫn mạnh khỏe. Cụ đang ngồi trong phòng mình. Có điều gần đây chắc
do tuổi tác, cụ có vẻ bắt đầu lẩn thẩn. Suốt ngày lặng im ngồi một chỗ, đăm đăm
nhìn đâu đó và suy nghĩ những gì có trời mới biết. Anh vào thăm cụ đi, kể thật
nhiều chuyện quê hương vào, chắc cụ sẽ mừng lắm.
Tôi
theo anh đi sang phòng bên.
Đó
là một căn phòng khá rộng, mọi thứ đều trắng toát như phòng bệnh viện. Từ các
bức tường, trần nhà, tấm ri đô, chiếc giường đôi phủ ga phẳng phiu cùng chiếc
chăn gấp gọn ghẽ, chiếc gối bông, đến chiếc tủ đựng quần áo và chiếc chao đèn
đầu giường - tất cả đều màu trắng. Cả chiếc ghế bành rất sâu và lớn kê sát cửa
sổ cũng trắng. Và lọt thỏm trong đó là một bà già bé nhỏ đang đờ đẫn nhìn ra
ngoài qua tấm kính cửa sổ không che ri-đô. Bên ngoài tuyết đang rơi những bông
lớn và dày, nhìn thấy rất rõ nhờ hệ thống đèn chiếu sáng cực mạnh của các tòa
nhà bên cạnh. Bà cụ không nhận thấy chúng tôi đang bước vào.
-
Mẹ ơi, có anh Lân bên nước sang thăm mẹ đây này! - Anh Hòa nói to. - Anh Lân
con bà Hoạt làng ta, mẹ nhớ không? Bà Hoạt vẫn cùng mẹ đi chợ Hôm ấy mà.
Bà
cụ Mật quay sang nhìn tôi bằng cái nhìn vô cảm, chắc vẫn chưa dứt khỏi những ý
nghĩa triền miên của mình và vẫn chưa nhận ra tôi là ai, hoặc có nhận ra cũng
chưa tin là thật.
Anh
Hòa kéo chiếc ghế nhỏ lại gần cho tôi ngồi, rồi khẽ nói:
-
Cụ vẫn thế đấy, cứ như người mất hồn. Tôi ra ngoài nhé, để anh và cụ nói chuyện
tự nhiên.
Tôi ngồi xuống ghế, nhẹ nhàng cầm bàn tay khẳng khiu, đen
xạm
của bà trong hai tay mình.
-
Chào bác. Cháu là con trai cả bà Hoạt làng Vĩnh Yên ta đây. Mẹ cháu bảo đến
thăm bác...
Bà
cụ vẫn nhìn tôi không chớp mắt. Bàn tay nhỏ bé của bà run run trong tay tôi.
Đôi mắt rưng rưng như muốn khóc, nhưng bà không nói gì.
-
Bác vẫn khỏe chứ ạ? Mẹ cháu nhắc bác luôn.
-
Ra mẹ anh còn nhớ đến tôi à? Làng xóm vẫn nhớ tôi à? - Cuối cùng bà cụ lên
tiếng.
-
Có chứ ạ. Ai cũng nhớ và mừng cho bác được sống với con cháu sung sướng bên
này. Bây giờ quê ta khá lắm rồi, không ai đói ăn, không khổ như trước nữa.
Nhiều cái mới lắm.
Tôi
bắt đầu kể về những thay đổi trong làng, từ việc có điện lưới cách đây ba năm,
nhiều nhà có ti-vi, xe máy, đến việc huyện cho xây con đường lớn rải nhựa hẳn
hoi, ô tô chạy qua làng hệt như ngoài thị trấn, còn ủy ban xã thì có cả máy
điện thoại. Tôi còn cho bà biết ai trong số người già trong làng vừa chết, con
nhà ai được hỏi vợ, gả chồng..
-
Anh nói làng ta đủ ăn rồi à?
-
Vâng, không còn cảnh đứt bữa như trước nữa. Hơn thế, bây giờ nhà nào cũng ăn
cơm trắng, không phải độn khoai...
-
Và ngày ba bữa?
-
Đúng thế ạ. Ngày ba bữa.
Bà
cụ ngồi im, vẻ không tin.
-
Cả nhà ông Thíu? Cả cố Chuyên?
-
Vâng, cả ông Thíu. Thằng Dũng con ông ấy còn sắm được máy cày cày thuê cho cả
làng đấy. Còn cố Chuyên thì chết năm ngoái, chín mươi chín tuổi nhưng làng báo
lên xã một trăm, và được xã đứng ra tổ chức chôn cất chu đáo lắm. Có cả đại diện
trên huyện mang tiền về mừng nữa. Bác biết không. Rú Thần bây giờ được biến
thành nghĩa trang của làng ta. Mỗi dòng họ một ô riêng. Bao nhiêu mồ mả các cụ
kỵ xưa nay đều gom về đây, cứ theo thứ tự trên dưới mà xếp, vừa ý nghĩa lại vừa
đẹp mắt.
-
Con Sáu dạo này thế nào? Có hay lên cơn nữa không?
-
Cháu ở Hà Nội, thỉnh thoảng mới về nên không rõ lắm. Nghe mẹ cháu nói thì cũng
bình thường.
-
Còn đôi lợn?
Tôi
ngồi im vì chẳng biết nói gì. Đó là đôi lợn bà cụ nuôi cách đây nhiều năm khi
còn ở làng.
Bà
cụ lại trầm ngâm nhìn ra ngoài, nơi những bông tuyết lớn vẫn không ngừng rơi,
thong thả và chập chạp như ý nghĩ trong đầu cụ.
-
Cái Sáu đoảng lắm. Không hiểu nó có biết tính con Cụt Đuôi thích ăn củ mùng
không. Ngoài ao nhiều mùng, không khéo nó lại bỏ tiền mua rau lang trong khi để
mùng thối cả đống. - Bà cụ nói, với chính mình nhiều hơn là với tôi.
Rồi
cụ thong thả lấy từ dưới ghế bành một hộp trầu và cái ống nhổ bằng đồng cáu bẩn
đem từ Việt Nam sang. Cũng thong thả như vậy, cụ têm một miếng, có cả vôi và
cau tươi, rồi đưa lên miệng nhai.
-
Mẹ cháu bảo mang cho bác ít cau trầu quê nhà, nhưng không chắc tìm thấy nên
cháu không mang theo.
-
Bên này cũng có. Thằng Hòa nó nhờ mua đâu đó từ miền Tây. Tương cà mắm ớt không
thiếu cái gì.
Mãi
đến lúc này tôi mới nhận thấy bà cụ Mật vẫn mặc chiếc quần lụa đen, chiếc áo
vải gụ đã sờn và đầu vẫn quấn chiếc khăn nhung cũ hệt như ngày nào tôi gặp cụ ở
làng. Nếu không có màu trắng của các đồ vật trong căn phòng sạch sẽ, lạnh lẽo ở
tòa nhà kính năm mưoi sáu tầng và màu trắng của tuyết Chicagô những ngày cuối
năm này, thì khó có thể hình dung bà cụ đang xa quê nhà hàng chục nghìn cây số,
ở một đất nước có thể là no đủ, sung sướng đấy, nhưng thật buồn và xa lạ. Bất
giác tôi có cảm giác như bà cụ vừa đi cấy về, đang tỏm tẻm nhai trầu, trò
chuyện với mẹ tôi, thì bỗng bị bàn tay
vô hình nào đó bê nguyên xi sang đây, tách khỏi màu xanh quê hương làng xóm,
khỏi những tập tục và việc làm vốn quen thuộc từ ngàn xưa, để tới cái thành phố
khổng lồ, xám xịt và lạnh giá này. Cụ như cây mùng từ ao bùn Việt Nam bị nhổ
bật rễ đem cấy xuống cánh đồng tuyết quê người. Và dù được giữ trong nhà kính
ấm áp, được chăm sóc tốt, cây mùng ấy vẫn ngày một héo quắt. Đơn giản do bị đặt
nhầm chỗ.
-
Nước Mỹ rộng và đẹp, bác có hay đi chơi, xem đây đó không? - Tôi hỏi.
-
Không. Năm năm nay tôi không bước chân ra khỏi nhà.
Lúc
lái ô tô đưa tôi về khách sạn, tôi hỏi anh Hòa vì sao. Anh nói có lẽ do cụ sợ.
Chả là hôm mới đến, để cụ biết nước Mỹ là gì, anh đưa cụ lên tận tầng cuối cùng
của tòa nhà Sears Tower 110 tầng, cao
nhất thế giới. Cụ nhìn xuống chóng mặt suýt ngất. Khi xuống, thang máy chạy nhanh quá, cụ còn nôn cả ra tay áo
con. Từ đấy anh rủ đi đâu, cụ nhất định không chịu.
- Bác có nhớ nhà không? Có muốn về thăm quê không? - tôi
hỏi.
Bà
cụ ngồi im hồi lâu, hai mắt rưng rưng đờ đẫn nhìn những cánh tuyết xốp rơi
không dứt ngoài cửa sổ. Lần nữa bà cụ lại chìm trong thế giới những ý nghĩ đau
buồn không dứt của mình. Tôi cũng kiên nhẫn ngồi im, không hỏi thêm câu nào
nữa. Cuối cùng, cụ chậm chạp, khó nhọc đứng dậy từ chiếc ghế bành lớn màu
trắng. Tôi định đỡ nhưng cụ ra hiệu không cần. Và cũng chậm chạp, khó nhọc như
vậy, cụ cởi chiếc áo gụ sờn đang mặc trên người, đút vào hai túi hai miếng trầu
têm sẵn, cẩn thận vuốt thẳng từng thân áo, ống tay rồi gói vào một tờ báo. Cụ
còn lấy sợi len đỏ gấp bốn, cột chéo vuông vức như chiếc bánh chưng.
Xong,
cụ kính cẩn đặt chiếc áo vào tay tôi. Lần này thì cụ khóc thực sự. Hai dòng
nước mắt hiếm hoi từ từ lăn xuống và nhòe dần theo những lớp nhăn sâu trên
khuôn mặt già nua khô quắt. Tôi cũng xúc động không kém và chỉ biết đứng im,
chờ xem cụ định làm gì.
- Anh nói hộ với mẹ anh là tôi nhớ bà ấy lắm, nhớ bà con,
làng xóm lắm. Bây giờ gặp anh đây, tôi có thể nhắm mắt được rồi. Tôi biết tôi
chẳng còn sống bao lâu nữa, và chắc chắn sẽ phải chết ở cái xứ lạnh lẽo, xa lạ
này. Vậy nhờ anh mang cái này về chôn cạnh mộ ông lão nhà tôi, bây giờ đã được
đưa về Rú Thần, trong nghĩa trang họ Hoàng mới xây như anh nói. Nếu được, bảo
người ta đắp cho tôi nấm mộ giả cho có vợ có chồng. Ông ấy đỡ cô đơn, mà cũng
đỡ tủi cho tôi...
Tuyết
vẫn không ngừng rơi. Đêm đã khuya, các đường phố Chicagô vốn đã rộng càng thêm
rộng. Anh Hòa cầm lái cho xe đi thong thả vì đường trơn. Tôi ngồi yên phía sau.
Chiếc áo sờn nhẹ tênh của bà cụ Mật đè nặng trong tay tôi, như thể tôi đang một
mình bế cụ vượt hàng vạn cây số đưa về nơi yên nghỉ cuối cùng trên đất mẹ.
Chicago - Hà Nội, 2.1997
KIÊM
QUẬN CÔNG THÁI BÁ KỲ
Năm
Bính Tý (1567) tướng nhà Mạc là Hữu quận công Nguyễn Thiện đem quân vào cướp
châu Hoan. Vua Lê Quang Hưng sai Chân quận công Thái Bá Du cùng hai tướng khác
là Nguyễn Cảnh Hoan và Lai quận công Phan Công Tích (con rể Thái Bá Du) xuất
binh đánh dẹp. Với sự giúp đỡ của tám người con trai, tất cả đều là dũng tướng,
đặc biệt có con cả Kiêm Quận công Thái Bá Kỳ cầm quân đi tiên phong, đô đốc
Thái Bá Du trong một trận đã giết hơn nghìn quân Mạc, được vua Lê phong thưởng
hai phiến bài vàng, ba con voi và mười ngựa chiến. Sau khi quân Nguyễn Quyện bị
đánh bại phải lui về Thanh Hóa tập hợp lực lượng, vua còn ban chiếu chỉ khen “Chân quận công Thái Bá Du giúp rập nước
nhà, công nghiệp lớn lao thật không phụ trách nhiệm”, và thưởng thêm ba nén vàng, ba phiến bài
vàng, cấp bổng lộc hai huyện và trấn phong tước vị Thiếu bảo Chân Quận công.
Tiếp đến, vào năm Cảnh Hưng thứ 15,
vua Lê lại sai Thái Bá Du cùng các con và Thư quận công Nguyễn Cảnh Kiên theo
Bình An vương Trịnh Tùng dẫn đại binh đánh Mạc Mậu Hợp nhằm chiếm lại Đông Đô.
Trong trận quyết định ở Cầu Giền phía nam Hà Nội, với thế áp đảo về quân số,
quân vua Lê giành thắng lợi lớn, bắt
sống vua Mạc cuối cùng là Mạc Mậu Hợp.
Đóng góp không nhỏ cho chiến thắng này là đạo quân của Thái Bá Du và các
con trai Thái Bá Kỳ, Thái Bá Phiên, Thái Bá Tỉnh, Thái Bá Chiến, Thái Bá Hộ,
Thái Bá Phúc, Thái Bá Vinh và Thái Bá Đức.
Liên quan đến trận đánh này, dòng họ
Thái Bá ở Nghệ An có lưu truyền một câu chuyện như sau về người con cả của Thái
Bá Du là Phò mã Kiêm quận công Thái Bá
Kỳ, được vua ban sáu chữ vàng “Trí dũng
trung đẳng đại vương” và gả con gái cho là Lê Thị công chúa, hiệu Đoan Trang Trinh Thục Tôn Linh,
nay còn đền thờ chính ở xã Kim Lai, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương.
Câu
chuyện này không thấy ghi trong gia phả dòng họ hoặc chính sử, nhưng được cháu
con truyền tụng hết đời này sang đời khác, lâu dần thành việc ai cũng tin có
thật.
Đó là chuyện lần ấy, trong trận Cầu
Giền lịch sử, Kiêm Quận công Thái Bá Kỳ được thân phụ sai dẫn mấy nghìn tinh
binh thọc sâu vào trận địa quân Mạc, với ý định làm rối đội hình đối phương rồi
đánh bật lại, hỗ trợ cho đại binh sẽ kéo đến sau. Ngài cưỡi con ngựa chiến màu
huyết dụ tuyệt vời mới được vua ban, giáp trụ sáng ngời với thanh đại đao mà
người bình thường khó cầm vững trong tay chứ chưa nói vung lên hạ xuống làm đầu
giặc rụng như sung. Ngài luôn đi trước xông pha mở đường làm gương cho các phó
tướng và binh sĩ. Ngài đi đến đâu, quân Mạc tan tác đến đấy. Tuy nhiên vì ham
đánh, không biết tự lúc nào, ngài chợt thấy mình đang đứng trước chân thành
Đông Đô. Ngoái lại thì thấy giặc đã bao vây bốn phía. Một lính của ngài phải chống
trả bốn năm lính địch, còn ngài thì tả xung hữu đột luôn tay chém giết, quyết
mở đường máu quay về với đại binh của thân phụ ngài.
Lúc ấy đã ngả về chiều. Trời âm u, lại
lác đác mưa. Xung quanh la liệt xác chết và những ngọn khói hiệu phía xa xa. Đang
lúc ngài mải giao chiến với hai tướng nhà Mạc trước mặt thì một tên thứ ba lén
phi ngựa đến từ phía sau rồi giơ cao thanh đao sáng loáng của hắn. Em trai ngài
là Thái Bá Chiên, Phò mã Phụ mạ Hoành Quận công (Vợ là Trịnh Thị công chúa,
hiệu Từ Huệ Trinh Thục Tôn Linh, đền thờ hai người ở xã Vĩnh Phúc, Vĩnh Lộc,
Thanh Hóa. Thái Bá Chiến sau này được ban phong “Dũng Lược Trung Đẳng Đại Vương”) luôn ở bên cạnh. Hoành Quận công
Thái Bá Chiến chưa kịp kêu to báo điều nguy hiểm cho huynh trưởng thì đầu của
chủ tướng Thái Bá Kỳ đã bị chém lăn xuống đất. Quân Mạc reo hò vang dậy, tưởng
nắm chắc phần thắng trong tay. Tuy nhiên, vị tướng nhà Lê vẫn ngồi yên trên
ngựa, không đầu, không thấy máu chảy. Ngài quay lại, chém một nhát xẻ đôi người
tên kia. Quân giặc thấy thế cả kinh, chỉ biết há mồm, trợn mắt đứng yên như
trời trồng. Thừa thế, quân Lê lại lao vào chém giết. Một người cúi nhặt chiếc
đầu bị chém, giơ hai tay đưa lên cho ngài. Ngài bình thản đặt lên cổ mình, tiếp
tục giao chiến. Chốc chốc, để hù dọa, ngài nhấc đầu mình lên cầm trên một tay,
tay kia giơ cao ngọn đại đao sáng loáng. Quân tướng nhà Mạc sợ quá, bỏ chạy tán
loạn, không đánh đã tan. Tối hôm ấy trở lại bản doanh, chỉ khi quỳ xuống cúi
chào thân phụ và bẩm báo kết quả trận đánh, đầu ngài mới rơi xuống đất, trước
sự ngạc nhiên của đô đốc Thái Bá Du và quân tướng trong trại...
*
Một
truyền thuyết đẹp đượm màu huyền thoại. Theo gia phả họ Thái Bá, thì Phò mã
Kiêm Quận công Thái Bá Kỳ thuộc hàng đại thọ, giặc tan, sống hạnh phúc với Lê
Thị công chúa và một đàn cháu con thành đạt. Có lẽ câu chuyện trên chỉ được
thêu dệt để tôn vinh khí phách, lòng dũng cảm của ngài và binh sĩ dưới quyền
ngài. Điều này có thể hiểu được và dễ châm chước. Vả lại nó là chuyện của thời
xa xưa không ai kiểm chứng và có lẽ cũng không cần kiểm chứng.
Nhưng
chuyện dưới đây thì hoàn toàn có thật, ít ra theo lời kể của ông trưởng họ
trông coi nhà thờ dòng họ Thái Bá ở Đô lương, Nghệ An. Chuyện rằng vào năm 1953
và cả mấy lần sau này nữa, khi ở Nghệ An quê tôi rộ lên cái việc đáng hổ thẹn
là đập phá đền chùa thì chính ngài, Kiêm Quận công Thái Bá Kỳ, đã làm người ta
phải chùn tay, do vậy nhà thờ tổ họ Thái mới giữ được đến ngày nay dù bị mất
mát khá nhiều. Số là trong nhà thờ có tượng ngài bằng gỗ sơn son thếp vàng, và
như các “cán bộ đập phá” thời ấy kể lại thì cái đầu của ngài đã xoay đúng một
vòng quanh cổ để trợn mắt dướn mày nhìn hết lượt những người đang đứng xung
quanh với dao búa trong tay. Thấy thế, họ hoảng sợ bỏ chạy, không dám làm gì.
Tuy nhiên, ông trưởng họ bị một phen long đong về tội “xúi thần linh cản trở
cách mạng xóa bỏ mê tín dị đoan và xây dựng nếp sống văn hóa mới”. Cũng nhờ sự
kiện này mà nhiều đền chùa miếu mạo trong vùng được nương tay hơn.
Nhà
thờ họ Thái Bá chúng tôi ở Đô Lương thờ cụ tổ Thái Bá Du, năm 1993 được nhà
nước cấp bằng công nhận “Di tích Lịch sử,
Văn hóa” để ghi nhận công lao các công thần danh tướng họ Thái Bá đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước các triều vua trước đây. Kèm theo bằng là
các ghi chép cụ thể về cuộc đời và sự nghiệp những người danh tiếng trong dòng
họ. Nổi bật nhất là vị tổ thứ bảy Thái Bá Du (1521 - 1582), người sau này được
phong chức Thái Phó, chức quan thứ hai trong hàng Tam Công của triều đình nhà
Lê. Cụ có tám người con trai đều nối dõi binh nghiệp của cha, hai người là phò
mã được phong tước Quận công, sáu người còn lại mang tước hầu, có đền thờ rải
rác khắp nước. Sáu con gái của cụ thì một lấy vua Lê Thần Tông (Thái Ngọc
Thụy), một lấy vua Lê Triết Vương (Thái Ngọc Bản), người nữa lấy Chúa Trịnh
(Thái Ngọc Quỳnh). Ba người còn lại là vợ các Quận công danh tiếng trong triều.
Hàng cháu chắt cụ cũng nhiều người làm nên công sự lớn, trong đó có cụ tổ chi
Diễn Châu của tôi là Thái Bá Đậu, sau này được vua Nguyễn phong là “Mậu Quốc công, Trụ quốc Trung trật”, coi
như rường cột triều đình.
Vậy là dòng họ Thái Bá trải qua bao đời vua
chủ yếu nổi tiếng nhờ các quan võ. Quan văn đến nay mới chỉ biết đến một người
là Thái Thuận (còn gọi là Sái Thuận - chữ Hán, Thái và Sái đọc như nhau), cố
của Thái Bá Du. Cụ Thái Thuận sinh 1441 (năm mất không rõ), đậu tiến sĩ khoa Ất
Mùi năm 1475, làm việc ở quán các dưới triều vua Lê Thánh Tông hơn hai mươi
năm, một thời gian còn kiêm chức Tham Chính tỉnh Hải Dương. Cụ làm thơ hầu như
suốt cả đời mình, có tới hàng nghìn bài nhưng chỉ lưu được tập “Lã Đường Di Cảo Thi Tập” hơn hai trăm
bài, người đời hết lời ca ngợi (được cố nhà thơ Quách Tấn dịch năm 1972 ở miền
Nam và Bùi Duy Tân, Đào Phương Bình dịch in lần nữa năm 1979 ở miền Bắc). Trong
tập “Truyền Kỳ Mạn Lục”, Nguyễn Dữ
dành hẳn một truyện viết về cụ, là truyện “Kim
Hoa Thi Thoại Ký”. Vua Lê Thánh Tông phục tài thơ Thái Thuận mà đặc phong
cụ làm “Tao Đàn phó nguyên súy”, chỉ
sau vua là chánh. Cụ mất và được an táng tại làng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại,
nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nơi còn lưu được chiếc miếu nhỏ thờ
cụ. Một trường trung học ở thị xã Bắc Giang hiện mang tên Thái Thuận. Ông nội
cụ là Thái Bá Tâm, một người nổi tiếng đời Trần, từng theo Trần Tùng Quang đánh
quân nhà Minh, giữ chức Tư lệnh Quân vụ.
*
Tôi
nay đã thuộc lớp người già, mà người già thì hay có những trò bị coi là lẩm
cẩm. Thi thoảng tôi giấu gia đình vào Quốc Tử Giám, ngồi tựa lưng vào tấm bia
tiến sĩ có khắc tên cụ tổ để được gần cụ, được hưởng chút hơi hướng văn thơ của
cụ, hoặc đơn giản được sung sướng nghĩ rằng tôi là người có gốc có rễ, gốc rễ
bám rất sâu vào lịch sử dân tộc.
Cách đây không lâu, tôi đưa vợ về quê, dẫn
ra nghĩa trang chi Thái Bá ở Diễn Châu, trên một ngọn đồi gần làng. Trước bàn
thờ là lăng cụ tổ Thái Bá Khiếu với tấm bia đá ghi rõ công trạng cụ. Phía dưới
là mấy dãy mộ các đại gia đình trong họ, ngắn dài tùy theo số lượng người đã
chết. Tôi chỉ vào phần đang dành sẵn cho tôi và nói: “Tôi và bà sau này sẽ nằm
đây!” Vợ tôi, một người Hà Nội gốc, lại còn trẻ, chỉ cười không nói gì. Thế mà
tôi buồn mất mấy ngày. Tất nhiên cả điều này cũng bị vợ coi là lẩm cẩm. Hôm sau
chúng tôi đi xe đò lên Đô Lương viếng nhà thờ gốc của dòng họ Thái Bá thờ cụ tổ
mà cháu con rất đỗi tự hào là Tả Tư mã, Thái phó Thái Bá Du.
Trong
nhà thờ có nhiều tượng lớn nhỏ mà thú thực tôi chẳng biết rõ tượng nào là của
ai, trừ tượng cụ tổ. Tôi thơ thẩn hồi lâu, cố tìm một điều và cuối cùng đã tìm
thấy nó. Một vết cắt rất mảnh quanh cổ pho tượng ngay bên phải dưới tượng cụ
tổ. Chắc đây là tượng cụ Thái Bá Kỳ, Phò mã Thái Bảo Kiêm Quận công, “Trí dũng trung đẳng đại vương”, kỵ sĩ
không đầu trong trận Cầu Giền oanh liệt đại thắng quân Mạc năm Quang Hưng thứ
mười lăm. Tối hôm ấy (thêm một trò lẩm cẩm nữa của người già), tôi xin phép ông
trưởng họ được ngồi lại một mình trong nhà thờ, lúc nào muốn thì về nhà ông
ngủ.
Tôi
ngồi yên rất lâu trong sự im lặng gần như tuyệt đối, dưới ánh đèn điện màu hồng
hình nến cao trên bệ thờ, giữa bao nhiêu là tượng, bài vị, gươm giáo và cả một
đôi ngựa gỗ. Trong đầu tôi chẳng có ý định gì cụ thể. Từ lâu đã qua cái tuổi sợ
và tin những điều vẩn vơ, nhưng lúc ấy tôi rất muốn và cố tình chờ ai đấy trong
số các bức tượng, cụ Thái Bá Kỳ chẳng hạn, sẽ từ từ bước ra thành người thật
như trong các truyện ma tôi viết gần đây. Có thể các cụ sẽ cho biết thêm đôi
điều về về lịch sử dòng họ chăng? Có thể
các cụ sẽ trách mắng tôi và lũ hậu duệ hèn nhát, bất tài chăng? Quả thật tôi
chẳng biết và chẳng nghĩ tới điều đó. Đơn giản tôi muốn được nhìn thấy ai đấy
trong số các cụ. Thậm chí tôi gần như tin điều kỳ diệu này nhất định sẽ xẩy ra.
Thì đã gọi là người già hay lẩm cẩm.
Tôi
tin và kiên nhẫn ngồi chờ trong trạng thái lâng lâng mê muội. Mấy lần tôi nghe
có tiếng sột soạt, tiếng gì rất lạ và bí ẩn. Tôi nhắm mắt, hy vọng khi mở ra sẽ
thấy điều kỳ diệu. Cuối cùng, lúc ấy đã quá nửa đêm, tôi chợt nghe có tiếng
động và tiếng bước chân rất nhẹ, những âm thanh có thật và mỗi lúc một rõ hơn.
Tôi nín thở chờ đợi. Tiếng bước chân đã rất gần, hình như ngay bên cạnh, và tôi
từ từ mở mắt.
“Ông
lẩm cẩm vừa thôi. Khuya rồi không về ngủ, còn ở đây làm gì?”
Trước
mặt tôi không phải cụ Thái Bá Kỳ oai phong lẫm liệt, mà là bà vợ cau có được
ông trưởng họ dẫn đi tìm chồng. Tôi miễn cưỡng đứng dậy, lần nữa buồn bã nhìn
ông tượng có đường cắt rất mảnh quanh cổ. Vì lý do nào đó, ngài đã không hiện
lên với tôi, nhưng tôi thấy ngài hình như đang nheo một mắt tinh nghịch và mỉm
cười. Là người viết truyện ma, tôi có thể dễ dàng phịa ra đủ chuyện, nhưng đây
là chuyện nghiêm túc liên quan đến tổ tiên, dòng họ, tôi phải trung thành với
sự thật. Cái sự thật đó là lúc ấy có một trong những cụ tổ của dòng họ Thái Bá
đã nhìn tôi với nụ cười bao dung, thông cảm.
Hà Nội, 30.5.2002
CHUYỆN
TRÊN TÀU
Đúng giờ, đoàn tàu tốc hành Bắc Nam, loại
nhanh và tiện nghi nhất mới đưa vào hoạt động, rời ga Hà Nội. Khoảng ba mươi
phút sau thì ra khỏi thành phố và hiện đang chạy giữa những cánh đồng trống
thoảng mùi đất mới cày lật. Không khí về đêm dễ chịu. Chắc trời nhiều sao, có
thể còn có cả trăng, vì nhìn ra ngoài thấy sang sáng.
Trong cup-pê có sáu giường trải nệm trắng
muốt, nhưng chỉ bốn khách. Toàn những người đàn ông đứng tuổi, có thể nói đã
già hoặc sắp già. Sau một lúc hỉ hả khen thời bây giờ đi lại sướng chứ không
như những năm bao cấp, mấy ông chuyển sang nói chuyện gẫu. Một ông kể lại nội
dung bài báo nào đó mới đọc, thế là bây giờ họ quay sang tranh luận, khe khẽ và
chẳng mấy hào hứng, về việc liệu bản chất con người có thể thay đổi được không,
nhất là khi trải qua một sự kiện đặc biệt như một cú sốc chẳng hạn.
- Tôi nghĩ có đấy, - một ông nói. Ông là
một bác sĩ đã nghỉ hưu, nay mở phòng khám riêng. Ông mắc bệnh hen xuyễn nên
hàng năm cứ dịp này là vào Sài Gòn sống với con mấy tháng. - Trước cũng như bác
đây, tôi chẳng tin, nhưng vừa rồi ở chỗ tôi xẩy ra một chuyện khiến tôi thay
đổi ý kiến.
Ông bác sĩ đưa mắt nhìn mấy bạn đồng hành
xem họ có muốn nghe không. Tất nhiên các ông kia muốn nghe.
Sửa lại thế ngồi, ông kể.
*
Chuyện này xẩy ra với chính thằng cháu tôi
chứ chẳng phải ai khác. Hắn năm nay mới ngoài ba mươi, tốt nghiệp tin học Bách
khoa và từng là cán bộ một viện nghiên cứu lớn. Hắn thông minh, tư chất tốt,
chỉ tội quá máu mê cờ bạc nên mọi việc hóa ra tồi tệ, tất tồi tệ. Bị đuổi việc
do lấy tiền cơ quan ném vào trò đỏ đen, bị vợ bỏ, rồi bị gia đình, anh em xa
lánh, cuối cùng hắn trơ lại một mình với đứa con trai năm tuổi. Lúc li dị vợ
hắn nhận nuôi đứa nhỏ hơn, ba tuổi. Hắn kiếm sống bằng nghề sửa chữa đồ dùng
điện tử. Ai thuê thì làm chứ chẳng có cửa hàng cửa hiệu gì. Hình như hắn cũng
kiếm được vì thấy vẫn có tiền chơi đề đều đều. Không hiểu các vị nghĩ thế nào
chứ tôi thì tôi cho rằng nghiện cờ bạc, đề đóm cũng là một dạng bệnh, và với tư
cách một căn bệnh, nó có các giai đoạn phát triển với mức độ nặng nhẹ khác
nhau. Căn bệnh này ở thằng cháu tôi thì chắc chắn đã vào giai đoạn chót, có thể
gọi vô phương cứu chữa. Nhưng thôi,
chuyện đó thuộc đề tài khác.
Một hôm, người ta nhắn tôi đến nhà hắn
ngay. Thì ra hắn ốm liệt giường đã hai ngày. Chỉ sốt bình thường nhưng nếu để
lâu thêm nữa không chữa trị thì có thể nguy hiểm. Ngay tối hôm ấy hắn tỉnh,
thôi mê sảng và đã có thể nói chuyện.
Phải nói rằng dẫu không được tôi yêu mến
lắm - chủ yếu vì thói xấu kia - nhưng hắn rất quí và tin tôi. Hôm ấy hắn đã kể
tôi nghe chuyện này kỳ cục lắm, các vị xem có tin được không.
Một tối nọ đang ngủ thì có người đến gọi
hắn dậy nhờ đi chữa gấp một thiết bị nào đấy rất quan trọng và hứa sẽ trả công
hậu hĩnh. Không do dự, hắn đồng ý đi ngay. Theo hắn kể thì sau khoảng một giờ
ngồi trong ô tô bịt kín, hắn được đưa vào một nơi tối om. Ở đấy, người ta dùng
nến soi cho hắn chữa một thứ mà thoạt nhìn hắn biết là thiết bị điện tử điều
khiển hệ thống chiếu sáng. Một việc không khó với những chuyên gia giỏi như
hắn. Khoảng nửa giờ sau đèn bỗng rực sáng khắp nơi. Hắn ngạc nhiên thấy mình đang
đứng trong một cung điện cực kỳ lộng lẫy kiểu vua chúa ngày xưa, với những
người xung quanh cũng giống người ngày xưa, từ cách ăn mặc, đi đứng đến cư xử.
Dường như họ đang có buổi yến tiệc nào đó thì mất điện, nên phải nhờ hắn.
Người dẫn hắn đến đây - một ông già bây giờ
hắn mới kịp nhìn rõ, mặc áo thụng màu xanh, thắt lưng đỏ to bản, chân đi hài
nhung mà hắn đoán là người thừa sai nơi này - thấy xong việc liền vội vàng dẫn
hắn ra ngoài. Ông ta rút từ túi áo thụng một tờ giấy gió, lấy bút lông viết mấy
con số lên đó rồi đưa cho hắn: “Tiền công anh đây. Nhiều đấy. Hãy chi tiêu cho
đúng mục đích và đừng dính vào mấy cái trò đỏ đen kia nữa!” Xong, ông ta cùng
cái lâu đài to đẹp và bí ẩn kia biến mất.
Sáng tỉnh dậy, hắn thấy mình đang nằm trong
một nghĩa trang gần như hoang phế hoàn toàn ở Cổ Loa, nơi có những ngôi mộ rất
lớn với những chiếc bia đá cũng lớn đã bị thời gian ăn mòn, nhìn kỹ lắm mới
thấy một vài chữ nho mà hắn không hiểu nghĩa. Tờ giấy gió vẫn ở trong tay.
Hắn ngơ ngác đi ra đường nhựa rồi nhảy xe
buýt về Hà Nội. Dọc đường, hắn suy nghĩ mãi về những điều kỳ lạ mới xẩy ra, về
tờ giấy “tiền công” với mấy con số trên đó. Cuối cùng vì thông minh, vì máu đỏ
đen đã ngấm vào mọi ý nghĩ, hắn đoán đây là con số độc đắc kỳ xổ số lần này.
Vậy là suốt buổi sáng hôm ấy hắn lùng khắp nơi mua tấm vé có con số đó, và đã
mua được, lúc về tới nhà thì lên cơn sốt nặng. Khi tỉnh lại, hắn nhờ tôi ra phố
mua giùm tờ báo có kết quả xổ số. Các vị tin hay không thì tùy, nhưng hắn đã
trúng độc đắc. Đúng con số ghi trên tờ giấy. Năm trăm triệu!
Xưa nay tôi chẳng bao giờ tin chuyện ma
quỉ, cả cái chuyện kỳ cục kia mà hắn đã kể một cách chân thành tôi cũng không
tin. Tôi nghĩ chẳng qua hắn say rượu (hắn cũng là một ma men có tiếng) nên ngủ
quên đâu đó ở vệ đường, hoặc bị bọn bạn đùa, khênh ra nghĩa trang. Nhưng không
tin là một chuyện, còn tờ giấy (tôi tận mắt xem rất kỹ lúc ở nhà hắn) và cái vé
trúng số kia là có thật và không thể phủ nhận được.
Sau đó thì sao? Sau đó hắn nhờ tôi cùng đi
tới chỗ nhận tiền. Ở đấy, vẫn còn tái nhợt và hơi run run vì chưa khỏi hẳn, hắn
yêu cầu người ta chuyển tất cả số tiền trúng thưởng vào một sổ tiết kiệm, chỉ
giữ lại đúng mười triệu đồng, chia đôi đưa tôi một nửa nhưng tôi không lấy. Hắn
cũng từ chối lời mời dự lễ trao giải được phát qua truyền hình vào chiều hôm
sau. Tôi lặng lẽ theo dõi và thấy hình như có cái gì đấy rất lớn, rất quan
trong đang xẩy ra trong con người hắn. Tôi chẳng là nhà tâm lý để tìm hiểu cái
đó là gì, cũng không biết có mối liên hệ nào không giữa sự thay đổi ấy với câu
chuyện kỳ cục hắn kể. Chỉ thấy hắn như
người khác lạ, ngơ ngơ ngác ngác và ít nói hẳn.
Vâng, sau vụ trúng số, hắn trở thành một
người hoàn toàn khác. Ý tôi muốn nói thành người tốt hơn. Vì thế mà lúc nãy tôi
bảo tôi tin bản chất con người cũng có thể thay đổi. Nhưng... - ông bác sĩ bỗng
hạ giọng thở dài. - Nhưng cũng từ đấy nhiều rắc rối đã xuất hiện.
Nơi hắn ở là một điển hình của sự lộn xộn
về xây dựng, tương phản giàu nghèo và tính phức tạp của thành phần dân cư ở Hà
Nội ta hiện nay. Nó nằm cuối đường Kim Ngưu, vốn xưa là bãi đất trống sát bờ
sông, sau bị lấn chiếm dần rồi thành khu dân cư hợp pháp. Bám quanh quãng đường
ba bốn trăm mét lổn nhổn những ngôi nhà dài đuỗn cao ngất, na ná giống nhau trừ
màu sắc và độ mới cũ của lớp sơn, xen kẽ những túp lều mái dầu hoặc nhà cấp bốn
xiêu vẹo. Nhà hắn một tầng, đổ trần xi măng, có thể gọi lớp giữa của hai cực
giàu nghèo ở đây. Cái nghề hắn làm cũng vậy, chẳng phải hèn mọn mà cũng không
hẳn lương thiện, vì hắn hay lòe tiền công khách hàng.
Bên phải nhà hắn là căn nhà ọp ẹp của vợ
chồng Tư Béo. Cả hai không nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không rõ, thuộc loại
bất hảo. Đã trên bốn mươi nhưng hai người này (không hiểu có đúng vợ chồng thật
không) có đứa con gái mới bốn tuổi. Tội nghiệp con bé nhiều hôm bố mẹ “đi làm”
cả ngày quên không cho ăn phải ăn nhờ hàng xóm. Tư Béo và hắn đã mấy lần cãi
nhau vì cái bờ rào của miếng đất ba mét vuông tranh chấp sau nhà. Thấy hắn
không phải tay vừa nên gã chưa dám làm mạnh, chỉ để bụng ngấm ngầm. Bên trái là
ngôi nhà bốn tầng mới xây của một cán bộ “hưu non” mà ai cũng biết là bị đuổi
việc vì tham ô. Lão này kín tiếng, ít giao tiếp và ra mặt khinh bỉ những người
nghèo trong khu. Đối diện là ba ngôi nhà cao hình ống khác, trong đó có nhà một
cặp vợ chồng đang ngồi tù vì buôn ma túy, nên luôn đóng cửa. Kế đó là quán nước
chè, quán cơm bình dân và cửa hiệu “gội đầu thư giãn” của mấy cô tỉnh lẻ về đây
lập nghiệp. Cuối cùng, gần kịch ngõ, là nhà bà Bình Cháo, một “nhân vật rất đặc
biệt”.
Đó là một bà nhà quê chẳng biết từ đâu đến
và là một trong những người đầu tiên ngụ ở xóm này. Bà ta sống một mình bằng
nghề đồng nát, hôm nào cũng đúng bảy giờ quảy gánh không ra đi, tối mịt mới về,
vẫn chiếc gánh không ấy sau khi đã bán những thứ thu lượm được trong ngày. Điều
này chẳng gì đáng nói vì thành phố nào chả đầy rẫy những người như bà. Cái đáng
nói là, các vị thử hình dung xem, hôm nào trước lúc đi làm bà cũng dậy sớm, nấu
hai xoong cháo lớn, loại xoong trước kia ta hay dùng nấu bánh chưng, rồi gánh
ra bệnh viện Thanh Nhàn. Không phải để bán mà cho không. Cái bệnh viện ấy nổi
tiếng chỉ toàn người nghèo từ các tỉnh xa về chữa bệnh, nên khỏi nói họ cơ cực
thế nào. Có thể bà hoặc ai đó người thân của bà từng là bệnh nhân như thế ở
đây. Vâng, một bà đồng nát lặng lẽ làm công việc từ thiện ấy hàng ngày, đến nay
đã hơn mười năm. Một việc làm khiến nhiều người ngẫm mình thấy lương tâm vương
vấn, nhiều người thắc mắc không hiểu vì sao. Cũng có kẻ độc mồm bảo phải có ý
đồ gì đó. Rồi cuối cùng, không ai bảo ai, người ta cố tình không nhắc, không
nghĩ đến bà nữa, một nhân vật đặc biệt và chương chướng như tôi đã nói.
Quay lại chuyện thằng cháu tôi. Vâng, hắn
đã trở thành người khác hẳn, hay nếu các vị muốn, bản chất hắn đã thay đổi.
Điều này thể hiện rõ nhất ở việc hắn thôi không chơi trò đỏ đen nữa. Cả rượu
cũng không. Tôi những tưởng tiền bạc vào tay những người như hắn chẳng mấy chốc
sẽ hết. Thế mà không. Hắn chẳng bao giờ dùng tiền trúng số tiêu phí phạm điều
gì. Thậm chí không ai biết hắn trúng số, ngoài tôi. Hắn vẫn làm nghề cũ, tu sửa
lại ngôi nhà, chăm sóc con nhiều hơn và cách đối xử với xóm giềng cũng khác trước. Chính tôi cũng
lấy làm ngạc nhiên, nhiều khi dù thấy vô lý vẫn nghĩ phải chăng chuyện xẩy ra ở nghĩa địa đã làm hắn thay đổi, nếu
không, chẳng có cái gì lý giải được.
Một hôm hắn chủ động sang chơi nhà Tư Béo,
tuyên bố cho gã ba mét đất sau nhà. “Anh chị cần thì cứ lấy. Chừng ấy đất chẳng
đáng để mất tình hàng xóm”, hắn nói. Tư Béo ngớ người tưởng đùa, nhưng khi thấy
hắn nghiêm túc thì đâm ra suy nghĩ tợn. Thời này, lại ở thủ đô, mà tự dưng đem đất
cho không thì họa có điên! Gã nhìn kỹ, ngạc nhiên thấy hắn không điên. Vậy thì
chắc có âm mưu gì! Phải đề phòng thằng cha này. Tuy vậy, ngay hôm sau Tư Béo
cho gọi thợ xây bức tường gạch bao quanh để khẳng định chủ quyền. Từ đó gã
ngoài miệng thì cảm ơn, vui vẻ nhưng trong bụng lại ngấm ngầm theo dõi anh hàng
xóm ấm đầu. Ông “cán bộ hưu non” được hắn cho trổ cửa sổ sang phía nhà mình,
bao nhiêu tùy thích, và lão đã trổ đúng sáu cửa ở cả ba tầng. Thấy dễ, lão còn
gạ xin lấn mấy mét đất trước nhà hắn nhưng không được. Cả lão cũng tỏ ý nghi
ngờ và tất nhiên không quên nhắc mình luôn để mắt canh chừng. Tư Béo, lão này
và mấy người nữa trong xóm chưng hửng khi không phát hiện thấy điều gì khác lạ,
không thấy hắn bị đưa vào nhà thương điên hoặc công an đến bắt vì một tội tầy
đình nào đó. Từ chưng hửng, họ đâm ra thất vọng, rồi bực bội khó chịu, và cuối
cùng thành ác cảm với hắn. Chỉ vì hắn tốt, không tranh giành, không cãi nhau
với họ!
Sự khó chịu, ác cảm ấy lên đến đỉnh điểm
khi hắn tham gia việc làm từ thiện của bà Bình Cháo. Trước chỉ mình bà đã thấy
chướng cho cả xóm, nay còn thêm hắn, một thằng trước đấy không lâu cũng chẳng
ra gì, nghĩa là giống họ, vậy thì hỏi không khó chịu sao được.
Cụ thể là khoảng hai tháng sau khi trúng
độc đắc, hắn tự đến tìm bà đề nghị được góp tiền, định mỗi tháng rút hai triệu
đồng chi cho mục đích này. Bà Bình Cháo lẳng lặng gật đầu. Thế là hai xong cháo
của bà từ đó có nhiều thịt hơn và ngon hơn. Lúc đầu hắn chỉ đưa tiền, sau vì
không phải hai mà những bốn xoong lớn, nhà bà lại chật, nên hắn thỉnh thoảng
đem về nhà mình nấu hộ. Việc này cứ thế đều đều diễn ra. Hắn và bà già lặng lẽ
làm như làm một việc bình thường. Người ngoài cố lờ không để ý, tuy trong lòng
mỗi người suy diễn theo một cách riêng. Trẻ con trong xóm đứa nào đói cũng được
cho ăn không mất tiền, tất nhiên phải giấu bố mẹ.
Một sáng nọ, như thường lệ hắn nấu xong nồi
cháo, múc riêng một bát để phần con bé nhà vợ chồng Tư Béo. Nó thường xuyên bị
quên không cho ăn. Bà Bình vừa quảy gánh đi thì hắn ới con bé, đưa bát cháo cho
nó. Bố mẹ nó không có nhà lúc ấy, dù mới bảy giờ sáng. Con bé lí nhí cảm ơn rồi
đưa lên miệng húp. Bỗng nó đánh rơi bát cháo, nhăn nhó ôm bụng nôn oẹ rồi ngã
xuống, người co giật như động kinh. Hắn hoảng hốt nhảy qua bờ rào, bế nó lên
tay và chợt lờ mờ đoán hiểu. Hắn vội vác con bé lên vai, cắm cổ chạy ra bệnh
viện để cứu nó, và nhất là để đuổi kịp bà Bình Cháo...
Kể đến đây, ông bác sĩ dừng lời, không phải
không cố ý. Mấy ông kia cũng ngồi im, không muốn tỏ ra mình đang sốt ruột muốn
nghe tiếp. Rồi ông kể tiếp, giọng đều
đều và thoáng buồn.
- Chuyện mới xẩy ra hôm kia. Chắc hôm nay
hoặc mai báo sẽ đưa tin. Thằng cháu tôi đang bị công an giam trên đồn để điều
tra. May con bé được cứu chữa kịp thời. Cũng không người nào ở bệnh viện ăn
phải gánh cháo có thuốc chuột ấy. Hắn đến đúng lúc bà kia đang chuẩn bị múc.
Hơn hai chục người đứng chờ như mọi ngày.
- Vợ chồng thằng Tư Béo?
- Vâng, thằng chồng. Công an bắt hắn và hắn
đã nhận tội. - Ông bác sĩ đáp rồi ngồi im hồi lâu. - Giờ thì các vị thấy đấy.
Cái khó nhất là bản chất con người mà nhiều khi còn thay đổi được. Thế mà có
cái khác tưởng dễ thay đổi, là lòng nghi kỵ, hóa ra lại khó hơn nhiều. Kể cũng
buồn, con người ta ăn ở xấu với nhau mãi thành quen, đến mức khi ai đó bỗng trở
nên tốt thì liền bị nghi ngờ, bị coi là điên, thậm chí còn dẫn đến tai họa.
Cuộc đời này kỳ thật. Các vị có nghĩ thế không?
Không ai đáp. Tàu đang đi qua một chiếc
cầu. Tiếng ầm ầm vang xa trong đêm tĩnh mịch. Chênh chếch phía đông là chiếc
lưỡi liềm trăng non đầu tháng màu trắng đục. Nó đứng lặng giữa trời đêm như một
dấu chấm hỏi.
Hà Nội, 30, 11, 2002
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét