Thứ Hai, 16 tháng 3, 2020

Việt Nam Lược Sử



Việt Nam Lược Sử Diễn Ca
BỐN NHÂN VẬT NỔI TIẾNG ĐỜI TRẦN

Đất nước ta thời ấy,
Rất nhiều người tài, hiền,
Trong giáo dục, chính trị
Và y học cổ truyền.

Hôm nay ông sẽ kể
Chuyện ông tổ ngành y
Là Thiền sư Tuệ Tĩnh,
Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi,

Tam tổ Lý Đạo Tái,
Chu Văn An, người thầy,
Những người rất nổi tiếng
Trong giai đoạn sử này.


TUỆ TĨNH (mất năm 1330)

Tuệ Tĩnh là pháp hiệu.
Ông là một thiền sư,
Tên thật Nguyễn Bá Tĩnh,
Tài giỏi và nhân từ.

Ông được tôn ông tổ
Ngành Nam dược nước ta.
Tiếc ông bị giặc bắt,
Sớm đưa về Trung Hoa.

Ông là thầy thuốc giỏi,
Lại vừa một nhà sư,
Viết “Nam dược thần hiệu”
Và “Hồng nghĩa giác tư”.

Ông xuất thân nghèo khổ,
Gia cảnh rất bình thường,
Quê ở xã Cẩm Vũ,
Huyện Cẩm Giàng, Hải Dương.

Khi mới lên sáu tuổi,
Bố mẹ ông qua đời,
Chùa Hải Triều, Giao Thủy,
Nuôi ông lớn thành người.

Năm tròn hăm hai tuổi,
Ông đậu Thái học sinh,
Vẫn ở chùa nghiên cứu,
Bốc thuốc giúp dân lành.

Đến năm ba mươi tuổi,
Ông về chùa Yên Trang,
Làm trụ trì ở đấy,
Nay thuộc huyện Cẩm Giàng.

Tuệ Tĩnh đỗ Hoàng giáp
Năm Một Ba Tám Năm,
Bị đem cống Trung Quốc
Khi tuổi đời năm lăm.

Ông tiếp tục bốc thuốc,
Nổi tiếng, dù ẩn cư.
Vua Minh yêu tài đức,
Phong “Đại y Thiền sư”.

Ông qua đời ở đấy,
Hàng nghìn dặm xa nhà.
Tài, không được cống hiến,
Ngẫm, chạnh lòng xót xa.

Tuệ Tĩnh đặt nền móng
Ngành y dược nước nhà,
Xây dựng thành nếp nghĩ -
Người ta dùng thuốc ta.

Nhờ ông mà cả nước,
Mỗi gia đình, đền chùa,
Có một vườn thuốc nhỏ
Cung cấp thuốc bốn mùa.

Nhiều lương y nổi tiếng
Làm tiếp việc của ông
Hoàng Đôn Hòa là một,
Dưới triều Lê Thế Tông.

Ông dùng các toa thuốc
Của Tuệ Tĩnh sư thiền
Chữa sốt rét cho lính,
Dập dịch vùng Thái Nguyên.

Có một đồ đệ khác,
Là Hải Thượng Lãn Ông,
Viết “Lĩnh Nam Bản Thảo”
Về thuốc Nam, thuốc Đông.

Ông trích nhiều toa thuốc
Của Tuệ Tĩnh Thiền sư,
Cả phần dưỡng sinh khí
Bằng hít thở từ từ.

Ở quê hương Tuệ Tĩnh,
Để ghi nhớ công ơn,
Có đền Thuốc Nam Thánh,
Và đền ở Tân Sơn.

Ông cũng được thờ cúng
Ở Thủy Nguyên, Hải Phòng,
Làm Thành hoàng một xã,
Có cả miếu thờ ông.

Đại danh y dân tộc,
Chết từ lâu, xa nhà,
Triết lý ông vẫn sống:
Người ta dùng thuốc ta!         


MẠC ĐỈNH CHI (1280 – 1346)       

Tương truyền có bà nọ,
Bị khỉ hiếp, sau này
Đẻ đứa con xấu xí,
Ngắn chân và dài tay.

Nhưng đứa bé, bù lại,
Lại thông minh cực kỳ,
Rất có tài ứng đối.
Đó là Mạc Đỉnh Chi.

Chồng bà giết con khỉ,
Chôn, rồi mối đùn to,
Biết là đất phát tướng,
Nên khi chết dặn dò

Các con cháu từ đó
Chôn xác người thân mình
Ngay trên khu đất ấy,
Sẽ có ngày hiển vinh.

Cuốn “Công dư tiệp ký”
Nói rằng vua nhà Nguyên
Thấy Chi tài mà xấu,
Chắc phải có nhân duyên,

Bèn cho thầy địa lý
Sang dò hiểu xem sao,
Và quả thầy tìm đến
Mộ con khỉ năm nào.

Có thể chuyện ấy đúng,
Cũng có thể là sai,
Nhưng người này quả thật
Là một bậc hiền tài.

Dòng họ ông sau đó
Cũng vinh hiển vô cùng.
Có vị vua nổi tiếng,
Là vua Mạc Đăng Dung.

Ông người làng Lũng Động,
Huyện Nam Sách, Hải Dương,
Tướng mạo không đẹp lắm,
Nhưng trí tuệ phi thường.

Năm một ba không bốn,
Ông đỗ đầu, tuy nhiên,
Vua phải duyệt tướng mạo,
Mới cho làm Trạng nguyên.

Thấy ông thấp và bé,
Đức vua Trần Anh Tông,
Không muốn cho đỗ Trạng,
Nhưng đọc thơ của ông,

Cuối cùng vua đồng ý,
Lại còn ban lời khen
Bài “Sen trong giếng ngọc”,
Tức là “Ngọc tỉnh liên”.

Ông được giữ thư khố,
Có tài và nhân từ,
Được triều đình yêu mến
Rồi thăng chức Thượng thư.

Hai ông tổ, đời Lý,
Làm thượng thư như ông:
Mạc Hiển Tích - bộ Lại,
Mạc Kiến Quan - bộ Công.

Ông hai lần đi sứ
Sang triều đình Bắc phương,
Áp đảo về hùng biện,
Nổi bật tài văn chương,

Đến mức Nguyên Hoàng đế
Phải công nhận tài hiền,
Lấy bút tặng bốn chữ,
Là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”.

Nhờ thế mà uy tín
Đại Việt được nâng cao.
Sứ thần các nước khác
Gặp đâu cũng cúi chào.

Có khá nhiều giai thoại
Về tài đối của ông.
Đi sứ, nhờ tài ấy
Mà làm tốt việc công.

Văn chương là một chuyện.
Chuyện khác tốt hơn nhiều.
Đó là ông liêm khiết,
Thượng thư mà vẫn nghèo.

Nghèo đến mức, lần nọ,
Người của vua Minh Tông
Bỏ mười quan tiền cũ
Trước cửa thềm nhà ông.

Thế mà ông, sáng dậy,
Đem tiền ấy vào cung.
Vua cười: “Không ai nhận,
Khanh cứ lấy mà dùng.”

Một tấm gương sáng chói
Về liêm khiết, công minh,
Mà chúng ta, con cháu,
Phải biết để soi mình.    


HUYỀN QUANG LÝ ĐẠO TÁI (1254 – 1334)

Huyền Quang Lý Đạo Tái
Là bậc đại thiền minh,
Người Vạn Tải, Nam Sách,
Huyện Gia Bình, Bắc Ninh.    

Gia đình ông nghèo khổ,
Bị họ hàng chê cười,
Nên bố mẹ quyết chí
Làm ăn ở đất người.

Ông không được đi học,
Thường lên chùa đứng rình
Để nghe lỏm, học mót,  
Mà thuộc chữ, làu kinh.         

Lúc ông hai mươi tuổi,
Năm Một Hai Bảy Hai,
Đỗ Trạng nguyên, đầu bảng,
Nổi tiếng về văn tài.

Sau đó ông được bổ
Làm trong viện Nội hàn,
Soạn văn, tiếp sứ Bắc,
Rồi treo áo từ quan.     

Vua trọng tài, đức độ,
Gả con gái cho ông,
Nhưng ông muốn thoát tục
Nên cúi bẩm, xin không.

Ông qui y, theo Phật,
Tu ở chùa Hoa Yên
Ở vùng núi Yên Tử,
Nhanh chóng thành sư thiền.

Trước đấy, như ta biết,
Đức vua Trần Nhân Tông
Lên Yên Tử tu luyện,
Lập Trúc Lâm Thiền tông.

Năm Một Ba Không Tám
Ngài viên tịch, Pháp Loa
Nhận từ Ngài y bát
Của dòng Thiền nước nhà.

Năm Một Ba Một Bảy,
Lúc viên tịch, Pháp Loa
Truyền cho ông y bát,
Thành vị Tổ thứ ba.      

Vua Anh Tông, lần nọ, 
Đã dùng kế mỹ nhân
Để thử thách đạo hạnh
Của Huyền Quang người trần.

Tất nhiên vua thất bại,
Lòng hối hận, đức vua
Bắt mình phải vất vả
Leo lên núi, vào chùa

Xin lỗi Ngài, sau đó
Phong Ngài làm quốc sư,
Một trí tuệ sáng láng,
Một cõi tâm nhân từ.

Năm Một Ba Ba Bốn,
Ở tuổi đời tám mươi,
Ngài viên tịch, để lại
Một tấm gương cho đời.         

Huyền Quang Lý Đạo Tái
Còn là một thi nhân
Tinh tế và sâu sắc
Về cõi Phật, đời trần.

May mắn còn giữ được
Một số bài của ông
Mà khi đọc không thể
Không xao xuyến nỗi lòng.     


CHU VĂN AN (1292 – 1370)

Chu Văn An tên thật
Đơn giản chỉ Chu An,
Tên chữ là Linh Triệt.
Khi về ẩn, an nhàn

Ông lấy hiệu Tiều Ẩn -
Ông tiều thích ngủ khì,
Quê ở xã Thanh Liệt,
Nay thuộc huyện Thanh Trì.

Ông là người chính trực,
Từng đỗ Thái học sinh,
Nhưng ở nhà dạy học,
Chọn hai chữ yên bình.

Trường mở, đông người học,
Bên kia bờ sông Tô.
Ông có công truyền bá
Các tư tưởng Đạo Nho.

Không ít các trò học
Thành nổi tiếng sau này.
Phạm Sư Mạnh, Lê Quát
Vẫn cung kính thăm thầy.

Nhờ có tài, có đức,
Ông được Trần Minh Tông
Mời làm quan Tế tửu
Quốc Tử Giám, trường công.

Ông thành thầy dạy học,
Của vị vua tương lai
Là Thái tử Trần Vượng,
Dạy cả đức lẫn tài.

Sau khi Minh Tông mất,
Vua Dụ Tông lên thay,
Một ông vua hèn yếu,
Thích đàn hát suốt ngày.

Vua ham chơi như thế
Nên quan nịnh lộng quyền,
Triều chính không ổn định,
Lòng dân cũng không yên.

Ông dâng “thất trảm sớ”,
Tức sớ chém bảy người.
Vua không nghe, thất vọng,
Ông về nhà ngồi chơi.

Ông lui về ở ẩn
Ở vùng núi Phượng Hoàng,
Viết sách và dạy học
Cho lũ trẻ trong làng.

Cuộc đời ông thanh bạch,
Liêm khiết và chí công
Được xem là gương sáng
Vào thời đại của ông.

Ông còn viết nhiều sách:
Thơ gồm hai tập dày,
Chữ Nôm và chữ Hán,
Tinh tế và rất hay.

Cả Tứ “Thư thuyết ước”
Cũng là sách của ông,
Ngoài ra còn mấy cuốn
Thuốc Bắc và thuốc Đông.

Ông là một trong ít
Các học giả, hiền nho
Được thờ ở Văn Miếu
Mãi cho đến bây giờ.

Hiện còn có lăng mộ
Và ngôi đền thờ ông
Nằm lưng chừng Núi Phượng,
Người đến viếng rất đông.

*
Vậy là ta nghe hết
Chuyện về bốn nhân tài.
Có chuyện này kể nốt,
Rồi ta hẹn ngày mai.


CHUYỆN NGƯỜI HỌC TRÒ
CỦA CHU VĂN AN

Chu Văn An mở lớp
Ngay bên bờ sông Tô.
Lớp, nghe nói, không lớn,
Nhưng rất đông học trò.

Trong số học trò ấy,
Ông để ý một người,
Sáng nào cũng đến sớm,
Ghi chép kỹ từng lời.

Ông khen, hài lòng lắm,
Nhưng không biết người này,
Con nhà ai, giàu, đói
Và từ đâu đến đây.

Bèn cho người lặng lẽ
Theo anh kia về nhà,
Nhưng khi đến Đầm Đại
Thì biến mất bất ngờ.

Cái Đầm Đại ngày ấy
Nhiều sen và vân sam,
Bây giờ vẫn chưa lấp.
Đó là hồ Linh Đàm.

Mọi người lấy làm lạ,
Nhưng sáng ngày hôm sau,
Người học trò vẫn đến,
Kinh sử thuộc làu làu.

Một lần, trời hạn lớn,
Lúa ngoài đồng cháy khô.
Chu Văn An buồn bã
Nói với các học trò,

Rằng nếu ai có thể
Thì làm mưa giúp dân.
Người học trò lạ ấy
Đứng trước thầy, phân vân:

“Thưa thầy, con làm được,
Tuy trái với lệnh trời.
Nhưng con nghĩ thà chết,
Không thể không giúp người.”

Rồi người ấy thong thả
Bước ra giữa sân trường,
Sau khi đọc thần chú,
Vung mực khắp bốn phương.

Khi nghiên mực đã cạn,
Anh tung nó lên cao.
Lập tức trời nổi gió
Rồi mưa xối ào ào.

Trời mưa suốt đêm đó.
Phía Đầm Đại chớp lòa
Rồi sấm nổ liên tục.
Sáng tỉnh dậy, người ta

Thấy giữa hồ trôi nổi
Một con thuồng luồng to.
Chu Văn An vội vã
Cho gọi đám học trò

Vớt nó lên chôn cất.
Rồi dân lập miếu thờ.
Cái mộ ấy, nghe nói,
Còn tận đến bây giờ.

Theo truyền thuyết kể lại,
Chỗ rơi xuống chiếc nghiên
Sau gọi là Đầm Mực,
Vì nước nó màu đen.

Còn quản bút rơi trúng
Đất làng Tả Thanh Oai,
Nên về sau đất ấy
Sinh ra lắm hiền tài.       


11
CHIẾN THẮNG VÂN ĐỒN VÀ BẠCH ĐẰNG

Ba lần giặc Mông Cổ
Đem quân đánh nước ta.
Ba lần chúng thất bại,
Đất nước được yên hòa.

Thế đấy các cháu ạ,
Ông cha ta trước đây
Đánh ngoại xâm rất giỏi.
Phải ghi nhớ điều này.

Bây giờ, rất vắn tắt,
Ông kể hai chiến công,
Hai trận đánh lịch sử.
Cả hai đều trên sông.

Vân Đồn, trận thứ nhất,
Cắt đường giặc tiếp lương.
Bạch Đằng là trận tiếp,
Một chiến thắng phi thường.


CHIẾN THẮNG VÂN ĐỒN

Đầu Một Hai Tám Tám,
Lần xâm lược thứ ba,
Chiến thuyền giặc hùng hổ
Tiến quân vào nước ta.

Ô Mã Nhi, tướng giặc,
Bảo vệ đoàn thuyền lương
Của tướng Trương Văn Hổ,
Đi phía trước dọn đường.

Ở Vạn Ninh, Móng Cái,
Ta phục, đánh phủ đầu.
Dẫu bị tổn thất nặng,
Chúng vẫn tiến vào sâu.

Thuyền của giặc đi tiếp,
Vẫn còn chưa hoàn hồn,
Bị quân ta chặn đánh
Ở cửa khẩu Vân Đồn.

Tuy nhiên, do lực yếu,
Quân Đại Việt đã thua.
Trần Khánh Dư, là tướng,
Bị triệu về gặp vua.

Theo quân luật thời ấy,
Có thể bị mất đầu.
Ông khất mấy ngày nữa
Sẽ về chịu tội sau.

Đúng như ông dự đoán.
Sau quân đi tiên phong,
Đoàn quân lương sẽ đến,
Thuyền lớn và rất đông.

Ông cho quân mai phục,
Quyết một trận sống còn.
Thuyền của Trương Văn Hổ
Khi đến cửa Vân Đồn

Thì quân của Đại Việt
Từ nhiều phía đổ ra.
Nhanh, nhẹ và thiện chiến,
Gươm giáo vung sáng lòa.

Thuyền giặc lớn và nặng
Nên không kịp trở tay.
Bị đánh chìm phần lớn,
Xác giặc chết phơi đầy.

Nhiều thuyền cùng lương thực
Lọt vào tay quân Trần.
Tướng giặc, Trương Văn Hổ,
Phải bỏ chạy thoát thân.

Mất một đoàn thuyền lớn,
Mười bảy vạn hộc lương,
Quân giặc biết rằng chúng
Đã bị dồn cùng đường.

Nhuệ khí sa sút hẳn,
Sau thất bại nặng nề.
Tinh thần rất bạc nhược,
Chúng chỉ mong quay về.

Hay tin ta đại thắng,
Thượng hoàng Trần Thánh Tông,
Tha cho tướng phạm lỗi,
Rồi mở tiệc mừng công.

Sau đó, Ngài ra lệnh
Thả tù binh cho về
Với quân ở Vạn Kiếp
Để họ kể chúng nghe

Và gieo rắc sợ hãi,
Khiến chúng càng nản lòng.
Kết quả đúng như vậy.
Thật tài, Trần Thánh Tông.

Trận Vân Đồn lịch sử
Là chiến thắng mở màn
Trận Bạch Đằng quyết định,
Đánh bại giặc hoàn toàn.


CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG

Tháng Một, năm Tám Tám,
Ba đạo quân Thoát Hoan
Chiếm Thăng Long lúc ấy
Bị bỏ trống, hoang tàn.

Sau đó hắn tiến đánh
Các căn cứ nhà Trần.
Lính cướp bóc, đốt phá
Và tàn sát người dân.

Hắn còn cho quân lính
Làm cái việc đau lòng
Là đào bới, phỉ báng
Lăng mộ Trần Thái Tông.

Ô Mã Nhi được lệnh
Đuổi bắt hai vua Trần,
Nhưng âm mưu thất bại
Do vấp phải lòng dân.

Nhiều vị trí xung yếu
Bị quân ta tấn công.
Vì thế cô, lương cạn,
Quân giặc rất nản lòng.

Thoát Hoan quyết định rút
Đến Vạn Kiếp tập trung
Rồi tháo chạy về nước
Theo đường bộ, đường sông.

Thấy thời cơ đã đến,
Vua và tướng nhà Trần
Liền chuẩn bị truy đánh
Bằng sức mạnh toàn dân.

Vua và Trần Hưng Đạo
Phục kích, bủa lưới dăng,
Chờ diệt quân xâm lược
Trên dòng sông Bạch Đằng.

Bạch Đằng là sông lớn,
Hợp lưu của hai sông
Đá Bạc và sông Giá,
Ở Quảng Ninh, Hải Phòng.

Có chỗ rộng nghìn mét.
Chênh lệch thủy triều cao.
Thường các tàu thuyền lớn
Khó ra nhưng dễ vào.

Nắm được lợi thế ấy,
Học theo kế Ngô Quyền,
Chủ tướng Trần Hưng Đạo,
Mai phục, chờ quân Nguyên.

Ông cho đóng cọc nhọn
Ở chỗ đáy sông nông,
Nhử giặc khi nước lớn,
Nước rút, sẽ tấn công.

Tháng Tư năm Tám Tám
Đoàn thuyền Ô Mã Nhi,
Có quân bộ hộ tống,
Không cảnh giác, cứ đi.

Đến gần chỗ bãi cọc,
Thuyền chiến của nhà Trần
Giả vờ ra khiêu chiến,
Rồi vờ thua nhiều lần.

Thuyền giặc cứ rượt đuổi,
Trúng kế hiểm của ta.
Khi lọt vào bãi cọc
Thuyền quân Trần xông ra.

Hàng nghìn thuyền nhỏ nhẹ,
Hàng vạn lính can trường,
Quân Đại Việt chiến đấu
Thật dũng cảm phi thường.

Bị bất ngờ đánh úp,
Rối đội hình, quân Nguyên.
Tranh nhau chạy ra biển.
Nước rút, cọc nhô lên.

Thế là thuyền thủng đáy,
Dồn lại một đám đông.
Vỡ, đắm hơn già nửa,
Lính chết, xác đầy sông.

Còn những tên sống sót
Tìm cách chạy lên bờ,
Cũng bị bắt hoặc giết
Vì quân Trần đang chờ.

Hơn bốn vạn tướng sĩ
Và bốn trăm chiến thuyền
Đã bị ta tiêu diệt.
Thật đáng đời quân Nguyên.

Nhiều tướng giặc bị bắt -
Ô Mã Nhi đầu hàng.
Kết thúc một trận đánh,
Một trang sử huy hoàng.

Góp công vào chiến thắng
Có tướng Trương Hán Siêu,
Đỗ Hành và Nguyễn Khoái,
Nhiều người nữa, rất nhiều.

Còn cánh quân trên bộ
Do Thoát Hoan chỉ huy
Cũng không thể cứu giúp
Quân tướng Ô Mã Nhi.

Con vua Hốt Tất Liệt,
Hắn là tướng có tài,
Từng chỉ huy quân giặc
Lần xâm lược thứ hai.

Bị vây ở Vạn Kiếp,
Hắn quyết định lần này
Rút theo hướng xứ Lạng
Rồi chạy về Quảng Tây.

Chúng đến thị trấn Chũ,
Tức Bắc Giang bây giờ,
Gặp quân Trần phục kích
Phải tháo chạy bất ngờ.

Khi nhận được tin báo
Ba mươi vạn tinh binh
Quân Đại Việt đang phục
Suốt dọc đường, thất kinh,

Hắn ra lệnh đổi hướng,
Đi về phía Lộc Châu,
Nay cũng thuộc xứ Lạng,
Nhưng vẫn bị đánh đau.

Bị bắn trúng tên độc,
Tên phó tướng tử vong.
Mãi một tháng sau đó
Cuộc rút chạy mới xong.

Vậy là quân Mông Cổ
Lẫn nữa, lần thứ ba,
Đã thất bại thảm hại
Khi xâm lược nước ta.

*
Đó là những chiến thắng
Vẻ vang của cha ông
Mà chúng ta, con cháu
Phải ghi nhớ trong lòng.

Là con dân đất Việt
Thì mọi người chúng ta
Thà hy sinh tất cả
Để bảo vệ nước nhà.

Phải ghi nhớ lời dạy
Của vua Trần Nhân Tông:
“Nhất quyết không để mất
Một ngọn núi, bờ sông!”


12
HỒ QUÍ LY (1336 – 1407)

Sau chiến tranh, nông nghiệp
Được khôi phục rất nhanh
Nhờ một loạt chính sách
Được các vua ban hành.

Nghề thủ công, buôn bán
Cũng có bước tiến dài.
Vân Đồn thành cảng chính
Buôn bán với nước ngoài.

Dù không bằng thời Lý,
Đạo Phật vẫn thịnh hành.
Nho Giáo rất phát triển.
Trường lớp cũng tăng nhanh.

Chữ Hán dùng phổ biến,
Đặc biệt trong thơ văn.
Tính tự hào dân tộc
Rất cao thời nhà Trần.

Chữ Nôm đã xuất hiện
Cũng vào giai đoạn này.
Nhiều tác phẩm văn học
Còn lưu đến ngày nay.

Ngoài trường Quốc Tử Giám,
Các tỉnh, lộ sông Hồng
Đã bắt đầu xây dựng
Trường công hoặc bán công.

Còn ở các làng xã,
Trường tư cũng mọc lên,
Không kể các lớp học
Có trước ở chùa chiền.

Các kỳ thi đều đặn
Tổ chức theo định kỳ.
Người nghèo mà học giỏi
Đều được phép vào thi.

Thi đậu, tùy năng lực,
Được phân bổ làm quan.
Người thầy nổi tiếng nhất
Là thầy Chu Văn An.

Cuốn Đại Việt Sử Ký
Gồm ba mươi tập dày,
Do Lê Văn Hưu soạn,
Cũng ở thời kỳ này.

Về công trình kiến trúc
Có Hoàng Thành Thăng Long
Với nhiều cung điện lớn
Có ngói men đầu rồng.

Về chùa chiền thời ấy,
Nam Định có Phổ Minh.
Tháp Bình Sơn - Vĩnh Phúc,
Nhiều chùa ở Ninh Bình.

*
Như mọi triều đại khác,
Theo một dạng chu kỳ,
Các vua Trần về cuối,
Hết thời thịnh, đến suy.

Phần lớn hèn, bạc nhược,
Khác với đầu đời Trần,
Vua suốt ngày yến tiệc,
Không còn lo cho dân.

Giữa thế kỷ Mười Bốn
Những chín lần vỡ đê,
Mười năm có nạn đói,
Dân cơ cực đủ bề.

Một loạt cuộc khởi nghĩa
Đã nổi dậy khắp nơi,
Được nông dân hưởng ứng,
Hàng nghìn, hàng vạn người.

Như khởi nghĩa Ngô Bệ
Ở Yên Phụ, Hải Dương.
Nguyễn Kỵ ở Thanh Hóa,
Nguyễn Bổ ở Bắc Giang.

Phạm Sư Ôn, Hà Nội,
Nguyễn Nhữ Cái, Sơn Tây,
Làm nhà Trần đã yếu,
Lại càng thêm lung lay.

*
Cuối thế kỷ mười bốn
Các vương triều nhà Trần
Đã trở nên ruỗng mục,
Thối nát, mất lòng dân.

Có Khu Mật Đại Sứ
Tên là Hồ Quí Ly,
Nắm hết mọi quyền lực,
Chẳng coi vua ra gì.

Cái phải đến đã đến,
Năm Một Nghìn Bốn Trăm,
Ông phế Trần Thiếu Đế,
Rồi lên ngôi âm thầm.

Như vua Lý Nam Đế,
Tổ tiên ông một thời
Người Triết Giang, Trung Quốc,
Sang ta đã nhiều đời.

Hồ Quí Ly quê gốc
Ở Quỳnh Lưu, Nghệ An,
Sau chuyển ra Thanh Hóa,
Rồi vào triều làm quan.

Ông có hai cô ruột
Là hoàng hậu, ân nhân.
Sau hai con của họ
Cũng trở thành vua Trần.

Khi lên ngôi, tên nước
Ông đổi thành Đại Ngu,
Dời đô vào Thanh Hóa,
Huyện Vĩnh Lộc bây giờ.        

Sau một năm tại vị,
Ông nhường lại ngai vàng
Cho con trai trị quốc
Để làm Thái thượng hàng.

Theo các tài liệu sử,
Ông là người nhẫn tâm,
Để lo trừ hậu họa,
Chỉ trong vòng một năm,

Tổng cộng ông đã giết
Ba trăm bảy mươi người,
Chủ yếu người hoàng tộc.
Một tội ác để đời.

Dẫu mưu mô, ác độc,
Nhưng vua Hồ Quí Ly
Có rất nhiều cải cách
Mà sử sách còn ghi.

Những cải cách tiến bộ,
Tầm nhìn rộng và xa,
Nếu đem thực hiện hết
Sẽ chấn hưng nước nhà.

Về lĩnh vực hành chính,
Ông đặt nhiều chức quan
Để giám sát các lộ,        
Phòng ngừa những việc gian.

Ông thêm chức Liêm phóng
Ở châu, lộ xa gần,
Để báo triều đình biết
Thực tình của người dân.

Về lĩnh vực kinh tế,
Ông cải cách hạn điền.
Giới hạn số ruộng đất
Của tầng lớp có quyền.

Trừ vương hầu, gia tộc,
Ông qui định mỗi nhà
Có không quá mười mẫu,
Cả ruộng gần, ruộng xa.

Về số lượng người ở,
Cũng không được quá nhiều.
Tùy gia sản, thứ bậc
Mà được nuôi bao nhiêu.

Ông phát hành tiền giấy,
Nhằm đẩy mạnh công thương,
Thay đổi chế độ thuế,
Quy định cách đo lường.

Rồi mở thêm trường học,
Bắt sĩ tử đi thi
Phải thi môn toán pháp,
Mới được lên kinh kỳ.

Ông đặc biệt coi trọng
Chữ Nôm của nước nhà,
Sai dịch ra chữ ấy
Các sách cổ Trung Hoa.

Lại còn mở kho thóc
Giá rẻ cho người nghèo.
Chăm lo việc thủy lợi,
Đào sông, đắp đê điều.

Ông đặt sở Quản Tế,
Sở y tế bây giờ,
Rồi cất quan coi sóc
Không chểnh mảng, thờ ơ.

“Quản Tế Thư” được lập,
Kiểu bệnh viện tế bần,
Chữa bệnh bằng châm cứu
Và thuốc Nam cho dân.

Là tài năng kiệt xuất,
Với nghị lực phi thường,
Ông đeo đuổi cải cách,
Tiếc đứt gánh giữa đường.

Hồ Quí Ly biết trước
Dã tâm của nhà Minh,
Nên chuyên tâm chấn chỉnh
Việc công và việc binh.

Ông cải cách quân đội,
Xây thành, lo quốc phòng,
Lập hộ tịch bắt lính,
Đóng cọc các cửa sông.

Ông là người tài giỏi,
Nhưng chỉ là quan văn,
Rất tiếc đã thất bại,
Vì không được lòng dân.

Năm Một Bốn Không Sáu,
Lấy cớ giúp nhà Trần,
Nhà Minh sang xâm lược,
Điều hai mươi vạn quân.

Tướng giặc là Trương Phụ,
Chia nhiều mũi tấn công.
Thế yếu, quân Việt rút
Sang phía Nam sông Hồng.

Thành Thăng Long thất thủ
Trong vòng mấy tháng sau.
Vua rút về Thanh Hóa
Định tính kế dài lâu.

Bị quân địch truy đuổi,
Ông chạy vào Kỳ La,
Bây giờ thuộc Hà Tĩnh,
Rồi cha con ông ta

Bị quân Minh bắt sống
Đưa về nộp Bắc Kinh,
Dọc đường bị sát hại.
Không rõ lắm sự tình.

Cũng có tài liệu nói
Chúng đưa về Quảng Tây,
Bắt lao dịch ở đấy
Rồi chết mòn sau này.

Vậy là triều Hồ mất,
Chỉ tồn tại bảy năm
Nhưng cũng kịp làm được
Một số việc cần làm.

Nước Đại Việt lần nữa
Rơi vào ách ngoại bang,
Phải chờ đến Lê Lợi
Mới độc lập huy hoàng.

*
Hôm nay, thay cổ tích,
Ông sẽ kể chuyện này,
Một chuyện sử có thật,
Được lưu truyền lâu nay.


NGƯỜI VIỆT NAM XÂY
TỬ CẤM THÀNH Ở BẮC KINH

Không phải ai cũng biết
Một người Việt chúng ta
Xây Cố Cung hoa lệ
Cho vua chúa Trung Hoa.

Hơn thế, người Việt ấy
Vốn là một hoạn quan,
Sử sách ít nhắc đến.
Người đó là Nguyễn An.

Là kiến trúc sư trưởng
Xây khu Tử Cấm Thành,
Một nhà đại trị thủy,
Thế mà chẳng lưu danh.

Mãi các nhà sử học
Mới biết ông gần đây.
Hình như sử Trung Quốc
Cố tình quên chuyện này.

Nguyễn An là thợ giỏi,
Quê ở vùng Hà Đông,
Một làng nghề nào đó,
Làng mộc hoặc làng đồng.

Khi mới mười sáu tuổi,
Ông đã theo người thân
Vào xây hoặc tu sửa
Các cung vua nhà Trần.

Năm một bốn không bảy,
Khi diệt xong nhà Hồ,
Quân Minh mang về nước
Nhiều trai Việt khôi ngô.

Sau đó họ bị thiến
Để trở thành hoạn quan.
Trong số những người ấy
Có chàng trai Nguyễn An.

Thấy ông giỏi tính toán,
Có biệt tài xây nhà,
Lại liêm khiết hiếm thấy,
Nên vua nước Trung Hoa,

Lúc ấy là Thành Tổ,
Đặc biệt rất tin dùng.
Vua giao ông phụ trách
Việc xây khu Cố Cung.

Nguyễn An, còn rất trẻ,
Mới ba mươi tuổi đời,
Được toàn quyền sai khiến
Khoảng mười tám vạn người.

Kể từ khâu thiết kế,
Lo vật liệu, thi công,
Đến hoàn thiện mỹ thuật,
Việc gì cũng do ông.

Phải là người nhân cách
Và tài năng cực kỳ
Mới làm nổi điều ấy,
Tránh được lời thị phi.

Một công trình tốn kém
Suốt hàng chục năm ròng,
Khó khăn và vất vả,
Cuối cùng cũng làm xong.

Nguyễn An được vua thưởng
Năm mươi lạng vàng nguyên,
Thêm một trăm lạng bạc
Và một vạn quan tiền.

Chưa kể tám tấn thóc
Và bài vị, sắc phong...
Tất cả để ghi nhận
Công và tài của ông.

Có một con sông lớn
Tên là sông Hoàng Hà,
Thường xuyên gây lũ lụt.
Ngẫm mà lòng xót xa.

Vua nhà Minh lần nữa
Phải nhờ ông ra tay,
Đem tài năng xuất chúng
Trị thủy con sông này.

Đích thân ông gia cố
Các công trình thủy nông.
Phu phen hàng chục vạn
Răm rắp nghe lời ông.

Sau đó ông lại “trị”
Con sông dữ Tắc Dương,
Sông Trạch Chư, Trương Thụ,
Nơi ông chết dọc đường.

Nguyễn An là gương sáng
Về làm việc hết mình,
Về tài năng, đức độ,
Liêm khiết và công minh.

Trên đường đến xây dựng
Đê đập ở Sơn Đông,
Ông chết, có trăn trối
Đừng xây lăng cho ông,

Mà dùng số tiền ấy
Cho dân chúng trong vùng,
Người không may gặp lụt,
Rơi vào cảnh khốn cùng.

Nhân tiện xin nhắc đến
Những người như Nguyễn An,
Các chàng trai Đại Việt
Bị biến thành hoạn quan.

Phạm Hoằng, một thợ giỏi,
Vua Anh Tông nhà Minh
Sai xây Vĩnh An Tự
Tây Nam thành Bắc Kinh.

Đó là một chùa lớn,
Vua hài lòng, gọi ông
Là “Bồng Lai Cát Sĩ”,
Cho khắc tên ghi công.

Thêm một người khác nữa,
Có tên là Vương Cần.     
Ông tài giỏi đến mức,
Nghe kể lại, một lần

Người ta bỗng phát hiện,
Rằng ông là hoạn quan
Mà vẫn còn “cái ấy”,
Tội chém, không phải bàn.

Thế mà vua tha chết,
Cho ra sống ngoài đời.
Còn tặng mấy cung nữ,
Rồi có con - mười người!

Tuy nhiên, người giỏi nhất
Lại là Hồ Nguyên Trừng,
Một thiên tài quân sự,
Danh tiếng rất lẫy lừng.

Ông này, như ta biết,
Là con Hồ Quí Ly,
Bị bắt sang Trung Quốc,
Có số phận li kỳ.

Lịch sử đã ghi lại
Rất chính xác, rằng ông,
Lần đầu trên thế giới
Chế tạo súng thần công.

Nhờ loại vũ khí đó
Mà nhà Minh nhiều lần
Đánh bại quân phương Bắc,
Xem ông như vị thần.

Về sau, ông, người Việt,
Làm Thượng thư bộ Công
Của thiên triều Đại Hán.
Kể cũng đáng hả lòng.    


13
THÀNH NHÀ HỒ        

Hôm nay ông sẽ kể
Câu chuyện Thành Nhà Hồ.
Cũng có khi sử sách
Gọi là Thành Tây Đô.

Đó là bức tường lớn,
Ghép bằng đá mà thành.
Mỗi viên hơn mười tấn,
Có hào nước bao quanh.

Thành có bốn cửa chính,
Là Nam Bắc Đông Tây,
Cổng chính cao mười mét
Bằng đá, cong và dày.

Bốn cạnh đều vuông góc,
Mỗi cạnh nghìn mét dài.
Cao khoảng ba, bốn mét,
Gia cố đất bên ngoài.

Bên trong là cung điện
Và dinh thự vua quan,
Bị thời gian hủy hoại
Nay là bãi hoang tàn.

Rất may còn sót lại
Đôi rồng đá rất to,
Chạm trổ thật tinh tế
Trước chính điện nhà Hồ.

*
Thành Tây Đô xây dựng
Vào cuối đời nhà Trần,
Năm Một Ba Chín Bảy,
Bằng sức của người dân.

Người khởi xướng xây nó
Chính là Hồ Quí Ly,
Lúc ấy nắm quyền lực,
Chẳng coi vua ra gì.

Chỉ ba năm sau đó,
Tức Một Bốn Không Không,
Ông tiếm ngôi, xuống chiếu
Dời đô về quê ông.

Tức là về Thanh Hóa,
Bắt đầu đời nhà Hồ.
Thành mới xây được gọi
Bằng tên mới, Tây Đô.

Thành ở huyện Vĩnh Lộc
Thôn Tây Giai, Xuân Giai,
Xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến,
Đất của người hiền tài.

Theo sử sách ghi lại,
Thành được xây rất nhanh.
Chỉ trong vòng ba tháng,
Mọi cái đã hoàn thành.

Đàn Nam Giao, cung điện,
Tuyến phòng vệ bên ngoài
Được xây tiếp, hoàn thiện
Năm Một Bốn Không Hai.

Là công trình kiến trúc
Tồn tại đến ngày nay,
Bằng đá, rất độc đáo,
Thành nhà Hồ gần đây

Được UNESCO chọn
Và xếp hạng, tôn vinh
Là Di sản Thế giới,
Vẻ vang cho nước mình.

Ông nghĩ sẽ rất tuyệt,
Có tiền thuê ô tô,
Ta làm chuyến du lịch
Tới thăm Thành Nhà Hồ.


14
LÊ LỢI (1385 – 1433)

Năm Một Bốn Không Sáu,
Lấy cớ giúp vua Trần,
Quân nhà Minh xâm lược
Đem hai mươi vạn quân,

Dân phu hàng chục vạn,
Do Trương Phụ cầm đầu,
Hùng hổ đánh Đại Việt,
Và nhanh chóng tiến sâu.

Nhà Hồ thế lực yếu,
Lại không có tướng tài,
Nên liên tiếp thất bại,
Bị giặc đuổi dài dài.

Đầu Một Bốn Không Bảy,
Mất Thăng Long, vua Hồ
Rút quân về quyết định
Cố thủ thành Tây Đô.

Vào tháng Tư năm ấy,
Thế và lực đã suy,
Quân Minh kéo vào đánh,
Lần nữa, Hồ Quí Ly

Rút chạy vào Hà Tĩnh.
Và chỉ hai tháng sau
Ông bị giặc Minh bắt
Rồi đưa về nước Tàu.

Nhà Minh ngay lập tức
Xóa quốc hiệu nước ta,
Đổi thành quận Giao Chỉ,
Một phần nước Trung Hoa.

Chúng đặt nhiều thuế mới
Tăng lao dịch, lao công.
Nhân dân sống khổ cực
Luôn oán trách trong lòng.

Cuối cùng dân nổi dậy
Khởi nghĩa ở nhiều nơi:
Đồ Sơn có Phạm Ngọc,
Phú Thọ - Trần Văn Thôi.

Quảng Ninh có Lê Ngã,
Phạm Chấn ở Đông Triều.
Trần Nguyên Khang xứ Thái,
Ngoài ra còn rất nhiều.

*
Năm Một Bốn Không Bảy,
Trần Ngỗi, con vua Trần,
Được tôn thành hoàng đế,
Làm nức lòng người dân.

Đầu năm sau, Trần Ngỗi
Kéo quân vào Nghệ An,
Nhận được sự giúp đỡ
Của một số cựu quan.

Đó là tướng Đặng Tất
Và tướng Nguyễn Cảnh Chân,
Trước là người thân tín
Của các triều vua Trần.

Đặng Tất ở xứ Huế.
Nguyễn Cảnh Chân phía trong.
Vào cuối năm Không Tám,
Cùng Trần Ngỗi tấn công

Và đã đánh tan tác
Bốn vạn quân nhà Minh
Ở Bô Rô, Nam Định,
Thanh thế lên rất nhanh.

Nhiều người đến tụ nghĩa,
Quyết khôi phục nhà Trần.
Tuy nhiên, sau chiến thắng,
Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân

Đã bị Trần Ngỗi giết,
Do tin lời dèm pha.
Cuộc khởi nghĩa lụi tắt.
Thật tiếc cho nước nhà.

*
Chẳng bao lâu sau đó,
Con Đặng Tất, Cảnh Chân,
Là Đặng Dung, Cảnh Dị,
Bỏ vào xứ Nghệ An.

Họ tôn Trần Quí Khoáng,
Làm vua mới nhà Trần,
Lại dấy binh khởi nghĩa,
Thu phục được lòng dân.

Nghĩa quân đã làm chủ
Một vùng đất kéo dài
Từ Thanh Hóa đến Huế,
Cũng đất người hiền tài.

Năm Một Bốn Một Một,
Giặc tiến đánh xứ Thanh.
Nghĩa quân phải tạm rút
Vào Huế, tuyển thêm binh.

Rồi hai năm sau đó,
Năm Một Bốn Một Ba,
Giặc cho quân đánh Huế,
Thế lực yếu, quân ta

Đã dần dần tan rã.
Nhiều người rời nghĩa binh.
Vua, Đặng Dung, Cảnh Dị
Rơi vào tay quân Minh.

*
Thế là ông kể hết
Về tình hình nước ta
Dưới ách đô hô mới
Của phong kiến Trung Hoa.

Nhưng năm năm sau đó
Tình hình mới khá hơn
Khi xuất hiện Lê Lợi
Cùng khởi nghĩa Lam Sơn.

Bây giờ ông sẽ kể
Về người con xứ Thanh
Đã có công đánh đuổi
Giặc xâm lược nhà Minh.

Sau đó, ông sẽ kể
Theo thứ tự, dần dần
Diễn biến cuộc khởi nghĩa
Và chuyện các trung thần.

          *
Giặc nhà Minh phương Bắc
Diệt xong Hồ Quý Ly,
Quyết xóa văn minh Việt,
Không để lại chút gì.

Chúng đốt hết sách vở,
Hoặc chở về Yên Kinh.
Hoạn đàn ông Đại Việt,
Làm điêu đứng dân tình.

Chúng bắt, đưa về nước
Những người giỏi, người tài.
Tịch thu các thư tịch,
Các bia đá, tượng đài.

Lòng muôn dân ta thán,
Đâu cũng thấy bất bình.
Đúng lúc ấy xuất hiện
Vị anh hùng cứu tinh.

Người ấy là Lê Lợi,
Một chúa trại Lam Sơn.
Ông dấy binh khởi nghĩa,
Rửa mối nhục căm hờn.

Năm Một Bốn Một Sáu,
Cùng mười tám hiền tài,
Ông thề quyết đánh giặc
Trong hội thề Lũng Nhai.

Nhiều anh hùng, hào kiệt
Giúp ông dựng cơ đồ:
Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn,
Đinh Lễ, Lê Đa Bồ...

Năm Một Bốn Một Tám,
Ông phong vương cho mình,
Hịch kêu gọi dân chúng
Chống lại ách nhà Minh.

Nghĩa quân ông lãnh đạo
Tạm thất bại ban đầu,
Nhưng giành nhiều thắng lợi
Trong giai đoạn về sau.

Năm Một Bốn Hai Bảy
Cuộc kháng chiến thành công,
Khôi phục nền độc lập,
Vua và dân nức lòng.

Trong năm năm trị nước,
Ông làm được nhiều điều:
Lấy đất người giàu có
Đem chia cho người nghèo.

Soạn lại luật hình sự
Theo mô hình nhà Đường.
Lo chấn hưng văn hóa
Bằng cách xây thêm trường.

Các cơ cấu hành chính
Và bộ máy công quyền
Cũng được điều chỉnh lại
Theo hướng trọng người hiền.

Là anh hùng dân tộc,
Nhà quân sự đại tài,
Cuối đời, vua Lê Lợi
Cũng có nhiều điểm sai.

Ông thay ngôi thái tử,
Quá tin lời người thân,
Mà đang tâm bức hại
Cả những bậc trung thần.

Nguyễn Trãi bị tù tội,
Trần Nguyên Hãn quyên sinh.
Đó không phải là việc
Của đấng vua anh minh.

Năm năm trên ngôi báu,
Năm Một Bốn Ba Ba,
Hưởng thọ bốn tám tuổi
Vua Lê Lợi băng hà.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét