Truyện Thơ Thiên Chúa
SAM-SÔN VÀ ĐÊ-LI-A
1
Các con chiên Do Thái
Ba nghìn năm trước đây
Sinh sống ở vùng đất
Pa-let-tin ngày nay.
Nhiều năm, nhiều thế kỷ,
Để bảo vệ đức tin,
Họ phải luôn chiến đấu
Với người Pa-let-tin.
Cuộc chiến ấy tiếp diễn
Cho đến tận hôm nay.
Hiện cả hai dân tộc
Giành nhau khu Bờ Tây.
Ai cũng bảo mình đúng,
Không ai chịu nhường ai.
Pa-let-tin thắng thế
Trong một thời gian dài.
2
Vào lúc gian khó nhất,
Đức Chúa Trời lòng lành
Đã cho người Do Thái
Một anh hùng trứ danh.
Số là vợ chồng nọ,
Mãi mà không có con,
Cuối cùng sinh cậu bé,
Đặt tên là Sam-sôn.
Đó là một dũng sĩ
Ngang tài với Hec-quyn,
Sau được giao sứ mệnh
Đánh lại Pa-let-tin.
Lớn lên, chàng tự nguyện
Qui phục trước Chúa Trời,
Thành một Na-zi-rit,
Tức phải thề suốt đời
Không bao giờ cắt tóc,
Không uống rượu, ăn nho,
Không lại gần xác chết,
Không hung hãn, côn đồ.
Chàng cao lớn, vạm vỡ,
Xinh đẹp như vị thần,
Được tôn thành Quan Án,
Che chở cho muôn dân.
Nhưng bất chấp phong tục
Và lời khuyên họ hàng,
Chàng đem lòng yêu mến
Một cô gái dịu dàng.
Cô gái này, thật tiếc,
Là người phe bên kia.
Họ yêu nhau say đắm,
Không bao giờ chia lìa.
Than ôi, cô gái ấy
Bị chính người của cô
Bắt trói, ném vào lửa
Cho đến khi thành tro.
Chàng Sam-sôn tức giận,
Thề nhất định có ngày
Giết hết người Ả Rập
Để trả mối thù này.
Chàng tay không, đơn độc,
Tìm lính Pa-let-tin,
Rồi trong cơn giận dữ,
Giết chết cả hàng nghìn.
Chúng bao vây bốn phía,
Chàng bẻ một thanh xà,
Quật chúng chết như rạ,
Rồi ung dung về nhà.
Từ đấy người Do Thái
Được yên ổn hàng ngày,
Không sợ người Ả Rập,
Chèn ép như trước đây.
Còn các quan Ả Rập
Thì ghét chàng làm sao.
Như chiếc gai phải nhổ
Mà chưa biết cách nào.
Cuối cùng chúng tìm được
Một mưu kế thánh thần,
Cổ xưa và đơn giản,
Ấy là kế mỹ nhân.
Xưa nay ta đã biết,
Các anh hùng tài ba,
Giỏi và anh hùng thật,
Nhưng luôn thua đàn bà.
Cả Sam-sôn cũng vậy,
Chàng dũng cảm hơn người,
Thế mà đã gục ngã
Trước một nụ cười tươi.
Đó là một cô gái,
Tên là Đê-li-a,
Tất nhiên rất xinh đẹp,
Quyến rũ và mặn mà.
Cô được người Ả Rập
Hứa thưởng rất nhiều vàng,
Nếu biết được bí mật
Sức mạnh người yêu nàng.
Nàng nhiều lần dò hỏi,
Nhưng anh hùng Sam-sôn
Nhất định không chịu nói,
Dẫu bị nàng giận hờn.
Nàng phải dùng vũ khí
Lợi hại nhất xưa nay
Là nước mắt, nàng khóc,
Khóc và dỗi suốt ngày.
Cuối cùng, không chịu nổi,
Chàng thú thật với nàng,
Rằng bí quyết sức mạnh
Nằm ở mái tóc chàng.
Và rồi ru chàng ngủ
Trong cánh tay yêu kiều,
Nàng đã lén lấy kéo
Cắt trụi tóc người yêu.
Giặc đến, chàng vùng dậy
Định đánh như mọi khi,
Nhưng sức lực đã mất,
Bị chúng trói, lôi đi.
Chúng chọc chàng mù mắt,
Giam dưới ngục, bằng tay
Phải đẩy chiếc cối nặng,
Hết đêm rồi lại ngày.
3
Trong ngôi đền to lớn
Người dân Pa-let-tin
Cúng thần linh của họ,
Kéo nhau đến kìn kìn.
Để thêm phần vui vẻ,
Họ bắt chàng Sam-sôn
Xích giữa hai hàng cột,
Rồi trát phấn, bôi son.
“Hỡi Đức Chúa vĩ đại, -
Chàng ngửa mặt lên trời. -
Hãy cho con sức mạnh,
Chỉ lần này nữa thôi!”
Đức Chúa Trời nghe thấu
Tiếng kêu này đau thương:
Chàng vung tay phá xích
Bằng sức mạnh phi thường.
Cột đền thờ bằng đá
To những mấy vòng tay,
Chàng nghiến răng, xô mạnh,
Chiếc cột đá lung lay
Rồi từ từ đổ sụp,
Kéo theo cả ngôi đền.
“Hôm nay ta sẽ chết
Cùng lũ giặc đê hèn!”
Kẻ thù chàng lúc ấy
Đang tiệc tùng, vui chơi,
Bị vùi trong gạch đá
Và bụi bay ngút trời.
Cũng bị vùi trong đấy
Một người con quang vinh
Của dân tộc Do Thái,
Dám vì dân quên mình.
TRUYỆN BÀ RUT
Thời ấy, ở Do
Thái,
Tức thời của
Sam-xôn,
Lòng tin vào Thiên
Chúa
Ở người dân
không còn.
Năm nọ, trời
hạn hán,
Đất khô nẻ khắp
nơi.
Tiếp đến là nạn
đói,
Cướp sinh mạng
nhiều người.
Ông Ê-mi-lê-lêc
Rời thành
Bêt-lê-hem,
Đi làm thuê
kiếm sống,
Đi không quản
ngày đêm.
Ông bỏ lại bà
vợ
Cùng Rut và
Ô-pha,
Hai con dâu của
họ,
Đều là người
nết na.
Kiếm cái ăn
không dễ,
Ông và hai con
trai
Bỏ mình nơi đất
khách,
Chết, chôn
không quan tài.
Vợ ông thành
góa phụ,
Tên bà là
Nao-mi.
Giờ không nơi
nương tựa,
Chẳng biết sống
bằng gì.
Bà nghe đồn về
Chúa
Và phép lạ của
Ngài,
Nên muốn về quê
cũ,
Dù quê chẳng
còn ai.
Bà lựa lời
khuyên nhủ
Hai con dâu nén
lòng
Quay về nhà bố
mẹ
Và lần nữa lấy chồng.
Cả Ô-pha và Rut
Không tin vào
Chúa Trời.
Đều là dân
Mô-áp,
Thờ thần tượng
suốt đời.
Cô Ô-pha đồng
ý.
Nhưng cô Rut
thì không.
Nàng một mực
xin phép
Sống chết cùng
mẹ chồng.
Hai mẹ con quay
lại
Vùng Bết-lem, ở
đây
Họ kiếm ăn vất
vả,
Cốt để sống qua
ngày.
Nhờ mẹ chồng
dạy bảo,
Rut, cô gái dịu
hiền,
Bỏ đạo cũ, thờ
Chúa
Như người
It-ra-en.
Hàng ngày cô
chăm chỉ
Ra mót lúa
ngoài đồng.
Cô thường hay
nhịn đói,
Nhường bánh cho
mẹ chồng.
Bô-a là ông chủ
Của cánh đồng
lúa mì.
Hay tin về cô
Rut,
Hiếu thảo và
nhu mì.
Ông sai đám thợ
gặt
Cố tình sót ít
bông
Để cô nhặt, làm
bánh
Nuôi mình và mẹ
chồng.
Ông đem lòng
yêu Rut.
Và một thời
gian sau
Xin cưới cô làm
vợ,
Sinh được đứa
con đầu
Có tên là
Ô-bet,
Một cái tên rất
hay.
Ô-bet là ông
nội
Vua Đa-vít sau
này.
Một ông vua vĩ
đại
Của người
It-ra-en,
Hậu duệ của bà
Rut
Hiếu thảo và
dịu hiền.
Thêm một điều
kỳ diệu:
Đức Bà Ma-ri-a,
Người đã sinh
ra Chúa,
Cũng hậu duệ
của bà.
Theo nhánh vua
Đa-vít,
Chúa Giê-su ra
đời,
Trở thành Đấng
Cứu Thế
Để cứu giúp mọi
người.
CÁI CHẾT CỦA BÀ QUÍ TỘC LA MÃ
Xưa, giáo dân La Mã
Thường cầm nến theo người
Viếng nhà thờ Đức Mẹ,
Ngày Đức Mẹ Lên Trời.
Một bà quí tộc nọ,
Cũng đi vào nhà thờ.
Đang cầu nguyện, bất chợt
Bà bỗng thấy mờ mờ
Một người quen biết cũ,
Chết đã sáu tháng qua,
Thế mà giờ ngồi đấy,
Đang cầu nguyện bên bà.
Lễ xong, bà vội vã
Đi ra khỏi nhà thờ,
Lòng chưa hết nghi hoặc,
Và quyết định đứng chờ.
Lát sau, bà nhìn thấy
Người bạn cũ bước ra.
“Xin lỗi, chị có phải
Là Ma-rô-zi-a?”
“Vâng, đúng tôi, chào chị.”
“Nhưng chị chết đã lâu.
Vậy làm sao có thể
Bây giờ ta gặp nhau?”
“Là vì dưới luyện ngục
Tôi phải chịu tù đày
Do những tội lớn nhỏ
Mình trót phạm trước đây.
Nhưng hôm nay thì khác,
Ngày Đức Mẹ Lên Trời,
Tôi đã được Đức Mẹ
Cho lên với cõi người.
Có nhiều người đã chết
Cũng được lên đêm nay.
Chúa không cho chị thấy
Và gặp những người này.”
Thấy bạn mình nghi hoặc,
Bà Ma-rô-zi-a
Nói thêm: “Chị sẽ gặp
Đức Mẹ Ma-ri-a
Vào ngày lễ Đức Mẹ
Đúng giờ này, năm sau,
Khi bất ngờ chị chết
Giữa lúc đang nguyện cầu.”
*
Câu chuyện này có thật.
Thánh Đa-mi-a-nô
Ghi chép lại cẩn thận
Cả địa điểm, ngày giờ
Bà quí tộc La Mã
Vào dịp lễ năm sau
Đã chết rất bí ẩn
Trong lúc đang nguyện cầu.
CHUYỆN TÊN TƯỚNG CƯỚP VÀ ĐỨC MẸ MA-RI-A
Năm Một Sáu Sáu Bốn,
Một linh mục Dòng Tên
Xuất bản cuốn sách quí
Nói về các thánh hiền.
Ông sống ở nước Ý,
Người gốc Na-pô-li.
Cuối sách ông có kể
Một câu chuyện ly kỳ.
“Tôi không thể im lặng
Không kể mọi người nghe
Một câu chuyện có thật,
Xẩy ra đầu mùa hè.
Đức Giám Mục tôn kính,
Vốn cẩn thận xưa nay,
Xác nhận sự có thật
Câu chuyện lạ kỳ này.”
*
Trong địa phận rộng lớn
Ngài cai quản, gần đây
Xuất hiện một tướng cướp
Giết người không ghê tay.
Một hôm, bọn đồng đảng
Đem về cho hắn ta
Một thiếu nữ xinh đẹp,
E lệ và nết na.
Cô nhân danh Đức Mẹ
Ma-ri-a Đồng Trinh,
Xin tướng cướp đừng nỡ
Làm nhục danh tiết mình.
Là một tên vô lại,
Không hiểu sao lần này
Hắn động lòng trắc ẩn,
Tha cho nàng, thật may.
Hơn thế, vốn cẩn thận,
Vì sợ bọn lâu la
Giở trò bậy, tự hắn
Đưa cô về tận nhà.
Đêm hắn lên giường ngủ,
Trong mơ thấy Đức Bà
Hiện lên, nói với hắn:
“Con làm đẹp lòng ta.
Vì việc làm cao thượng,
Ta sẽ nhớ đến con.”
Hắn tưởng mơ vớ vẩn,
Nên sáng dậy, quên luôn.
Một thời gian sau đó,
Hắn bị bắt, người ta
Quyết định treo cổ hắn,
Dù hắn cố xin tha.
Đêm trước ngày hành quyết
Hắn lại thấy Đức Bà
Hiện lên, đứng bên hắn:
“Chắc con còn nhớ ta.
Ta chính là Đức Mẹ
Ma-ri-a Đồng Trinh.
Vì đã cứu cô gái
Giữ danh tiết của mình,
Nên ta ban ân phước,
Tha tội lỗi cho con.
Để con, sau khi chết,
Được giải thoát tâm hồn.
Ngày mai ta sẽ đến
Đưa con lên Thiên Đường.
Con đã làm đẹp ý
Ma-ri-a Nữ Vương.”
Nghe xong, hắn choàng dậy,
Không tin vào tai mình.
Rồi sung sướng, chờ đợi
Được giải đi hành hình.
Mặt hắn ngời hạnh phúc
Khi lên đoạn đầu đài.
Đức Giám Mục khó hiểu,
Hỏi vì sao, và Ngài
Được tên cướp kể lại
Về giấc mơ đêm qua,
Về việc cứu cô gái
Và đẹp lòng Đức Bà.
Ngài chắp tay cung kính
Lạy Đức Mẹ Đồng Trinh,
Rồi đem chuyện kể lại
Cho con chiên của mình.
Tất cả cùng đứng lặng,
Tạ Đức Mẹ lòng lành.
Tên cướp ứa nước mắt,
Chờ bản án thi hành.
Trên chiếc giá treo cổ,
Trước con mắt mọi người,
Tên cướp chết, hạnh phúc,
Trên môi thoáng nụ cười.
BỨC TƯỢNG CỦA ĐỨC MẸ
Kiến trúc sư người Pháp,
Ông De Sa-ra-xa,
Hơn bảy mươi năm trước,
Trong khi đang xây nhà,
Thấy đầu một bức tượng
Của Đức Mẹ Đồng Trinh,
Làm bằng đá cẩm thạch,
Rất đẹp, còn nguyên lành.
Ông ghép các mảnh vỡ
Bức tượng của Đức Bà,
Đem về thờ cung kính
Như báu vật trong nhà.
Bỗng một hôm, bất chợt
Tai nạn đổ xuống đầu.
Đứa con trai duy nhất
Vốn đau ốm từ lâu,
Hiện đang nghỉ, dưỡng bệnh
Với ông nội của mình.
Nay có điện ốm nặng,
Đang thập tử nhất sinh.
Trước khi tới thăm nó,
Ông De Sa-ra-xa
Quỳ lạy trước bức tượng:
“Con kính lạy Đức Bà,
Con đã cứu bức tượng,
Thờ cúng bấy lâu nay.
Con xin Mẹ ban phước
Cứu qua tai họa này.”
Rồi ông đến nhà bố,
Cách xa cả ngày đường.
Đến nơi thì vẫn thấy
Con khỏe mạnh bình thường.
Bố ông nói: “Thật lạ.
Nó đã lạnh toàn thân.
Thế mà giờ sống lại,
Cứ như có phép thần!”
Kiến trúc sư người pháp,
Ông De Sa-ra-xa,
Đến trước bàn thờ Chúa
Lạy, tạ ơn Đức Bà.
VẠN VẬT ĐỀU
TUYỆT ĐẸP
John Kable
Vạn vật, lớn và nhỏ,
Tuyệt đẹp, luôn hài hòa,
Thông minh và kỳ diệu -
Đều do Chúa tạo ra.
Con chim nhỏ ca hát,
Bông hoa nhỏ vươn đầu.
Đức Chúa cho chim cánh,
Ngài cho hoa sắc màu.
Sườn núi lá cây đỏ,
Dòng sông trôi thảnh thơi.
Buổi sáng - vầng dương mọc,
Đêm - sao sáng trên trời.
Đều do bàn tay Chúa:
Cây mọc trong rừng xanh,
Mặt trời hè ấm áp,
Trái trên cây ngon lành.
Chúa cho mắt để thấy,
Cho đôi môi để cười.
Chúa toàn năng sáng tạo
Hết mọi vật trên đời.
John Kable
Vạn vật, lớn và nhỏ,
Tuyệt đẹp, luôn hài hòa,
Thông minh và kỳ diệu -
Đều do Chúa tạo ra.
Con chim nhỏ ca hát,
Bông hoa nhỏ vươn đầu.
Đức Chúa cho chim cánh,
Ngài cho hoa sắc màu.
Sườn núi lá cây đỏ,
Dòng sông trôi thảnh thơi.
Buổi sáng - vầng dương mọc,
Đêm - sao sáng trên trời.
Đều do bàn tay Chúa:
Cây mọc trong rừng xanh,
Mặt trời hè ấm áp,
Trái trên cây ngon lành.
Chúa cho mắt để thấy,
Cho đôi môi để cười.
Chúa toàn năng sáng tạo
Hết mọi vật trên đời.
NGÀY LỄ VA-LEN-TIN
Hoàng đế Clô-đi-ut,
Vào thế kỷ thứ ba
Tiến hành nhiều cuộc chiến
Cả gần và cả xa.
Vị hoàng đế hiếu chiến
Không được dân đồng tình.
Dân thường hay trốn lính.
Quân không có đủ binh.
Ông nghĩ nguyên nhân chính
Là thanh niên nước ông
Thích ở nhà với vợ,
Vợ làm họ mềm lòng.
Ông bèn ra lệnh cấm
Các thần dân của mình
Không tổ chức lễ cưới,
Không thành lập gia đình.
Một lệnh cấm kỳ quặc,
Nhưng vẫn phải tuân theo.
Trái lệnh, sẽ bị giết,
Cả người giàu, người nghèo.
Cùng Thánh Ma-ri-ut,
Linh mục Va-len-tin
Bí mật làm lễ cưới
Cho các cặp thanh niên.
Cuối cùng ông bị bắt,
Bị kết án tử hình
Bằng cách đem thiêu sống
Trước con mắt dân tình.
Đêm trước ngày hành quyết,
Ông gửi tấm thiệp hồng
Cho một cô gái trẻ
Được ông giúp lấy chồng.
Bức thiệp được nắn nót
Ký tên Va-len-tin,
Gửi gắm nhiều hy vọng,
Tình yêu và niềm tin.
Tấm thiệp tình yêu ấy
Được người đời về sau
Bắt chước vị linh mục,
Âu yếm gửi cho nhau.
Và rồi ngày ông viết,
Ngày Mười Bốn tháng Hai,
Trở thành ngày lễ hội
Tình yêu của gái trai.
Vào ngày ấy, trai gái,
Cả ở Việt Nam ta,
Để tỏ tình, gửi thiệp
Cùng bánh kẹo và hoa.
NGƯỜI KHỔNG LỒ ÍCH KỶ
Oscar
Wilde
1
Ngày xưa, ở Anh quốc
Có một người khổng lồ,
Một người rất to lớn,
Có
khu vườn cũng to.
Đó là khu vườn đẹp
Với bãi cỏ rất xanh,
Hoa muôn nở, khoe sắc,
Trái cây chín trên cành.
Líu lo chim ca hát,
Những bài ca tuyệt vời.
Chim bay trong tán lá,
Chim bay cả trên trời.
Trẻ con sau giờ học
Thường kéo nhau đến đây,
Chơi các trò chúng thích,
Hoặc leo trèo trên cây.
Sau bảy năm làm khách
Ở một nơi rất xa,
Người khổng lồ, ông chủ,
Bỗng một hôm, về nhà.
Ông liền quát lũ trẻ:
“Hãy đi ra khỏi đây!
Ta là chủ, duy nhất
Được chơi ở vườn này!”
Lũ trẻ sợ, bỏ chạy,
Sau đó người khổng lồ
Dựng hàng rào bao bọc
Rất cao và rất to.
Rồi ông cắm tấm biển:
“Đây là vườn tư nhân,
Ai xâm phạm sẽ chết!
Cấm không được lại gần!”
Ông là người ích kỷ.
Ông chỉ ngồi trong nhà,
Nhưng không cho người khác
Vào vườn ông ngắm hoa.
Giờ lũ trẻ, thật tội,
Chẳng nơi nào để chơi.
Suốt ngày chỉ còn biết
Phơi đầu trần ngoài trời.
2
Mùa xuân đến, chim hót,
Hoa đua nở ngoài đồng.
Trong vườn ông ích kỷ
Vẫn lạnh, vẫn mùa đông.
Ở đây hoa quên nở,
Cây không chịu đâm chồi.
Chỉ có gió và tuyết,
Tuyết và gió mà thôi.
Người khổng lồ thì nghĩ:
“Chắc xuân muộn năm nay.”
Thực ra mùa xuân ấm
Không còn đến vườn này.
Cả mùa hè cũng thế,
Rồi tiếp đến, mùa thu,
Ở đây chỉ băng tuyết,
Tuyết băng và sương mù.
Một hôm, ngồi trên ghế,
Ông nhìn bức tường rào,
Thấy qua khe hở nhỏ
Lũ trẻ đang chui vào.
Lập tức vườn sống lại,
Chim chóc hót trên cành,
Muôn hoa lại đua nở,
Cây lá bắt đầu xanh.
Lũ trẻ lại đùa nghịch
Như không có chuyện gì.
Người khổng lồ cảm động,
Không nỡ đuổi chúng đi.
Giờ thì ông đã hiểu
Vì sao trong vườn ông
Mùa xuân không muốn đến,
Quanh năm chỉ mùa đông.
Và rằng ông ích kỷ
Không cho trẻ vào chơi.
Nay thì khu vườn đó
Là của chúng suốt đời.
Cầm chiếc rìu vĩ đại,
Ông ra phá hàng rào.
Lũ trẻ thấy ông đến
Liền bỏ chạy nháo nhào.
Và rồi ngay lập tức
Cả khu vườn nhà ông
Lại trở nên lạnh lẽo,
Cái lạnh của mùa đông.
Chỉ có một cậu bé
Còn ở lại vườn này.
Cậu còn bé, bé tí,
Không với tới cành cây.
Vì thế cậu đã khóc
Hai mắt lệ ướt nhòa,
Không chạy vì không thấy
Người khổng lồ đi ra.
Ông rón rén bước lại,
Thấy thương cậu bé này,
Rồi nhẹ nhàng bế cậu
Đặt lên một cành cây.
Lập tức cây mọc lá,
Hoa nở đủ các màu,
Chim lại hót, cậu bé
Ôm hôn ông thật lâu.
Lũ trẻ nhìn thấy thế
Đùn đẩy nhau, lại gần.
Rồi chúng lại đùa nghịch
Giữa khu vườn mùa xuân.
Từ đấy người đi chợ,
Khi đi ngang qua đây,
Thấy một ông to lớn
Chơi với trẻ suốt ngày.
Nhưng có điều thật lạ,
Là ông không thấy đâu
Cậu bé bé tí ấy
Vào buổi chiều hôm sau.
Hỏi trẻ, chúng không biết.
Ông thấy buồn trong lòng.
Ông rất yêu cậu bé,
Vì cậu đã hôn ông.
3
Tháng năm trôi lặng lẽ.
Người khổng lồ đã già.
Ông thường ngồi một chỗ,
Thư thản ngắm vườn hoa.
Hoa vườn ông đẹp thật,
Lộng lẫy những chồi non,
Nhưng loài hoa đẹp nhất
Với ông, là trẻ con.
Ông ngồi xem chúng nghịch
Mà nước mắt muốn rơi.
Chúng chính là sự sống,
Là niềm vui cuộc đời.
Một hôm, trời gần tối,
Lũ trẻ đã về nhà,
Ông giật mình vui sướng
Khi lơ đãng nhìn ra
Và thấy cậu bé ấy,
Cái cậu bé hài đồng
Ở góc vườn phía Bắc,
Cậu bé đã hôn ông.
Cậu đứng dưới tán lá
Một cành cây màu xanh,
Có hoa trắng, quả bạc,
Và chuông vàng xung quanh.
Ông vui mừng chạy xuống,
Rồi chững lại, bàng hoàng:
Hai tay, hai chân cậu
Có dấu đinh rõ ràng.
“Ai dám làm hại cháu?
Kìa, máu chưa kịp đông.
Ông sẽ bóp cổ hắn
Bằng bàn tay của ông!”
Cậu bé cười, khẽ đáp:
“Ông khỏi lo lắng nhiều.
Vết thương này chảy máu
Là vết thương Tình Yêu.
“Cháu là ai? - ông hỏi,
Đứng sững sờ, rồi ông
Giơ tay làm dấu thánh,
Quỳ trước Chúa Hài Đồng.
Chúa mỉm cười rồi nói:
“Xưa, cũng ở vườn này
Con cho ta vui thích
Được đùa nghịch, hôm nay
Ta cho con được phép
Theo ta, cùng lên đường
Tới vườn ta tuyệt đẹp,
Khu vườn ở Thiên Đường.”
4
Chiều hôm sau, lũ trẻ
Thấy ông khổng lồ già
Nằm chết dưới gốc mận,
Người ông phủ đầy hoa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét