Truyện Tân Ước
CHÚA GIÊ-SU RA ĐỜI
1
Hai nghìn năm về trước,
Thiên sứ Gap-ri-en
Được lệnh đem tin báo
Một cô gái dịu hiền,
Rằng cô sẽ là mẹ
Đứa bé sắp ra đời.
Đứa bé ấy vĩ đại
Là con của Chúa Trời.
Ma-ri-a không hiểu.
Nàng là gái đồng trinh,
Sống ở Na-za-ret,
Hiền lành và rất xinh.
“Sao có thể như vậy?”
Thiên sứ đáp: “Chúa Trời
Không gì không làm được
Với vạn vật, với người.”
Ngạc nhiên và lo lắng,
Cuối cùng nàng thở dài:
“Tôi là đầy tớ Chúa,
Vậy xin tùy ý Ngài.”
Nàng có chồng chưa cưới,
Một chàng trai thông minh,
Là Giô-sê, thợ mộc,
Ăn ở rất có tình.
Giê-sê rất thất vọng
Khi thấy nàng mang bầu.
Đó là vết nhục lớn
Cho nhà rể, nhà dâu.
Khi chàng định hủy bỏ
Lễ cầu hôn với nàng,
Thì đêm có thiên sứ
Đến báo mộng với chàng,
Rằng đây là ý Chúa.
Nó là con của Ngài,
Và là Đấng Cứu Thế
Được gửi xuống trần ai.
Vì là Đấng Cứu Thế,
Tên nó là Giê-su,
Là bánh cho người đói,
Ánh sáng cho người mù.
Tỉnh dậy, chàng vội vã
Đón Ma-ri-a về,
Rồi cưới nàng làm vợ,
Bất chấp mọi lời chê.
2
Xê-da Ô-gut-tut,
Vua La Mã bấy giờ,
Bắt tất cả dân chúng
Đăng ký, làm hồ sơ.
Chàng Giô-sê và vợ
Phải đến thành Bet-lem
Để đăng ký dân số,
Đi cả ngày lẫn đêm.
Nhưng nàng đã trở dạ
Khi vừa đi đến nơi.
Mà quán trọ lúc ấy
Quá chật, quá đông người.
Nên họ đành phải ngủ
Trong chuồng ngựa hăng nồng.
Ma-ri-a tối ấy
Đã sinh Chúa Hài Đồng.
Được quấn trong áo mẹ,
Đứa bé ngủ suốt đêm
Trong chiếc máng chứa cỏ
Của thành phố Bêt-lem.
3
Lúc ấy một thiên sứ
Bỗng xuất hiện ngoài đồng,
Báo những người chăn thú
Về Đức Chúa Hài Đồng.
Bay trên cao, dìu dịu
Các thiên thần đồng thanh
Hát những bài thánh thiện
Ca ngợi Chúa lòng lành.
Nghe xong thiên thần hát,
Những người chăn thú đêm
Đến gặp Đấng Cứu Thế
Ở thành phố Bet-lem.
Rồi họ đi khắp ngả,
Báo tin cho mọi người
Rằng ở đất Do Thái
Đức Chúa Con ra đời.
Có ba nhà thông thái
Ở phương Đông lúc này,
Thấy một ngôi sao lớn
Xuất hiện phía trời Tây.
Họ biết người Do Thái
Đã có vua của mình,
Một vị vua vĩ đại,
Nhân từ và thông minh.
Nên cả ba vội vã,
Không quản ngại đường dài,
Mang quà và lễ vật
Đến để chúc mừng Ngài.
Trên đường đi, họ gặp
Vua xứ Giu-đê-a,
Có tên là Hê-rốt,
Một ông vua cáo già.
Hắn nói: “Nếu có gặp,
Xin các ông cho hay.
Bản thân tôi cũng muốn
Chúc mừng ông vua này.”
Cả ba nhà thông thái
Đi, không quản đường xa.
Cuối cùng họ tìm thấy
Mẹ con Ma-ri-a.
Họ cúi lạy đứa bé,
Dâng tặng rất nhiều quà
Rồi trở về nước họ,
Quên vua Giu-đê-a.
Là vì có thiên sứ
Báo cho họ: Thật lòng
Hê-rốt đang lo sợ,
Muốn giết Chúa Hài Đồng.
Hắn lo sợ đứa bé,
Được mọi người kính yêu,
Sẽ thành vua thay hắn,
Mà không biết một điều:
Giê-su, Đấng Cứu Thế,
Không phải Giu-đê-a,
Là vua của Nước Chúa,
Của mọi người, mọi nhà.
Hắn liền sai binh lính
Đến thành phố Bết-lem
Bắt và giết những trẻ
Được sinh vào ban đêm.
Hơn thế, những em bé,
Mới sinh đến lên hai,
Đều phải giết, giết hết,
Quyết không chừa một ai.
Nhưng Chúa Trời trước đó
Đã kịp sai thiên thần
Báo Giô-sê đưa vợ
Nhanh chóng chạy thoát thân.
Họ trốn sang Ai Cập,
Cam chịu sống tha phương,
Chờ khi Hê-rốt chết,
Mới trở về quê hương.
CHÚA GIÊ-SU Ở LẠI TRONG ĐỀN THÁNH
Hàng năm bố mẹ Chúa
Đi mừng lễ Vượt Qua.
Năm lên mười hai tuổi,
Ngài đi theo mẹ cha.
Ngày lễ được tổ chức
Ở Giê-ru-sa-lem,
Trong linh thiêng đền thánh,
Suốt cả ngày lẫn đêm.
Xong lễ, bố mẹ Chúa
Lên đường trở về nhà,
Nghĩ con mình về trước
Cùng mấy ông bà già.
Thế mà về không thấy.
Làm thế nào bây giờ?
Họ quay lại, bắt gặp
Ngài ở trong điện thờ.
Đường xa, lại vất vả,
Đi về mất ba ngày.
Suốt trong thời gian ấy,
Chúa vẫn ngồi ở đây.
Chúa ngồi, lắng nghe giảng,
Những lời giảng rất hay.
Thỉnh thoảng Ngài thắc mắc,
Hay tranh luận với thầy.
Ai được nghe Ngài nói
Đều lấy làm ngạc nhiên.
Dẫu không biết là Chúa,
Nhưng họ đoán người hiền.
“Ôi, sao con làm thế?
Bố mẹ sợ hết hồn.”
Ngài đáp: “Sao phải sợ?
Sao bố mẹ tìm con?
Hay bố mẹ không biết
Bổn phận con, đó là
Phải luôn luôn có mặt
Trong nhà Đức Chúa Cha?”
Bố mẹ Ngài không hiểu
Ý nghĩa những lời này.
Vì theo ý Thiên Chúa,
Ngài được sinh ở đây.
Rồi Ngài cùng bố mẹ
Lên đường trở về nhà,
Là thành Na-da-ret,
Cách đấy cũng khá xa.
Chúa Giê-su khôn lớn,
Càng mẫn tiệp, thông minh,
Lại càng yêu dân chúng
Và Chúa Cha của mình.
THÁNH GIÔ-AN
Bà Ê-li-da-bet,
Vợ Da-ca-ri-a
Không có con, hiếm muộn,
Dù hai người đã già.
Thời hai người đang sống
Thời của vua gian tà,
Tức là vua Hê-rốt,
Miền đất Giu-đê-a.
Lần nọ, ông may mắn
Rút trúng thăm, thành người
Được vào dâng hương khói
Trong đền thờ Chúa Trời.
Bỗng có một thiên sứ
Hiện lên, nói với ông:
“Bà Ê-li-da-bét
Sẽ sinh con đầu lòng.
Đó là một đứa bé
Được Thiên Chúa nhập thần,
Làm điều lành, việc tốt
Giúp cảnh tỉnh con dân.
Sau lớn lên, chính nó
Đưa nhiều người It-ra-en
Quay trở lại với Chúa,
Xa lánh việc thấp hèn.
Sau khi sinh, hãy nhớ
Đặt tên là Giô-an.
Vì đó là ý Chúa,
Món quà được Chúa ban.”
Về sau đứa bé lớn,
Chuyên giảng đạo khắp nơi,
Thành Giô-an Tẩy Giả,
Lôi cuốn rất nhiều người.
Lần nọ ông đến giảng
Ở đất Giu-đê-a,
Thắt lưng da dê mịn.
Áo bằng lông lạc đà.
Ông chỉ ăn châu chấu
Mật ong và rau tươi,
Không bao giờ uống rượu
Trong suốt cả cuộc đời.
Từ khắp vùng đất ấy
Người kéo đến rất đông,
Cả những vùng lân cận,
Chờ được nghe lời ông.
Nhiều người đến thú tội,
Và được ông Giô-an
Làm phép rửa cho họ
Bằng nước sông Giô-đan.
“Tôi chỉ làm phép rửa
Cho anh em hôm nay.
Tôi không đáng xách dép
Cho Đấng đến sau này.
Vì chính Ngài là Chúa,
Sẽ tẩy rửa anh em
Bằng lửa và nước thánh
Ở Giê-ru-sa-lem.”
Đám đông nghe, liền hỏi:
“Chúng tôi phải làm gì?”
Ông đáp: “Bằng nhiều việc.
Chỉ việc thiện, còn tùy.
Thí dụ, có hai áo,
Mà thấy người khác không,
Thì hãy cho một áo,
Để ai cũng ấm lòng.
Cả thức ăn cũng vậy.
Không đợi mình ăn no,
Nếu có người đang đói,
Hãy chia đôi mà cho.
Có mấy người thu thuế
Hỏi họ nên thế nào?
“Mức bao nhiêu thu vậy.
Không thu gian, thu cao.”
Rồi ông bảo đám lính:
“Phải cư xử có tình.
Không tống tiền, ăn cướp.
Sống bằng lương của mình.”
Mọi người rất kính phục
Tưởng ông là người trời.
Ông Giô-an thấy thế
Chỉ khiêm tốn trả lời:
“Tôi chỉ làm phép rửa
Cho anh em hôm nay.
Tôi không đáng xách dép
Cho Đấng đến sau này.
Vì chính Ngài là Chúa,
Sẽ tẩy rửa anh em
Bằng lửa và nước thánh
Ở Giê-ru-sa-lem.”
CHÚA GIÊ-SU CHỊU PHÉP RỬA
Chúa Giê-su lần nọ
Đến gặp ông Giô-an
Nhờ ông làm phép rửa
Dưới dòng sông Giô-đan.
Ông Giô-an liền nói:
“Không, thưa Chúa, chính tôi
Cần được Ngài làm lễ.
Thiên Chúa định thế rồi.”
“Bây giờ cứ thế đã. -
Chúa Giê-su bảo ông. -
Tạm thời ta làm vậy
Để giữ trọn đức công.”
Không thể nào thoái thác,
Cuối cùng ông Giô-an
Đã làm phép cho Chúa
Bằng nước sông Giô-đan.
Lễ xong, lên khỏi nước,
Ngài thấy từ trên trời
Thần khí của Thiên Chúa
Bay xuống, ngự đầy người.
Văng vẳng tiếng Thiên Chúa
Từ trên cao sáng lòa:
“Ta hài lòng về nó.
Đây là con của ta!”
Chúa Giê-su liền đáp:
“Thưa Cha, con nghe đây.”
“Con là con Thiên Chúa.
Cha sinh con hôm nay!”
CHÚA GIÊ-SU CHỌN MƯỜI HAI TÔNG ĐỒ
Chúa Giê-su lần nọ
Giảng đạo ngay bên bờ
Hồ Ghen-nê-xa-ret.
Nhiều người nghe hàng giờ.
Bỗng Đức Chúa nhìn thấy
Giữa hồ hai chiếc thuyền.
Chủ thuyền không đánh cá,
Mà giặt lưới kề bên.
Một trong hai thuyền ấy
Là của ông Si-môn.
Thuyền thì lớn và chắc,
Nhưng cá không một con.
Chúa ra hiệu cho lại,
Rồi bước xuống thuyền ông.
Từ trên thuyền, tiếp tục
Chúa giảng cho đám đông.
Giảng xong, Giê-su nói:
“Sao ông không ra hồ,
Chỗ nước sâu, quăng lưới?
Chắc bắt được cá to.”
Si-môn buồn bã đáp:
“Vâng, đã thử, tiếc sao,
Suốt cả ngày quăng lưới
Chẳng bắt được con nào.”
Nhưng nghe theo lời Chúa,
Ông lại ra giữa hồ,
Đánh được rất nhiều cá,
Mà lại toàn cá to.
Chắc phải có phép lạ.
Sao có thể thế này?
Chỉ quăng lưới một lúc,
Đã hai thuyền cá đầy.
Ông Si-môn lập tức,
Cùng Gia-cô-bê, Giăng,
Hai bạn chài lúc ấy,
Cúi lạy Chúa mà rằng:
“Chúng tôi thật đắc tội.
Có mắt cũng như lòa.”
Giê-su nói: “Đứng dậy
Và hãy đi theo ta.”
Vậy là Ngài chọn được
Ba tông đồ cho mình,
Những người luôn kính Chúa,
Mẫn cán và trung thành.
Một nhân viên thu thuế,
Có tên là Lê-vi,
Được Ngài nhận sau đó:
“Ông hãy theo ta đi!”
Hôm sau, hai môn đệ
Của Giô-an thông minh
Cũng được Ngài chấp nhận
Và cho đi theo mình.
Một trong hai người ấy
Tên là An-rê-a,
Em Giô-an Tẩy Giả,
Quê ở vùng Giu-đê-a.
Chúa Giê-su sau đó
Tới miền Ga-li-lê,
Chấp nhận thêm người nữa,
Là ông Phi-li-pê.
Ông này còn
giới thiệu
Một người tốt,
thân quen
Và cũng được
Chúa chọn,
Là Na-tha-na-en.
Số tông đồ của Chúa
Sau lên đến mười hai.
Mỗi người một tính cách,
Nhưng một lòng theo Ngài.
Trong mười hai người ấy
Có một người xấu xa,
Đã nỡ lòng bán Chúa
Là tông đồ Giu-đa.
LỜI CHÚA GIÊ-SU DẠY MỌI NGƯỜI
Cùng các tông đồ mới,
Chúa Giê-su dừng chân
Ở vùng đất bằng phẳng
Mầu mỡ và đông dân.
Nhiều tín đồ của Chúa
Khắp cả vùng Giu-đê-a
Hay tin, kéo nhau đến,
Cả gần và cả xa.
Ngài không chỉ giảng đạo
Mà còn chữa bệnh lành
Cho những người bệnh tật
Ngồi rất đông xung quanh.
Biết Chúa có thần lực
Chữa bách bệnh, ai ai
Cũng muốn gần, cốt để
Được chạm tay vào Ngài.
Ngài nói: “Người nghèo khổ,
Người ăn ở hiền hòa,
Có tâm và có đức,
Không làm việc xấu xa,
Hết lòng kính phụng Chúa,
Thực sự giúp đỡ người,
Sẽ được lên Nước Chúa,
Hưởng ân phước đời đời.”
Ngài dạy: “Làm việc thiện,
Làm xong nên quên đi.
Tay phải không được biết
Tay trái đang làm gì.
Và rằng khi cầu nguyện,
Phải tránh xa đám đông.
Phải nhớ đóng chặt cửa,
Ngồi một mình trong phòng.
Lời cầu phải mạch lạt.
Buổi cầu nguyện hàng ngày,
Đúng giờ và đúng chỗ,
Phải bắt đầu thế này:
“Lạy Đức Cha vinh hiển,
Đấng đang ngự cõi trời.
Mong triều đại Cha đến
Với chúng con, cõi người.
Xin Đức Cha ban phước
Cho đủ ăn hôm nay;
Xin tha hết tội lỗi
Của chúng con đời này.
Để chúng con rộng lượng
Tha tội lỗi cho ai
Đã gây nên đau khổ
Cho các con của Ngài.
Xin Cha hãy che chở
Khỏi điều không tốt lành,
Ngăn những điều cám dỗ
Làm sa ngã con mình…”
Chúa Giê-su dạy thế.
Mọi người chăm chú nghe.
Tiếng tốt lan truyền rộng
Khắp cả vùng Giu-đê.
TIỆC CƯỚI Ở CA-NA
Lần nọ có tiệc cưới
Ở vùng đất Ca-na.
Chúa cùng các môn đệ
Cũng được mời tham gia.
Cũng có mặt hôm ấy
Ma-ri-a, mẹ Ngài.
Tiệc đang vui, bất chợt
Rượu không còn, ai ai
Cũng lấy làm lo lắng,
Không biết phải thế nào.
Giữa lúc bối rối ấy,
Chúa liền nói: “Không sao.
Hiện có sáu chum đá
Ta vừa thầy ngoài sân.
Hãy đem đổ đầy nước,
Sẽ có cái đang cần.”
Đó là những chum lớn
Làm
phép rửa hàng ngày
Theo phong tục
Do Thái
Vẫn tuân thủ
xưa nay.
Mỗi chum khoảng
trăm lít,
Hoặc một trăm
hai mươi.
Đổ xong nước,
Chúa nói:
“Múc rượu mời
mọi người!”
Mọi người uống,
thật lạ.
Đúng là rượu,
tuyệt vời.
Tất cả tạ ân
Chúa,
Thỏa thích
uống, vui cười.
Đây chính là
phép lạ
Chúa làm lần
đầu tiên
Trước con dân
của Chúa
Ở đất It-ra-en.
CHÚA GIÊ-SU CHỮA BỆNH CHO NGƯỜI BẠI LIỆT
Lần nọ, Ngài giảng đạo,
Người nghe đến rất nhiều.
Trong số họ còn có
Cả người Pha-ri-sêu.
Không ít người tìm đến,
Nghe danh Chúa Giê-su
Có thể chữa lành bệnh
Cả cho người đui mù.
Có một người bại liệt
Được khiêng đến gặp Ngài,
Mong được Ngài chữa bệnh,
Nhưng chật cứng trong ngoài.
Họ không sao vào được,
Leo lên nhà, và rồi
Bóc mái, thả cáng xuống,
Ngay trước chỗ Ngài ngồi.
“Đứng dậy đi, anh bạn. -
Chúa nói với người này.
Anh đã được tha tội.
Vậy đi về nhà ngay!”
Người bại liệt đứng dậy,
Tạ ơn Chúa, anh ta
Cõng trên vai chiếc cáng,
Lập tức đi về nhà.
Mọi người thấy, kinh ngạc,
Cả người Pha-ri-sêu.
Càng thêm kính trọng Chúa
Đã giàu lòng thương yêu.
NGƯỜI PHỤ NỮ TỘI LỖI ĐƯỢC CHÚA THA THỨ
Có một ông giàu nọ,
Thuộc người Pha-ri-sêu,
Một hôm mời được Chúa
Đến nhà ăn cơm chiều.
Trong bữa ăn, bất chợt
Có một người đàn bà
Bê chiếc bình bạch ngọc
Đựng dầu thơm vào nhà.
Trong thành ai cũng biết
Về người đàn bà này,
Người đàn bà tội lỗi,
Bị khinh ghét xưa nay.
Bà khóc, lấy nước mắt
Rửa bàn chân cho Ngài,
Dùng tóc mình lau sạch,
Xức dầu thơm lên ngoài.
Ông chủ nhà thầm nghĩ:
“Đã là Chúa, ông ta
Chắc biết con người ấy
Tội lỗi và xấu xa.”
Đọc được ý nghĩ đó,
Chúa Giê-su hỏi ông:
“Nếu có hai con nợ.
Một người nợ trăm đồng.
Người kia nợ năm chục.
Cả hai được ông tha.
Vậy ai trong số họ
Yêu ông hơn, chủ nhà?”
“Yêu tôi hơn, chắc chắn
Là người nợ tôi nhiều.”
“Đúng như vậy, - Chúa nói
Với người Pha-ri-sêu. -
Tôi vào nhà ông trước.
Lặng yên ông cứ ngồi.
Còn người này tội lỗi
Rửa bàn chân cho tôi.
Mà rửa bằng nước mắt,
Rồi lau bằng tóc mình.
Một việc làm hối cải,
Rất nặng nghĩa ân tình.
Tội người này nhiều thật,
Nhưng nay đã được tha.”
Sau đó, Ngài âu yếm
Nói với người đàn bà:
“Con đã được xá tội.
Vì bằng chính lòng thành
Và lương tâm hối cải.
Con đã tự cứu mình.”
NGƯỜI SA-MA-RI-TAN TỐT BỤNG
Chúa Giê-su thường kể
Những câu chuyện của Ngài
Để minh họa bài giảng.
Chuyện thường ngắn, không dài.
Như ta biết, Thiên Chúa
Đưa ra mười điều răn
Trong sách kinh Cựu Ước,
Quan trọng và rất cần.
Trong mười điều răn ấy,
Quan trọng nhất hai điều,
Là phải yêu Thiên Chúa
Bằng trái tim thương yêu.
Hai là yêu hàng xóm
Như yêu bản thân mình.
Yêu không chút vụ lợi,
Chân thành và công minh.
“Thế nào là hàng xóm?”
Bỗng có người hỏi ngay.
Để trả lời, Đức Chúa
Kể câu chuyện thế này.
*
Có một người Do Thái
Một mình, đi giữa đồng,
Bị bọn cướp trấn lột,
Cướp hết đồ của ông.
Chúng đánh ông gần chết,
Nằm còng queo, thật thương.
Một linh mục Do Thái,
Thấy ông bên vệ đường.
Thế mà linh mục ấy
Coi như không thấy gì.
Đáng lẽ ông phải giúp,
Nhưng thản nhiên, ông đi.
Rồi một phó linh mục,
Cũng Do Thái, đi qua.
Ông này cũng không giúp,
Coi như việc người ta.
Cuối cùng, một ông lão
Người Sa-ma-ri-tan,
Thấy, dừng lại giúp đỡ,
Trông gầy yếu, nghèo nàn.
Tộc người của ông lão,
Như ta biết, bao đời
Không ưa người Do Thái,
Không ở cùng một nơi.
Người Do Thái cũng vậy,
Vốn ghét tộc người này.
Không làm ăn, buôn bán,
Không nói chuyện, bắt tay.
Thế mà ông lão ấy
Cúi xuống băng vết thương
Cho ông người Do Thái
Đang nằm ngất bên đường.
Ông chở người bị nạn
Trên con la của mình
Tới quán trọ gần đó
Nhờ chăm sóc tận tình.
Hơn thế, người Do Thái
Bị cướp, chẳng còn gì,
Nên ông bỏ tiền túi
Thanh toán các khoản chi.
Lúc xong xuôi mọi việc,
Người Sa-ma-ri-tan
Mới lên đường đi tiếp,
Gầy yếu và nghèo nàn.
Kể xong câu chuyện ấy,
Ngài bảo người hỏi Ngài:
“Giờ thì ông đã biết
Người láng giềng là ai.
Một khi người Do Thái
Được chính người ghét mình
Thương yêu và giúp đỡ
Rất vô tư, tận tình,
Thì tại sao con Chúa,
Lại phân biệt tổ tông,
Văn hóa và sắc tộc,
Không yêu nhau thực lòng?”
ĐỨA CON LẦM LẠC
Lần nọ, khi giảng đạo,
Chúa kể câu chuyện này,
Coi như một bài học
Về dạy đời rất hay.
Xưa có chàng trai nọ,
Con một phú ông giàu,
Tự nhiên cảm thấy chán
Cảnh ở nhà buồn rầu.
Thế là anh xin bố
Tạm ứng trước cho anh
Tiền anh được thừa kế
Để làm chuyến du hành.
Và rồi, tiền trong túi,
Anh lên đường xa nhà,
Ăn tiêu rất thoải mái,
Tới một nước rất xa.
Ở đấy, nhiều tiền bạc
Nên bạn bè cũng nhiều.
Chẳng bao lâu tiền hết,
Nên trắng tay, thành nghèo.
Lại đúng mùa đói kém,
Anh chẳng có gì ăn
Buộc phải làm người ở
Cho một bác nông dân.
Anh giúp ông chăn lợn.
Cả mùa hè, mùa đông.
Đói, phải ăn cả cám
Như bầy lợn ngoài đồng.
Một hôm, anh chợt nghĩ:
Đằng nào cũng làm thuê.
Thà làm thuê cho bố,
Chắc đang sống ở quê.
Vậy là anh cuốc bộ,
Dép mòn vẹt dưới chân,
Áo quần rách tơi tả,
Tìm về với người thân.
Anh ngạc nhiên thấy bố
Trong thời gian vắng mình,
Biết con sẽ quay lại,
Nên hàng ngày chờ anh.
Không trách con hoang phí,
Bỏ nhà đi cũng không,
Ông bố mở tiệc lớn,
Lại ôm con vào lòng.
CHÚA GIÊ-SU CHỮA LÀNH
CHO MƯỜI NGƯỜI BỊ BỆNH PHONG
Chúa Giê-su lần nọ
Tới một làng phía đông.
Hay tin, liền xuất hiện
Mười người bị bệnh phong.
Ngài làm phép, rồi nói:
“Các ngươi hãy đi nhanh
Gặp các thầy tư tế.
Chắc rồi bệnh sẽ lành.”
Họ đi mới một quãng,
Thì có sự lạ đời.
Tự nhiên thấy biến mất
Các vết lở trên người.
Cả mười người khỏi bệnh.
Thế mà rồi không ai,
Trừ một người duy nhất
Quay lại tạ ơn Ngài.
Đó là một ông lão
Thuộc người Sa-ma-ri,
Vốn bị người Do Thái
Khinh rẻ chẳng ra gì.
Ngài nói: “Chín người ấy
Là con chiên của ta.
Họ vô ơn bạc nghĩa,
Không tạ ân Chúa Cha.
Chỉ ngươi, người ngoại quốc,
Biết cư xử có tình.
Vậy ta tha hết tội,
Và chữa bệnh cho lành.”
CHÚA GIÊ-SU CHÚC PHƯỚC CHO TRẺ EM
Một lần, có ai đấy
Đưa mấy cháu thiếu nhi
Đến để Ngài chúc phước,
Nhưng tông đồ đuổi đi.
Chúa Giê-su liền nói:
“Hãy để chúng lại đây.
Vì nước Chúa hạnh phúc
Là của các cháu này.”
Nói đoạn, Chúa âu yếm
Đặt bàn tay của mình
Lên đầu các cháu bé,
Rồi Ngài chúc phước lành.
NGƯỜI PHỤ NỮ NGHÈO CÚNG TIỀN
Chúa Giê-su lần nọ
Thăm dân It-ra-en,
Ngồi bên hòm công đức,
Xem người ta cúng tiền.
Không ít người giàu có
Cúng vàng bạc, cúng nhiều.
Nhưng có một bà góa
Dáng tiều tụy, đói nghèo
Chỉ cúng hai xu nhỏ
Bà giấu sâu trong người,
Với bàn tay run rẩy
Và nét mặt rạng ngời.
Ngài bảo các môn đệ:
“Chính người đàn bà này
Mới công đức nhiều nhất,
Nhiều hơn hết hôm nay.
Người khác cúng những cái
Họ có thừa, còn bà,
Cái duy nhất mình có,
Cúng hiến hết cho ta.”
CHÚA GIÊ-SU NUÔI ĂN NĂM NGHÌN NGƯỜI
Một đám đông môn đệ
Cùng lên núi, ở đây
Chúa Giê-su giảng đạo
Liên tục suốt cả ngày.
Chỉ khi mặt trời lặn,
Và đêm đang buông dần
Các tông đồ mới biết
Mọi người chưa được ăn.
Từ sáng đến tận tối
Chưa ai được ăn gì.
Đang đêm, đường lại khó,
Biết mua mua đâu bánh mì?
Chúa Giê-su thấy vậy,
Quay sang hỏi đám đông
Xem ai đang có bánh
Để chia sẻ hay không.
Một cậu bé mang lại
Suất trưa cậu mang đi,
Gồm hai con cá nhỏ
Và một chiếc bánh mì.
Tay cầm cá và bánh,
Chúa cầu kinh hồi lâu,
Rồi đưa cho môn đệ
Từng người, chuyền cho nhau.
Thật lạ, bánh và cá
Được chuyền cho người bên,
Mà vẫn còn lại đó,
Trong tay người vừa chuyền.
Năm nghìn người hôm ấy
Được một bữa ăn no
Từ bữa trưa khiêm tốn
Của đứa bé chăn bò.
Số bánh ăn không hết
Chất mười hai giỏ đầy.
Mọi người tạ ân Chúa
Bữa ăn kỳ lạ này.
CHÚA GIÊ SU ĐI TRÊN NƯỚC
Sau bữa ăn tối ấy,
Năm nghìn người no nê,
Ngài sai các đồ đệ
Vượt biển Ga-li-lê.
Còn Ngài thì lên núi,
Trên tảng đá, một mình
Trong đêm khuya tĩnh lặng,
Lại tiếp tục cầu kinh.
Bỗng nhiên trời nổi bão,
Mưa và gió rất to,
Sóng dâng cao, suýt lật
Thuyền của các tông đồ.
Họ vật lộn chống đỡ
Với mưa bão suốt đêm.
Nhưng mưa bão không ngớt,
Mà còn hung dữ thêm.
Bất chợt lúc gần sáng
Họ nhìn thấy một người
Bước đi trên mặt nước,
Như lơ lửng giữa trời.
Họ lo lắng, hoảng sợ,
Không biết Chúa Giê-su
Đang đi đến với họ
Giữa trời biển mịt mù.
Ngài bảo họ đừng sợ.
“Ta đến cứu anh em!”
Ngài lên thuyền, gió bão
Cũng bắt đầu lắng êm.
Dẫu nhiều lần trước đó
Thấy Chúa trổ phép màu,
Các đồ đệ không thể
Không kinh ngạc, nhìn nhau.
CHÚA GIÊ-SU CHỮA BỆNH CHO NGƯỜI MÙ
Các tông đồ của Chúa,
Dẫu chứng kiến nhiều lần,
Vẫn không ngớt kinh ngạc
Khi Ngài trổ phép thần.
Ngay sau đêm làm phép
Cấp bánh mì ăn no
Cho năm nghìn người đói,
Chúa và các tông đồ
Đi đến một vùng đất
Gọi là Bê-tha-da,
Nơi có một người nọ,
Mới sinh đã mù lòa.
Người ta mang ông ấy
Đến gặp Chúa Giê-su.
Xin Ngài chữa lành bệnh.
Ngài liền dắt ông mù
Đi ra khỏi thành phố,
Rồi tới một cánh đồng,
Ngài liền nhổ nước bọt
Vào hai mắt của ông.
“Ông nhìn rõ rồi chứ?”
“Dạ thưa Chúa, bây giờ
Con nhìn thấy hình Chúa
Như hình cây, mờ mờ.”
“Tốt lắm, - Giê-su nói,
Chạm mặt ông bằng tay.”
“Giờ thì con nhìn rõ,
Y hệt như ban ngày.”
NGƯỜI GIÀU KHÓ VÀO NƯỚC CHÚA
Lần nọ, đang giảng đạo,
Chợt có một chàng trai,
Thuộc gia đình giàu có,
Tìm đến gặp, hỏi Ngài:
“Con muốn lên Nước Chúa
Để hưởng phước sau này.
Vậy kính xin Chúa bảo
Phải làm gì hôm nay.”
Chúa đáp: “Phải tuân thủ
Các điều răn của ta -
Không giết người, trộm cắp,
Phải kính trọng mẹ cha,
Không làm chứng gian dối,
Không bao giờ ngoại tình.
Phải thương yêu người khác
Như thương yêu chính mình…”
“Thưa, tất cả điều ấy
Con đã làm xưa nay.
Con còn làm gì nữa
Để được hưởng ân này?”
“Vậy con hãy đem bán
Ruộng đất và cửa nhà,
Chia cho người nghèo khổ,
Rồi hãy đi theo ta.”
Anh nhà giàu trẻ tuổi
Nghe thế lấy làm buồn,
Vì tham lam tiếc của.
Cuối cùng bỏ đi luôn.
“Với người giàu, - Chúa nói -
Lên Nước Chúa là điều
Xưa nay quả rất khó.
Còn khó hơn rất nhiều
So với một việc khó
Là bắt con lạc đà
Chui qua lỗ kim nhỏ.
Hãy nhớ lời của ta.”
CHÚA GIÊ-SU VÀO THÀNH GIÊ-RU-SA-LEM
1
Nhiều tháng đi đây đó
Thuyết giáo ngày và đêm.
Chúa Giê-su quyết định
Vào Giê-ru-sa-lem.
Hôm ấy ngày Chủ Nhật,
Đúng vào năm ba mươi,
Như thường lệ, thành phố
Đang đông đúc đầy người.
Ngài nghĩ giờ là lúc
Ngài phải chứng tỏ mình
Đối với dân Do Thái
Là Đức Chúa anh minh.
Sứ mạng Ngài sắp hết.
Ngài nói với tông đồ
Sắp tới Ngài sẽ chết,
Nhưng bảo họ đừng lo,
Vì ba ngày sau đó
Ngài sống lại, và rồi
Ở thêm mấy tuần nữa,
Ngài sẽ bay lên trời.
Khi gần đến thành phố,
Ngài bảo lấy con lừa
Để Ngài cưỡi lên nó.
Lúc ấy đã gần trưa.
Nhiều đám đông trải áo
Trên đường Ngài đi qua.
Một số vẫy cành cọ,
Miệng hô hô-xa-na!
Họ muốn Ngài nhanh chóng
Thành vua It-ra-en.
Chỉ là vua mới được
Chào đón theo cách trên.
2
Ngài vào Đền Thờ Lớn,
Là nơi thờ Chúa Trời,
Giờ biến thành cái chợ,
Bán đủ thứ trên đời.
Có bán cả súc vật
Để làm lễ tế thần.
Bọn đổi tiền, ăn cắp
Được tự do làm ăn.
Ngài đuổi hết bọn chúng,
Còn bện chiếc roi dài
Để xua đuổi súc vật
Và gà vịt ra ngoài.
Từ đấy Ngài thuyết giảng
Và chữa bệnh hàng ngày,
Những người mù, què quặt,
Người mụn lở chân tay.
Ngài giúp mọi người hiểu
Về Thiên Chúa, Nước Trời,
Về tình yêu, thương cảm
Giữa người và con người.
3
Nhưng các quan tư tế
Lại khó chịu với Ngài,
Vì chính người của họ
Bị Ngài đuổi ra ngoài.
Họ sợ vua La Mã
Trừng trị họ nay mai
Vì để dân tụ họp
Rất đông khi theo Ngài.
Và rồi quan trọng nhất,
Họ sợ Ngài có ngày
Dần dần lấn át họ
Về quyền lực nơi này.
Cuối cùng, họ quyết định
Phải giết Ngài mới yên,
Bằng cách nhờ môn đệ
Bán Ngài để lấy tiền.
BUỔI THUYẾT GIẢNG TRÊN NÚI
1
Hết nơi này, nơi khác,
Khắp vùng Ga-li-lê,
Đức Chúa đi, giảng đạo,
Chữa cho người đui, què.
Được mọi người mến mộ,
Cả người giàu, người nghèo,
Đức Chúa đâu, họ đấy,
Cả đám đông đi theo.
Một hôm, trên sườn núi,
Ngài nói với tông đồ
Và đám đông những việc
Họ quan tâm và lo.
Qua buổi giảng hôm ấy
Ngài đã giúp mọi người
Hiểu hơn về Thiên Chúa
Và ứng xử ở đời.
2
Người thực sự hạnh phúc, -
Ngài nói, - là những ai
Giàu điều đẹp lòng Chúa,
Chứ không giàu tiền tài.
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa
Dạy: Không được giết người.
Giê-su nói: Hơn thế,
Ta không được hận đời.
Nếu ta hận người khác
Hay tìm cách trả thù,
Tức là ta phạm tội,
Mắt sáng mà như mù.
“Mất mắt phải đền mắt,
Mất răng phải đền răng”,
Cựu Ước dạy như thế.
Chúa Giê-su thì rằng
Dẫu sao, ta phải cố
Yêu kẻ thù của mình.
Để thù hận đè nén,
Ta sẽ mất thông minh.
Chỉ Tình Yêu có thể
Thắng được điều Ác Tà.
Hãy tỏ lòng nhân ái.
Hãy bình thản bỏ qua
Định kiến và nỗi sợ,
Trả đũa và thù hằn.
Những điều ấy rất dễ
Tăng lên gấp nhiều lần.
Về tình yêu, Ngài nói:
Yêu là phải suốt đời,
Phải nêu gương chung thủy,
Yêu ai, yêu một người.
Yêu phải biết tha thứ,
Biết cùng nhau thích nghi.
Đừng vì cái nhỏ nhặt
Để cái lớn mất đi.
Trong sách kinh Cựu Ước
Người ta nghĩ ở đời
Có nhiều tiền, nhà rộng
Là đẹp ý Chúa Trời.
Giê-su nói ngược lại:
Đừng ky cóp bạc vàng,
Là cái sẽ biến mất,
Hoặc trộm lấy dễ dàng.
Mà thay cho của cải,
Hãy tích góp tình yêu
Rồi gửi nơi Đức Chúa,
Sẽ bền lâu hơn nhiều.
Không thể thờ hai chủ,
Cũng như không thờ Tiền,
Mà lại còn thờ Chúa.
Hai cái không đi liền.
Chỉ đam mê tiền bạc,
Theo sách Ti-mô-thi,
Là cội nguồn bất hạnh,
Làm chệch hướng ta đi.
Không có gì sai trái
Trong việc hưởng thụ đời.
Có điều, mình hưởng thụ,
Nhưng cũng không quên người.
Trong buổi giảng hôm ấy
Ôn tồn và nhẹ nhàng,
Ngài nêu một nguyên tắc,
Gọi là Nguyên Tắc Vàng:
Đừng làm với người khác
Những gì bản thân ta
Không muốn chính điều ấy
Người khác làm với ta.
Và rằng đừng lớn tiếng
Chê ai đó đúng sai.
Cách này hay cách khác,
Ai cũng sai như ai.
BỮA ĂN TỐI CUỐI CÙNG
Chúa Giê-su lúc ấy
Ở Giê-ru-sa-lem
Được mọi người ngưỡng mộ
Như vì sao trong đêm.
Tuy nhiên, Ngài biết trước,
Rằng Ngài sắp đi xa.
Theo tiếng gọi Thiên Chúa,
Ngài sẽ lên với Cha.
Ngày được chờ đợi nhất,
Là ngày lễ Vượt Qua,
Cuối cùng cũng đã đến
Với mọi người, mọi nhà.
Ngày ấy dân Do Thái
Sẽ ăn bánh mì khô,
Rau đắng, thịt cừu nướng,
Uống bốn cốc rượu nho.
Hai tông đồ của Chúa,
Giô-an và Phê-rô
Được sai đi tìm chỗ
Để Chúa và tông đồ
Tổ chức bữa ăn cuối
Mừng ngày lễ Vượt Qua.
“Các ông cứ vào phố,
Tất sẽ tìm được nhà.
Thấy ai mang vò nước,
Hãy lặng lẽ theo sau.
Theo về nhà, hãy hỏi:
“Phòng của chúng tôi đâu?
Người ấy chỉ lên gác
Một phòng đẹp rất to,
Đủ bàn ghế, bát dĩa
Cho ta và tông đồ.”
Mọi việc đúng như thế.
Khi ngồi vào ăn chung,
Chúa bảo các môn đệ:
“Đây là lần cuối cùng
Ta cùng các môn đệ
Dự bữa tiệc Vượt Qua,
Trước khi bị câu rút,
Lên với Đức Chúa Cha.
Trước khi ăn, thật lạ,
Ngài lấy một chiếc khăn
Và một chậu nước sạch
Rồi cẩn thận rửa chân,
Rửa rất sạch, lần lượt
Cho tông đồ của mình.
Ngài rửa chậm, sạch sẽ,
Rồi mới rửa chân mình.
Lúc ấy Ngài đã biết
Giu-đa sẽ bán Ngài,
Bị đóng đinh câu rút
Trên thánh giá ngày mai.
Các tông đồ và Chúa
Tối hôm ấy ăn chung,
Một bữa ăn đáng nhớ -
Bữa ăn tối cuối cùng.
Rồi Ngài lên tiếng nói,
Làm mọi người ngạc nhiên:
“Ngồi đây, có một vị
Sắp bán ta lấy tiền.”
“Ai, ai?” - Mọi người hỏi.
“Hãy nhìn theo tay ta.”
Ngài đáp, cầm lát bánh
Rồi đưa cho Giu-đa.
Ngài bảo tên phản bội:
“Sao ngươi còn chờ gì?”
Giu-đa đứng bật dậy
Rồi vội vàng bỏ đi.
Ngài bẻ một chiếc bánh,
Chia mỗi người một phần.
“Xương thịt của ta đó,
Mời mọi người cùng ăn.”
Rồi Ngài rót cốc rượu,
Lần lượt chuyền quanh bàn.
“Máu ta đấy, hãy uống.”
Lúc ấy đêm sắp tàn.
CHÚA GIÊ-SU BỊ BẮT
Các tư tế lo lắng
Uy tín Ngài lên cao,
Muốn giết, trừ hậu họa,
Mà chưa biết cách nào.
Một tông đồ của Chúa,
Giu-đa, thằng đê hèn,
Đã đồng ý bán Chúa
Lấy ba mươi đồng tiền.
Là tông đồ, hắn biết
Ngài ở đâu, làm gì.
Nên báo quan tư tế
Đêm đến, bắt Ngài đi.
Chúng bắt đêm, bởi lẽ
Không dám bắt ban ngày,
Sợ dân biết, tức giận,
Sẽ làm loạn xứ này.
Sau bữa tối hôm đó,
Cùng tông đồ của mình,
Ngài ra khu vườn vắng,
Cầu nguyện, đón bình minh.
Ngài vẫn thường ra đấy.
Giu-đa biết điều này,
Nên dẫn bọn tư tế
Và binh lính đến đây.
Phê-rô liền rút kiếm,
Chém đứt tai một tên.
Chúa Giê-su cản lại:
“Hãy cất kiếm, đứng yên.
Nếu muốn, ta có thể
Gọi Cha ta hôm nay.
Ngài sẽ giết chúng nó.
Nhưng việc phải thế này.”
Thế là Ngài bị bắt.
Các tông đồ, mỗi người -
Do sợ bị bắt nốt -
Chạy tan tác mỗi nơi.
Thấy Chúa bị xử chết,
Giu-đa, dẫu đê hèn,
Bỗng thấy lòng hối hận,
Nên hắn trả lại tiền.
Sau đó hắn tự sát.
Tội bán Chúa, phản thầy
Còn nặng hơn thánh giá
Trên vai Chúa yếu gầy.
CHÚA GIÊ-SU BỊ ĐÓNG ĐINH CÂU RÚT
Hàng năm, vào dịp lễ,
Tổng quản Phi-la-tô,
Quan toàn quyền La Mã,
Muốn mị dân, bày trò
Tha một tên tội phạm,
Hay tha mạng một người
Bị bắt vì bạo loạn,
Để nêu gương cho đời.
Năm ấy sự lựa chọn
Là giữa Chúa Giê-su
Và một tên tướng cướp
Hiện đang bị giam tù.
Phi-la-tô thực sự
Muốn tha chết cho Ngài,
Nhưng đám đông phản đối,
Rất giận dữ, ai ai
Cũng kêu to: “Giết hắn!
Tên Do Thái xấu xa!
Tha cho tên tướng cướp!
Tha cho Ba-ra-ba!”
Sau mấy lần do dự,
Cuối cùng Phi-la-tô
Buộc lòng phải nhân nhượng
Đám đông đang reo hò.
Thế là Chúa bị xích,
Rồi dẫn ra pháp trường.
Theo sau, nhiều phụ nữ
Khóc than Ngài xót thương.
Ngài bị đánh, ném đá,
Bị đem làm trò cười,
Bị phỉ nhổ vào mặt,
Máu bê bết đầy người.
Với vòng gai trên trán,
Bị lột trần, một mình,
Ngài phải vác thập giá
Chốc nữa bị đóng đinh.
Yếu quá, không vác nổi,
Si-môn vác thay Cha.
Cứ thế, Ngài bị dẫn
Lên đồi Gôn-gô-tha.
Bọn quan và binh lính
Chế diễu, sao không ai,
Thánh thần và Thiên Chúa,
Xuất hiện để cứu Ngài?
Cùng hai tên tội phạm,
Ngài đã bị đóng đinh
Xuyên tứ chi khô héo,
Trên thánh giá của mình.
Khắc trên đầu thánh giá
Là dòng chữ màu đen:
“Hắn là Vua Do Thái”,
Thay cho họ và tên.
Ngài khẽ gọi tên Mẹ,
Tên tông đồ Giô-an,
Cả tên Cha, Đức Chúa:
“Sao Cha nỡ bỏ con?”
Có một người phụ nữ
Đứng nhìn Ngài từ xa.
Bà, một người tội lỗi,
Tên là Mac-đa-la.
Cứ thế, trong sáu tiếng,
Thân xác Ngài phơi khô.
Giô-sê chờ trời tối,
Hạ Chúa xuống nhà mồ.
CHÚA GIÊ-SU SỐNG LẠI
Hôm ấy là Thứ Sáu,
Vì đang vội, không ai
Lau rửa xác sạch sẽ
Và xức dầu cho Ngài.
Hôm sau là Thứ Bảy,
Lại là ngày nghỉ ngơi,
Vậy phải chờ Chủ Nhật.
Sáng Chủ Nhật đẹp trời,
Theo một toán phụ nữ,
Bà kia, Mac-đa-la,
Mang theo dầu, hương liệu,
Lên đồi Gôn-gô-tha.
Đến nơi, bà kinh ngạc
Không thấy xác Ngài đâu.
Chợt nhìn lên, bà thấy
Hai thiên thần trên đầu.
“Sao lại tìm người sống
Giữa những người chết rồi?
Ngài không ở đây nữa,
Mà đã bay lên trời.”
Bất chợt, bà hốt hoảng
Khi thấy có một người,
Bà không biết là Chúa.
Người ấy nói thành lời:
“Ta là Chúa sống lại.
Con hãy quay về nhà,
Báo với anh em biết,
Ta lên cùng Chúa Cha.”
Bà vội vã quay lại
Kể với các tông đồ
Những gì bà chứng kiến,
Còn hồi hộp và lo.
Rồi vào mộ, lần nữa
Bà thấy tấm vải tang,
Nhưng xác Ngài biến mất,
Càng ngạc nhiên, bàng hoàng.
Khi mọi người đi hết,
Vừa khóc, Mac-đa-la
Vẫn ngồi bên mộ Chúa,
Vừa thương khóc xót xa.
Giê-su lại xuất hiện,
Lặng lẽ đứng trước bà.
“Vì sao ngươi phải khóc,
Hay đang tìm người nhà?”
Bà không nhận ra Chúa,
Tưởng ai đó dưới đồi.
“Nếu ông lấy xác Chúa,
Hãy trả lại cho tôi!”
“Ma-ri-a, - Chúa nói. -
Con hãy quay về nhà,
Báo với các môn đệ,
Ta về với Cha ta.”
Bà theo lời Chúa dặn,
Lại báo với mọi người
Rằng Đức Chúa còn sống,
Nhưng sẽ bay lên trời.
Kể từ khi sống lại
Sáng Chủ Nhật, trong mồ,
Hai lần Ngài đã gặp,
Nói chuyện với tông đồ.
Thêm bốn mươi ngày nữa
Chúa ở chốn trần ai.
Rồi nói lời vĩnh biệt,
Ngài lên với Cha Ngài.
CHÚA GIÊ-SU HIỆN RA VỚI CÁC TÔNG ĐỒ
Buổi chiều ngày hôm ấy,
Ngày thứ nhất trong tuần,
Các tông đồ của Chúa
Đang tụ họp quây quần
Trong một ngôi nhà nhỏ,
Nơi cửa đóng bốn bề.
Họ sợ dân Do Thái
Đến chất vấn nặng nề.
Bỗng nhiên Chúa xuất hiện,
Trước tông đồ của Ngài,
Dù ngôi nhà khép kín,
Luôn cửa đóng then cài.
Tất cả mừng, thấy Chúa.
Ngài nói: “Chào anh em.
Chúc bình an, vui vẻ.”
Rồi Ngài chìa cho xem
Hai bàn tay xương xẩu
Hôm trước bị đóng đinh.
Nhìn những vết đinh lớn,
Ai cũng chợt rùng mình.
Một tông đồ hôm ấy,
Không có mặt trong nhà.
Nên không tin chuyện lạ.
Tên ông là Tô-ma.
Tám ngày sau, lần nữa
Chúa lại hiện về đây.
Tô-ma đang có mặt.
Ngài nói với ông này:
“Tay ta đây, nhìn kỹ.
Hãy lấy ngón xuyên qua.
Giờ con tin rồi chứ?
Hãy cầm lấy tay ta.”
Ông Tô-ma liền nói:
“Kính lạy Đức Giê-su.
Kính lạy Đức Thiên Chúa.
Con có mắt mà mù.”
Không nghi ngờ gì nữa,
Giờ thì các tông đồ
Đã tin Chúa sống lại,
Dẫu chưa hết sững sờ.
CHÚA GIÊ-SU ĐI VỚI HAI TÔNG ĐỒ
TRÊN ĐƯỜNG E-MAU VÀ VỀ TRỜI
Hai tông đồ của Chúa
Có việc, đi với nhau
Tới một khu làng nhỏ
Có tên là Em-mau.
Vừa đi, vừa trò chuyện
Về điều mới xẩy ra.
Chợt có một người lạ,
Cùng đường, đi ngang qua.
Người này xin nhập bọn,
Đỡ mệt nhọc đường dài.
Đó là Chúa, lúc ấy
Họ không nhận ra Ngài.
Vì Ngài đã làm phép
Để họ không nhận ra.
“Sao các anh buồn thế,
Có chuyện không vui à?”
“Bác là người duy nhất
Không biết rằng, than ôi,
Chúng đóng đinh thập giá,
Giết Giê-su chúng tôi?
Mà Ngài là ngôn sứ
Thiên Chúa phái về đây
Cứu giúp dân Do Thái
Thoát khỏi cảnh đọa đầy.
Thế mà Ngài đã chết
Nay là ngày thứ ba.
Thật lạ, trong hầm mộ,
Có mấy người đàn bà
Nói không tìm thấy xác.
Còn thấy Ngài hiện hình,
Và rằng Ngài sống lại,
Trở về với Cha mình…”
Đến làng, tối hôm ấy
Họ mời Ngài dừng chân,
Rồi vào một quán trọ,
Cùng ngồi xuống bàn ăn.
Giê-su cầm chiếc bánh,
Nhẹ nhàng bẻ làm hai,
Đưa cho họ, lập tức
Họ liền nhận ra Ngài.
Cũng liền ngay lúc ấy,
Trước mặt cả hai người,
Chúa Giê-su biến mất,
Cứ như thể bốc hơi.
Rồi Ngài lại xuất hiện,
Đưa họ ra khỏi nhà,
Tới một vùng yên tĩnh
Là Bê-ta-ni-a.
Ngài giơ tay làm dấu,
Chúc phước cho hai người.
Bốn mươi ngày sau đó,
Giê-su bay lên trời.
PHÉP LẠ CỦA CHÚA
Trong một căn phòng lớn
Ở Giê-ru-sa-lem,
Hơn trăm người tụ tập
Cầu nguyện ngày và đêm.
Họ là các môn đệ
Và bạn bè, những người
Đã từng được gặp Chúa
Theo Ngài đi nhiều nơi.
Họ cầu nguyện và đợi
Thấy phép lạ diệu kỳ
Như Chúa hứa với họ,
Trước khi Ngài ra đi.
Mười ngày sau khi Chúa
Sống lại từ nhà mồ,
Người Do Thái tổ chức
Một ngày lễ rất to.
Lần nữa cả thành phố
Lại nhộn nhịp khác thường.
Đến đền thờ tế lễ
Rất nhiều khách thập phương.
Trong căn phòng rộng nọ
Ở Giê-ru-sa-lem,
Mọi người đang cầu nguyện,
Như mọi lần, ban đêm.
Bất chợt có tiếng sấm
Rất to từ trên trời.
Tiếp đến là lưỡi lửa
Bám quanh đầu mỗi người.
Nhưng không ai hoảng hốt,
Vì biết tiếng sấm này
Là điều Chúa đã hứa
Và họ chờ lâu nay.
Các môn đệ sụp lạy
Tạ ơn Chúa lòng lành.
Trong khi đó, dân chúng
Từ khắp nơi trong thành
Thấy sự lạ chớp lửa,
Liền kéo đến rất đông.
Họ tưởng đám môn đệ
Là lũ điên lên đồng.
Ông Phê-rô đứng dậy
Giải thích với mọi người
Về phép lạ của Chúa,
Hiện đang ngự trên trời.
“Giê-su được Thiên Chúa
Gửi đến cứu chúng ta.
Ngài là Đấng Cứu Rỗi
Cho mọi người, mọi nhà.
Thế mà các ngươi ác,
Đã không tin Chúa mình,
Vu cho Ngài điều xấu
Để phải chịu tử hình.
Nay Ngài được Thiên Chúa
Cho sống lại, lên trời,
Nhưng lòng Ngài vẫn nặng
Tình yêu thương mọi người.”
Tất cả nghe, đứng lặng,
Rất hối hận trong lòng.
Họ hỏi: “Để chuộc lỗi,
Phải làm gì, thưa ông?”
“Hãy nhờ làm phép rửa,
Nhân danh Chúa Giê-su.
Gột hết mọi tội lỗi.
Xua hết mọi hận thù.
Hãy hết lòng kính Chúa,
Tin phép lạ của Ngài.
Sẽ được Ngài ban phước
Và dẫn dắt lâu dài.”
Mọi người nghe, lạy Chúa,
Làm theo lời Phê-rô,
Xuống sông chịu phép rửa
Và trở thành tín đồ.
Sau buổi thuyết giảng ấy,
Tin đồn lan khắp nơi.
Số tín đồ theo Chúa
Đã hơn ba nghìn người.
Suốt nhiều ngày sau đó
Tín đồ càng tăng thêm
Chiếm phần lớn dân số
Của Giê-ru-sa-lem.
Vậy là Đạo Thiên Chúa
Bước đầu được hình thành,
Lan truyền đến nơi khác
Và phát triển rất nhanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét