Thơ Haiku Nhật Bản
ĐÔI LỜI CÙNG BAN ĐỌC
Haiku là thể thơ ngắn rất độc đáo của Nhật Bản. Mỗi bài chỉ 17 âm
tiết, chia thành ba phần, người Nhật viết liền một dòng nhưng khi dịch ra tiếng
nước ngoài được ngắt thành ba câu. Vì chưa quen, người đọc lần đầu có thể hơi
ngỡ ngàng, tuy nhiên, đọc kỹ và suy ngẫm, ta sẽ thấy thơ Haiku thật tinh tế.
Mỗi bài, thường là một bức tranh phong cảnh nhỏ, tưởng như không nói gì mà thực
tế gợi cho ta nhiều điều. Nội dung và triết lý thơ Haiku không nằm ở câu chữ mà
ở sự tưởng tượng của chính người đọc.
Thơ Haiku thật kỳ lạ.
Ngắn và giản dị. Nhiều khi không nói gì hoặc nói điều chẳng đâu vào đâu, thậm
chí tưởng như “ngớ ngẩn”. Thế mà càng đọc, (trong trường hợp của tôi là càng
dịch), ta cứ bị cuốn hút bởi sự “không có gì” và “ngớ ngẩn” đó. Tôi có cảm giác
người Nhật viết Haiku không phải để truyền tải ý, mà hình ảnh, những hình ảnh chấm
phá giản dị. Hình như cũng không có ý định nói điều gì to tát về triết lý hoặc
tình cảm như ta thường thấy ở các dòng thơ khác. Có lẽ vì thế mà người đọc phải
có sự làm quen dần để cảm nhận và yêu. Trên thế giớ có rất nhiều người yêu và
bắt chước viết thơ Haiku Nhật Bản. Hầu như nước nào cũng có Hội những người yêu
thích loại thơ này. Thậm chí còn có trường dạy cả cách viết Haiku.
Bản thân tôi cũng
phải trải qua một thơ gian khá dài mới làm quen được. Cụ thể hơn 30 năm kể từ
ngày tôi tò mò tìm hiểu thơ cổ Nhật Bản, và đã dịch một ít, dịch có thêm vần, mà
chỉ loại thơ năm câu (tanca) trong tập Manyoshu đồ sộ. Giờ thì tôi yêu, và kết
quả của tình yêu đó là tập Thơ
Haiku Nhật Bản này.
Đầu tiên phải nhắc
đến ba cây đại thụ của thơ Haiku Nhật. Đó là Matsuo BASHO, Yasa BUSON và
Kobayashi ISSA. Mỗi vị tôi dịch khoảng trên dưới nghìn bài. Riêng Basho tôi có
hai bản dịch khác nhau, từ hai nguồn khác nhau. Do không biết tiếng Nhật và
phải dịch từ tiếng Anh (một số trường hợp từ tiếng Nga), nên một số ít bài
trùng lặp trong hai tập này có thể khác nhau, vì tôi chỉ biết những gì người
khác đã dịch chứ không phải nguyên bản. Nghe nói tiếng Nhật cổ khó hiểu lắm, thậm
chí cả với người Nhật hiện đại, nên việc hiểu khác nhau cũng là chuyện bình
thường.
Ngoài ba đại thụ nói
trên, trong tập này tôi dịch một lương khá lớn thơ khất thực và thơ thiền của
Taneda SANTOKA, một trong những nhà thơ Nhật hiện đại được ưa thích nhất hiện
nay, cũng như một số nhà thơ Haiku tiêu biểu khác. Cuối sách, tôi thêm phần PHỤ
LỤC, giới thiệu những bài tanca
đã nói và Thơ Cổ Triều Tiên tôi dịch ngày xưa, vì về cơ bản chúng cùng
hơi hướng, phong cách và thời điểm sáng tác. Cuối cùng là hơn 100 bài Haiku của
tôi viết năm 1980 khi tôi bắt đầu mê và chịu ảnh hưởng của loại thơ này. Có
điều lúc ấy tôi chỉ mượn số lượng ba câu mỗi bài, chứ không theo phong cách thơ
Haiku cổ điển. Thơ của tôi truyền tải ý chứ không phải hình ảnh.
Âu cũng là một trải
nghiêm nữa trong sự nghiệp dịch thơ chuyên nghiệp của tôi. Và tôi muốn giới
thiệu nó với bạn đọc. Mong được đón nhận và nâng đỡ.
Hà Nội, ngày 3 tháng
Sáu, 2010.
Thái Bá Tân
Phần Một
Matsuo BASHO
Matsuo Bashō
(1644-1694), nhà thơ thiền lỗi lạc thời Edo, Nhật Bản, tên thật
là Matsuo Munefusa, là con trai út thứ bảy của một samurai cấp thấp
phục vụ cho lãnh chúa thành Ueno, một tòa thành nằm giữa con đường đi từ Kyoto đến Ise. Basho được thừa nhận là người phát
triển những câu đầu (phát cú) của thể renga (liên ca) có tính hài hước gọi
là Renga no Haikai thành một thể thơ độc lập mang âm hưởng sâu thẳm của Thiền
đạo. Masaoka Shiki (1867-1902) hoàn
thiện sự tách biệt này thêm nữa và chuyển sang gọi nó là thể haiku (bài cú hay hài
cú).
Tuổi
trẻ
Năm mới được 9 tuổi, ông vào lâu đài Ueno làm tùy tùng cho một lãnh chúa và trở thành bạn thân thiết với
con trai vị lãnh chúa này, một người chỉ lớn hơn ông vài tuổi tên là Yoshitada.
Hai người đã cùng nhau vui chơi, học tập và làm thơ. Cũng trong những năm đó,
sự phát lộ năng khiếu thơ của ông đã được nhà thơ và nhà phê bình xuất sắc
đương thời Kitamura Kigin phát hiện.
Ông bắt đầu được Kitamura Kigin rèn tập, và có bài thơ đầu tay năm ông mới 18
tuổi được nhiều người biết đến.
Khi người bạn Yoshitada lâm bạo bệnh
mất vào năm 24 tuổi, Bashō lên núi Koya đặt một nạm tóc của bạn vào chùa và
quyết định rời bỏ lâu đài Ueno mặc dù không được phép của lãnh chúa. Năm 1666,
ông đến Kyotō và sống ở đây 5 năm, tiếp tục đọc văn học Nhật Bản cổ đại, nghiên cứu văn học Trung Quốc và cả thư pháp.
Mùa xuân năm 1672, sau một thời gian
về quê chừng vài tháng, ông dời lên sống ở Edo. Trong những năm này,
ông đã thử làm nhiều nghề khác nhau nhưng dần cảm thấy mình chỉ hợp chương, ông
bắt đầu mở lớp dạy thơ haikai (bài hài), một thể loại thơ còn
được gọi là haikai no renga (bài
hài chi liên ca), là những bài thơ dài thiên về trào lộng, nhẹ nhàng và phóng
túng, vốn rất thịnh hành trong thời Tokugawa. Năm 1675, Bashō xướng họa cùng
thi sĩ Nishiyama Soin (1605-1682),
chủ soái của trường phái Danrin (Đàm Lâm), một trong hai trường phái haikai nổi
tiếng đương thời (trường phái Teimon (Trinh Môn) của Matsunaga Teitoku
(1571-1653) và trường phái Danrin). Tư tưởng thơ haikai của Nishiyama Soin,
đứng trên mọi sự dung tục và tầm thường, vượt thoát ra ngoài khuôn khổ của một
thể loại thơ giải trí thế tục đơn thuần vốn đang thịnh hành toàn quốc với
trường phái Teimon, đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và sáng tác của Bashō về
sau.
Bashō-an,
bút hiệu Bashō và phong cách Shōfu
Mùa
xuân năm 1679 Matsuo Bashō được phong tước hiệu Sosho (bậc thầy dạy thơ
Haikai). Năm sau ông dời đến một túp lều bên sông Sumida và ở đây, có đệ tử mang tặng cây ba tiêu (cây chuối), một giống cây đương thời chỉ
có ở Trung Hoa.
Ngay tức thì, nhà thơ say mê nó và đem trồng trong sân nhà. Khách đến thăm gọi
nhà ông là "ba tiêu am" (Basho-an). Cũng trong những năm này, ông tu
tập thiền đạo với một thiền sư tại một ngôi chùa địa phương.
Năm
1682 Bashō am bị cháy, ông dời về Koshu và từ đó lấy bút hiệu là Bashō (Ba
Tiêu). Năm sau ông trở lại Edo và dựng lại
"ba tiêu am". Bắt đầu từ đây, định mệnh thơ haikai rơi vào tay của
Bashō: ông đã sáng tạo ra một phong cách mới là Shōfu (Tiêu Phong, ẩn ý về đời
người nghệ sĩ như những tàu lá ba tiêu bị xé tan trong gió những đêm giông
bão), một phong cách dung hợp giữa sự trào lộng đời thường của haikai đương
thời với yếu tố cao nhã tâm linh của thể thơ renga (liên ca) cổ điển. Ông cũng dần hoàn
thiện một loại thơ ngắn 17 âm tiết trong 3 câu 5+7+5 từ những câu đầu (hokku)
của thể thơ renga và thể thơ cực ngắn ấy về sau được mọi người biết đến với cái
tên đã trở thành bất hủ haiku.
Du hành bờ Tây
Mặc
dù danh tiếng ngày càng rực rỡ, những nghi vấn về bản thể, tâm linh, thiền tông
và nghệ thuật không ngớt thúc bách Bashō tìm con đường cho chính
mình để đạt được đại ngộ
(satori). Mùa thu năm 1684, ông từ bỏ cuộc sống yên ổn ở am ba tiêu và bắt đầu
làm một lữ khách (tabibito) của cõi phù thế. Theo con đường ven biển về hướng
Tây, ông lang thang thăm lại cố hương Ueno rồi đi Nagoya. Ở đó, ông cầm
đầu một nhóm thi sĩ soạn nên 5 tập renga xuất sắc mang tên Đông nhật (Fuyu no
hi). Đến mùa hạ năm sau, Basho mới trở về Edo
sau khi thăm viếng nhiều nơi. Chuyến đi lớn đầu tiên này được ông ghi lại trong
kỷ hành (kikō, một dạng nhật ký hành
trình) mang tên Nhật ký phơi thân đồng nội (Nozarashi kiko, Dã sái kỷ hành,
1685).
Hai
năm sau, Bashō tạo nên chấn động trong văn chương
bằng bài thơ về bước nhảy bất ngờ của con ếch mà
tiếng động của nó khi chạm mặt nước ao cũ vang trong thinh lặng của đêm đen như
khoảnh khắc đạt đốn ngộ của thiền sư, đăng trong hợp tuyển
của thơ ông và đồ đệ mang tên Xuân nhật (Haru no hi).
Hành trình
Kashima
Chuyến
đi kế tiếp của Bashō hướng về Kashima được Bashō mô tả trong Kỷ hành Kashima
(Kashima kikō, 1687). Đây là chuyến đi mà đích đến của Bashō là đền Kashima
thăm viếng sư phụ, thiền sư Bucho, và thăm lại cây anh đào nổi tiếng ở Yoshino
mà nhớ về người bạn yểu mệnh tại Ueno năm xưa.
Đường đến
Sarashina
Ngay
sau chuyến đi Kashima, Matsuo Bashō lại khăn gói hành hương trong một năm trời
từ Edo về bờ biển Suma, từ Akashi đến thôn Sarashina để được tận hưởng mùa trăng trên
đỉnh núi Obasute. Chuyến đi này là tiền đề cho hai tập nhật ký thơ ca khác là
Ghi chép trên chiếc túi hành hương (Oi no kubun, cập chi tiểu văn, 1688) và
Nhật ký về thôn Sarashina (Sarashina kiko, 1688). Đây là những trang ca ngợi
thiên nhiên vô cùng nồng nàn, là lời kêu gọi say đắm "trở về với thiên
nhiên". Đó là một lý tưởng mà Bashō gọi là fuga (phong nhã), biểu hiện qua những con
người lỗi lạc như Saigyo của thơ tanka, Sesshu của tranh thủy mặc, Rikyu của trà đạo
và Sogi của thơ renga.
Bắc hành
Chuyến
đi dài nhất của Bashō với một người đệ tử là cuộc du hành phương Bắc đảo Honshu vào năm ông 45
tuổi. Đây là một chuyến đi kéo dài 151 ngày đầy gian khổ, bất trắc trên con
đường thiên lý đến những vùng đất còn nguyên sơ, khởi đầu từ Edo ngày 27 tháng
ba âm lịch
năm 1689. Chuyến đi này đã đưa Bashō đến hàng loạt những thị trấn mới lạ, như Nikko, Shirakawa, Sendai, Matsushina v.v. Từ đây ông rẽ ngang đảo
Honshu đến Sakata ở phía Tây trên biển Nhật Bản. Ông cũng lặn lội xuống miền duyên hải để tới Niigata,
Kanazawa,
Tsuruga và tạm dừng ở Ogaki, với tổng chiều dài lên đến 2.500 cây số. Đó là cuộc hành
trình nổi tiếng nhất trong văn học Nhật Bản vì nó đã để lại cho đời sau một
kiệt tác thi ca xen lẫn những đoạn tản văn Lối lên miền Oku (Oku no hoshomichi,
áo chi tế đạo).
Tuy
nhiên, nếu con đường thi ca của Lối lên miền Oku chấm dứt ở Ogaki vào mùa thu
năm 1689, thì con đường du hành của Bashō mãi đến 1691, khi nhà thơ về Edo mới
kết thúc. Ông còn tiếp tục đi Kyotō, về quê thăm nhà và cùng các bạn thơ
du ngoạn hồ Biwa. Trên đường thiên lý Basho đã dừng
trú tại Huyền trú am (Genju-an) trong khu rừng bên hồ Biwa
và tại đây ông viết nên bài tùy bút kỳ tuyệt mang tên Tùy bút Huyền trú am
(Genjuan no ki, 1690). Cùng với các bài thơ haiku được viết trong thời gian này
của tác giả, bài tùy bút được đưa vào thi tập Áo rơm cho khỉ (Sarumino, viên
thoa, 1691), một tập thơ mang phong cách Shofu đậm đặc. Sau đó, ông cũng qua
một vài tuần ở một thảo am khác là Lạc thị xá (Rakushisha) thuộc vùng Saga và ở đây ông soạn lên
tác phẩm lớn nhất cuối cùng của đời mình là Nhật ký Saga (Saga nikki, 1691).
Bashō
trở về Edo vào năm 1691 với danh tiếng lẫy lừng, được đông đảo bạn bè, môn đệ
và người ái mộ vây quanh. Những năm sau đó ông có một vài trách nhiệm trong đời
sống mà lúc này phải đảm nhận, như trông nom một phụ nữ tên là Jutei cùng các
con của bà, chỉ vì hồi trẻ ông đã từng yêu Jutei.
Thiền định
trong cô tịch
Đến
năm 1693, Basho quyết định đóng cửa sống trong cô tịch, không tiếp khách, và
người ta nói rằng cánh cửa nhà ông chỉ mở ra khi có một biến cố, như khi hoa triêu nhan nở bên hàng
dậu. Trong thời gian này, cuộc đời và thơ ca của ông hướng đến một lý tưởng gọi
là karumi (khinh), tức sự nhẹ nhàng thanh thoát tìm thấy ngay giữa cuộc đời ô
trọc. Lý tưởng đó sau này được học trò của ông ấn hành trong thi tập Túi đựng
than (Sumida wara, 1694).
Chuyến Nam du định
mệnh
Mùa
xuân năm 1694, Bashō quyết định đi thăm phương Nam
mà đích đến là Osaka ở
đảo Kyushu
theo lời mời thành khẩn của một đệ tử. Trên đường đi ông mắc bệnh nặng tại một
lữ quán ở Ōsaka.
Đệ tử của ông xin ông làm bài thơ từ thế, như truyền
thống của các thiền sư Nhật Bản, để cáo biệt cõi đời trước lúc lâm chung, ông
đáp: "thơ lúc bình sinh đã là bài từ thế rồi", và viết:
Dọc đường ốm...
Trong mơ tôi lang thang
Giữa những cánh đồng khô héo.
Đặc điểm nghệ
thuật
Giữa
hai chiều không gian và thời gian,
con người từ khi đến với cõi thế này đã phải chấp nhận sự hữu hạn của năm
tháng, do vậy mà luôn ước ao tìm đến cõi vĩnh hằng. Những chuyến du hành của
Matsuo Bashō như muốn bộc lộ khát khao phá vỡ sự câu thúc của buổi chiều còn
lại trong vũ trụ (thời gian) để tìm cho được sự rộng mở, khai phóng
không gian tồn tại của bản thể và cái đẹp.
Đời ông như một lữ khách trong thời gian, là những chuyến du hành không dứt,
phản ánh qua các tập kỷ hành hay xoay quanh các thi tập phân theo bốn mùa. Ông
yêu thích các thi nhân đời Đường và nhắc đến tứ thơ của họ trong các tác phẩm của
ông. Ông chuộng Trang Tử và dựa trên nền triết học
này mà đề ra thuyết "Bất dịch và lưu hành" trong thi ca của mình: thi
nhân đi tìm những giá trị vĩnh hằng trong dòng biến động của vạn vật. Ông quan
niệm phải tuân theo tạo hóa và quay trở về với tạo hóa, "tả thông thì học
thông, tả trúc thì học trúc" và cho rằng trong đời chỉ có hai loại thơ:
thơ tự nhiên dung hợp giữa thiên nhiên và nhân sinh còn thơ nhân tạo chỉ có kỹ
thuật mà thiếu tấm lòng. Bashō đã từng nói học thi pháp để rồi quên nó đi, đối với ông
cái tình cần hơn sự chuốt vẽ chữ nghĩa.
Tin
vào sự mẫn cảm của người nghệ sĩ,
Bashō khuyên nên nắm bắt ngay ánh chớp loé ra từ sự vật trước khi nó tan biến
đi trong tâm trí. Thơ cần nhẹ nhàng, đơn giản, trong sáng, gần với đời sống và
thi nhân cần "nâng tâm hồn lên thành thơ để rồi quay trở về với đời
thường”. Chính điều đó đã trở thành một trong những đặc trưng của thể thơ
(haiku) do ông sáng tạo, một thể thơ mà tất cả những điều bình thường, nhỏ nhoi
trong cuộc sống như bụi cám, tôm
cá, tiếng dế mèn,
ngôi nhà dột, cây cột xiêu đổ, con sâu đang gặm hạt dẻ, chiếc mũ chiến lăn lóc trên cỏ, cây chuối trong giông bão v.v. đều có thể
trở thành những đề tài hồn nhiên, dịu dàng và đầy sức sống của
thơ. Có hai điều mang tính cách tân trong quan niệm thi ca của ông: không lặp
lại chính mình và không theo khuôn mẫu người khác. Ông tự bảo mình "phải
biết chán cái tôi của ngày hôm qua" và tự chế diễu thơ mình như "lò sưởi trong mùa hạ và quạt trong mùa
đông". Ông kêu gọi đừng bắt chước theo những thành tựu của các văn hào xưa
mà chỉ nên truy tìm điều họ đã muốn đi tìm. Với tinh thần đó, dù đã có các
trường phái haikai rất nổi tiếng trong thế kỷ 17 như Teimon (Trinh Môn) và
Danrin (Đàm Lâm), Bashō vẫn tự lập nên một phong cách mới gọi là Shōfu (Tiêu
Phong) trong đó chứa đựng những quan niệm nghệ thuật của riêng ông. Linh hồn
thơ Shōfu chính là linh hồn của sabi (cái tịch liêu, tĩnh lặng) và karumi (nhẹ
nhàng), mang âm điệu sâu thẳm của Thiền đạo và sắc màu tươi nhuận của thiên
nhiên.
Ảnh hưởng
Thiên tài của Bashō ôm
choàng những hiện tượng khác nhau của đời sống, do đó đã gây nên những ảnh
hưởng sâu rộng về sau. Tương truyền, ông có đến 2000 đệ tử, và nổi danh nhất là
10 nhà thơ được gọi là Bashō Jitetsu (Ba Tiêu thập triết), đó là Etsujin,
Hokushi, Joso, Kikaku, Kyorai, Kyoroku, Ransetsu, Shiko, Sanpu và Yaha. Các nhà
thơ theo khuynh hướng lãng mạn hay hiện thực hậu sinh như Kobayashi
Issa (1763-1827), Masaoka
Shiki (1867-1902) đều có thể xem Bashō là bậc thầy của mình. Nhiều
người đã hành hương theo bước đường phiêu lãng của Bashō ngày xưa.
Sang thế kỷ 20, Bashō lại
càng trở thành một hình ảnh vĩ đại được tôn vinh của nền văn hóa Nhật Bản.
Một số nhà nghiên cứu xem ông là nhà thơ huyền bí tương tự Blake
và Wordsworth,
số khác thấy ông đi trước chủ
nghĩa tượng trưng của Pháp. Thể thơ haiku do ông hoàn thiện bằng thiên
tài của mình đã trở thành thể thơ quốc tế, được nghiên cứu rộng rãi cả trong và
ngoài Nhật Bản. Nhiều nhà văn, nhà thơ lớn của thế giới còn sáng tác thể thơ
này bằng tiếng mẹ đẻ của mình, trong đó có Paul Eluard
của Pháp, Octavio Paz của Tây Ban Nha và George
Seferis của Hy Lạp.
Những tác phẩm chính
- Đông nhật (Fuyu no hi, 1684), 5
tập, viết chung với bạn thơ.
- Nhật ký phơi thân đồng nội
(Nozarashi kiko, dã sái kỷ hành, 1685)
- Xuân nhật (Haru no hi, 1686)
viết chung với đồ đệ.
- Nhật ký hành trình Kashima
(Kashima kiko, 1687)
- Ghi chép trên chiếc túi hành hương
(Oi no kubun, cập chi tiểu văn, 1688)
- Nhật ký về thôn Sarashina
(Sarashina kiko, 1688)
- Lối lên miền Oku (Oku no
hoshomichi, áo chi tế đạo, 1689)
- Áo rơm cho khỉ (Sarumino, viên
thoa, 1691)
- Nhật ký Saga (Saga nikki, 1691).
(Theo
Wilkipedia)
Matsuo
BASHO
1
Con quạ
Ngồi trên cành
cây khô.
Chiều thu.
2
Người thợ đập
đá
Ngồi nghỉ bên
dàn hoa bìm bìm.
Cuộc đời này
thật buồn.
3
Con ếch
Nhảy xuống ao
tù.
Tiếng nước té.
4
Làng này, vùng
núi này
Nơi không ai
lui tới.
Sẽ rất buồn
nếu không buồn.
6
Nước thủy
triều nông.
Chân sếu ẩm
ướt.
Hơi lạnh từ biển.
7
Núi Atsumi.
Quay sang bãi
Gió Thổi,
Tìm cái mát.
8
Một năm nữa
trôi qua.
Mà tôi
Vẫn mũ rơm,
giày rơm.
9
Đã mùa thu.
Có lý do để
già.
Đám mây và con
chim.
10
Cả nhà.
Chống gậy, tóc
bạc phơ.
Tảo mộ.
11
Gõ cửa cầu may.
Đền Mii.
Hôm nay có trăng.
12
Trăng.
Một nhà sư
Cõng trăng đi qua bãi cát.
13
Suốt đêm
Nằm nghe gió
thu
Bên kia núi.
14
Biển xanh.
Sóng vỡ có mùi
rượu gạo.
Trăng sáng.
15
Trong thảm hoa
màu trắng
Đêm
Chuyển thành
ngày.
16
Người ta buồn
vì vượn khóc.
Trẻ khóc thì
sao?
Gió thu.
17
Ngoài ấy, bây
giờ
Đã là mùa thu
hoạch?
Lều cỏ của
tôi.
19
Không hóa
thành bướm,
Mùa thu đang
chín dần.
Thành mồi cho
sâu.
20
Sắp thu.
Càng muốn ngồi
Trong căn
phòng trải bốn chiếu.
21
Lá vàng trôi
dưới nước.
Từ phía nào bờ
sông
Con dế đang
kêu?
22
Thủy triều
dâng.
Con sếu bước
trên đôi chân ngắn.
Nước quá gối.
23
Đêm trăng lặng
yên.
Có thể nghe
trong tán lá
Tiếng sâu ăn
hạt dẻ.
24
Đêm không
trăng.
Con cáo bò
trong vườn
Về phía quả
dưa chín.
25
Người hái chè
không biết
Với những cây
chè
Họ là ngọn gió
thu.
26
Khóm liễu ngủ
mơ màng.
Tôi cứ nghĩ
họa mi
Là linh hồn
của nó.
27
Mưa nặng hạt
trên mái.
Chỉ mình tôi
không đổi thay,
Như cây sồi
già trước ngõ.
28
Những cánh hoa
dưa
Rơi thành
tiếng xuống đất.
Hoa lãng quên?
29
Cơn mưa lạnh
đầu mùa.
Đến con khỉ
Cũng muốn có
chiếc áo rơm.
30
Sương làm màn.
Gió làm chiếu.
Đứa trẻ bị bỏ
rơi.
32
Tháng Bảy.
Thường thì đêm
mồng Sáu
Không giống
thế này.
33
Biển động
Tràn qua cả
Sado.
Dải Ngân Hà.
34
Vườn cỏ.
Chọn hoa nào
Làm gối?
35
Ở đời này,
chúng ta
Đứng trên đầu
địa ngục,
Ngắm hoa.
36
Liễu trụi lá.
Suối khô.
Đá chỗ này,
chỗ nọ.
37
Uống trà sáng,
Nhà sư
Lặng im như
hoa cúc.
38
Con bạch tuộc
lười
Mơ màng trong
lưới.
Trăng mùa hè.
39
Đêm thu, mưa
Nước chảy
thành dòng trên lá chuối
Tôi ngồi nghe
tiếng đêm.
40
“Tôi mệt mỏi
với trẻ con!”
Đừng chờ hoa
Từ những người
nói vậy.
41
Trong chuồng
bò
Muỗi kêu o o,
Làm đen thêm
cái nóng.
42
Trên đường này
Một mình không
bạn.
Đêm thu.
43
Chuông chùa
đôi khi
Rên,
Như tiếng dế.
44
Nara.
Hoa cúc thơm.
Tượng Phật cổ.
45
Hoa cúc thơm
trong vườn.
Chiếc dép mòn
Trơ đế vẹt.
46
Lơ đãng
Nghe lời đưa
tiễn
Nhớ mùa thu ở
Kisô
47
Tiếng chim én
líu ríu trên nhà
Không át nổi
tiếng chim cuốc
Kêu buồn trong
tim.
49
Bên chén trà
buổi sáng,
Sư thanh thản,
lòng thiền.
Hoa cúc nở.
51
Cả ở Kyôtô
Nghe tiếng
chim cu,
Vẫn nhớ Kyôtô.
52
Người cấy lúa
Trên đồng.
Tôi đứng dưới
gốc cây.
53
Im lặng mênh
mông.
Càng im lặng
bởi tiếng dế
Tắt dần phía
đền Núi Đá.
54
Trong mơ, gió
xuân thổi
Cánh hoa bay
tả tơi.
Tỉnh dậy còn
nghe tiếng rơi.
55
Nước chảy trên
đường.
Đứng dưới bóng
liễu xum xuê,
Lòng nhẹ hơn
một chút.
56
Tình yêu vô
vọng.
Những tiếng
thở dài đau khổ
Trống rỗng như
xác ve.
57
Nghe tiếng cây
xào xạc
Không hiểu sao
chợt buồn.
Bụi tre, đêm
giá lạnh.
58
Chiếc lưỡi lửa
yếu ớt.
Dầu lắng tận
đáy đèn
Buồn.
59
Con bướm bay
Làm cánh đồng
thức dậy.
Trời đầy nắng.
61
Hoa tàn.
Hạt rơi xuống
đất,
Như những giọt
nước mắt.
62
Đông hay Tây
Đều đau khổ
đời này.
Dửng dưng gió
thổi.
63
Trung Thu.
Dạo nhiều vòng
quanh hồ.
Toàn đêm đen
quanh hồ.
64
Buổi sáng,
tuyết đầu mùa.
Những cánh
tuyết nhỏ
Bám trên lá
thủy tiên.
65
Nước lạnh.
Không ngủ được.
Hải âu lắc lư
trên sóng.
66
Đêm, chiếc
bình vỡ.
Nước trong
bình đóng băng.
Chợt tỉnh.
67
Trăng, hay
trời đã sáng?
Sống lười.
Thế là đã hết
năm.
70
Con bướm
Ngủ trên chén
hoa.
Anh bạn họa
mi, đừng bắt nó!
71
Chiếc tổ cò
ngả nghiêng trên cây.
Phía dưới, nơi
không có gió
Anh đào nở hoa
thản nhiên.
72
Ngôi nhà không
có đàn bà.
Bông hoa trắng
trên bờ dậu
Làm tôi ớn
lạnh.
74
Có phải gió
Làm gãy cành
thông?
Tiếng nước té
thật mát.
75
Dòng suối
trong.
Con cua nhỏ
Theo chân tôi
bò lên.
76
Đời quả xấu xa.
Nhưng chừng
nào có anh ở đời
Tôi còn bị đời
lôi cuốn.
77
Hồn bay theo
trăng
Sáng ngời trên
núi
Để xác tôi
trong bóng tối.
78
Đừng xem đời
là quán trọ
Khi anh, như
tôi
Muốn được ngủ
đêm nay trong quán trọ.
80
Bỏ phí cuộc
đời
Là người
Không bỏ phí
cái gì.
81
Cả người chai
sạn cũng buồn
Khi đêm thu
buông.
Từ đầm lầy con
chim bay lên.
82
Chỉ tiếng nước
làm bạn.
Căn lều cô đơn
Như chỗ lặng
giữa hai đợt sóng.
84
Xa nhau như
trai và sò
Tôi lên đường
đi Futami.
Mùa thu đi
ngang qua tôi.
89
Lễ Linh Hồn.
Hôm nay cũng
có khói
Từ nhà thiêu.
90
Giỗ Phật.
Những tiếng
kinh cầu siêu
Từ bàn tay vái
lạy.
91
Ngủ trong đền.
Khuôn mặt
nghiêm nghị.
Ngắm trăng.
92
Gió thu
Buồn bã làm
rơi
Mấy cành dâu
mục.
93
Gió thu.
Miếu thờ nghĩa
trang Ise.
Buồn hơn.
94
Cuối xuân,
chim buồn.
Cá khóc,
Mắt đầy lệ.
95
Ra khỏi bóng
cây liễu
Khi thấy cô
gái
Cấy ruộng lúa
hình vuông.
98
Yên tĩnh.
Tiếng dế kêu
Thấm từng kẽ
đá.
99
Sắp thu.
Trong cô đơn
Cũng có cái
vui.
100
Mùa thu sâu.
Muốn biết
Hàng xóm giờ
thế nào.
101
Trong chiếc
lưới pháp luật,
Con cá nhỏ
Mở mắt nhìn.
102
Trên chuông
đại nhà chùa
Con bướm đêm
Co mình, ngủ.
103
Cỏ úa mùa thu
Là giấc mơ
người lính
Sau chiến
tranh.
104
Trăng
Chiếu xiên
rặng tre.
Chim cu kêu.
104
Chốc chốc
Những đám mây
Giúp người
ngắm trăng được nghỉ.
105
Cánh bướm thơm.
Vì nó
Vừa bay qua
vườn lan.
106
Đầu xuân.
Ngọn núi không
tên
Chìm trong
sương mù.
107
Chuông chùa
tắt.
Hương hoa đêm
Làm chuông
ngân thêm.
109
Gió thu
Thổi qua cánh
cửa không kín.
Kêu cọt kẹt.
110
Tiếng chuông
chùa
Chìm xuống
biển.
Trăng ở đâu?
112
Mỗi lần nói
Gió thu
Làm môi lạnh.
113
Tôi đi.
Anh ở lại.
Hai mùa thu.
116
Núi đá
Trắng hơn đá
của nó.
Gió thu.
117
Ngày đầu tiên trong năm.
Lại nghĩ, lại cô đơn
Thế là đã hết thu.
119
Có ai muốn đến xem
Và sờ vào nỗi buồn?
Cây Kiri chỉ còn một lá.
120
Buồn, cô đơn.
Cả rừng cánh hoa
Rơi xuống đất.
121
Gió thu đã
thổi.
Bụi cây dẻ
Còn xanh.
122
Cúc trắng
Đập vào mắt.
Mắt đau như
gặp bụi.
123
Dẫu còn yếu
gầy,
Vô cớ
Bụi cúc đâm
bông.
124
Một bụi cúc,
một vành trăng.
Một ô đất
trồng lúa
Là nơi nên ở
ẩn.
125
Gốc thông sần
sùi.
Nấm mọc trên
cây lạ.
Một chiếc lá
chen vào.
127
Ốm.
Ngồi nhai tảo
khô.
Cát giữa hai
hàm răng.
128
Thân cây bị
cắt ngang.
Tròn
Như mặt trăng
đêm nay.
129
Tôi bám được
cộng rơm.
Tiếc không đủ
sức
Giữ nó.
130
Người đào củ
từ
Cho tôi thấy
Cái buồn của
núi.
131
Sau hoa,
Còn lại cho
thơ haiku
Là những hạt
đậu tía.
133
Với bà lão,
Cây anh đào
già nở hoa
Mời là cái để
nhớ.
135
Mọi người ngày
một già.
Đám thanh niên
Êbisu
Còn làm họ già
thêm.
137
Cây đỗ quyên
khô
Đỏ vì nước mắt
Chim cu.
139
Tiếng bãi sậy
Nghe giống gió
thu
Nhưng từ miệng
khác.
140
Khi ngủ,
Bụi cỏ ba lá
Giống bụi hoa.
142
Mưa rào mùa
đông.
Cây thông buồn
vì ướt.
Chờ tuyết rơi.
143
Những giọt mưa
đá
Dính tuyết
Như hoa văn mờ
trên áo trắng.
145
Đang kỳ nở rộ
Chỉ mong hoa
Không bị chạm
bởi bàn tay gió.
146
Gió xuân
Như chiếc lược
chải đều
Tóc liễu.
147
Hoa đâm nụ.
Tiếc gió xuân
không thể
Tự mở túi thơ.
150
Ngồi mãi trong
chùa,
Khách không
biết
Anh đào đã ra
hoa.
151
Mưa đầu hè
Đo chỗ nông
Con sông quen
thuộc.
152
Đến thủ đô,
còn xa.
Những nửa bầu
trời.
Mây như tuyết
trắng.
153
Mặt trời ngày
đông.
Bóng tôi đóng
băng
Trên lưng
ngựa.
157
Những muốn ở
trần.
Nhưng đành mặc
áo
Gió lạnh thổi.
158
Cùng một gốc
mận
Có cả cành già
lẫn cành non.
Cả hai đều
thơm mùi hoa.
159
Trồng luống
khoai trong vườn
Thế mà thật
buồn,
Cỏ mọc dày, át
cả nó.
161
Hoa hồng rụng
trên núi,
Thành tiếng
như chim bay.
Thác đổ rì rào
xa xa.
162
Tia nắng tắt
trên cánh hoa.
Từ bóng đen
chầm chậm
Mọc lên ngày
của tôi...
163
Như những giọt
mưa xuân
Rơi trên cành
tí tách,
Tiếng suối
chảy.
164
Cuối cùng thì
tôi
Cũng đuổi kịp
mùa xuân đã mất
Ở cảng Vaka xa
xôi.
166
Khi trồng,
Phải nhẹ nhàng
như nâng trẻ.
Cây anh đào
dại.
169
Hôm nay. Đêm
nay.
Không có thời
gian để ngủ.
Ngắm trăng.
171
Trên đồng cỏ.
Tiếng con nai
gọi đàn
Chỉ cao vài
phân.
172
Đêm nay trăng
non.
Mảnh mai.
Gầy.
173
Là cột đỡ trời
mây,
Núi Phú Sĩ
Như cây tuyết
tùng khổng lồ.
176
Vượt hai trăm
dặm dưới mây
Đến đây
Thưởng thức
cái lạnh.
177
Bếp lò mùa
đông.
Người thợ làm
bếp già thật nhanh.
Tóc trên đầu
đã bạc.
180
Những nhánh mạ
Sau một giấc
mơ
Mai sẽ héo như
lá sậy.
181
Từ đỉnh ngọn
cây
Sự trống không
rơi xuống
Lọt vào xác
ve.
182
Thu đến
Thầm thì bên
tai
Qua gối gió.
183
Vết bẩn
Rơi lên bột
đậu phụ
Như một mẩu lá
thu.
184
Làn mây xốp
Như con chó
vừa chạy vừa đái.
Lác đác mưa
hè.
185
Hái cỏ bùa mê.
Nấu canh gạo.
Đã cuối năm.
187
Cùng cái lạnh
Gió đến nằm kề.
Đứa bé bị bỏ
rơi.
190
Mọi việc bình
thường.
Hôm qua trôi
qua
Cùng bát canh
cá.
192
Hoa đầu mùa.
Ngắm chúng, đời tôi
Ngắm chúng, đời tôi
Dài thêm bảy
lăm tuổi thọ.
194
Dâng nước tế.
Mong người
chết chấp nhận
Bát cơm khô.
195
Ngày mưa gió.
Vạn vật ngập
trong mùa thu.
Làng quê vùng
quan ải.
197
Chưa kịp bỏ
tay che,
Ngọn gió xuân
Đã chui vào
nhánh mạ.
199
Con trai biển
Ngậm chặt
miệng.
Trời nóng
thật.
200
Những sợi mưa
chồng lên nhau.
Giờ thì chẳng
lo
Ruộng lúa mới
cấy.
201
Chim cu đã xa.
Tiếng nó hồi
lâu
Bay theo trên
mặt nước.
202
Mặt trăng đến
rồi đi
Để lại
Chiếc bàn bốn
góc.
203
Con vịt trên
đất lạnh.
Chiếc áo bằng
lông
Che đôi chân
trần.
204
Những củ cải
tróc vỏ...
Cuộc nói
chuyện nghiêm túc
Với võ sĩ đạo.
205
Mưa xuân.
Từ mái nhà
nước chảy
Men theo tổ
ong.
206
Ô che đầu.
Gạt cành lá
bước đi.
Liễu vừa ra
hoa.
207
Bốn chiếc cốc
Đang chờ.
Chỉ mình tôi
ngắm hoa.
208
Cây liễu xanh
với tay
Chạm vào làn
nước đục.
Thủy triều
buổi chiều đang lên.
209
Sóng chạy lăn
tăn trên hồ.
Thương cho cái
nóng.
Mây hoàng hôn.
210
Ngồi nghỉ
trong bóng cây.
Những người
hái chè
Nghe tiếng
chim cu đang bay.
212
Đất như trôi
dưới chân.
Tôi túm lấy
bông lúa nhỏ.
Đã đến giờ
chia ly.
213
Trong rừng trúc non.
Mùa hè, họa mi
hót
Khóc thương
tuổi già.
214
Núi.
Trăng phía
trên, mây phía dưới.
Cánh đồng bốc
khói.
215
Đám mây
Vướng vào mặt
trời.
Đàn chim tránh
rét bay xuyên qua.
216
Người ta sống
bằng gì
Trong ngôi nhà
thấp tè sát đất,
Dưới tán liễu
mùa thu?
217
Đường dài.
Chiều thu xạm
dần.
Lại hoàn toàn
vắng người.
218
Thu này
Tôi cảm thấy
cái già rất rõ.
Mây và chim.
219
Mưa thu, mây
mù.
Không thấy Phú Sĩ,
Tôi vẫn vui.
220
Ngủ gật trên
lưng ngựa.
Lờ mờ thấy
trăng xa.
Đâu đó lững lờ
khói sớm.
221
Trên ngôi mộ
bỏ hoang
"Cỏ
buồn" mọc.
Buồn cho ai?
222
Gối cỏ.
Con chó ướt vì
mưa.
Tiếng ai nói
trong đêm.
223
Trời tối dần
trên biển.
Mờ mờ sáng xa
xa
Là những tiếng
chim hải âu.
224
Đứng một mình
oai vệ,
Cây sồi già cô
đơn
Không thấy hoa
anh đào đã nở.
225
Từ bông mẫu
đơn
Miễn cưỡng
Con ong chui
ra.
226
Đi trên đường
núi.
Bỗng thấy lâng
lâng.
Bông hoa tím
trong cỏ rậm.
227
Cả tướng quân,
cả hoa
Đã tới
Trên yên ngựa.
228
Biển cuộn sóng
Thoảng mùi
rượu sake.
Đêm nay trăng
tròn.
229
Mưa đầu hè.
Cây bách xanh
trên núi đá.
Xanh bao lâu?
230
Con nhện
Đang kêu?
Gió thu.
231
Lều tranh đơn
sơ.
Lá chè vò xong.
Giông cũng
tan.
232
Tiếng sóng vỗ
Làm bát cơm
lạnh như băng.
Những giọt
nước mắt trong đêm.
235
Lang thang
cũng chẳng sao
Chừng nào
Hoa anh đào
vẫn nở.
236
Cây chuối
Bão đánh tả
tơi.
Suốt đêm nghe
mưa trên máng.
237
Say vì ngắm
hoa,
Người đàn bà
Cầm gươm, mặc
áo giáp.
238
Mưa hè.
Chân hạc
Ngắn hơn.
240
Bí mật đêm đen.
Dưới trăng,
con sâu
Đục lỗ chui
vào hạt dẻ.
241
Buổi sáng
tuyết rơi.
Tôi một mình
Ngồi nhai cá
khô.
242
Mưa rào.
Tay cầm ô,
Nhà sư về
chùa.
243
Không ngại bẩn
ống áo,
Họ mò ốc.
Chẳng còn lúc
nào để nghỉ.
244
Một cậu bé vui
tính.
Một cây liễu.
Một người đàn
bà.
245
Nhặt chè chưa?
Đừng quên ủ
héo.
Những đợt gió
thu.
246
Trăng lưỡi
liềm.
Lát nữa
Bình minh hồng
sẽ dậy.
247
Sống thanh đạm.
Người ngắm
trăng cô đơn
Hát về trà Nara.
248
Bình minh thật
đẹp.
Tôi sụp soạt
húp cháo -
Như người.
249
Gió thổi râu
phất phơ.
Cuối thu trời
xấu.
Thằng bé này
con ai?
250
Ngôi đền nghèo.
Chiếc ấm nước
đóng băng.
Tiếng kêu cũng
lạnh.
251
Sôgi nói:
Sống ở đời
không dài hơn
Một lần trú
mưa.
252
Năm mới.
Nghĩ chuyện cũ.
Tôi cô đơn như
đêm thu này.
255
Nghe chim cu
hót,
Tôi làm đầy
hai tai
Bằng khói
hương.
257
Có thể
Tiếng chim cu
Làm thay màu
da con cá.
258
Tôi ngắm hoa.
Rượu trắng.
Cơm đen.
261
Con ngựa nặng
nề bước cạnh.
Bóng tôi
In trên ruộng
lúa.
262
Vẫy chiếc khăn
trắng.
Nai cái lại
gần nai đực.
Đảo Ôga.
265
Khu rừng đen.
Muốn hay không,
Sáng dậy tuyết
vẫn trắng.
266
Nghe mưa đá
rơi.
Thấy mình
Như cây sồi già.
268
Rong biển
Trông thật đẹp
Trong bát canh
nhiều hình vẽ.
269
Thật tĩnh tại
Đức Phật chí
tôn
Trên bệ thờ
bằng cỏ.
271
Trăng gần như
tròn vạnh.
Đêm nay, năm
thứ ba mươi chín
Vẫn là đứa bé.
272
Khốn khổ vì
thời tiết.
Gió cắn vào
người
Vào tận tim.
274
Ngày mưa.
Núi Phú Sĩ mây
mù che
Càng đẹp hơn.
275
Xuân đến rồi.
Mười lon gạo
cũ
Cho năm mới.
276
Bên lề đường
Con ngựa của
tôi
Gặm lá cây dâm
bụt.
277
Gật gù trên
lưng ngựa.
Trên cao, trăng
ngái ngủ,
Mờ mờ như khói
trà sớm.
280
Mùi hoa lan
Từ cánh bướm
Thấm đầy áo
quần.
282
Bốn, năm cọc
tre
Đỡ cây trường
xuân mới trồng.
Mùa thu, trời
có giông.
283
Những giọt
sương rơi
Như muốn rửa
hết
Bụi bẩn trên
đời.
285
Cây thường vi
đãng trí
Bị chôn trong
đám rêu.
Tiếng cầu
Phật.
286
Chưa chết hẳn.
Chỉ tạm ngủ
sau chuyến đi.
Đêm thu.
287
Lá cây.
Ánh sáng từ
cây anh đào
Hắt lên chiếc
nón gỗ.
288
Nặng nề sao
Những giọt mưa
đá
Rơi lên nón gỗ
bách tùng.
289
Chỉ để chơi,
Để câu cá chỉ
vàng,
Phải đi xa bảy
dặm.
290
Tôi vung tay
Ném giày xuống
biển.
Mưa rơi lên mũ.
292
Trong ánh bình
minh
Màu trắng con
cá măng
Chỉ dài một
tấc.
293
Tuyết rơi lên
tuyết.
Đêm nay, tháng
Chạp
Trăng tròn.
294
Trăng và hoa.
Chỉ trăng và
hoa
Là những bậc
thầy.
295
Không có mũ.
Mưa rơi lên
đầu
Thì đã sao?
297
Biển xạm đen.
Tiếng vịt kêu
Có màu trăng
trắng.
298
Con quạ nháo
nhác bay.
Chiếc tổ cũ
của nó
Lạc giữa tán
lá cây mận.
299
Vạn vật thấm
hương thơm.
Chim hồng tước
Trên cây mận
đầy hoa.
300
Rõ ràng xuân
đã đến
Trên những dãy
núi không tên.
Khói mỏng bay.
301
Các nhà sư
Lấy nước từ hố
băng.
Tiếng guốc
lanh canh.
302
Say, ngã xuống
đất.
Những bông hoa
dại màu hồng
Trên đá.
303
Chớp lóe.
Quờ tay trong
bóng tối.
Cây nến bằng
giấy.
304
Thậm chí một
ngày dài
Cũng không đủ
dài
Để hát bài ca
chim én.
305
Giữa đồng.
Không có gì để
bám,
Chiền chiện
hót.
306
Dễ chịu.
Tôi thấy dễ
chịu,
Mặc chiếc áo
xác ve.
307
Tóc mọc dài.
Mặt xanh nhợt
Suốt mùa mưa.
308
Bình minh
Cả khi được
kéo lên rất vụng
Vẫn đẹp.
309
Đang mùa thu
hoạch rộ.
Con cò trên
ruộng lúa.
Mùa thu trong
làng.
310
Nằm trong đền.
Với khuôn mặt
thật của mình,
Tôi ngắm
trăng.
311
Trăng lặn quá
nhanh.
Ngọn cây còn
níu giữ
Những giọt
mưa.
312
Ngủ một đêm
trên đường
Anh sẽ hiểu
bài thơ của tôi.
Gió thu.
313
Cây thông này
Mọc từ thời
còn thần linh.
Giờ đang là mùa
thu.
314
Mới nở
Những cánh hoa
cúc ngất ngây
Trong hơi
nước.
315
Ngày một gầy,
Bụi cây me
Ra chồi non.
316
Bướm đêm trên
áo tơi
Bay vào lều
tranh.
Nghe giọng
chính mình.
318
Như luống đất
mới cày,
Mảng mây trĩu
mưa
Trên đỉnh Phú
Sĩ.
319
Một nửa Kyôtô
Lơ lửng giữa
trời.
Những đám mây
tuyết.
320
Khởi nguồn của
thơ
Là bài ca
trồng lúa
Của vùng đất
phía trong.
321
Dù có cầu,
Con ngựa của
tôi
Vẫn thích lội
qua suối.
322
Trời lạnh.
Có hai người
ngủ cùng đêm nay
Vẫn ấm.
323
Đúng như vẫn
sợ:
Ngôi nhà bị bỏ
rơi
Băng tuyết phủ
trên mái.
327
Xoa vết nhăn
trên mặt,
Đi dự hội ngắm
tuyết.
Chiếc áo giấy.
328
Lạ thật.
Có vẻ như
tuyết
Thành mưa mùa
đông.
329
Giọt sương
đóng băng
Trên cành cây
khô.
Nước trong
vắt.
330
Bốn phía
Những vạt cỏ
bị cắt ngang.
Không biết cỏ
nào là cỏ nào.
331
Mới ngày thứ
chín.
Xuân non
Trên núi và
đồng.
332
Miếu thờ trinh
nữ.
Chỉ đủ đẹp
Cho hoa mận
nở.
333
Cây gì mà hoa
Lạ thế này?
Thơm quá.
334
Mặc áo giấy.
Nhặt hoa rơi
trong mưa.
Ướt.
335
Trên một cây
mận - nhiều hoa.
Trên cây khác
Chỉ đám dây
tầm gửi.
336
Luôn ở bên hoa.
Từ đầu đến
cuối
Khoảng hai
mươi ngày.
338
Có nhiều điều
Nhiều cái
Gợi nhớ hoa
anh đào.
339
Những bông hoa
anh đào đầu tiên.
Chắc hôm nay
Trời đẹp.
340
Quạt cầm tay.
Uống rượu dưới
bóng
Những bông hoa
rời rạc.
341
Nếu có giọng
hát hay,
Tôi sẽ hát,
đến khi
Hoa anh đào
rụng hết.
342
Những giọt mưa
xuân
Rơi lên tán
cây.
Những giọt mưa
xuân thật trong.
343
Tuyết tan.
Chiếc chổi
quét nước
Xuống suối.
344
Mùa hoa nở rộ.
Núi vẫn thế
Lúc rạng ngày.
345
Tí tách, tí
tách.
Những cánh hoa
tí hon rơi
Thành dòng
thác âm thanh.
346
Sắp hết một
ngày đầy hoa.
Buồn vì mai
Tôi thành cây
tùng giả.
348
Nhớ mẹ cha
Diết da.
Tiếng chim
cuốc kêu.
350
Lễ Phật Tổ.
Đúng ngày này
Một con nai
chào đời.
351
Bằng những lá
cây non,
Tôi muốn lau
Nước mắt cho
anh.
352
Cả hai cùng
mệt mỏi.
Cùng trọ một
lúc.
Đám hoa đậu
tía.
353
Chuông chùa đã
tắt.
Mùi hoa
Tiếp tục gõ
vào bóng đêm.
354
Bầy cúc cu
Khuất dần
Phía đảo.
355
Con cá
Nhảy lên đón
làn gió thổi.
Nghi lễ làm
sạch mình.
356
Múc bằng tay.
Lạnh tê răng.
Nước suối mùa
xuân.
357
Vẫn có trăng.
Thế mà như
thiếu cái gì.
Mùa hè ở Suma.
358
Làm mát mình
trong ruộng lúa.
Thật thích.
Tiếng nước róc
rách.
360
Đền Suma.
Nghe tiếng sáo
chưa thổi
Dưới tán lá
xanh.
361
Cúi xuống rửa
chân
Tôi ngủ thiếp
qua đêm.
Quần áo vẫn
trên người.
362
Những muốn ví
đom đóm
Với ánh trăng
Trong ruộng
lúa.
364
Những lá cỏ
Vừa rơi xuống
đã bay
Như đom đóm.
366
Hoa bầu.
Mùa thu.
Có nhiều loại
hoa bầu.
367
Vì đêm ngắn,
Cây bìm bìm
Lơ mơ ngủ.
369
Mảnh mai.
Như bông hoa
Trên cánh đồng
mùa hè.
370
Lâu đài hoang
phế.
Nước xuân
trong giếng cổ
Là nơi tôi
muốn ngắm đầu tiên.
371
Mọc vào mùa hè,
Cây dương xỉ
một lá
Chỉ một lá.
372
Hoa cỏ khác
nhau
Mỗi loài một
đẹp
Một kỳ quan.
373
Hạt kê xen lẫn
hạt kê.
Trong lều
tranh
Không thiếu
thứ gì.
374
Hồ sen.
Sen rụng lá
Cho lễ xá tội
vong nhân.
375
Đầu thu.
Biển và ruộng
lúa
Một màu xanh.
377
Bóng lờ mờ
Một bà già
đang khóc.
Trăng, bạn
tôi.
378
Phớt lờ những
người dự tiệc,
Bình minh mọc.
Mà mọc đẹp.
379
Ngôi nhà bình
yên.
Con chim sẻ
vui,
Tìm thấy hạt
kê sau nhà.
380
Người đàn bà
chết.
Chiếc áo hai
ống tay
Phơi trên dây.
382
Bay suốt mùa
thu,
Con bướm
Đang liếm
sương.
383
Cái gì tốt
hơn:
Trăng còn
nguyên
Hay những bông
cúc thừa sót lại?
384
Trăng mười sáu
Lửng lơ treo
Trên quận
Sarashina.
385
Chiếc cầu
quanh co.
Những mảng đời
quyện vào nhau.
Trên cây nho
rậm lá.
386
Lá cây thường
xuân
Khiến người ta
hoài cổ.
Những tán lá
mùa thu.
387
Chiếc cầu
quanh co.
Điều đầu tiên
nghĩ đến
Là những con
ngựa tìm nhau.
388
Thu sắp hết
Vô tình quấn
chặt chăn
Quanh người.
389
Cái vồ đập đất
này
Vốn là cây hoa
trà
Hay cây mận?
391
Năm, sáu người
Ngồi uống trà,
ăn bánh.
Bếp lửa.
393
Có phải tuyết
Mà tôi và anh
ngắm năm ngoái
Giờ đang rơi?
394
Gió dữ
Trốn trong bụi
tre
Tạm lắng.
395
Như tiếng vỗ
những cánh chim đất nung
Quả sếu rơi.
Buổi sáng đầy
mưa gió.
396
Nằm.
Chăn trùm đầu.
Đêm nay lạnh
thật.
397
Than hồng sắp
lụi.
Giọt nước mắt
rơi,
Kêu như nước
sôi.
398
Đi mua gạo
Gặp tuyết rơi.
Chiếc túi rỗng
làm mũ.
399
Tôi đã chạm
đến đáy
Cái túi thận
trọng của mình.
Năm cũ hết.
400
Tết Nguyên Đán
Muốn nhìn mặt
trời ở Tagôtô.
Những cây mạ.
401
Con quạ
Đi chợ tất
niên.
Mua gì?
402
Đóng cửa ngồi
ở nhà.
Làm bạn với
rơm lót giường.
Có người quảy
gánh bán rau xanh.
403
Cả rơm lót
giường
Cũng có cọng
còn xanh.
Ngôi nhà xiêu
vẹo.
404
Uống rượu sake.
Không trăng,
không hoa.
Không thể
không buồn.
405
Những sợi chỉ
gió nóng
Bện với nhau
Giữ khói lại.
406
Mặt trời lặn,
Để lại
Sơi chỉ khói
nóng.
407
Ừ, mà sao
không nghe
Chuông chiều
hoàng hôn.
Đêm xuân.
408
Chuông không
điểm.
Dân làng làm
gì
Đêm xuân này?
409
Thật rực rỡ
Những chiếc lá
non xanh
Lấp lánh dưới
mặt trời.
410
Nắng hè nóng
nực.
Tạm thời
Ẩn mình sau
thác nước.
411
Vác trên vai
bó cỏ,
Người đàn ông
Người chủ cánh
đồng.
412
Tiếng kêu con
hạc
Làm rách
Lá chuối.
413
Băng qua đồng,
Con ngựa
Chạy lại phía
chim cu.
414
Mưa rào đầu hè.
Lâu và mạnh,
Che cả thác
nước.
416
Tháng Năm.
Đảo Mũ Mưa ở
đâu?
Con đường lầy
lội.
417
Nhiều người ở
đời
Không nhìn
thấy hoa dẻ
Ngay sát hiên.
418
Lá cây iris.
Tôi cột quanh
chân
Như dây cột
dép.
419
Nhiều hòn đảo
Tan thành từng
mảnh.
Biển mùa hè.
420
Mưa đầu hè.
Những chiếc lá
mưa
Không chạm
được lâu đài vàng ánh sáng.
421
Ánh sáng đom
đóm
Lẫn trong ánh
ngày
Sau cột gỗ.
422
Bò ra
Từ nhà kho,
Con cóc kêu.
423
Đền trên núi
In rõ trên nền
đá trắng.
Ve kêu.
424
Những giọt mưa
mùa hè
Nhanh chóng
gặp nhau.
Sông Môgami.
426
Thật kỳ diệu
Tuyết gửi mùi
của mình
Cho thung lũng
phía Nam.
427
Thật kỳ diệu.
Làm cho tuyết
có mùi,
Gió hát.
428
Mát.
Trăng lưỡi
liềm mờ mờ
Sau núi Lông
Đen.
431
Ngày nắng chói
chang.
Sông Môgami
Đưa mặt trời
ra biển.
432
Đêm không mây.
Ngồi hóng mát
dưới cây anh đào.
Từng đợt sóng
hoa.
434
Cành cây,
Thay đổi hình
dáng hàng ngày.
Bụi dâm bụt.
435
Tiếng chim câu
Xuyên qua
người.
Cửa hang lạnh.
436
Quả dưa hấu
đầu mùa.
Bổ ngang
Hay bổ dọc?
437
Bầy cá con
Đùa với những sợi liễu.
Vợ người đánh cá.
438
Mùi thơm lúa
mới
Thoang thoảng
từ bên phải.
Biển Arisô.
439
Núi Đá
Trắng hơn đá
của nó.
Gió thu.
441
Soi đèn bắt cá.
Cá chạy nháo
nhào,
Chết sặc vì
nước mắt.
442
Quét vườn.
Muốn được sống
trong đền.
Lá liễu vương
khắp nơi.
443
Gặp chỗ nước
nông.
Lên đường đi
ngắm trăng.
Chia tay lúc
trời rạng.
444
Nhìn mặt trời
Trên núi Hina,
Đoán trăng
ngày mai.
445
Ngủ trọ dọc
đường.
Lo tìm chỗ
Ngắm trăng tốt
nhất.
447
Lên đường đi
ngắm trăng.
Trước khi cói
ở Tamae
Bị cắt.
448
Vị tướng nổi
tiếng
Tỉnh dậy trên
núi,
Thấy mảnh
trăng buồn.
449
Không chỉ
trăng.
Trận đấu vật
cũng bị hoãn
Vì mưa.
450
Trăng ở đâu?
Tiếng chuông
chùa
Chạm đáy biển.
451
Khoác áo lên
người,
Mò bắt ốc con.
Trăng nhiều
màu.
452
Những cánh hoa nhỏ.
Những cánh hoa nhỏ.
Những vỏ ốc
nhỏ.
Những cốc rượu
nhỏ.
453
Giữa các đợt sóng,
Những con sò nhỏ
Giữa các đợt sóng,
Những con sò nhỏ
Vướng cây ba
lá.
454
Một con trai
Bật ra khỏi vỏ.
Sắp hết thu.
455
Nở nhanh lên.
Hội hoa đang
đến gần.
Hoa cúc.
456
Đôi dép cỏ
Saiygô
Treo trên cây
thông.
Những giọt
sương.
457
Hãy nhìn mặt
trăng buồn
Khi nghe tôi
kể
Chuyện vợ một
chiến binh.
458
Còn chưa thành bướm
Còn chưa thành bướm
Dẫu sắp hết
thu.
Con sâu.
459
Vườn mùa đông.
Vườn mùa đông.
Trăng và tiếng
côn trùng.
Những sợi chỉ
mỏng manh.
460
Hái nấm.
Hái nấm.
Chỉ sợ
Mưa buổi
chiều.
461
Lũ trẻ chạy nhảy,
Dẫm lên cả đống trang sức trắng.
Lũ trẻ chạy nhảy,
Dẫm lên cả đống trang sức trắng.
Mưa đá.
452
Lên đường tới
Núi Trắng
Trên chiếc
kiệu mượn tạm.
Mưa lạnh.
453
Cuộn mình
trong chiếu cói
Con người vĩ
đại này là ai?
Hoa mùa xuân.
455
Gối cỏ.
Êm nhất,
Khi ngắm hoa
anh đào.
456
Cánh bướm
Đã vỗ bao lần
Bay qua tường
này?
457
Tất cả dân
làng này
Là hậu duệ
Những người
gác hoa xưa.
458
Nóng âm ỉ.
Nụ cây thuốc
Mờ khói.
459
Hoa anh đào núi
Như lớp ngói
dương.
Ngôi nhà hai
lớp ngói.
460
Ni-cô sống một
mình.
Trái tim lạnh
trong lều.
Cây đỗ quyên
trắng.
461
Nghe mà sợ
Người ta ăn
thịt rắn.
Tiếng chim
cuốc.
462
Cam.
Bao giờ trên
đồng có cam?
Tiếng chim cu.
463
Ngắm đom đóm
Anh chèo đò
say,
Đứng không
vững.
464
Mỗi con một
kiểu sáng.
Đom đóm trên
cây
Ngủ trong hoa.
466
Đừng cố giống
tôi.
Ích gì sự
giống nhau
Như quả dưa bổ
đôi.
467
Con chuồn
chuồn
Cố đậu trên
ngọn cỏ.
Mãi không
được.
468
Lá cây sợi tơ
Mệt
Vì ánh trăng.
469
Trăng tròn.
Sư thầy đứng
thành hàng
Dọc hiên chùa.
471
Trăng lên.
Để hai tay
trên gối.
Buổi tối ở
nhà.
472
Để nghe tiếng
vịt trời,
Tôi nghĩ
Phải lên thủ
đô vào mùa thu.
473
Tuyết đầu mùa.
Nhà sư khất
thực.
Chiếc túi bạc
màu trên lưng.
474
Cơn mưa đầu
đông.
Ruộng lúa mới
xanh
Chỉ xạm đen
chút ít.
475
Cá hồi khô.
Vị sư gầy.
Cái lạnh từ
bên trong.
476
Dọn nhà cuối
năm.
Bão mạnh
Thổi qua rừng
bách.
478
Cuối năm, trên
hồ
Con chim nhỏ
Bay mất hút.
479
Con choi choi
bay đi.
Lát sau đêm
đen hơn
Cùng gió núi
lạnh.
480
Thật quí
Một ngày không
tuyết, không mưa.
Áo rơm, mũ
rơm.
481
Chờ trăng.
Cành hoa mận
nghiêng
Về phía chú
tiểu khổ hạnh.
482
Hết năm này,
năm khác
Cây anh đào
Ăn xác hoa của
nó.
483
Lười.
Mưa xuân
Làm giật mình.
484
Từ bụi tre rậm
Ánh trăng chảy
ra.
Chim cu
485
Lúa mạch
Chín từng ngày.
Chiền chiện
hót.
486
Đang buồn.
Chim cu
Hãy làm ta cô
đơn.
497
Đêm hè.
Linh hồn cây
cỏ
Vào nhà cùng
tiếng guốc gỗ.
498
Hoa vàng ở Uji.
Thơm
Như mùi lá chè
sao trên lửa nhỏ.
499
Sự cô đơn
Treo trên đầu
đinh.
Con chim dẽ.
500
Trăng cuối
tháng
Đủ sáng để nấu
tôm.
Đêm đen dần.
501
Gió thổi mạnh.
Những bông hoa
nở muộn
Còn giữ được
mùi thơm không?
502
Nhìn lá rơi
Đủ biết
Khu vườn đã
nghìn năm.
503
Biết mình vô
tích sự,
Tôi ngồi ngủ
gật.
Chim đa đa kêu
quá to.
505
Rốt cục chẳng
gì xẩy ra.
Chỉ tuyết rơi
Trên hoa héo.
506
Dưới ánh trăng
lưỡi liềm
Mặt đất chìm
Trong khói
trăng hoa kiều mạch.
507
Vừa đi vừa đếm
Nhà này đến
nhà khác.
Đếm cả mận và
liễu.
509
Đầu hồi
Tia nắng nhạt
dần.
Đêm lạnh.
510
Vịt trời kêu.
Có phải ở đồng
lúa Tôba
Mưa lạnh nhất?
513
Mở ấm trà.
Lại nhớ
Vườn Sakai.
514
Quét vườn.
Cái chổi
Quên quét
tuyết.
516
Năm này qua
năm khác,
Con khỉ vẫn
đeo
Chiếc mặt nạ
khỉ.
517
Mấy lá cỏ nhọn.
Mấy lát cá
mỏng.
Hoa mận.
518
Chim cu kêu.
Tiếng kêu
Lửng lơ trên
nước.
520
Gió thu buồn
Bẻ gãy
Cành dâu.
521
Vườn chùa này
Trồng đầy
Chuối lá.
522
Mùi cá
Trên các sợi
rong
Dính ruột cá.
523
Ngày giỗ.
Sakê trong mấy thùng rượu.
Trông như dầu.
524
Nước lũ ngập.
Cả sao cũng
phải ngủ
Trên núi đá.
525
Sau bốn mươi
tuổi,
Người ta không
nhận thấy
Mình đang già.
526
Trăng lặn.
Chiếc bàn
Có bốn góc.
527
Hoa cúc nở
Trước sân
người thợ đá.
Giữa các phiến
đá.
528
Những bông
tuyết đầu mùa
Gần như biến
mất
Trên cầu.
529
Suốt đêm
Bụi tre giá
cóng.
Sáng, trời sẽ
lạnh.
532
Sau hoa cúc
Chẳng còn gì
Ngoài hoa cải
củ.
533
Trên lưng ngựa,
Cậu bé
Như cây cải củ
nhổ bật rễ.
535
Gần sáng,
trăng mờ.
Năm sắp hết.
Tiếng chày giã
gạo.
536
Giọt sương rơi
từ cánh hoa mận.
Tôi cúi xuống
nhặt
Một mẩu khoai
từ.
538
Trên bờ
Một cành liễu
cúi xuống,
Cố chạm đất.
539
Giữa vũng nước
tuyết tan
Một tia lửa đỏ
nhô lên -
Lá cỏ.
540
Hương hoa mận
Là lời nói
buồn
Bao đời nay.
541
Phật Đản.
Những ngón tay
nhăn nheo gặp nhau.
Tiếng lần
tràng hạt.
542
Cành liễu xanh
Cúi xuống bùn.
Nước thủy
triều nông.
543
Con sông nhỏ
cổ xưa
Mở to mắt
Nhìn cây liễu.
544
Mưa lác đác.
Thế là ổn.
Mạ sẽ tốt.
545
Rất nghiêm túc,
Mèo động đực
Đánh nhau với
chó.
546
Không phải
giọt sương lạnh
Trên lá cây -
Giọt mật hoa.
547
Lờ mờ
Bụi dâu trong
mưa.
Trời đầy khói.
548
Trên đường tới
Sugura.
Hoa cam
Có mùi trà
mới.
549
Người bán mực
khô.
Giọng rao
Lẫn trong
tiếng chim cu.
550
Thật cảm động.
Bụi cúc
Sống sót qua
cơn giông.
552
Đã oằn cong
Cây tre chờ
tuyết rơi.
Nhìn mà buồn!
553
Đang say.
Những muốn ngủ
luôn ở đây
Trên lớp sỏi
ven sông cỏ mọc.
554
Anh thắp nến.
Tôi cứ tưởng
Như đang cầm
tia chớp trong tay.
555
Những giọt
nước mưa
Treo trên cây
bất động.
Trăng trôi
nhanh.
556
Một đêm, dù
chỉ một đêm
Cây hagi đang trổ hoa
Hãy che chở
con chó hoang tội nghiệp.
557
Con sếu bước
oai vệ
Giữa đồng lúa
mì.
Mùa thu trên
cây.
558
Bị mưa đánh tả
tơi.
Lần nữa bụi
cúc
Rũ bùn đen
đứng lên.
559
Ngắm hoa anh
đào.
Không ít,
không nhiều,
Đúng hai mươi
ngày hạnh phúc.
560
Đám mây đen
Treo bất động
giữa trời.
Chờ sét đánh.
562
Chăn một người
đắp.
Đêm đông lạnh
và dài.
Thật buồn.
563
Cày trên ruộng
lúa.
Hết ngược lại
xuôi.
Đường đời cũng
thế.
565
Se lạnh.
Chân gác lên
tường.
Tôi ngủ trưa.
566
Ở nhà tôi
Muỗi cắn không
đau.
Mời bạn đến.
567
Những sợi tóc
bạc
Rơi lên gối.
Tiếng côn
trùng đều đều.
568
Đi đường, trời
lạnh.
Không lẽ
Mượn con bù
nhìn chiếc áo?
569
Những sợi rong
biển.
Cát giữa hai
hàm răng.
Sực nhớ: mình
đang già.
570
Tôi vỗ to vào
lòng tay.
Tiếng vang
vọng lại.
Trăng mùa hè
nhạt dần.
572
Gió nhẹ thổi
từ sông.
Chè ngon, rượu
ngon.
Đêm trăng cũng
đẹp.
573
Thoảng mùi cổ
xưa...
Khu vườn cạnh
chùa
Đầy lá rụng.
574
Hãy mở cửa.
Mở to cửa để
ánh trăng
Chảy vào chùa
Ukimiđô.
575
Buồn, thật
buồn.
Trong chiếc
lồng nhỏ đang treo
Con dế bị cầm
tù.
576
Cây mới trồng
trong vườn.
Lặng lẽ khích
lệ chúng,
Mưa thu tí tách
rơi.
577
Có cái đẹp khó
nói
Trong những
bông cúc vàng
Dập nát vì mưa
gió.
578
Những con mèo
tìm bạn
Tạm ngừng kêu.
Trăng mờ soi
phòng ngủ.
579
Những giọt
nước lặng im
Chạy từ cành
này sang cành khác.
Mưa phùn mùa
xuân.
580
Ô trăng hình
vuông
Bên cửa sổ
Giường tôi.
852
Để đón vịt
trời,
Hoa mào gà đỏ
Càng đỏ hơn.
853
Trong mấy giây
Mặt trời khuất
trong mây.
Chim di trú
bay.
585
Hương hoa cúc
Rất đặc ở cố
đô,
Nơi có nhiều
tượng Phật.
586
Sậy được cắt
để lợp nhà.
Trên những cây
bị bỏ quên
Tuyết rơi nhẹ.
587
Bất ngờ chợt
thấy
Trên vai áo
giấy của tôi
Mạng nhện bắt
đầu mọc.
588
Thật dễ chịu.
Đồng lúa mát,
xanh rờn.
Nước róc rách.
589
Chung mái nhà
với tôi
Hai cô gái -
hai cành hoa mận
Và vành trăng
cô đơn.
590
Quả rụng từ
cây.
Chim sáo vỗ
cánh bay.
Gió nhẹ buổi
sáng.
591
Mưa lâu thế.
Những đống rạ
trên đồng
Đã xạm đen.
592
Nghe sư bà
Kể chuyện xưa
trong cung.
Tuyết rơi dày
khắp nơi.
593
Mưa xuân không
dứt.
Giữa lối đi cỏ
mọc
Cây anh túc cố
ngoi lên cao.
594
Quẩn quanh
nghĩ chuyện ngày xưa:
Các bà già bị
bỏ chết trên núi
Chỉ làm bạn
với trăng.
595
Mạng nhện khẽ
rung rinh.
Sợi chỉ mảnh
cỏ saikô
Rung rinh giữa
hoàng hôn.
596
Thật thích.
Mùa thu ngủ
dậy muộn.
Cứ như mình là
chủ nhà.
597
Đã mùa thu.
Thậm chí những
giọt mưa
Té cả lên mặt
trăng.
598
Thu này
Cảm thấy già
hơn.
Con chim bay
vào mây.
599
Hoa cúc trắng.
Cúi xuống nhìn
kỹ:
Không một hạt
bụi nào.
601
Dàn bầu.
Cây măng trong
vườn
Than trách
tuổi già.
602
Mưa đầu hè.
Con tằm ốm
Trên ruộng
dâu.
604
Hoa rụng.
Chim ngạc
nhiên
Nhìn bụi trên cây
đàn.
605
Nước trắng sủi
bọt.
Trăng hè trên
đầu ngọn sóng
Không bám bẩn.
606
Tháng Sáu.
Mây ngủ
Trên đỉnh Núi
Giông.
607
Buổi sáng,
sương
Bùn bám trên
quả dưa
Cũng lạnh.
608
Gió thổi qua
rừng thông
Những chiếc
kim xanh rơi xuống nước.
Tiếng rơi nghe
thật lạnh.
609
Đêm hè
Vỡ vụn lúc
bình minh.
Thức ăn lạnh.
610
Bát đĩa
Long lanh
trong bóng tối.
Đêm mát trời.
611
Từng đợt sóng
xô nhau
Mang theo mùi
của gió.
Lắc lư theo
sóng.
613
Dọc đường, ốm
Trong mơ, tôi
đi lang thang
Trên đồng cỏ
héo.
(Dịch từ
tiếng Anh và tiếng Nga, theo nhiều nguồn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét