Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2020

Cổ Thi Tác Dịch



Thơ Chữ Hán Việt Nam 
LÊ QUÝ ĐÔN

Sinh năm 1726, mất 1784, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, người huyện Diên Hà, Thái Bình. Ông đậu Bảng Nhãn năm 1752, từng đi sứ Trung Quốc, làm quan đến chức Đô ngự sử, sau làm Thượng Thư.

896. Sông Đại Đăng 1)

Bụi cây màu đo đỏ.
Nắng dát vàng trên sông.
Gà lên chuồng, trăng mọc.
Mây biển phía đằng Đông
Dài dài tiếng ve khóc
Uể oải cánh chim mòng.
Triều lúc lên lúc xuống.
Ông chài không bận lòng.

1. Con sông ở huyện Yên Khánh, Ninh Bình.


897. Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
         Bài một

Thu đep, nhìn không chán.
Cây xanh phủ kín đồi.
Trại lính hoang mờ khói.
Sông rộng, mặt trời trôi.
Mây trắng đùn hang núi.
Trăng đùa trên sóng dồi.
Khách văn mải ngâm vịnh.
Thuyền nghỉ, tựa bãi bồi.

1. Một địa danh thuộc huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Cả tám bài này viết khi ông đi sứ. Mỗi bài được ghép từ tám câu thơ của các tác giả nổi tiếng Trung Quốc.


898. Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
         Bài hai

Gió thu từ đâu đến.
Làng xóm lạnh hơi sương.
Mờ mờ khói lam tỏa.
Cây xanh ngút dặm trường.
Sương chưa khô dưới nắng.
Suối cát trắng như gương.
Ra đi, tình bịn rịn,
Gửi theo dòng Tiêu Tương.


898. Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
          Bài ba

Vời vợi, đường muôn dặm.
Đêm thu trăng sáng ngần.
Sông tối, mờ khói nước.
Tỉnh mộng, nhớ người thân.
Sương nhẹ, hoa vẫn nở.
Bãi vắng chim quây quần.
Sen, súng đua nhau nở.
Hương thấm áo sứ thần.


899. Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
          Bài bốn

Lá rụng, báo thu đến
Gợi cái buồn mênh mông.
Mây mờ trên Ngân Hán 1).
Mưa ướt thành bên sông.
Rừng xa, màu xanh thẫm.
Sóng đưa, bóng ngả hống.
Việc vua dục đi gấp,
Dẫu việc nhà chưa xong.


900. Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
          Bài năm

Thu đẹp, nhìn thật thích..
Cánh buồm trôi giữa dòng
Xa xa, núi lởm chởm.
Dưới nắng, sương màu hồng.
Khách vội vì công chuyện.
Chia tay bên bờ sông.
Trước cả quân vũ vệ
Mong được thấy mặt rồng 1)

1. Quan vũ vệ, lính canh trong cung câm. Ý tác giả nói muốn là người đầu tiên đươc thấy mặt vua.


901. Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
          Bài sáu

Những ngày thu trời đẹp
Thường gợi buồn nhớ quê.
Khói đêm che sương trắng.
Nước biếc hắt lên hè.
Chim lạnh trên cây cụt.
Ngô đồng che bờ đê.
Thuyền nhẹ lướt theo sóng.
Thấp thoáng buồm quay về.


902. Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
          Bài bảy

Quán bên sông, vời vợi.
Thu ý đã thấm đầy.
Mảnh cầu vồng sót lại.
Sương làm sẫm hàng cây.
Bờ xa liễu ai rủ.
Tiếng chuông gần đâu đây.
Phóng mắt nhìn trời đất.
Thuyền xuôi về phía tây.


903. Đầu thu, nhàn ngắm phong cảnh Vĩnh Châu
          Bài tám

Rừng ngả màu thu sớm.
Từ thuyền nhỏ nhìn ra.
Trời như liền với nước.
Lơ lửng mảnh trăng tà.
Con đê ôm bãi vắng.
Cây bập bềnh xa xa.
Nghìn dặm tình man mác.
Day dứt nỗi nhớ nhà.



NGÔ THÌ NHẬM

Sinh năm 1746 trong một gia đình đại quý tộc ở Thăng Long, mất 1803; từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều Trịnh - Nguyễn, về sau theo và trở thành người trợ lực chính của vua Quang Trung. Ông viết hơn 600 bài thơ và 15 tác phẩm khác.


904. Bốn bài tứ tuyệt về mùa thu
Bài một

Chức Nữ, Ngưu Lang không nhỏ lệ -
Chỉ màng nước mỏng nhẹ như không.
Ra trời cũng hiểu buồn ly biệt,
Không bắt phòng khuê vợ nhớ chồng.


905. Bốn bài tứ tuyệt về mùa thu
Bài hai

Sau mưa, màu núi lại càng xanh.
Líu ríu chim kêu, rộn lá cành.
Nhìn chim bay nhảy sao mà nhẹ,
Thẹn lòng còn nặng những hư danh.


906. Bốn bài tứ tuyệt về mùa thu
Bài bốn

Non xanh nước biếc, lại non xanh.
Thăm thẳm trời thu, ngọn gió lành.
Người ở Giang Nam, lòng đất Bắc,
Thả hồn theo gió với chim oanh.


907. Lên thuyền

Cảnh đời thay đổi cứ trôi qua.
Nhìn Yên, nhớ Việt 1)những xót xa.
Trường Giang mây phủ, buồn man mác.
Một mái chèo xua nỗi nhớ nhà.

(1) Yªn - Yªn Kinh, chØ Trung Quèc, ViÖt - ViÖt Nam


908. Cuối xuân

Hoa nở bên hang, nhụy trắng ngần.
Gió chiều, ai dạo khúc Nam Huân.
Xuân hết, nhiều loài hoa vẫn đẹp,
Vẫn thầm ấp ủ những mầm xuân.


909. Nước mùa thu

Sau mưa, trời nước sáng long lanh.
Cảnh này thật khó vẽ nên tranh.
Vất vả bao năm buồn trắng tóc,
Mấy lần thả bộ ngắm non xanh?


910. Hoa cúc mùa thu

So với muôn loài, cúc khác xa,
Trang điểm mùa thu giữa nắng tà.
Ngày này năm ngoái bên hoa cúc
Uống rượu một mình, nhắm cánh hoa.


911. Đêm thu

Đêm thu rét ngọt, gió se se.
Sương buông, trăng sáng chếch bên hè.
Lạnh lẽo tiếng chuông phòng quán trọ.
Người buồn, bận nghĩ, chắc không nghe.


912. Tiếng đập vải mùa thu

Tiếng chày đập vải lách qua sương,
Vang vọng kinh đô, khắp phố phường,
Chắc chẳng đến tai người lính thú,
Chỉ làm khách sứ 1)  nhớ quê hương.

(1) Ng« Th× NhËm ®i sø ph­ư¬ng B¾c, ®ang n»m ë qu¸n kh¸ch dµnh cho sø thÇn ë B¾c Kinh.


913. Trăng thu

Bên song, uống rượu, ngắm hoàng hôn.
Lung linh dưới nước mặt trăng tròn.
Định lên cầu đá Lư Câu dạo,
Lầu bên sáo vọng, khiến bồn chồn.
                                                                          

914. Phòng khuê mùa thu

Lạnh lẽo phòng thu, tình khó quên.

Tự tô phấn nhạt, tự làm duyên.

Bao năm mong ngóng chồng chinh chiến,
Đêm đêm lặng lẽ bói hoa đèn.


915. Cuối thu, vào chùa tham thiền 1)

Tính đốt, xa nhà đã mấy niên.
Nay đến chùa làng ngồi tĩnh yên.
Cánh vàng hoa cúc vừa bung nở.
Lá bối 2) lần xem, thấy vi thiền.
Nam Kha 3) giấc mộng đời bươn chải.
Trúc Lâu 4) mơ ước cũ còn nguyên.
Chùa thiêng tĩnh lặng, lòng thanh thản.
Sau chùa, ao nhỏ thoảng mùi sen.

1). Vào chù ngồi tĩnh tại để tham cứu chân lý. Nhà chùa gọi là “tham thiền nhập định”
2). Lá cây bối-đa-đa ở Ấn Độ, dùng để viết kinh Phật.
3). Điển tích nổi tiếng trong văn học cổ Trung Quốc, nói về sự chóng vánh, bèo bọt của cuộc đời.
4). Ý nói nhân duyên với Phật.


916. Con ngựa vô tích sự

Gặm cỏ no căng suốt cả ngày.
Tối về chuồng ngủ, sướng thân mày.
Nhàn nhã chỉ nhờ vô tích sự.
Quả đời kỳ cục thế xưa nay.
Nếu là ngựa tốt, phi thiên lý,
Chắc chắn đời mày sẽ đổi thay.
Chẳng trách người tài hay gặp nạn.
Những kẻ ngu đần thường gặp may.


917. Bày tỏ nỗi lòng

Như chim thảng thốt vút lên không.
Như cá ngu ngơ lội giữa dòng.
Ngày đếm thuyền câu trên bến cảng.
Đêm cùng con trẻ ngắm trăng trong.
Tàu chuối mưa rơi, buồn đất khách.
Gió động cành dương, tỉnh giấc nồng.
Mừng có giỏ cua ngon nhắm rượu.
Áo cộc trên người như lão nông.


918. Thăm thư đường Vân Động

Vân Động xa xa, nhẹ cánh thuyền.
Gió mát lòng người, thuyền lướt lên.
Xóm nhỏ ven sông, cây đưa đón.
Bến bồi chim nhạn lượn hai bên.
Sáu bảy ông say qua cầu gỗ.
Dăm ba trẻ nhỏ thổi sáo, kèn.
Thư đường liễu phủ, về Chu, Khổng 1),
Các vị túc nho luận trước đèn.

1). Chu Công và Khổng Tử.


919. Đi dạo dưới nắng quanh ngôi chùa bên sông

Mùa thu cúc nở, trời xanh trong.
Đi dạo quanh chùa bên mép sông.
Nắng nhạt ban mai, đường sạch sẽ.
Gác thượng, lầu chuông dọi bóng hồng.
Phiêu bat mấy năm, giờ thanh thản
Với vị cao tăng giải nỗi lòng.
Mải chuốt vần thơ, quên đóng cửa.
Vái chào cung kính, biệt sư ông.


920. Qua hai làng Mỗ, hoài cổ

Tiểu dẫn của tác giả: Vũ Đế nhà Hán đặt tên quận này là Từ Liêm, đến đời Ngô, Tấn đổi thành Ô Diên, ở địa phận hai xã Tây Mỗ và Thiên Mỗ ngày nay 1). Triệu Việt vương Quang Phục giữ thành này, chống nhau với Dương Sán, tướng của Trần Bá Tiên, sau chiếm được thành, xưng vương được 30 năm. Lý Nam Đế chiếm cứ thượng lưu sông Thao, sai con là Nhã Lang lấy con gái Quang Phục là Ngốc Nương làm vợ, lấy vùng thượng hạ Cát làm ranh giới. Sau đó Lý Nam Đế chiếm cả đất của Triệu Quang Phục, giữ thành Ô Diên được 40 năm. Triệu Quang Phục chạy vào cửa biển Nghệ An, đâm đầu xuống nước tự tử. Ngốc Nương oán Nhã Lang, thắt cổ chết trong thành. Nhã Lang thương xót Ngốc Nương, chết theo vợ, chôn ở cánh đồng làng Thiên Mỗ, nay chỗ có bia đá, đó là di trủng, đời trước có đền thờ Nhã Lang, nay không còn, dân làng tương truyền gọi là bia mộ Phục Vương; lại còn ngoa truyền rằng ban đêm nghe có tiếng đàn. Bia đã mòn hết chữ, nay không còn tra khảo được.2)

Thành cũ Ô Diên nay chẳng thấy.
Bia phủ rêu xanh, cỏ lấp đường.
Nghẹn ngào khe nước, hồn Quang Phục.
Mưa gió dập vùi mộ Ngốc Nương.
Thế cuộc đổi thay theo cảnh vật.
Làng quê cấy, dệt vẫn như thường.
Lão nông, không biết trò hưng phế,
Nói vẫn thường nghe đàn Phục vương.

1). Tức là vùng Đại Mỗ, Hà Nội ngày nay.
2). Theo bản dịch nghĩa  trong Tuyển tập Thơ Văn Ngô Thì Nhậm, quyển 1, NXB Khoa Hoc Xã Hội, Hà Nội, 1978.


921. Thăm miếu Chu Văn Trinh 1), cảm hoài

Miếu cổ, gò cao, đầm nước đầy.
Quang cảnh hữu tình, chẳng đổi thay.
Nhà dân thanh đạm, vườn, ao cá.
Thế cuộc thăng trầm, chim bướm bay.
Dũng cảm “mang gươm” 2), đầy khí tiết.
Nhẹ nhàng “treo mũ”, tấm lòng ngay.
Cửa tía, rêu xanh, ngôi miếu cổ,
Liễu phủ hai bên, mát cả ngày.

1). Tức Chu Văn An, lúc chết được phong tên thụy là Văn Trinh.
2). Chỉ việc Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy nịnh thần.
3). Chỉ việc ông can vua không nghe, xin treo mũ từ quan về quê ở ẩn.


922. Nhàn rỗi, làm thơ bày tỏ lòng mình

Quán trọ ngồi không, cửa khép hờ,
Giũa, gò tiêu khiển mấy bài thơ.
Tin tức quê nhà thư đã viết.
Đường đời, bói cỏ, đoán thời cơ.
Cửa hầu sâu thẳm, không ai đến.
Lạnh lẽo nhà quan, khách hững hờ.
Tóc nhiều sợi bạc như mai trắng.
Về quê những muốn, liệu bao giờ?


923. Họa thơ với dật sĩ Phạm Thì Thấu

Khách đến rượu không, tiền cũng không.
Lấy nước gì đây làm say lòng?
Nhà cửa trống trơn nên sáng sủa.
Thanh đạm tâm hồn như suối trong.
Khách say đâu cứ cần mâm cỗ.
Gặp suông, tri kỷ cũng tương đồng.
Càng nghèo, thật lạ, thơ càng hứng.
Dũa ý, gọt thơ, dòng lại dòng.


924. Buổi chiều, trên lầu Ngũ Vân, nhìn ra xa

Lòng người tươi sáng giống thiên nhiên.
Xế chiều, hoa đổ bóng hàng hiên.
Cung vương đứng lặng trong mây núi.
Chùa Phật như trôi giữa khói thiền.
Nhao nhác chim bay quanh lũy cũ.
Khe rừng liễu rủ, đứng hai bên.
Tây Bắc thành đô, nhìn chợt thấy
Khí tốt núi Nùng đang bốc lên.


925. Đình trên núi

Sừng sững trên cao một mái đình.
Giữa trời sáng sớm nắng lung linh.
Muôn vẻ cỏ hoa như dệt gấm.
Nhẹ nhàng gió thổi áo bình minh.
Mây núi vờn bay ngay sát cửa.
Trước thềm hoa hé nụ xinh xinh.
Du khách tới đây, nhìn ngây ngất.
Phong cảnh nên thơ lại hữu tình.


926. Đi đường núi

Đường núi quanh co, thêm gió lạnh.
Nơi nào phong cảnh cũng nên thơ.
Hoa rừng lặng lẽ khoe muôn sắc.
Chim hót trên cây, thật bất ngờ.
Mưa sáng, suối đầy, thêm róc rách.
Chiều mây che núi, núi xanh mờ.
Dân chúng ven đường luôn hiếu khách,
Háo hức chạy ra xem lọng, cờ.


927. Họa thơ quan thái sử Thử Đình Hầu

Suy đi tính lại mãi bên đèn.
Nghèo đói, nhà nho chí phải bền.
Cuộc sống vui buồn luôn lẫn lộn.
Muốn giàu, danh lợi phải bon chen.
Biết đủ, biết vừa là tốt nhất.
Dẫu chuyện thế nào, tâm phải yên.
Tôi bác quen thân, tình gắn bó.
Biển loạn, chung nhau một chiếc thuyền.


928. Tức cảnh
Bài hai

Mờ mờ doi cát, xóm ven sông.
Đá xếp chênh vênh, nước một dòng.
Gác lầu thành dãy trầm ngâm đứng.
Cây cỏ đua nhau mọc kín đồng.
Chim hót mùa xuân thay tiếng nhạc.
Ráng đỏ hoàng hôn làm nến hồng.
Hướng tới nhà tiên nơi mây trắng,
Đời tục ra sao chẳng bận lòng.


929. Tức cảnh
          Bài ba

Thế giới bao la có chỗ này,
Một màu trăng trắng lẫn màu mây.
Dãy núi nhấp nhô xen rừng rậm.
Lòa xòa bến nước mấy hàng cây.
Bên xóm hoa đào, thuyền kéo lưới,
Gió vờn rặng liễu, cánh chim bay.
Mong rũ bụi trần, không nuối tiếc,
Chút đời còn lại sống nơi đây.


930. Ngắm cảnh trời nước buổi chiều

Bát ngát sen xanh, sóng bập bồng.
Trùng điệp núi rừng ngút mắt trông.
Vệt nắng ngang đồi đang lụi tắt.
Nước trời hòa một, sắc xanh trong.
Văng vẳng sáo chài đâu đó thổi.
Khói mờ trăng nhú xóm ven sông.
Ngắm cảnh trời chiều, thơ chợt hứng.
Mờ ảo đằng tây nửa ráng hồng.


931. Chiều tối chơi thuyền trên sông Nhuệ

Cuộc dạo lần này thật khác xa.
Trời thu, nước lặng, cảnh chiều tà.
Sao thưa mấy chấm, thuyền đơn độc.
Dòng sông như lụa, trải bao la.
Trên cây cổ thụ còn vương nắng,
Ánh lửa bên sông đã lập lòa.
Lâu đài "Bất Dạ" 1) tìm không thấy.
"Linh đài" 2) đức độ sáng trong ta.

(1) BÊt D¹ - kh«ng cã ®ªm, tøc lµ ban ®ªm còng s¸ng như­ ban gµy. Tư­¬ng truyÒn ®Êt §«ng Lai n­ưíc TÒ ban ®ªm còng cã mÆt trêi mäc. Lai Tö x©y thµnh ë ®ã, gäi lµ l©u ®µi BÊt D¹.
(2) S¸ch Trang Tö gäi tr¸i tim lµ Linh ®µi, tøc ®µi thiªng liªng.


932. Thăm chùa Vân Môn 1)

Xuân đến thăm chùa ở mé sông.
Ngôi chùa đổ nát phủ rêu phong.
Mưa hắt, Phật ngồi nhìn lặng lẽ.
Không khói, không hoa, sư cũng không.
Đây vốn là nơi xưa đệ tử
Chân tu, xua ác, thảnh thơi lòng. 
Nay đêm kẻ xấu thường lui tới.
Mắt Phật tinh tường, có thấy không? 2)

(1) Chïa ë huyÖn Vò Thư­, Th¸i B×nh.
(2) Theo chó thÝch nguyªn b¶n, chïa nµy bá hoang, l©u nay lµ n¬i tô tËp cña bän trém c­ưíp.


933. Miếu cổ

Miếu thờ hoang phế đã lâu nay.
Mái sập, bia mờ vứt đó đây,
Lạnh ngắt, lò hương đầy mạng nhện.
Tường đổ, rêu phong mấy lớp dày.
Đêm trước mưa rơi lên núi lạnh.
Nắng chiều giờ sót lại trên cây.
Muốn hỏi mà không người để hỏi,
Chỉ thấy trên trời mây trắng bay.


934. Tiếng nước

Vốn thường im lặng, nước trên sông
Sao réo ầm ầm tựa bão dông?
Lúc bị cản đường, sông mới giận,
Còn không, lặng lẽ cứ xuôi dòng.
Điềm tĩnh, bao dung, không hám lợi,
Không chịu cúi đầu trước bất công.
Như tấm gương soi cho kẻ sĩ,
Ngời ngời ánh bạc nước xanh trong.


935. Chùa cổ

Năm tháng dãi dầu, chùa vẹo xiêu.
Thanh u suối nước, cảnh tiêu điều.
Lạnh lẽo bếp chay, vườn cỏ dại.
Lên thềm mưa hắt, gió heo heo.
Chim thước lượn quanh, tìm chỗ trú.
Thắp hương lặng lẽ vị sư nghèo.
Chùa xưa héo lụi cùng năm tháng,
Hết nắng ban mai lại nắng chiều.


936. Ngẫu hứng về mảnh ao nhỏ trước nhà

Một mảnh ao tù, nước lại vơi.
Mấy con cá nhỏ tự do bơi.
Gió thổi mà ao không gợn sóng.
Bốn bề cây chắn, cỏ xanh tươi.
Ai người biết tỉnh, lo công việc?
Ta cũng chưa say, bỏ sự đời.
Giá giống ao này, đâu cũng lặng,
Ta sẽ lên thuyền đi khắp nơi.


937. Bài ngâm đêm trăng

Bóng cây bên cửa ánh trăng lồng.
Tiếng kèn đổi gác vọng tầng không.
Nghìn dặm xa quê không ngủ được.
Khúc ngâm bất chợ xốn xang lòng.
Tham sân 1) kiếp trước chưa trừ hết,
Kiếp này danh lợi lắm long đong.
Mong chóng đến ngày thôi loạn lạc,
Để lại quay về với núi sông.

(1) Danh từ Phật, chỉ sự tham lam, giận dữ.


938. Thương vợ

Tiếc xưa không nối nghiệp nhà nông.
Cày cấy bên nhau, vợ với chồng.
Nay hám công danh, chồng vất vả.
Dắt con chạy nạn, vợ long đong.
Chức Nữ sông Ngân đành cách biệt.
Hằng Nga tháng Tám ngậm ngùi mong.
Cái đạo phu thê luôn giữ trọn.
Thúc Cơ 1) gương sáng, chẳng thay lòng.

(1) Con gái vua n­ước Lỗ và là vợ vua n­ước Kỹ. Vua nư­ớc Kỹ bị vua Tề ức hiếp phải chết. Thúc Cơ từ nư­ớc Lỗ về nư­ớc Kỷ để phụng sự tổ tiên chồng đến trọn đời. Trong kinh Xuân Thu, Khổng Tử chép lại chuyện này và rất ca ngợi nàng.


939. Mưa dầm ở đảo Huyền Trân

Công chúa Huyền Trân lệ ngắn dài.
Ngoài thành mưa nhỏ ướt cành mai.
Chồng Man xấu số 1) làm nhơ ngọc.
Nước nhà bạc nghĩa, xót lòng ai.
Lễ cưới hai châu 2) vì một nghĩa.
Gãy gánh một đời, khổ gấp hai.
Oán giận thanh triều dâng bốn phía,
Nước mắt như mưa rả rích hoài .

(1) Chỉ Chế Mân, ng­ười thuộc bộ tộc man di theo quan điểm phong kiến thời tr­ước. Chế Mân lấy Huyền Trân đ­ược một năm thì chết, nên gọi là xấu số.
(2) Tức châu Ô và châu Lý đất Chiêm, đ­ược Chế Mân dâng  cho nhà Trần làm sinh lễ.


940. Hoa dâm bụt trong cung vua

Những cánh hoa tươi trước cửa rồng,
Đỏ rực một màu với gió đông.
Không hương nên chẳng ai ghen tỵ,
Không điệu, không kiêu, dẫu má hồng.
Tướng sắc khác thường, hoa của Phật.
Xuân, loài khác rụng, chỉ mình không.
Đỏ rực không vì khoe sắc đẹp,
Mà chỉ dâng vua một tấm lòng.


941. Đêm thu ở quán trọ

Dừng chân quán trọ, khóm mai xanh.
Tiếng thu đã đến báo trên cành.
Ngoài cửa sông trôi như giải lụa.
Trăng nhô phía biển, chiếu qua mành.
Đèn chong trên án, lòng thương nhớ.
Trước lầu tiếng trống giục sang canh.
Xa xa ai hát bài ly biệt.
Khói trắng trên sông, mộng chẳng thành.


Đi thuyền trên cửa biển Nhật Lệ

Chập chiều, thuyền tới cửa Ô Long.
Ngân Hà một dải vắt trên không.
Từ xa chim nhạn bay về ngủ.
Văng vẳng sáo chài ngoài bãi sông.
Sách đầy một tráp, sao chi chít.
Buồm lớn căng dây, gió thổi phồng.
Hai bên đê lớn, thuyền đi tiếp.
Tử Vi sao sáng một khối hồng 1).

(1) Chßm sao ë phư­¬ng B¾c, n»m phÝa ®«ng sao B¾c §Èu. C¸c nhµ thiªn v¨n ngµy xư­a coi chßm sao nµy øng víi ng«i vua chóa ë h¹ giíi.


942. Lên núi Mẫu Tử 1)

Người ngựa lên đường lúc rạng đông.
Vượt mấy tầng cao, lớp lớp chồng.
Hai núi liền nhau, hòn Mẫu Tử.
Bên dòng suối nhỏ nước xanh trong.
Mắt ngước nhìn quanh toàn thấy núi.
Đầu ngẩng tóc xòa trước gió đông.
Núi này được tạo bao giờ nhỉ?
Muốn nhờ Khóa Phủ 1) hỏi Ngu Công 2).

1). Núi này ở Lạng Sơn.
2). Tên một vị thần.
3). Tên một nhân vật trong thần thoại Trung Quốc quyết tâm dời núi mở đường.


943. Buổi sớm, từ núi Thanh Sơn 1) ngắm cảnh xung quanh

Đi sứ, tạm dừng núi Nhị Thanh.
Sáng giục người xe sớm khởi hành.
Thấp thoáng trong sương hình cây cỏ.
Líu lo chim hót rộn trên cành.
Xóm xa giấc ngủ chưa tan hẳn.
Đồn bên trống giục báo năm canh.
Bất chợt mặt trời nhô, đỏ rực,
Xua hết mây mù, lộ núi xanh.

(1) ChØ nói NhÞ Thanh ë L¹ng S¬n. Ng« Th× NhËm viÕt bµi nµy vµ nh÷ng bµi sau trong thêi gian ®i sø Trung Quèc.


944. Ghi lại cảnh đẹp ở Nhạc Dương
Tiểu dẫn của tác giả: Tôi từng nghe các vị tiền bối đi sứ về kể lại cái vui thuận gió khi qua hồ Động Đình. Lần đi sứ này, cuối xuân đến đất Sở, được chiếu chỉ của Đại Hoàng Đế giục vào chầu, nên phải vội vàng đi gấp. Lúc đến sông Tương thì gió đông đang mạnh, đi đường thủy không tiện, phải đi đường bộ. Đến đầu mùa thu trở về, khi tới Hán Khẩu, định ngược dòng đi lên nhưng nước lũ lớn, chảy mạnh như mũi tên, nên không thể đi được, lại phải từ Vũ Xương đi đường bộ về đất Việt 1). Thế mới biết cái vui thuận gió chơi hồ là khó khăn nhường nào.
Lầu Nhạc Dương 2) ở về phía đông hồ và phía tây thành Nhạc Châu. Lúc đến Nhạc Châu, tôi cùng các bạn đồng sự lên lầu, buông mắt nhìn xem phong cảnh, thì thấy hồ quang nước lặng, muôn khoảnh một màu, nhìn hết tầm mắt không thấy bờ đâu cả. Xa trông núi Quân Sơn vút lên từ trong sóng, thật là một non thúy La Phù lồng vào nơi nền gấm.  Tôi ngắm nhìn hồi lâu, muốn tìm thuyền ra chơi núi, nhưng mặt trời đã lặn về tây nên chỉ có thể đứng ở lầu mà vời trông. Tôi đem nguyên ủy của hồ hỏi người lại mục ở đó thì người ấy nói: “Phía tây hồ giáp với Vân Nam, Quí Châu, gặp gió thuận thì ba ngày từ bờ đông có thể đến bờ phía tây. Phía tây bắc thông với Tứ Xuyên, phía đông bắc chảy vào Hán Dương, phía tây nam  là các bãi ở Trường Sa, nước sông Tiêu, Tương chảy qua đổ vào hồ vậy.
Ôi! Hồ này trở nên rộng lớn như vậy, chẳng phải là do sức nước của nhiều dòng sông tạo thành sao? Nhiều dòng nước tụ lại thành hồ, đó chẳng phải là cái khéo của tạo hóa sao? Cái khéo của tạo hóa, vẽ chẳng hết ý, viết chẳng hết lời, người biết góp nhặt lại mà điểm xuyết ra, há chẳng phải là cách nhìn của người thông đạt đó sao?
Ta, lòng trần chưa sạch, thói tục còn mang, tạo hóa tạo ra lắm chốn lạ kỳ mà tiếc mắt ta nhìn còn chưa được bao quát. Đến như khói mây cảnh vật, ánh nước sắc núi, chim chóc bay lượn, cá rồng ẩn hiện, lâu đài liên tiếp, tàu thuyền đi về, di tích thần tiên, cảnh đời hiện tại, thì ta nói ra không khỏi vụng về, chỉ riêng lòng ta lĩnh hội được mà thôi. Lúc ấy, Hy Sử công xướng lên trước, ta gặp cảnh sinh tình, chẳng quản theo đòi bèn nối thành bốn vận: 3)

Hồ lạnh chiều thu, nước trắng phau.
Cảm xúc lâng lâng, đứng tựa lầu.
Núi xanh vời vợi, trăng chưa mọc.
Chân trời một vệt ráng vàng au.
Rồng nằm Động Phủ trong mây trắng.
Chim đến Hành Sơn khoe sắc màu.
Tạo hóa kỳ tài làm sông núi,
Chỗ lồi, chỗ lõm thật đều nhau.

1). Chỉ Quế Lâm, Quảng Tây.
2). Nằm ở phía tây huyện thành Nhạc Dương, nhìn xuống hồ Động Đình.
3). Bản dịch của Tuyển tập Thơ Văn Ngô Thì Nhậm, quyển một, NXB Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1978.


945. Ngắm cảnh chiều trên sông Lệ Giang

Hoàng hôn, thật khó nói nên lời
Vẻ đẹp thiên nhiên của đất trời.
Dòng sông hai nửa, xanh và đỏ.
Núi màu đậm nhạt, khác từng nơi.
Chim bay về tổ, rung cây lá.
Cá nhảy, vây vàng chỗ thác rơi.
Lại thêm ý vị: đôi ba tiếng
Chuông chùa thong thả tựa đang rơi.


946. Lại qua chùa Thiền Lâm

Chính sự, việc đời luôn đổi thay.
Vẫn nguyên mọi cái ở chùa này.
Cây mục là gương cho kẻ ác.
Vực đá răn đe kẻ hại thầy.
Tượng Phật vàng son luôn tỏa sáng.
Việc đời phải trái tựa mây bay.
Nay qua chốn cũ, buồn trông lại.
Rót chén rượu thiền đuổi gió tây 1).

(1) Vư­¬ng §ao ®êi TÊn khi gÆp giã t©y næi lªn th× lÊy qu¹t che mµ nãi: "C¸i giã nµy cña NguyÔn Quy lµm d¬ bÈn con ng­ưêi. Quy lµ cËu cña vua Thµnh §Õ nhµ TÊn, bÞ chª cư­êi tham lam, kh«ng ®¹i nghÜa.


947. Ghi điều trông thấy ở Nam Ninh

Nam Ninh, còn gọi Tiểu Nam Kinh.
Nhà nhà sung túc, gái thì xinh.
Bên đường, cửa sổ rèm che nắng.
Lầu soi bến nước, đuốc lung linh.
Nước ngã ba sông trong thấy đáy.
Bảy núi cờ treo, thật hữu tình.
Đời thịnh, quan nhàn, không có việc,
Hết ngắm chim công, lại luận bình.


948. Nhàn rỗi, làm thơ về cảnh đẹp Hành Dương

Từng nghe thu đẹp ở Hành Dương,
Khi đến, mưa xuân thấm ướt đường.                                      
Hùng vĩ, chỉ cần xem cảnh vật.
Phồn hoa, nhộn nhịp chuyện công thương.
Sở, Việt, núi xanh soi suối biếc.
Hai dòng uốn lượn, nước Tiêu, Tương.
Thiết nghĩ, thu về, thêm cánh nhạn,
Đâu chỉ Bồng Lai mới thiên đường!


949. Buổi sớm, lên thuyền đi từ Tuyền Châu

Trên sóng Trường Giang mấy cánh chim.
Chợt vụt bay đi, nháo nhác tìm.
Nước đập vào bờ, sông chảy mạnh.
Bên thuyền sóng vỗ chẳng hề im.
Cuộc đời luân chuyển không vô cớ.
Chẳng dễ lừa đời, dối trái tim.
Sách dăm ba quyển, lòng ta nhẹ,
Như chiếc thuyền không, chẳng sợ chìm. 1)

(1) Trang Tö cã c©u: DÜ trung tÝn nhi tÕ n¹n, nh­ưîc thõa hư­ chu dÜ thiÖp xuyªn", nghÜa lµ "lÊy ®¹o trung tÝn mµ v­ưît qua dßng s«ng".


950. Nhàn rỗi, vịnh cảnh sông Lệ 1)

Đê dài, núi đá vút lên cao.
Ven làng khóm trúc phủ bờ ao.
Hàng cây rợp nắng, chim ca hót.
Bến xưa cá quẫy sóng rì rào.
Dưới sông đò lưới nhiều dân Ngạn, 2)
Trên bờ bán củi lắm người Dao.
Sông Lệ nước dâng, thuyền lướt nhẹ,
Như giữa Ngân Hà, dưới ánh sao.

(1) Cßn gäi lµ LÖ Giang hoÆc T¶ Giang, mét con s«ng ë tØnh Qu¶ng T©y, Trung Quèc.
(2) ë Qu¶ng T©y, ngư­êi Miªu vµ ng­ưêi Dao ë lÉn lén. Ngư­êi Trung Quèc gäi ng­ưêi Miªu lµ ng­ưêi Ng¹n.


951. Thơ đề ở am Vạn Niên,
theo vần bài “Nhất thủy” của Vũ Công Bộ

Thảnh thơi trong bận rộn.
Cõi Phât có mà không.
Vườn thiền động mà tĩnh.
Buồn mà vẫn vui lòng.
Hưởng ân sâu Tứ Đại 1).
Tam Thừa 2) rèn khổ công.
Chưa gặp mặt trò chuyện,
Nhưng đã đọc thơ ông.

1). Chữ nhà Phật, tức địa, thủy, hỏa, phong, cả bốn nguyên tố hòa hợp thì con người mới tồn tại.
2). Khái niệm nhà Phât, gồm thượng thừa, trung thừa và hạ thừa.


952. Mùa thu, đi thuyền trên sông Ly Giang 1)

Đón ta, sông núi đứng kề nhau.
Cả núi cả sông xanh một màu.
Tháng Tám trời thu vương khói nhẹ.
Đèn khuya sương ướt đẫm hàng dâu.
Ngái ngủ, thuyền bè nằm dưới bến.
Tỳ bà tiễn khách vọng trên lầu.
Đêm được thả thuyền sông Xích Bích, 2)
Trong lòng ấp ủ đã từ lâu.

(1) Dßng s«ng xuÊt ph¸t tõ Toµn Ch©u, ch¶y ®Õn Ng« Ch©u (®Òu ë tØnh Qu¶ng T©y) th× hîp víi s«ng TÇm Giang.
(2) ChØ cuéc ch¬i thuyÒn ban ®ªm cña T« §«ng Pha ®êi Tèng ë s«ng XÝch BÝch.


953. Thơ đề đình Tỳ Bà 1)

Bên đình liễu rủ, nước xanh trong,
Nửa mái lầu xanh, giữa ráng hồng.
Trăng còn đẫm lệ quan Tư mã, 2)
Tiếng đàn ngày trước vẳng trên sông.
Cảnh đẹp nơi này lưu sử sách,
Thuyền nhỏ cô đơn, sóng bập bồng.
Tôi ở phương xa, chung cảm xúc,
Bùi ngùi mỗi bận đọc thơ ông.

(1) Đình ở ngoài thành Cửu Giang, tỉnh Giang Tây, nơi Bạch Cư­ Dị, thi hào đời Đ­ường, tiễn khách đêm trăng, gặp ng­ười chơi đàn tỳ bà và viết bài Tỳ Bà Hành nổi tiếng.
(2) Tức Bạch Cư­ Dị, lúc ấy làm quan Tư­ mã ở Giang Châu, Giang Tây.


954. Đêm ấy, lại sang đò cửa sông Xích Bích

Doi cát bên sông, bãi sậy gầy.
Chèo đò, bài hát thật mê say.
Chiến trận Tôn Tào 1) xưa chẳng thấy,
Chỉ thấy dòng sông nước lại đầy.
Dưới bến, cánh buồm no gió thổi.
Trên bờ, đèn lạnh, sáng lung lay.
Ai chơi thuyền nhỏ sau Tô Thức? 1)
Chiếc đò mờ ảo giữa mù mây...

 (1) Tức Tô Đông Pha, thi hào đời Tống.


955. Chiều thu, dọc đường Thang Âm 1), ngắm cảnh đồng nội

Sắc thu xen lối cũ.
Khách đi vội trên đường.
Gió heo may se lạnh.
Núi nhuộm ánh tà dương.
Đồng cỏ xanh tít tắp.
Liễu rủ bóng bờ mương.
Nhìn con cò bay lượn,
Chạnh lòng nhớ quê hương.

1. Tªn mét huyÖn thuéc tØnh Hµ Nam, Trung Quèc, quª h­ư¬ng cña Nh¹c Phi ®êi Tèng.


956. Đêm trung thu, ở quán khách

Từ biển vầng trăng mới nhú lên,
Lạnh lùng chiếu sáng mép hàng hiên.
Lo nghĩ việc quan, thu vợi nửa.
Nỗi buồn nhớ nước vẫn còn nguyên.
Tóc bạc, suốt đêm ngồi tựa cửa.
Uống say mong vợi bớt ưu phiền.
Một năm đi sứ dài vất vả,
Thành Xuân, ải Lạng, tới Đài Yên 1).

(1) ChÆng ®­ưêng ®i sø tõ thµnh Phó Xu©n qua ¶i L¹ng S¬n ®Õn Yªn §µi, kinh ®« nhµ Thanh, tøc B¾c Kinh ngµy nay.


957. Như thử lương dạ hà 1)

Tựa trời, ngồi uống rượu,
Ngắm dòng sông Ngân Hà.
Ngoài sân trăng như sữa.
Nhà bên rộn tiếng ca.
Mùa thu đâu cũng đẹp.
Chỉ tiếc mình đã già.
Ngồi bên ngọn đèn lạnh,
Lại bâng khuâng nhớ nhà.

(1) Bµi "HËu XÝch BÝch phó" cña T« §«ng Pha cã c©u "NguyÖt b¹ch phong thanh, như­ thö l­ư¬ng d¹ hµ", nghÜa lµ "Tr¨ng trong giã m¸t, ®ªm tèt nµy biÕt lµm g× ®©y". Chó thÝch cña t¸c gi¶: ngµy 13, vµo triÒu lÔ v¹n thä, cïng c¸c v¨n thÇn nãi chuyÖn, ng©m th¬, mäi ngư­êi lÊy c©u "Như­ thö l­ư¬ng d¹ hµ" lµm ®Çu ®Ò ®Ó x­ưíng ho¹.


958. Ngày giỗ cha tháng Tám

Hiu hiu gió biển lạnh.
Ngồi trong thuyền nhìn ra.
Song Cương, 1) mây che núi.
Như chim, luôn xa nhà.
Thoắt, lại thêm một giỗ.
Theo triều dâng, lệ nhòa.
Làm trai mà vô dụng,
Thà làm phận đàn bà!

(1) Tªn mét ngän nói ë Giang T©y, Trung Quèc, n¬i t¸ng mé cha mÑ ¢u D­ư¬ng Tù, mét v¨n hµo ®êi Tèng. §©y dïng ®Ó chØ n¬i t¸ng mé cha mÑ cña Ng« Th× NhËm.


BÙI TRỤC

Năm sinh, năm mất không rõ, hiệu Đản Trai, người huyện Thanh Trì, nay thuộc Hà Nội, đậu Hương tiến năm 1759, được bổ chức Tự thừa. Khi Tây Sơn Bắc tiến, ông phiêu bạt nơi khác, làm nghề dạy trẻ. Năm 1800 nhà Tây Sơn cử làm tri phủ nhưng ông lấy cớ già, bệnh mà từ chối.


959. Mồng Một Tết Tân Hợi

         Nhìn hoa mới biết Tết.
Không lịch, không thấy xuân.
Có liễu - không phải Tấn.
Nhiều đào - chắc là Tần.
Ở nhà như ở trọ.
Mọi cái đều thua dân.
Kể từ ngày loạn lạc
Tóc cứ bạc trắng dần.



PHẠM LẬP TRAI

Sinh năm 1760, mất 1825, hiệu Lập Trai, người xã Hoa Đường, huyện Đường An, Hải Dương, đậu tiên sĩ năm 1779, làm quan đến chức Thiêm sai tri công phiên. Lúc Tây Sơn ra Bắc, ông lui về Kinh Bắc lánh nạn. Dưới thời Gia Long được bổ làm thị trung học sĩ nhưng ông từ chối, chỉ ở nhà dạy học.

960. Cuối năm gửi Lê Tín Phủ

Sinh ra ai cũng khổ.
Phiêu dạt càng đau lòng.
Nhà nào cũng lắm nạn.
Năm tháng trôi như không.
Nhiều bệnh, sinh lo nghĩ.
Nghiệp lớn cứ đèo bòng.
Muốn làm cây thông núi
Vẫn xanh giữa mùa đông.


961. Vịnh cảnh ngoại ô trong tiết mùa thu

Đồng liền sát với nhà.
Chiều thu, núi nhợt nhòa
Mặt trời sáng một nửa.
Mù treo bụi tre ngà.
Nước mất, nhà không có.
Bơ vơ khách đường xa.
Rau tử chi muốn hái
Phải hỏi mấy ông già 1).

1. Đời Hán Cao Tổ có bốn ông già tránh loạn nhà Tần phải trốn trong núi Thương Sơn, tìm hái rau tử chi ăn cho đỡ đói.



NGUYỄN CÔNG HÃNG

Sinh năm 1679, mất 1732, hiệu Tĩnh Trai, người Đông Ngàn, nay là huyện Tiên Sơn, Hà Bắc, đỗ tiến sĩ năm 1700, làm quan đến Bình bộ Hữu thị lang. Bài thơ này viết khi ông đi sứ Trung Quốc năm 1718; Sau bị gièm pha, giáng chức, và tự tử. Tác phẩm có "Tinh sà thi tập".


962. Buổi sớm lên đường ở
Hồ Nam, làm thơ trình Hổ Trai

Xanh mờ khói sớm sóng Trường Sa.
Nét mày cô gái - núi xa xa.
Đông về cỏ úa, trời se lạnh.
Lưu luyến mùa thu vệt nắng tà.


963. Đi thuyền trên sông, làm thơ tức sự

Mái chèo khua nhẹ, nước xanh trong.
Con thuyền gặp gió, lướt trên sông.
Lộp bộp mưa rơi, trưa khó ngủ.
Chiều tối chim bay giữa ráng hồng.
Khúc hát chèo đò rung tán lá.
Chim rừng hót vọng chín tầng không.
Vời vợi nhớ quê, nhìn chẳng thấy,
Chỉ thấy mây bay, trắng bập bồng.


964. Qua đình Ấu Sơn ở trạm Bình Lạc

Xanh biếc dòng sông chảy lững lờ.
Ấu Sơn, đình cổ cảnh nên thơ.
Trăng treo trước cửa như gương ngọc.
Mây cuốn kề thềm tựa núi tơ.
Mưa nhiều, rêu mọc xanh trên đá.
Trời quang, cò trắng lượn đôi bờ.
Chùa nhỏ, bên kia sông chuông điểm.
Nắng tắt, hoàng hôn, cửa khép hờ.


965. Đề miếu thờ quan Phu Tử 1)

Thiên hạ chia ba, nổi chiến tranh.
Phò Hán lập công, chẳng tiếc mình.
Mang đao dự hội, quân Ngô sợ.
Một ngựa mở đường, tướng Ngụy kinh.
Đất trời thấu hiểu lòng nhân nghĩa.
Trăng rằm soi rọi miếu anh linh.
Hứa Xương vĩ đại thành tro bụi, 2)
Chẳng bằng tiếng tốt được lưu danh.

(1) Tøc Quan V©n Trư­êng, t­ưíng tµi cña Lư­u BÞ.
(2) Kinh ®« n­ưíc Nguþ cña Tµo Th¸o vµ Tµo Phi.


966. Đến Hàm Đan 1), nhớ chuyện xưa

Kinh đô nước Triệu, cỏ lòa xòa.
Gà rừng ngủ sớm gáy xa xa.
Lâu đài đổ nát, trơ khe suối.
Cam Trùng ảm đạm bãi tha ma.
Cái chuyện kê vàng 2) là chuyện nhảm.
Núi nào khí đỏ tự bốc ra?
Nhàn rỗi, khách ngồi bàn chuyện cũ.
Gờn gợn trong lòng nỗi xót xa.

(1) Tªn kinh ®« n­ưíc TriÖu ngµy xư­a, nay thuéc tØnh Hµ B¾c, Trung Quèc.
(2) Lư­ Sinh lµ mét häc trß nghÌo ë Hµm §an, mét h«m, ®ang lóc lang thang ®ãi mÖt, ®­ưîc mét ®¹o sÜ cho mư­în c¸i gèi, Lư­ n»m ngñ m¬ thÊy minh vinh hiÓn, rÊt mõng. Khi tØnh dËy míi biÕt lµ méng, nåi kª chµng nÊu trư­íc lóc thiÕp ®i vÉn ch­ưa chÝn.


967. Thơ tặng sứ bộ Triều Tiên là Du Thập Nhất và Lý Thế Cẩn

         Hai nước chúng ta đều phía Đông.
         Vạn dặm cách xa, chẳng cách lòng
         Chung đạo - xưa nay thờ Khổng Tử.
         Theo lễ nhà Chu, lo việc công.
         Đàm đạo văn chương là việc trọng,
Áo cơm coi nhẹ tựa lông hồng.
Quay xe bịn rịn người đôi ngả,
Cả hai ý nghĩ chắc tương đồng.



VŨ THANH

Sinh năm 1663, năm mất không rõ, tự Phác Phủ, người làng Đan Luân, huyện Đường An, nay thuộc huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Năm 23 tuổi đỗ Đình nguyên Thám hoa (năm 1685), đời Lê Hy Tông, làm quan đến chức Hồng Lô tự khanh, Thiêm đô ngự sử, Bồi tụng, từng bị thất sủng rồi lại được khôi phục. Tác phẩm có "Hào Nam văn tập" và một số văn bia. "Toàn Việt thi lục" có vài chục bài của ông.


968. Lại thêm một bài thơ đề

Ham muốn mọi người đều giống nhau.
Hiếu trung phải nhớ đặt hàng đầu.
Ngũ giác 1) sinh ra ai cũng có.
Hơn người ở chỗ luyện dài lâu.
Phải liệu sức mình mà ứng xử.
Đừng cố trèo cao, khéo ngã đau.
Mo cơm, bầu nước - thầy thiên hạ, 2)
Cứ đâu nhất thiết phải sang giàu!

(1) Tøc n¨m gi¸c quan - tai, m¾t, mòi, miÖng, lư­ìi.
(2) Nhan Håi lµ häc trß cña Khæng Tö, nhµ nghÌo, sèng thanh ®¹m, chØ cã mo c¬m, bÇu nư­íc qua ngµy mµ thµnh tµi, ®¸ng lµm thÇy cho thiªn h¹.


969. Nghĩ chuyện về vườn, ngẫu nhiên thành thơ

Lênh đênh chiếc lá giữa trùng khơi.
Chán cái hư danh của sự đời.
Vui buồn tan hợp đều qua hết.
Đắng cay, mặn nhạt thấu tình người.
Trăm miệng đòi ăn, công việc nặng.
Một mình vất vả chẳng ngày ngơi.
Không có Tô Môn như thuở trước.
Mong được về vườn sống thảnh thơi.


970. Tự răn mình

Răn mình: cám dỗ chẳng lung lay.
Không để hai rìu 1) chém một cây.
Không khuyên kẻ khác dùng sức mạnh.
Quý điều nhân đức, trọng người ngay.
Dại khôn, quên nhớ - do ta hết.
Đúng sai tự biết, chẳng ai bày.
Lý dục 2) thế nào, phân biệt rõ.
Thư thản bình yên với tháng ngày.

(1) Rư­îu chÌ vµ n÷ s¾c lµm hao søc khe, như­ hai lư­ìi r×u cïng chÐm vµo mét th©n c©y.
(2) Lý - lý lÏ, quy luËt, lµ c¸i cÇn theo. Dôc - ham muèn, sù quyÕn rò. Ngưêi s¸ng suèt ph¶i lu«n ghi nhí ®iÒu Êy.



NGUYỄN DANH DỰ

Sinh năm 1627, mất năm nào không rõ, hiệu Chất Trai, người xã Dương Liễu, huyện Đan Phượng, nay thuộc huyện Hoài Đức, Hà Tây. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm 1685, từng được cử đi sứ Trung Quốc, làm quan đến chức Bồi tụng, Công bộ hữu thị lang, tước tử. Tác phẩm: chỉ lưu được một số bài thơ.

971. Đêm mồng bảy tháng Bảy, trên sông Tương 1)

Đầu thu, tháng Bảy, thuyền trên sông.
Lăn tăn sóng gợn, nước rất trong.
Khách sứ nhìn trăng trong chén rượu.
Trăng bơi dưới nước, nước xuôi dòng.
Cúi xuống nhìn đào Kim Mẫu 2) tặng.
Ngước lên thấy rõ cỗ xe rồng.
Nhìn lâu thấy cả cầu Ô Thước.3)
Không biết lời truyền có đúng không.

(1) Một con sông đẹp có nhiều huyền thoại ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
(2) Tức Tây Vư­ơng Mẫu, theo truyền thuyết, đã giáng ban cho Hán Vũ Đế ba quả đào tiên trong một bữa tiệc.
(3) Theo truyền thuyết, ngày 7 tháng 7 chim Ô Th­ước bay lên trời làm cầu qua sông Ngân Hà để Ng­ưu Lang và Chức Nữ gặp nhau.


972. Ngày tết đoan ngọ 1) ở công quán Hán Dương

Quanh năm suốt tháng ở trên đường.
Gặp ngày nắng đẹp, tiết Đoan Dương.
Có đức, nên tay không buộc chỉ. 2)
Thành tâm, uống rượu cũng bình thường.
Trước cửa bóng hòe xua cái nóng,
Dưới đầm sen nở thoảng mùi hương.
Tình cảm xốn xang sao khó tả.
Đêm nằm quanh quẩn nhớ quê hương.

(1) Tết mồng năm tháng Năm.
(2) Tức Đoan Ngọ. Vào ngày này ng­ười x­a có tục buộc chỉ ngủ sắc vào cổ tay để xua tà khí.



ĐINH NHO HOÀN

Sinh năm 1670, mất 1715, hiệu Mạc Trai, người làng Yên Âp, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay. Đậu Hoàng Giáp năm 1700, từng giữ chức Đốc trấn Cao Bằng rồi Lại bộ hữu thị lang. Năm 1715 được cử làm phó sứ sang Trung Quốc, mất dọc đường.


973. Buổi tối, đậu thuyền ở
bãi Tương Tư  1) cảm hứng đề thơ

Bãi vắng Tương Tư đã nhạt tình.
Đời ta cũng vậy, kiếp lênh đênh.
Thương khách, lo tìm chùa nghỉ trọ.
Nhớ cảnh thuyền câu sóng bập bênh.
Nhạn trắng không mang tin cố quốc.
Mờ mờ rặng liễu giống rồng xanh.
Trên núi Tiên Sơn mây đã phủ.
Chạnh lòng bỗng nhớ mái nhà tranh.

(1) Tªn mét khóc s«ng ë huyÖn Quèc B×nh, tØnh Qu¶ng T©y, Trung Quèc.


974. Qua hang Bán Tiên

Bán Tiên, hang động ở Hoành Châu.
Trời sinh, đất đẻ, vốn do đâu?
Mây phủ mái chùa, chùa khuất núi.
Nước reo bên đá, đá che lầu.
Sư quét hoa rơi trên lối nhỏ.
Tiều phu bó củi đội trên đầu.
Sợ thú giật mình, không dám bước,
Đành ngồi một chỗ, ngắm hồi lâu.


975. Trên đường đi sứ, tạm dừng ở Ngô Châu 1)

Thuyền sứ đi ngang, ghé đất này.
Tuyệt vời phong cảnh núi liền mây.
Nắng sớm tơ vàng giăng bến nước.
Trời chiều ráng đỏ phủ hàng cây.
Xe đón người tiên không thấy nữa,
Nhưng nơi tắm ngựa vẫn còn đây.
Chỉ tiếc, tám nơi phong cảnh đẹp 2)
Mà khách ghé qua chửa trọn ngày.

 (1) Mét n¬i nhiÒu c¶nh ®Ñp ë Qu¶ng T©y, Trung Quèc.
(2) §©y chØ t¸m danh th¾ng ë Ng« Ch©u, như­ Ao tiªn, G¸c ®ãn tiªn...


976. Họa thơ Trần Tố An 1) khi chơi thuyền
xuân trên sông Quế Giang, Ngô thành

Mênh mang nước hồ rộng.
Khua chèo, nhẹ lướt lên.
Sóng hoa đào lả lướt
Vỗ nhẹ vào mạn thuyền.
Sáng thuyền rời bến tía.
Chiều cập chốn thần tiên.
Cũng nhờ được đi sứ,
Biết cảnh đẹp nhiều miền.

(1) Tªn mét viªn quan Trung Quèc.


977. Lên lầu Hoàng Hạc, ngắm cây ở Hán Dương

Danh thắng nơi này, đất Hán Dương,
Bao đời nguồn hứng của văn chương.
Gió trăng mời rượu, say tình khách.
Khói mờ, lòng chạnh, nhớ quê hương.
Dưới bến cột buồm tua tủa mọc.
Ven sông cây đứng tựa bức tường.
Muốn làm hảo hán nơi sông nước,
Thẹn lòng cõi tục vẫn còn vương.

978. Ở doanh trại ngắm trăng nhớ bạn
            Bài hai

Mây Sở, cây Tần thật cách xa.
Đêm dài, áo giáp đẫm sương sa.
Giếng Việt nước trong xua cái nóng.
Cây Nam che lạnh lúc xa nhà.
Đơn độc trên cây, cò trắng đậu.
Sợ vương vào lưới, cá quay ra.
Mong sớm có ngày không bóng giặc,
Cất hết đao gươm, hưởng thái hòa.


979. Ở doanh trại, ngắm trăng nhớ bạn
          Bài sáu

Vất vả nghề binh, quá ngũ tuần.
Xa nhà, biên ải đón mùa xuân.
Buổi sáng trong rừng nghe vượn hót.
Chiều chiều chim nhạn lượn ngoài sân.
Chữ trung, chữ hiếu lòng son sắt.
Mái tóc vì sương đã bạc dần.
Ngồi ngắm trường thành mà những muốn
Được về lần nữa với người thân.



NGUYỄN MẬU ÁNG

Sinh năm 1668, mất năm nào không rõ, tên thật là Nguyễn Mậu Thịnh, hiệu Di Trai, người làng Kim Sơn, huyện Gia Lâm, nay thuộc Hà Nội. Đỗ tiến sĩ khoa Tân Mùi, năm 1691, làm quan tới chức Phó đô ngự sử, tước Nam, từng đi sứ triều Thanh năm 1715. Tác phẩm còn 50 bài trong "Toàn Việt thi lục".


980. Lên đình Âu Sơn ở Bình Lạc

Ngôi đình trên núi, núi xanh xanh.
Cảnh sắc nên thơ, thật hữu tình.
Trời cho tảng đá làm nền móng.
Người dựng cây to, thế cột đình.
Đón gió, mời trăng qua tám cửa,
Bao trùm cảnh vật bốn xung quanh.
Như thể đề thơ chưa đủ hứng,
Chuông chiều khẽ điểm, nắng lung linh.


981. Qua hồ Động Đình

Động Đình, tháng Bảy, rộng bao la.
Trời quang mây tạnh, sóng hiền hòa.
Như đàn bươm bướm, buồm căng gió.
Ánh đèn lấp lánh tựa sao sa.
Một vệt cây xanh liền với nước.
Mờ mờ dãy núi phía trời xa.
Hoàng hôn, sóng lạnh đùa trên cát.
Gờn gợn bâng khuâng nỗi nhớ nhà.



NGUYỄN CÔNG CƠ

Sinh năm 1676, mất 1733, hiệu Nghĩa Trai, người làng Minh Quả, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đỗ đồng tiến sĩ năm 1697, từng giữ chức Hữu thị lang bộ Công, rồi bộ Hộ. Năm 1715 được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc, sau về được thăng binh bộ thượng thư, kiêm Tham tụng Đông các Đại học sĩ. Tác phẩm có chín bài trong "Toàn Việt thi lục".


982. Tức cảnh Hưng Yên 1)

Sông Ly 2) nước lớn, cuốn đưa thuyền,
Cuối cùng cập bến đất Hưng Yên.
Trong đầm nước lặng, trăng soi bóng.
Ngoài thành mây trắng, cảnh bình yên.
Đâu giếng họ Liêu 3)  nguồn nước đổ,
Đâu hòn đá dựng bởi tay tiên? 4)
Hay những chuyện này dân sở tại
Lâu ngày thêu dệt mãi mà nên?

(1) Tªn mét huyÖn ë QuÕ L©m, Qu¶ng T©y, Trung Quèc.
(2) Tªn con s«ng ë QuÕ L©m. Theo ®ư­êng thñy thuyÒn cña sø thÇn ViÖt Nam qua s«ng Ly ®Õn Hư­ng yªn.
(3) Theo truyÒn thuyÕt, nhµ hä Liªu cã c¸i giÕng, nư­íc lóc nµo còng ®á. Uèng n­ưíc Êy, bao ®êi nay ngưêi nhµ hä Liªu thư­êng sèng rÊt l©u.
(4) Tôc truyÒn mét ®ªm giã to cã t¶ng ®¸ rÊt lín kh«ng hiÓu tõ ®©u ®­ưîc giã mang ®Õn, vµ ngư­êi ta dùng chïa trªn ®ã ®Ó thê cóng.



NGUYỄN TÔNG QUAI

Sinh 1693, mất 1767, hiệu Thư Hiên, người làng Sâm, xã Phúc Khê, nay thuộc huyện Hưng Hóa, tỉnh Thái Bình. Sớm thông minh, đỗ Hội nguyên tiến sĩ năm 1721, làm quan tới chức Lục bộ thượng thư, hai lần làm chánh sứ sang Trung Quốc. Cuối đời bị dèm pha, bỏ về làng dạy học. Ông là nhà thơ có tài và nghĩa khí, viết cả thơ Nôm lẫn thơ Hán. Tác phẩm có "Sứ trình tân truyện", "Ngũ luận tự" (chữ Nôm) và "Sứ hoa tùng vịnh" bằng chữ Hán rất được người đương thời ưa chuộng.


983. Nhớ cảnh phố Thanh Sơn

Heo hút đường xa, nắng xế dần.
Cảnh tình xui sứ tạm dừng chân.
Phố phường đông đúc, nhà san sát.
Núi rừng xanh biếc, cảnh quen thân.
Khói trắng lơ thơ lồng khóm liễu.
Chập chờn chim én lượn ngoài sân.
Có chú mục đồng đang thổi sáo,
Ngồi ngược lưng trâu, dáng bất cần.


984. Cảm hứng trên đường đi

Tháng Mười gió nhẹ, trời không mây.
Rạng sáng lên đường, cờ sứ bay.
Hai bên lúa chín, hương thơm ngát.
Bạt ngàn xanh biếc một màu cây.
Xa xa Vân Lĩnh 1) in hình núi.
Lấp lánh sông Hương 2) dưới nắng ngày.
Những muốn dừng chân nhìn cảnh đẹp,
Tiếc rằng việc gấp, phải đi ngay.

 (1) Tøc nói V©n Cèc.
(2) Tøc s«ng Th­ư¬ng.


985. Địa thế Lạng Sơn

Sông sâu trùng điệp, núi liền mây.
Như Tiểu Tần xưa dải đất này.
Cờ sứ giương cao, rừng dát nắng.
Thác gầm, rung động cả hàng cây.
Là cửa bao đời lên phía bắc,
Là thành bảo vệ nước lâu nay.
Vâng mệnh nhà vua, xe các sứ
Ba năm một lần đi qua đây.


986. Buổi chiều, qua cửa ải Nam Quan

Biên giới nước mình đã vượt qua.
Đất người, gió thổi lạnh cờ hoa.
Rừng núi nước Nam gần gang tấc.
Đường lên Bắc Hán mịt mờ xa.
Núi biếc in màu lên áo khách.
Lòng sứ bâng khuâng giữa nắng tà.
Chợt nghe tiếng sáo từ đâu lại,
Dây đàn thi hứng khẽ ngân nga.


987. Tới ghềnh Thái Thạch 1), nhớ Thanh Liên 2)

Nước biếc, non xanh một lá thuyền.
Thả hồn bay bổng, uống triền miên,
Cạn cả sông trăng cùng sóng vỗ.
Ngâm vịnh thâu canh với bạn hiền.
Phi ngựa thoát trần, từ biệt khách,
Cưỡi cá lên trời, bạn với tiên.
Tôn kính hương hồn trong miếu cổ, 3)
Khói biếc mây trời chợt đứng yên.

(1) Ghềnh Thái Thạch ở khúc sông Tr­ường Giang, thuộc huyện D­ương Bồ, Giang Nam.
(2) Biệt hiệu của Lý Bạch. Tục truyền Lý Bạch đi thuyền chơi sông ở đây, uống r­ợu say, ngâm thơ, rồi nhảy xuống sông ôm trăng mà chết. Nay còn đền "Bắt trăng" trên núi cạnh đấy. Lại có thuyết nói lúc Lý Bạch đang say có con cá kình nổi lên..Lý Bạch c­ưỡi cá bay lên trời.
(3) Tức đền "Bắt trăng".


988. Ngắm cảnh chiều trên sông Tiêu Dương

Cuối xuân, sông nước ngập nắng vàng.
Khói tỏa xanh xanh phía cuối làng.
Có lẽ sắp mưa, mây phủ núi.
Hình như đổi gió, đò xoay ngang.
Cây cao bao bọc đền Hoài Tố. 1)
Trời thấp mù che điện Vũ Hoàng. 2)
Tiếng sáo làng chài ai chợt thổi,
Khiến lòng, như nước, bỗng mênh mang.

 (1) Tên một vị t­ướng đời Đư­ờng, có đền bên sông Tiêu Tư­ơng.
(2) Cung Vũ Hoàng, nơi ở của vua Vũ.


989. Chiều tối, đỗ thuyền ở thôn ven sông

Mặt trời xuống thấp, phía xa xa
Xóm nhỏ khói vương giữa nắng tà.
Đường núi ngựa đi, hằn tuyết ẩm.
Lững thững trâu về, bước nhẩn nha.
Cờ xí rợp đường, xe cuốn bụi.
Chật bến thuyền bè luôn lại qua.
Như hiểu nổi lòng người khách sứ,
Bên sông lanh lảnh một tiếng gà.

990. Ngắm cảnh chiều ở Trường Sa

Một nửa vầng trăng nhuộm ráng hồng.
Từ thuyền ngồi ngắm cảnh non sông.
Chân núi Hoành Sơn ươn ướt nắng.
Sông Tương biêng biếc vẫn xuôi dòng.
Hồ Bắc thuyền câu vương khói trắng.
Trời Nam khách sứ ngoái về trông.
Trên bờ chuông giục trời mau tối.
Trăng soi đáy nước, xốn xang lòng.



NGUYỄN KIỀU

Sinh năm 1694, mất 1771, hiệu Hạo Hiên, người làng Phù Xá, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đậu tiến sĩ năm 1775, làm quan đến chức Đô ngự sử, tước Bá. Năm 1742 được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc, sau về được bổ làm Đốc đồng trấn Nghệ An. Ông nổi tiếng hay chữ, có tài văn chương. Tác phẩm đáng chú ý là tập thơ đi sứ.


991. Buổi chiều qua ải Nam Quan

Thời bình, vượt ải, sứ đi xa,
Cây mừng vẫy lá, tiếng chim ca.
Nhìn lên phương Bắc đường heo hút.
Ngoảnh lại trời Nam nhớ nước nhà.
Dân đứng đầu thôn chào xe sứ.
Ngoài xe, như lụa vệt nắng tà.
Trên núi cheo leo đồn lính gác.
Dưới ải rợp cờ tiễn khách qua.


992. Đi đường núi, chợt hứng làm thơ

Đường núi cheo leo đã nửa tuần.
Người thưa, rừng rậm, đất khô cằn.
Lính phải vượt lên lo mở lối.
Làng nghèo, sứ mệt, trọ nhà dân.
Trống đánh luôn tay, xua thú chạy.
Người ngựa qua sông, cá ít dần.
Vượt qua chỗ hiểm, chờ thư tới,
Lạng thành 1) đoàn sứ tạm dừng chân.

(1) Thµnh L¹ng S¬n.


993. Những điều nhìn thấy ở Sơn Đông

Xóm làng liên tiếp, ruộng bao la.
Tranh ngói thấp cao, nhà sát nhà.
Khách buôn, lừa chở hai bao tải.
Người cày, trâu kéo xếp hàng ba.
Đường bằng xuôi ngược nhiều xe ngựa.
Phố đông nhộn nhịp lắm người qua.
Nhìn thoáng biết ngay đây ít gạo,
Nhưng nhiều mì mạch, khác bên ta.


994. Nghỉ trọ ở Giang Châu 1)

Sông Ngô man mác nước liền mây.
Thuyền đi xuôi ngược suốt đêm ngày.
Chim én về đâu không ai biết,
Nỗi buồn ve khóc chẳng người hay.
Núi xa vương vấn làn mây trắng.
Xóm gần xanh mướt mấy hàng cây.
Việc sứ vua giao, xong, trở lại,
Thảnh thơi cập bến, trọ nơi này.

(1) Tªn mét ch©u ®êi Thanh, ë Giang T©y vµ Hå B¾c ngµy nay.


995. Đi thuyền trong đêm mưa

Sông đêm yên tĩnh, sóng hiền hòa.
Mưa phùn rả rích tận canh ba.
Mưa làm khách tỉnh, nhìn trăng lặn,
Day dứt hồi lâu nỗi nhớ nhà.
Khí ẩm nhuốm màu, trăng dính áo.
Lầu bên buồn bã tiếng tù và.
Rạng sáng, long lanh hàng liễu rủ,
Như vừa tắm gội, đứng xa xa.



NGUYỄN HUY OÁNH

Sinh năm 1713, mất 1789, tự Kinh Hoa, hiệu Lựu Trai, Thạch Đình, người làng Trường Lưu, huyện La Sơn đất Hoan Châu, nay thuộc huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Xuất thân trong gia đình có truyền thống Nho học, năm 1748 đỗ Thám hoa, sau được giữ chức Đông các đại học sĩ, làm Nhập nội thị giảng kiêm Quốc Tử giám Tư nghiệp. Năm 1765 được cử làm chánh sứ sang Trung quốc, sau về được thăng làm Công bộ hữu thị lang rồi Lại bộ hữu thị lang. Ông là nhà sư phạm nổi tiếng, tác giả của khoảng 40 tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.


996. Thuận gió, thuyền lướt lên

Thần sông như thể thấu tình ta.
Buồm căng gió lộng, sóng hiền hòa.
Nước dâng, bãi thoáng, lòng sông rộng.
Một màu trời nước trải bao la.
Hòn đảo mờ mờ phơi dưới nắng.
Một cánh chim bay giữa ráng tà.
Múc chút mênh mang cho vào ấm,
Vừa đợi trăng lên, vừa uống trà.


997. Chùa Thủy Sơn 1)

Hữu tình sơn thủy cảnh nơi đây.
Sông kề bên núi, núi kề mây.
Cheo leo vách đá ngôi chùa cổ.
In ngược dòng sông tán lá dày.
Triều lên, nắng xế, chuông chùa điểm.
Sáo chài, tiếng quạ gọi trên cây.
Năm lần vinh dự theo xa giá,
Mới biết giang sơn đẹp thế này.

(1) Tøc chïa Non N­ưíc ë thÞ x· Ninh B×nh ngµy nay.


998. Cảm tác qua phố La Sơn

Cửa son, nhà gấm, vườn đầy hoa.
Trà thơm, rượu nóng, khách ngà ngà.
Thu muộn, cây phong đang rụng lá.
Bờ đê khóm liễu tóc lòa xòa.
Thuyền câu bên bến, cây che khuất.
Mái lầu mây trắng phủ xa xa.
Tên phố ngẫu nhiên trùng tên huyện, 1)
Khách sứ bâng khuâng nỗi nhớ nhà.

(1) La S¬n, tªn phè ë Trung Quèc trïng víi tªn huyÖn La S¬n (Hµ TÜnh), quª t¸c gi¶.


999. Đề động Vân Nham 1)

Không vì việc chúa đến nơi đây,
Chẳng biết kỳ quan ở chốn này.
Cửa động lua tua muôn sợi đá.
Lưng trời thác đổ trắng như mây.
Vành trăng bàng bạc, treo trên núi.
Mặt trời khuất bóng phía hàng cây.
Thắp hương lạy trước bàn thờ Phật,
Răn mình tu đức kể từ nay.

(1) Thuéc nói V©n Nham, §oan Hïng, Phó Thä.


1000. Tám cảnh đẹp ở Trường Lưu 1) 

Hoàng hôn trên núi Phượng.  2)
Nắng sớm đầu chợ Quan. 3)
Tiếng mõ chiều kho Nghĩa. 4)
Tiếng chuông sáng chùa Hân. 5)
Bóng cây che miếu cổ. 6)
Ao sen trăng nhô dần.
Hương thơm từ giếng Thạc. 7)
Vườn Nguyễn đầy hoa xuân. 8) 

1) Lµng quª t¸c gi¶.
(2) Hßn nói sau lµng Tr­ưêng Lư­u.
(3) Chợ làng Trường Lưu.
(4) Có lẽ là kho của Hội Trường Ân do tác giả dựng lập.
(5) Tức chùa Hậu Thiên ở làng Trường Lưu.
(6) Có lẽ là đền Cả, thờ thần Cao Sơn ở làng.
(7) Giếng nước lớn của làng.
(8) Lưu truyền vườn hoa họ Nguyễn Huy rộng tới bảy mẫu.



NINH TỐN

Sinh năm 1743, mất năm nào không rõ, tên chữ là Khiêm Như, Hy Chi, hiệu Mẫn Hiên, Chuyết Sơn cư sĩ, người làng Côi Trì, Yên Mô, Ninh Bình. Ông đỗ hương cống năm 19 tuổi, sau thi đỗ tiến sĩ, được thăng chức Công bộ Tả thị lang. Có làm quan dưới thời Tây Sơn, đến chức Thượng thư bộ Binh. Tác phẩm có Chuyết Sơn Thi tập và Tây bộ Mạn Hứng.


1001. Miếu vua Đinh trên núi

Chí khí bao trùm cả núi sông.
Trong miếu uy nghi bức tượng đồng.
Đề thơ, chợt nhớ trang hùng sử,
Nghìn năm rạng rỡ nghiệp cha ông.


1002. Núi Văn Lỗi 1)

Châu Ái nhiều thắng cảnh.
Núin Lỗi ở đây.
Tay Chúa viết lên đá.
Chùa chìm trong sương dày.
Bãi trước - dòng sông bạc.
Phía sau - khu rừng dày.
Leo lên nhìn tít tắp,
Thấy mình lạc trong mây.



MẠC THIÊN TÍCH

Năm sinh không rõ, mất 1780, tự Sĩ Lân. Năm 1736 được cử giữ chức Đô đốc trấn thủ Hà Tiên, một tướng có tài, đóng góp nhiều trong việc khai phá, bảo vệ vùng đất Hà Tiên. Ông tham gia Tao Đàn Chiêu Anh Các với tác phẩm chính là "Hà Tiên thập vịnh" gồm 320 bài tả 10 cảnh đẹp Hà Tiên do Mạc Thiên Tích xướng. Ông còn có "Minh bột di ngư" và nhiều tác phẩm khác.

1003. Chuông sớm chùa Tiêu

Sao đêm vương vãi sót trên trời.
Lẫn lộn cõi tiên với cõi người.
Thong thả báo tin ngày đã rạng,
Chuông chùa văng vẳng tựa đang rơi.
Lắng nghe, chim hạc giang đôi cánh.
Giật mình, con én liệng, chơi vơi.
Nhà nhà thức dậy, nghe chuông điểm.
Bất chợt tiếng gà rộn khắp nơi.


1004. Trống đêm ở thành bên sông

Đầy trời gió thổi, cuộn mây đen.
Bên sông lạnh lẽo một bóng thuyền.
Một bức thành dài che bốn phía.
Trống canh chốc chốc lại vang rền.
Trống thức cho thành yên giấc ngủ,
Bảo vệ kinh đô, khắp mọi miền.
Tài sức xin đem thờ phụng Chúa,
Biên thùy đất Việt giữ bình yên.


1005. Thạch động mây phủ

Cao tới Ngân Hà ngọn núi xanh.
Sáng ngời trong động, ngọc long lanh.
Khói mây không hẹn mà lui tới.
Mặn tình, cây cối vẫn bao quanh.
Dầm dãi gió sương, hình sắc lạ.
Thay nhau năm tháng cứ luân hành.
Kết tụ tinh hoa trời lẫn đất,
Tỏa khắp thôn quê ngọn gió lành.


1006. Cò đậu ở Châu Nham

Ráng chiều điểm xuyết cánh mây trôi.
Cò trắng bay nghiêng phía mé đồi.
Cây đứng trang nghiêm như dàn trận.
Gió lùa, tán lá rẽ làm đôi.
Như làn khói trắng, cò bay chậm,
Lúc lượn khe sâu, lúc bãi bồi.
Ngang dọc bốn phương rồi cũng chỉ
Quay về nương tựa chỗ này thôi.

1007. Trăng sáng Đông Hồ

Khói mờ, mây tạnh, trời xanh quang.
Buổi chiều, vụng nhỏ, cảnh hồng hoang.
Sóng lặng, biển xanh, nhìn hút mắt.
Ánh trăng kỳ ảo, cảnh mơ màng.
Như biển, trời trong, không vết bẩn.
Biển trời hòa một rộng mênh mang.
Cá rồng đang quẫy, khoe vây bạc.
Lung linh trên dưới mảnh trăng vàng.


1008. Sóng yên Nam Phố

Nước trời một dãi, sáng mênh mông.
Biển lặng, gió yên, vệt ráng hồng.
Sau mưa trời sạch như vừa rửa.
Khói chiều vài sợi đọng trên không.
Triều dâng, thuyền cá đi ra biển,
Chở nặng trên mui mây bập bồng.
Rồng cá ẩn mình nơi đáy nước,
Êm đềm sóng ngậm ánh trăng trong.


1009. Xóm nhỏ ở Mũi Nai

Gió thổi, nhà tranh tỉnh giấc nồng.
Quạ kêu, nhao nhác lượn trên không.
Cây xanh tỏa bóng che vườn cổ.
Cửa tím treo nghiêng vệt ráng hồng.
Bạn với hươu nai, lòng thanh thản,
Tháng ngày vui thú cạnh non sông.
Có người hỏi ai bên hàng xóm.
Văng vẳng bên tai sáo mục đồng.


1010. Làng chài Rạch Vược

Vệt nước xanh xanh ngậm nắng tà.
Làng chài Rạch Vược phía xa xa.
Gờn gợn sóng ngang, thuyền ghé bến.
Xếp thành hàng dọc, cò bay qua. 
Một chiếc áo tơi sương thấm lạnh.
Chèo khua mấy tiếng, ánh trăng nhòa.
Những muốn giúp đời mà chẳng thể,
Lòng buồn nhìn biển sóng bao la.


1011. Thú câu nhàn nhã ở Lư Khê
          Bài một

Thuyền câu một lá, trời xanh quang.
Sông như lụa trắng, lưỡi câu vàng.
Dây tơ buông nhẹ, mồi đang đợi.
Cần câu thanh mảnh giữ nằm ngang.
Cầu vồng xanh đỏ treo lơ lững.
Gió lặng sau mưa, sóng dịu dàng.
Sẫm tối, dân chài về, sót lại
Chiếc thuyền đơn độc giữa mênh mang.


1012. Thú câu nhàn nhã ở Lư Khê
          Bài hai

Trần truồng, trăng tắm dưới lòng khe.
Chuông chùa văng vẳng phía bờ tre.
Dưới trăng, nước lạnh như gương phẳng.
Một lưỡi câu buông, sóng bốn bề.
Muốn phó việc đời cho nước cuốn,
Chạnh lòng thương hộ cái le le.
Vô cảm, sương rơi vào chén rượu.
Thuyền nặng ánh trăng, chẳng muốn về.


1013. Thú câu nhàn ở Lư Khê
          Bài ba

Mây vàng, trời thẳm, nước xanh trong.
Núi đá bên khe đứng chập chồng.
Lún phún mưa rơi, tà áo mỏng.
Khói nhạt, thuyền con đứng giữa dòng.
Cá đã cắn câu, tay kéo nặng.
Nhẹ cánh buồm nâu, nước bập bồng.
Câu cá để chơi mà chốc chốc,
Vẫn nhìn xuống giỏ - được nhiều không?



NGUYỄN CƯ TRINH

Sinh năm 1716, mất 1767, tự Lã Nghi, hiệu Đạm Am, người xã An Hòa, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế ngày nay. Năm 1740 thi đỗ Hương Cống, làm tri phủ Triệu Phong, rồi Tuần phủ Quảng Ngãi. Năm 1765 được thăng Lại bộ kiêm Tào vận sứ. Ông giỏi văn chương, sở trường về thơ, nổi tiếng chính trực và có tài. Tác phẩm có "Đạm Am thi tập", "Quảng Ngãi thập nhị cảnh", "Hà Tiên thập vịnh" v.v. Các bài dịch dưới đây họa những bài tả cảnh của Mạc  Thiên Tích trong nhóm Tao Đàn Chiêu Anh Các.


1014. Chuông sớm chùa Tiêu

Sương mù ẩm ướt, gió lung lay.
Chuông chùa vọng tới, lách qua cây.
Tiếng chuông làm rụng chùm sao lạnh,
Sáng dần rừng núi, trắng dần mây.
Người người tỉnh mộng, trong chùa Phật,
Sư ngừng tâm niệm, sách rời tay.
Tội nghiệp cho sư luôn phải thức,
Đợi đánh chuông lên, báo rạng ngày.


1015. Trống đêm ở thành bên sông

Bên sông sừng sững bức tường thành.
Dưới ánh trăng tà, rộn trống canh.
Như mưa khi tạnh, khi dồn dập,
Tiếng trống lúc ngừng, lúc gõ nhanh,
Làm cá đầm xa không ngủ được,
Làm chim rừng cạnh thức trên cành.
Ai biết nhờ nơi này đánh trống,
Kinh đô mới được ngủ yên lành?


1016. Cò đậu ở Châu Nham

Núi xanh như biển, trời không mây.
Ai đưa cò trắng đến nơi này?
Buổi sáng lò dò đi bắt cá.
Chiều đậu cành thông đợi hết ngày,
Ngắm nhìn bình thản triều lên xuống,
Không so loài khác béo hay gầy.
Nực cười những kẻ giàu sang rởm,
Khinh cò thanh bạch sống nơi đây.


1017. Trăng sáng Đông Hồ

Một bơi dưới nước, một trên cao,
Ai đúc hai trăng, tự lúc nào?
Nước nói ấy trời quen bắt chước,
Trời rằng nước chụp lại trong ao.
Trăng sáng, thuồng luồng chui xuống đáy.
Tưởng ngày, chim vỗ cánh xôn xao.
Chợt nhớ Đào Chu 1) xưa hết loạn,
Ra hồ uống rượu, ngắm trăng sao.

(1) Tức Phạm Lãi thời Xuân Thu Chiến Quốc, sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn đánh được Ngô, từ quan ra sống ẩn ở Ngũ Hồ, ngày nào cũng ngồi ngắm trăng, uống rượu.


1018. Làng chài bên Rạch Vược

Làng chài yên ả đón trăng lên.
Thấp thoáng xa xa mấy chấm đèn.
Già chẳng quan tâm Tần hay Hán.
Trẻ toàn giao tiếp với khách quen.
Một lưới mà thâu toàn vũ trụ.
Đôi chèo vùng vẫy cõi vô biên.
Nghe nói thuồng luồng nay đã lớn,
Giúp làng đánh cá sống bình yên.


1019. Xóm nhỏ ở Mũi Nai

Người thưa, gò vắng, sống yên lành.
Nhà nghèo chẳng sợ mất lều tranh.
Chè đặc, trái cây mời giữ khách.
Chốc nữa vợ về nấu cháo canh.
Đủ ấm, đủ no, khinh phú quý.
Ơn trời lúa tốt với cây xanh.
Được nhàn, lại chẳng lo tô thuế,
Để đời thanh thản cứ trôi nhanh.


1020. Uống rượu đêm

Ngại ngồi thơ phú suốt đêm thâu,
Giữ bạn lại nhà uống với nhau.
Ngày ngắn kéo dài bằng thắp nến.
Chén rượu làm vơi bớt nỗi sầu.
Thời loạn, quên mình trong ánh nguyệt,
Quên lời đơm đặt lẫn buồn đau.
Cũng chẳng lên rừng, cam ở ẩn.
Cuộc đời bèo bọt, đáng gì đâu.



LÊ QUANG ĐỊNH

Sinh năm 1760, mất 1813, hiệu Tân Trai, quê huyện Phú Vang, Thừa Thiên, làm quan cho Gia Long đến chức Thượng thư và ừng đi sứ Trung Quốc. Tác phẩm có Gia Định Tam Gia (in chung với Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tĩnh).

1021. Cái thú uống rượu đêm

Ánh đèn làm nắng tắt.
Mưa rửa bóng đen xì.
Sông vương hồn khách Sở.
Trúc gợi hình Tương phi.
Trăng treo trên xóm nhỏ.
Mây lửng lờ trôi đi.
Xung quanh toàn cảnh lạ.
Rót rượu nhanh, chờ gì!



NGÔ NHÂN TĨNH

Không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết gốc người nhà Minh có tổ tiên sang Việt Nam định cư, theo Gia Long, làm quan đến chức Thượng thư, tước hầu.


1022. Ở nhà trọ Thành Tiên
          Bài một

Nửa ngọn đèn lam, tỉnh giấc nồng.
Tâm sự trăm năm, thật não lòng.
Trời lại thờ ơ không chịu giúp.
Mịt mù, mù mịt cõi mênh mông.


1023. Ở nhà trọ Thành Tiên
          Bài hai

Buồn, không ai để nói.
Thân lấm bụi dặm trường.
Sang năm ở đâu nhỉ?
Mình nhìn mình trong gương.


1024. Hoài cổ
         (Lược dịch)

Năm ngoái hoa đào nở,
Cô gái tô má hồng
Năm nay hoa đào nở.
Cô gái đã lấy chồng.
Năm ngoái hoa đào nở,
Cô ngồi buồn trong nhà.
Năm nay hoa đào nở,
Cô ngồi cười bên hoa.



PHẠM QUÍ THÍCH

Sinh năm 1760, mất 1825, tự Dữ Đạo, hiệu Lập Trai, người xã Hoa Dương, nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Năm hai mươi tuổi thi đậu tiến sĩ, năm 23 tuổi đã trải qua các chức Hàn lâm viện hiệu thảo, Kinh Bắc đạo giám sát ngự sử thuộc Ngự sử đài, kiêm sai tri công phiên. Khi Tây Sơn ra bắc, ông về Kinh Bắc ở ẩn, sau ra làm quan cho Gia Long. Ông là bạn thân của Nguyễn Du và viết đề từ cho Truyện Kiều. Tác phẩm gồm "Thảo Đường thi nguyên tập", "Lập trai văn tập", "Thiên Nam Long thủ lục" Và "Chu dịch vấn giải toát yếu"


1025. Tan chầu, trở về nhà

Chầu về, rỗi việc tựa lan can.
Tháng Hai gió rét, cánh hoa tàn.
Không biết mùa xuân qua quá nửa,
Ngoài vườn chim chóc hót râm ran.


1026. Mưa đêm

Nhè nhẹ mưa rơi, mưa như không.
Ý xuân rạo rực rộn trong lòng.
Ngủ dậy sáng mai, nhìn chắc thấy
Chồi non, cây cỏ mọc kín đồng.


1027. Ngồi một mình trong thuyền

Trên sông, trăng chiếu chếch mui thuyền.
Gió lùa, trằn trọc ngủ không yên.
Cảnh đẹp thế này mà lắm bệnh.
Ngồi nghĩ bâng quơ trước ngọn đèn.


1028. Nhớ chuyện xưa khi qua bến Chương Dương 1)

Ngồi thuyền buổi sáng, lướt trên sông.
Chim bay nhao nhác, lượn theo dòng.
Chắc chỗ này đây, nơi nước xoáy,
Nhà Trần đại thắng giặc Nguyên Mông.

(1) BÕn ®ß bªn s«ng Hång, thuéc x· Ch­ư¬ng D­ư¬ng, Thư­êng TÝn, Hµ §«ng, lµ n¬i TrÇn Quang Kh¶i ®¸nh tan qu©n Nguyªn, më ®­ưêng tiÕn vµo Th¨ng Long th¸ng T­ư n¨m 1285.


1029. Bãi Tự Nhiên 1)

Nhất Dạ đầm này, bãi Tự Nhiên.
Tiếc không may mắn gặp thần tiên.
Đành một mình buồn, ngồi uống rượu.
Lênh đênh giữa nước một con thuyền.

1) B·i c¸t c¹nh bÕn Ch­ư¬ng Dư­¬ng, tư­¬ng truyÒn lµ n¬i Chö §ång Tö gÆp Tiªn Dung.


1030. Đêm trăng nghe đàn

Đêm tĩnh yên, bất chợt
Nghe tiếng đàn đâu đây.
Mở cửa nhìn, chỉ thấy
Mảnh trăng và vườn cây.


1031. Chiều thu

Chưa hết gió đêm, lại gió ngày,
Trước sân lặng lẽ lá vàng bay.
Chỉ riêng hoa cúc không tàn lụi,
Soi bóng long lanh chén rượu đầy.


1032. Từ công đường về, ngẫu hứng mà thành

Một mình thơ thẩn đứng cầu thang.
Trước mặt, hai bên đầy cúc vàng.
Đừng hỏi vì sao hoa nở muộn -
Để người đỡ lạnh đón xuân sang.


1033. Nhìn trăng, xúc cảm thành thơ

Đêm xuân rét, khó ngủ.
Trăng sáng, trời xanh trong.
Nhà nông đang gặp hạn,
Xin đừng chiếu xuống đồng. 1)

(1) ý nãi: tr¨ng s¸ng trêi sÏ khã mư­a.


1034. Cảm hoài, ngồi dưới ánh trăng

Đêm thanh, ngõ vắng, gió trên đường.
Trên trời trăng sáng tựa vành gương.
Cũng chính trăng này đang chiếu sáng
Cả người xa xứ lẫn quê hương.


1035. Mừng được mưa

Lâu ngày hạn hán, bỗng mưa to.
Quả tình ân lớn được trời cho.
Đêm nay kê gối nằm yên giấc,
Hạn hán, mất mùa chẳng phải lo.


1036. Đêm trăng chiếu trại quân

Trại quân sương che phủ.
Đều đều trống điểm canh.
Từ lan can nhìn thấy.
Trăng lênh láng khắp thành.


1037. Đêm rằm, ngồi dưới trăng, thấy
dân thôn đi tát nước về, làm bài thơ này

Trăng tròn vành vạnh phía hàng cây.
Có rượu, có trà để uống say.
Thật lạ, không đâu buồn vớ vẩn,
Lại buổi trăng thu đẹp thế này!


1038. Thăm chùa Trấn Quốc ở Hồ Tây
Bài một

Thu vàng, chùa vắng, gió heo may.
Hành cung u tịch, lá rơi đầy.
Thuyền rẽ cánh sen, hồ sóng gợn.
Lên lầu ngắm cảnh nước và mây.


1039. Thăm chùa Trấn Quốc ở Hồ Tây
Bài hai

Nắng nhạt, hồ thu sóng bốn bề.
Khách mải ngâm thơ, chửa muốn về.
Còn cười lũ trẻ đang đùa nghịch
Giành lá sen làm chiếc nón che.


1040. Đêm cuối cùng vào tháng cuối  xuân

Trong vườn mưa lớn, gió và mây.
Bên ao lặng lẽ lá rơi đầy.
Xuân đã đi qua, không ở lại.
Chim buồn đang hót giữa lùm cây.
Khách thơ trằn trọc đêm không ngủ.
Nỗi nhớ bạn hiền chẳng phút khuây.
Một tấm lòng trung, lo việc nghĩa,
Cam đoan xin có ngọn đèn này.


1041. Thơ đề nơi ở

Âm dương, trời đất thật hài hòa.
Bốn mùa nẩy lộc, lại đâm hoa.
Vườn nhỏ đêm thanh, trăng chiếu chếch.
Then cửa không cài, đón gió xa.
Hứng lên, bày rượu mời tân khách,
Hoặc sai con trẻ kíp pha trà.
Muốn đứng hay nằm, tùy ý thích.
Ríu rít chim oanh hót trước nhà.


1042. Thăm chùa Trấn Quốc ở Hồ Tây

Bên hồ chùa nhỏ, nước xanh trong.
Cổ thụ, dây leo, đá xếp chồng.
Nơi trước vua Trần ngồi ngắm cá,
Bây giờ còn lại bãi đất không.
Như gương, mặt hồ sau mưa tạnh
Mười dặm hoa sen tỏa hương nồng.
Không phải quy y và đốn ngộ,  1)
Đến đây cốt để thảnh thơi lòng.

(1) Danh tõ nhµ PhËt: "Quy y" - ®i tu, n­ư¬ng nhê cöa PhËt. "§èn ngé" - xo¸ bá mäi tµ y, ®Ó gi¸c ngé ch©n lý ®¹o PhËt.


1043. Rét đầu xuân

Đầu xuân rét đậm, trời đầy sương.
Mưa bụi lây rây thấm ướt đường.
Việc công chưa đến, cài then cửa.
Việc tư không vội, ngủ trên giường.
Tỉnh dậy khêu đèn xem sách cổ.
Trước bụi trúc già thắp nén hương.
Cây tùng ngoài ngõ luôn xanh tốt,
Gió mưa, giá rét vẫn xem thường.


1044. Ngủ dậy, ngẫu nhiên thành thơ

Mùa đông tùng bách vẫn tươi xanh.
Mùa xuân đào nở, đỏ trên cành.
Chuyện "Mộng kê vàng" ai cũng biết.
Đừng than đầu bạc, việc chưa thành.
Ở đời không lẽ không gì trọng?
Thánh hiền vô cớ chẳng thành danh.
Tỉnh dậy, ngoài sân vừa đứng bóng.
Tựa ghế một mình, nghĩ quẩn quanh.


1045. Mừng trời mưa

Mưa lớn suốt sáng nay,
Xua cái hạn lâu ngày.
Sách và đàn ẩm ướt.
Sân vắng chim chóc bay.
Hoa sen hương thơm ngát.
Lá chuối ướt lung lay.
Chắc ngoài đồng ruộng mạ,
Đang lớn nhanh từng giây.


1046. Đêm đông

Gió rên rỉ ngoài đường.
Tiếng dế kêu thê lương.
Không ngủ, đèn le lói.
Lá rụng, thấm đầy sương.
Với tay lấy sách đọc.
Đốt thêm trầm lò hương.
Thời vận vốn là vậy,
Việc gì phải vấn vương.


1047. Đêm cuối năm, thức chờ giao thừa

Kinh kỳ trời ấm dần.
Một mình trong phòng văn
Nhìn chấm sao mờ nhạt,
Chờ năm mới đến gần.
Đọc lại thơ đã viết.
Uống rượu, đếm thời gian.
Chợt trong cung pháo nổ -
Mọi nhà bước vào xuân.


1048. Ngóng mưa

Gió lặng, trăng rất sáng.
Trời không mây, xanh trong.
Nghĩa là vẫn còn hạn.
Quang cảnh thật đau lòng.
Thương những người khốn khổ.
Thẹn mình, đành ngồi không.
Mong trời cho mưa xuống
Để cứu giúp nhà nông.


1049. Thơ tức sự: từ tháng Tư đến tháng Sáu hiếm mưa

Năm ngoái mưa to, nước ngập đồng.
Năm nay hạn lớn, đất khô cong.
Nhà nhà đều đói, khoai trừ bữa.
Cỏ cây khô cháy, nắng oi nồng.
Quang gánh, cày bừa đều tạm gác,
Mọi người túm tụm ngước mắt trông,
Thấy lính thu tô liền bỏ chạy.
Trăm bề cơ cực, khổ nhà nông.


1050. Mừng thấy mưa

Gió từ khe núi thổi qua sông.
Mây kéo ùn ùn, báo sắp dông.
Cuối cùng hết hạn, mưa đang đến,
Mang lại xanh tươi cho ruộng đồng.
Giật mình tỉnh dậy nơi đất khách.
Uống cạn mừng mưa, chén rượu nồng.
Như vậy không còn lo hạn nữa.
Ầm ầm sấm chớp phía đằng đông.


1051. Ngồi trong đêm, diễn tả nỗi lòng

Một mình, đèn le lói.
Trăng khi tỏ, khi mờ.
Chợt bên sông tiếng mõ
Làm quạ kêu vu vơ.
Dịch, Đồ không ai hỏi, 1)
Không ngủ, nằm đọc thơ.
Từ khi về ở ẩn,
Yếu, bệnh đến bây giờ.

(1) Tøc Kinh DÞch vµ Hµ §å, hai t¸c phÈm thư­êng ®­ưîc dïng ®Ó bãi to¸n.


1052. Đi theo hướng tây, đường tắc nghẽn, quay lại chuyển sang
hướng bắc Kinh thành về thăm cha mẹ

Khắp nơi giặc dã, phải đi vòng.
Lặng lẽ bước đi, lệ chảy dòng.
Ven hồ gió thổi, lau xào xạc.
Chập chờn nắng lạnh giữa dòng sông.
Báo đền nợ nước, sầu muôn thuở.
Sống nhờ kẻ khác, kiếp long đong.
Nghĩ thương cha mẹ thân côi cút,
Con vắng, hàng ngày tựa cửa trông.


1053. Cảm hoài nơi quán trọ

Xóm buồn, quán trọ ít người qua.
Vườn vắng, ve kêu dưới nắng tà.
Chém giết lẫn nhau đâu cũng thấy.
Đất rộng sông dài, cảnh xót xa.
Vài cánh quạ bay như nét chấm.
Mục đồng đầu ngõ hát ê a.
Từ quan hay ở, đều không ổn,
Việc nước đan xen với việc nhà.


1054. Nỗi lòng lúc tản bộ dưới trăng đêm thu

Chập chờn Thái Miếu quạ bay quanh.
Trăng non soi sáng nửa kinh thành.
Hồ sen nước ánh như đai bạc.
Bên chùa sương ướt khóm tre xanh.
Ngước nhìn quê cũ, mây che khuất.
Buồn bã sau lầu tiếng trống canh.
Giá nước sông Ngân ai lấy được,
Rửa sạch cho đời máu chiến tranh.


1055. Cảm hứng ngày xuân ở làng bên sông

Về đây chạy loạn lúc can qua.
Đi dạo đầu xuân, ngắm cỏ hoa.
Một mình, vườn rộng nghe chim hót.
Ao sâu cá quẫy, liễu la đà.
Thuận chân, có lúc thăm hàng xóm,
Khi nhàn, đi dạo tới chùa xa.
Lo cúc ở quê không nở được.
Cứ hễ mùa xuân lại nhớ nhà.


1056. Thu buồn

Chẳng thiết quan tâm đến tiết trời.
Cay đắng tha phương ở xứ người.
Ngong ngóng về quê, toàn mây trắng.
Bè bạn ít dần, người một nơi.
Tuổi già đau ốm còn phiêu bạt.
Vì chút hư danh hại cả đời.
Bài phú "Tiếng thu" không viết nổi.
Gió lùa chăn lạnh, lá vàng rơi...


1057. Đầu xuân

Chuyện đời tâm sự, biết ai nghe?
Nước mất, nhà tan, bệnh nặng nề.
Nhưng lúc này đây xuân đang đến.
Đầy rừng hoa nở, nước đầy khe.
Cảnh đẹp nghìn thơ không nói hết.
Đời đau, một rượu đã say nhè.
Trong suối, hoa đào đâu cũng có.
Ngư ông chẳng phải kiếm đường về. 1)

(1) Trong bµi "§µo hoa nguyªn ký", §µo TiÒm kÓ chuyÖn mét ng­ưêi ®¸nh c¸ ng­ưîc dßng suèi l¹c vµo mét chèn toµn hoa ®µo, phong c¶nh ®Ñp, ng­êi d©n sung s­ưíng thanh b×nh vµ ®ãn tiÕp «ng ta rÊt nång hËu. Sau khi ra vÒ, ngư­êi ®¸nh c¸ nhiÒu lÇn muèn quay l¹i, nh­ưng kh«ng t×m thÊy ®ư­êng vµo.

1058. Một môn sinh trẻ tuổi xin thơ xuân,
        viết bài này để đáp lời

Việc học nên lo, chớ biếng lười.
Người xưa đã dạy, chớ buông lơi.
Tuổi trẻ qua đi, không níu lại.
Học sách, học thầy chẳng phút ngơi.
Công danh, tiền bạc đều bèo bọt.
Chữ trung, chữ hiếu nghĩa muôn đời.
Các thánh xưa nay thường vẫn dạy:
Phải lo lập nghiệp để thành người.


1059. Đêm tàn, nghe mưa

Mưa thu, chợt hứng, lại ngâm nga.
Sai con xem kỹ cửa trong nhà.
Sợ bệnh, đành thôi không uống rượu.
Lo ăn, tính chuyện ruộng và gà.
Dồn dập mưa rơi trên tầu lá.
Tiếng chày giã gạo phía xa xa.
Nhà bên đã dậy, đèn le lói.
Đâu đây văng vẳng tiếng tù và.


1060. Cảm hứng trước cảnh đồng nội

Phòng vắng, trong lòng chẳng thảnh thơi.
Dép cỏ ra ngoài dạo chút chơi.
Giữa đồng điếm nhỏ, cầu qua suối.
Lô xô dãy núi phía chân trời.
Thăm chùa đúng lúc sư cầu nguyện.
Bên ao ai nói: Cá hay người? 1)
Lũ trẻ học xong đang đùa nghịch,
Chỉ trỏ trời mây, nói lại cười.

(1) Theo s¸ch Trang Tö: Trang Tö cïng HuÖ Tö ®i ch¬i trªn cÇu s«ng Hµo, thÊy c¸ dư­íi s«ng, bÌn nãi: "C¸ b¬i léi tung t¨ng thÕ kia ch¾c thÝch l¾m". HuÖ Tö vÆn l¹i: "Ngµi ®©u ph¶i lµ c¸, lµm sao biÕt ®­ưîc niÒm vui cña c¸?"


1061. Trên đường về kinh, nhớ cảnh cũ người xưa

Nước chảy, mây trôi vẫn thế mà.
Chuyện mười năm trước chẳng nguôi ngoa.
Đường cũ thấy bia: "Mời xuống ngựa!"
Cây xưa ve đậu, hát ngân nga.
Tường cung quốc mẫu đầy rêu phủ.
Phủ đệ vương quan bóng xế tà.
Dân thôn chẳng hiểu suy hay thịnh,
Hội hè phô diễn cái phồn hoa.


1062. Đi dạo trên đường nhỏ xuyên qua cánh đồng

Buổi sáng trời khô, dạo giữa đồng.
Mờ mờ một dãy núi liền sông.
Dân xóm chào thầy, dù chẳng dạy.
Ngoài đường trò cũ gặp rất đông.
Quạ kêu, sực nhớ quên đem rượu.
Dải mũ, chân trần rửa nước trong. 1)
Bất chợt hứng thơ, chưa thành ý,
Đã thấy vi vu sáo mục đồng.

(1) S¸ch M¹nh Tö cã c©u: "N­ưíc Thanh Lang trong cã thÓ giÆt d¶i mò cña ta. N­ưíc s«ng Thanh Lang ®ôc, cã thÓ röa ch©n ta", ý nãi tùy thêi c¬ mµ hµnh ®éng, øng xö.


1063. Đề thơ ở ngôi chùa ngoài đồng

Không hề biết Tây Trúc,
Người nước Nam thuần phong.
Muốn nương nhờ cửa Phật,
Để bày tỏ nỗi lòng.
Nhưng lòng không giải được.
Hư tịch có mà không.
Đành ngồi dưới gốc nhãn,
Nghe chim hót ngoài đồng...


1064. Núi Vệ Linh 1)

Ngựa sắt Thiên Vương đã hóa rồng.
Núi thành tôn miếu đứng trên không.
Một ngôi chùa nhỏ kề bên cạnh.
Điệp trùng xanh biếc một rừng thông.
Trong núi dân làng chơi với hổ.
Hái sen, thôn nữ nghịch ngoài đồng.
Trong chùa nhộn nhịp người dâng lễ.
Bên ngoài, nắng chếch nửa dòng sông.

(1) Thuéc huyÖn Sãc S¬n ngµy nay, t­ư¬ng truyÒn lµ ngän nói n¬i Th¸nh Giãng bay lªn trêi sau khi ®¸nh th¾ng giÆc ¢n.


1065. Cùng bọn trò nhỏ đi thăm chùa Phúc Khánh

Chùa cổ một mình, gạch bám rêu.
Tán lá như đan sợi nắng chiều.
Với dăm trò nhỏ cùng đi dạo.
Tiếng lá thông reo tựa tiếng triều.
Gian khó đường đời, không ngựa tốt.
Hy vọng thiền tâm, ng đạo nhiều.
Cực lạc nơi nào chưa biết rõ,
Chỉ biết lòng buồn nghe cuốc kêu.


1066. Hạn hán lâu ngày

Đồng khô nứt nẻ, hạn lâu ngày.
Đêm qua gió lạnh thổi về đây.
Loạn lạc càng làm dân đói khổ.
Ích gì gọi gió với cầu mây.
Dẫu muộn, vẫn còn mong được cấy.
Ruộng đồng vất vả, việc luôn tay.
Chống gậy, ngước lên nhìn chợt thấy
Ùn ùn mây xám phía trời tây.


1067. Vịnh cảnh chiều thu ở ngoại thành

Đồng ruộng mênh mông, ráng mỡ gà.
Trời thu xanh thẳm, núi xa xa.
Khói phủ hàng cây như đốn ngọn.
Nửa núi vàng ươm ánh nắng tà.
Phiêu bạt nhiều năm nơi đất khách.
Nước mất làm sao giữ được nhà.
Nếu có tử chi may hái được,
Thương Nhan thử hỏi kiếm đâu ra.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét