Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2020

Cổ Thi Tác Dịch





Cổ Thi Tác Dịch. Thơ Chữ Hán Việt Nam 
MAI AM

Tên thật là Trinh Thận, tên chữ là Thục Khanh, con gái vua Minh Mạng, em ruột Tùng Thiện vương và Tuy Lý vương, thường gọi là Lại Đức công chúa. Tác phẩm có Diệu Liên tập.


1234. Cảm xúc ở bến Thuận An

Bãi sông cát mịn ụn thành cồn.
Điện xưa còn lại chiếc lầu con.
Giật mình trước cảnh thành hoang phế.
Không nói đến buồn đã thấy buồn.
Lau trắng, tranh vàng, bờ lũy cũ.
Cỏ xanh, sóng lớn, khuất thuyền son.
Nắng chiều như hiểu lòng ly khách,
Thuyền đi còn gửi chút hoàng hôn.



TRỊNH HOÀI ĐỨC

Sinh năm 1765, mất 1828, tự Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai, người gốc Phúc Kiến, Trung Quốc, làm quan với Gia Long đến chức Lại bộ thượng thư, năm 1802 đi sứ sang nhà Thanh, là nhà thơ nổi tiếng đất Gia Định; có thời gian sống ở Campuchia.


1235. Làm khách lâu ngày ở Chân Lạp 1)

Thuyền con vượt sóng chặng đường dài,
Đi qua Tiên Phố đến Kim Đài.
Xuân đến mà còn đang đất khách,
Biết nhờ ai gửi giúp cành mai? 2)

(1) Tøc C¨mpuchia ngµy nay. Bµi nµy viÕt khi t¸c gi¶ ®i sø tíi n­ưíc nµy n¨m 1784.
2) TÝch kÓ r»ng ®êi TÊn, Lôc Kh¶i bÎ cµnh mai chê ng­ưêi ®­ưa tin chuyÓn cho b¹n lµ Ph¹m TiÖp.



PHAN HUY CHÚ

Sinh năm 1782, mất 1840, tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong, thi chỉ đỗ tú tài, ở nhà đọc sách, sau được vua Minh Mệnh mời vào cung làm Biên tu Quốc Tử Giám. Hai lần đi sứ Trung Quốc. Ba bài thơ này của ông viết trong thời gian ấy. Ông là nhà bác học lớn, tác giả bộ "Lịch triều hiến chương loại chí" soạn trong 10 năm, có thể ví như cuốn bách khoa toàn thư của Việt Nam thời phong kiến.


1236. Ở Hành Châu, đêm mưa nghe tiếng chuông

Con thuyền lướt nhẹ dọc sông Tương,
Cách ải Nam Quan vạn dặm đường.
Đêm mưa Hồi Nhạn 1) nghe chuông gióng,
Thấy lòng da diết nhớ quê hương.

 (1) Ngän nói ë phÝa Nam thµnh Hµnh Ch©u.


1237. Nghỉ lại ở Tương Âm 1)
            Bài một

Sắc núi mờ mờ, mưa lâm thâm.
Mái chèo rẽ sóng tới Tương Âm.
Thành vắng đêm mưa, thuyền tạm đỗ.
Canh cánh quê hương nỗi nhớ thầm.

(1) Tªn mét huyÖn ë tØnh Hå Nam, Trung Quèc, n¬i thuyÒn cña Phan Huy Chó v× gÆp m­ưa ph¶i tró l¹i ba ngµy, trªn ®­ưêng ®i sø tíi B¾c Kinh.


1238. Nghỉ lại ở Tương Âm
            Bài hai

Mưa tạnh, mù tan, doi cát nông.
Nước trời pha lẫn, màu xanh trong.
Gió nam chưa gặp, buồm chưa kéo,
Buộc thuyền dưới liễu sát bờ sông.



CAO BÁ QUÁT

Sinh năm 1809, mất 1854, tự Chu Thần, hiệu Cúc Đường, người huyện Gia Lâm, Hà Nội, đỗ cử nhân năm 1831, được giữ chức Hành Tẩu ở bộ lễ. Đời ông nhiều sóng gió, từng bị bắt , tống ngục, tra tấn và đày sang Inđônêxia, Cămpuchia. Năm 1853 ông tổ chức khởi nghĩa và bị giết chết trong chiến trận (1854). Ông còn là nhà thơ lớn, tác giả hơn 1000 bài thơ các loại.


1239. Tắm ở khe Bàn Thạch

Sáng tắm khe Bàn Thạch.
Nhặt sỏi chơi suốt ngày.
Cả giang sơn nhặt mãi,
Chưa đầy một vốc tay.


1240. Xuân sớm ở An Quán

Khách kể: Ngày xưa giàu, dân đông.
Tường trắng, gác son soi bóng sông.
Nay chỉ thấy chim, nhiều vô kể,
Quanh quẩn Hồ gia 1) cứ lượn vòng.

1. Mượn ý hai câu trong bài Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích,  ý nói về sự san sút kinh tế.


1241. Ông Lê Bảo Xuyên 1) họa thơ tôi, còn biếu
thêm quả na. Xin họa lại bài thơ ấy

Quen rồi thành bạn chốn thôn quê.
Gặp nhau, thành lệ, uống say nhè.
Cây trái Giang Nam ta cứ nếm.
Chỉ sợ cụ say, quên lối về.

1. Bạn tác giả, tự Tồn Châu, người Đà Nẵng.


1242. Suốt đêm một mình lo buồn

Không gió, không trăng, không ánh đèn.
Lo buồn, đi lại giữa hàng hiên.
Trách dế lòng người không hiểu ý,
Vô tình ri rỉ tiếng thu rên.


1243. Cúc đã hé nụ. Có người khoe chim hồng tước,
 viết bài thơ này hỏi mượn

Thu về, quán trọ vắng, buồn thay.
Bác khoe chim quí hót rất hay,
Còn biết ngâm thơ. Xin mượn tạm
Về vui với cúc nở bên này. 1)

1. Chim hồng tước, trong nguyên bản là mai hoa điểu, chim hoa mai. Tác giả chơi chữ, mượn chim cũng như mượn hoa mai về chơi với hoa cúc.


1244. Tám bài tứ tuyệt vịnh Hồ Tây 1)
Bài hai

Lòng xuân phơi phới, không kìm được.
Tây Hồ vẻ đẹp sánh Tây Thi 2):
Mày ngài rạng rỡ - làn sóng lặng.
Dây lưng - bờ cỏ uốn xanh rì.

1. Hồ Tây ở Hà Nội.
2. Tên người đàn bà nước Việt, Trung Quốc, đep nổi tiếng thời Xuân Thu.


1245. Tám bài tứ tuyệt vịnh Hồ Tây
Bài bảy

Cầm câu, thong thả dạo quanh co.
Không câu, chỉ muốn vợi buồn lo.
Lũ cá không tin người vô hại,
Hễ thấy, đua nhau trốn đáy hồ.


1246. Ông Đoàn Tính cho người đến thăm,
        vội viết thơ này đáp tặng

Một bọc trà xanh, thư mấy chữ
Nơi xa gửi đến chốn lưu đầy.
Xin báo tiên sinh: Tôi vẫn khỏe,
Vẫn nhàn, mặc sức ngắm trời mây.


1247. Ở quán trọ, dậy sớm

Nhà tranh, gà mới gáy.
Trăng lên, trời đầy sương.
Nghe tiếng xe cót két,
Biết có khách trên đường.


1248. Thăm lại nơi đọc sách

Khóm liễu bên tường nay đã lớn.
Thư phòng không sách, cảnh tàn hoang.
Nhớ những đêm mưa, trời nổi gió,
Sáng dậy đầy hiên ngập lá vàng.


1249.Hoa rụng

Tiếng cuốc đêm mưa thật não lòng.
Cuốc kêu làm rụng những cánh hồng.
Xuân sắc, thương hoa không giữ được,
Mệnh bạc thôi đành thua gió đông.


1250. Ngẫu hứng thành thơ

Đêm qua hoa mai nở.
Ngoài song trăng sáng ngời.
Sáng dậy - trời tĩnh lặng,
Biết là tuyết đã rơi.


1251. Sáng sớm ra đi từ phố Nghĩa Quảng

Tiếng gà eo óc gáy đầu thôn.
Sao Hôm gác núi, mảnh trăng tròn.
Gió rừng, lá rụng, lưng lừa lạnh.
Khách dậy, lên đường rời Thạch Môn.


1252. Tức sự ở quán trọ

Buổi sáng, xung quanh giống mọi ngày.
Khói mờ, những tưởng đang trong mây .
Ngồi lâu, quên mất mình là khách.
Hương cau nhè nhẹ, gió heo may.


1253. Lại thêm một bài thơ tặng bạn

Gặp chỉ một đêm, đừng quá vội.
Du khách đường xa, lâu mới về.
“Quay đầu về núi” 1), tôi cùng bác.
Nơi nào có núi, ấy là quê.

 1). Người Trung Quốc có câu: “Cáo chết ba năm còn quay đầu về núi”, ý nói tình yêu quê cũ.


1254. Dậy sớm ở núi

Nhà tranh treo vách núi.
Lối nhỏ ngập lá cây.
Trời se, nước thu biếc.
Trang lặn, đã rạng ngày.


1255. Tạm nghỉ chân trên núi

Ngồi pha trà trên núi.
Trà thanh, người cũng nhàn.
Gió mát hây hây thổi.
Trong rừng chim hót ran.


1256. Trồng mai

Gieo hạt mai lên núi.
Giống thanh tao, tuyệt vời.
Gặp mưa xuân, tươi tốt,
Thành bức tranh cho đời.


1257. Đề vách quán Thanh Phong

Nỗi buồn khẽ chạm vẫn gây đau.
Trăng thanh gió mát vẫn buồn rầu.
Đèn như hạt đỗ, chăn bông lạnh.
Tình buồn quả thật nặng và sâu.


1258. Từ đình Ái Liên, họa thơ Hòa Phủ
Bài một

Nghìn thước tâm tình giấu thật sâu.
Đứng tựa lan can, dưới mái lầu.
Mỉm cười lặng lẽ, không ai thấy.
Tiếng đàn nhà bên ngân rất lâu.


1259. Từ đình Ái Liên, họa thơ Hòa Phủ
Bài hai

Ai sang nhà hàng xóm
Nói với người chơi đàn:
Đêm qua gió đông thổi
Mang xuân cho thế gian.


1260. Từ đình Ái Liên, họa thơ Hòa Phủ
Bài ba

Cửa sài luôn mở rộng.
Chủ chơi xuân chưa về.
Phu vườn báo tin tốt:
Có khách thăm vườn tre.


1261. Từ đình Ái Liên, họa thơ Hòa Phủ
Bài bốn

Uốn khúc sông xuân, nước lững lờ.
Cảnh vật ân cần đón khách thơ.
Thế sự thế nào, đừng gạn hỏi.
Một chiếc thuyền con, kia, đang chờ.


1262. Mười bài tuyệt cú mùa xuân
Bài tám

Vườn xưa cỏ vẫn mọc.
Xuân lại đến bên đầm.
Chợt buồn, nhìn sông Nhị,
Lòng lại hướng về Nam.


1263. Xóm nhỏ chiều buông

Vi vu gió nhẹ thổi.
Nửa núi ngập nắng vàng.
Đôi chim đậu cành trúc.
Đàn trâu đi về làng.


1264. Ráng chiều núi xa

Hoàng hôn buông nhẹ, nước mênh mang.
Nhấp nhô bốn phía lũy tre làng.
Nhàn nhạt trời tây, hồng một dải.
Núi xanh vệt sáng mỏng bắc ngang.


1265. Vườn cau sau mưa

Đêm trước sương rơi như muối kết.
Sáng dậy mưa phùn tựa lưới giăng.
Mưa hết, mây tan, trời hửng nắng.
Nửa vườn ngập nước, giống hình trăng.


1266. Gió nhẹ thổi qua ruộng lúa

Lưng tựa chiếc bừa, bên mép sông,
Ngắm nhìn ruộng lúa sắp đâm đòng.
Nghe nói có mưa khi gió lạnh.
Nhìn trời đoán tiết - thú nhà nông.


1267. Chim hồng buổi sáng ở bến sông Nhị

Bốn bề lúa tốt, một màu xanh.
Tính chuyến về Nam gửi thiếp lành.
Cuối năm, quê cũ người chưa đến.
Cầu nhỏ lối về mây vấn quanh.


1268. Tiếng chày đêm ở Đào Xuyên

Tiếng chày giã gạo đầu thôn Bắc.
Nghe nói về thêm mấy chục nhà.
Có kẻ đang buồn, nghe tiếng giã,
Chạnh lòng, tê tái nhớ quê xa.


1269. Uống say, ngủ ở điếm sông

Uống rượu bên cầu với gió đông.
Chùa vắng, điếm canh cũng trống không.
Mặc kệ sương rơi, ta cứ ngủ.
Nhờ rượu, chuông kêu chẳng bận lòng.


1270. Cô gái đi trên cầu lúc chiều tối

Lo rét không bằng lo đói ăn.
Gạo đắt, phải cầm cả áo, khăn.
Biết có người chờ bên bậu cửa,
Lầm lũi một mình rảo bước chân.


1271. Tiễn bạn ra ải

Giữ bạn, cầm cương, không giữ nổi.
Lạnh lẽo mây chiều trên núi cao.
Đường tới biên cương nhiều lối rẽ.
Một ngựa, một thân, đi lối nào?


1272. Tiễn bạn

Cửa khép, ngôi nhà tranh.
Chùa nhỏ trên núi xanh.
Nhiều chỗ chưa xem hết,
Nhưng mưa, đành tiễn anh.


1273. Nghe tiếng sáo

Sáng sớm đầu sông rộn tiếng ca.
Xế chiếu sáo trúc thổi ngân nga.
Tiếng sáo tỉ tê bên gối mỏng,
Làm khách tha phương chạnh nhớ nhà.


1274. Qua đò sông Gianh giữa trời mưa

Sương biển phủ mờ bãi cát nông.
Xa xa lởm chởm núi hình cong.
Theo dọc hai bờ cơn gió thổi.
Buồm như chiếc lá, cứ xoay vòng.


1275. Đại hàn

Người nghèo sợ rét sớm.
Người giàu không thích hè.
Mặc người yêu, người ghét,
Năm mới lặng lẽ về.


1276. Nắng mới, sau hôm lập xuân một ngày

Xuân về xua hết rét mùa đông.
Hoa nở sáng nay đủ tía hồng.
Việc đời giá được như cây cỏ,
Sau mưa trời lại sạch, xanh trong.


1277. Chiều tà, uống rượu say, trở về

Uống say, nghiêng ngả, tự về nhà.
Một dải sông mờ phía xa xa.
Xuống ao khẽ hỏi bông sen đỏ:
"Liệu có đỏ bằng mặt của ta?"


1278. Xuân sớm ở An Quán

Chuông điểm canh ba, vẳng tiếng gà.
Pháo nổ râm ran, rộn mấy nhà.
Tựa cửa đứng nhìn - đường ít khách.
Ít cả ánh đèn nơi xóm xa.


1279. Nghỉ lại ở chùa trên núi

Sư tham thiền tĩnh tọa.
Bên song, trăng sáng ngời.
Chim hạc từ đâu đến.
Như mưa, hoa tùng rơi.


1280. Ngẫu hứng khi đi chơi sông Hương

Lâu đài cung điện trải ven sông.
Trại giam, dinh đốc đối tây đông.
Suốt bốn mươi năm suy lại thịnh,
Riêng hoa sen nở, vẫn tươi hồng.


1281. Tát nước đồng cao

Hai người thoăn thoắt chiếc gàu dây.
Bụng đói, môi thâm, mới rạng ngày.
Đê dài nhiều chỗ không còn cỏ.
Ruộng rộng dăm nơi bén mạ gầy.


1282. Nghe mưa suốt đêm, cảm tác

Mưa phùn dai dẳng suốt đêm đông.
Leo lắt ngọn đèn, lạnh, trống không.
Kẻ ở phòng khuê, người biên ải.
Nhớ nhau, ai chẳng tái tê lòng.


1283. Chiếc cầu gãy của Đoan Công 1)

Nơi đây - cầu gãy, sông bồi lấp
Ngày xưa nghe nói chốn kinh thành.
Biết bao triều đại từng oanh liệt
Mãi mãi vùi chôn dưới cỏ xanh.

1). Có lẽ chỉ chúa Nguyễn Hoàng (1525 – 1613), từng được vua Lê phong tước Đoan quận công rồi Đoan quốc công.


1284. Thơ vặt làm khi ở Hạ Châu

Gác lầu sát bến, nước mênh mang.
Hoa cỏ tốt tươi, thông mấy hàng.
Cửa quan không đóng, xe vào thẳng.
Hầu xe da trắng toàn da vàng.


1285. Đêm rằm gió lớn

Suốt đêm gió lớn, thổi ào ào.
Ngoài cửa Thuận An, sóng biển gào.
Hùng khí Chu Du chưa tắt hẳn,
Đánh tan tàu lớn bọn Hồng Mao 1).

1. Chỉ người phương Tây.


1286. Dọc đường Ninh Bình

Sông như dải lụa đẹp trên tay.
Núi như chén ngọc đãi khách say.
Trăng gió xem ra lâu mới hết.
Chỉ sợ nhà thơ không đến đây.


1287. Chải tóc

Sách đọc năm xe mà sống uổng.
Tóc cứ thưa đi theo tuổi đời.
Thôi chẳng so đo đời với tóc:
Rốt cục cả hai luôn rối bời.


1288. Diễu Phật gãy tay

Ai khen Phật rắn tựa kim cương?
Nhìn kia, tay gãy, nghĩ mà thương.
Lo mình chưa nổi, lo ai nữa?
Sư thó oản ngài, lũ bất lương!


1289. Đêm lạnh

Trời lạnh không ngủ được,
Dậy chữa thơ, chiếc đèn
Hết dầu, gọi thằng nhỏ.
Thằng nhỏ ốm, nằm rên.
Đành lấy chiếc chiếu mỏng
Đắp cho nó ngủ yên.


1290. Qua núi Dục Thúy

Đất trời có Dục Thúy.
Muôn thuở có chùa này.
Phong cảnh đã tuyệt đẹp,
Lại thêm ta đến đây.
Muốn leo lên đến đỉnh
Gửi lòng vào trời mây.
Muốn mà làm không được.
Thường vẫn thế xưa nay.


1291. Lên núi Hoành Sơn

Non xanh, núi biếc tận chân trời.
Cỏ cây như muốn níu chân người.
Chiến tranh sót lại, đây, bờ lũy.
Ai tài, giữ được sóng ngoài khơi?
Núi Bắc mây tan, trời đã tạnh.
Xóm Nam buổi sáng, nắng vàng tươi.
Xuống rồi mới biết leo lên mệt.
Tiếc bị cuốn theo sóng cuộc đời.


1292. Ngày mười sáu, neo thuyền ở bến Lữ Thuận,
họa thơ Trần Ngộ Hiên

Mưa, cánh buồm thêm nặng.
Gió, thuyền đậu bến sông.
Đường còn xa muôn dặm.
Một ngày dài ba đông.
Đời biết ai xấu tốt?
Sóng lớn giữa cuồng phong.
Thẹn mình luôn lận đận,
Thả buồn xuôi theo dòng.


1293. Trả lời Trần Ngộ Hiên

Gặp nhau, chỉ đứng lặng.
Bác đừng trách thằng này.
Bất tài mà bị ghét.
Ốm, còn chạy suốt ngày.
Biển xa, sông càng xiết.
Trời lạnh, trăng thêm gầy.
Nhiều khi buồn, tự hỏi:
Đời đểu, tính sao đây?


1294. Trọ ở Lạc Sơn

Đường hẻm quanh co giữa núi ngàn.
Chân đi, đi mãi, nghĩ miên man.
Khe núi lơ thơ làn khói biếc.
Con suối lách qua bậc đá tràn.
Tiễn khách, chim bay, kêu thảng thốt.
Đón người, nở muộn những chùm lan.
Còn trẻ mà thân luôn lặn lội.
Đường đời phía trước thật gian nan

1295. Chơi phố Hội An, gặp đào hát người Vị Thành

Tiếc gặp nhau đã muộn,
Lại đất khách thế này.
Xa quê, nghe đàn hát
Dưới trăng vàng đêm nay.
Đèn sáng, lửa lòng tắt.
Lệ khô, rượu còn đầy.
Bạn bè giờ đã ít,
Tiếc gì bài hát hay!


1296. Nhận được thư bạn cũ ở Hà Thành báo
chuyện gia đình và hỏi về những bài văn thơ mới viết

Được biết Chương Sơn, nơi cố hương,
Hai con, bố mẹ vẫn bình thường.
Sáu năm lạnh lẽo nương đất khách,
Một bức thư con ấm lạ thường.
Mọi chuyện cổ kím cần phải rõ,
Dẫu buồn bèo nổi nghiệp văn chương.
Biết trước công danh luôn tráo trở,
Mong về sống ẩn với người thương.


1297. Một mình trong đêm, viết về nỗi lòng

Đồng hồ nhỏ lệ, khóc trong đêm.
Rượu đang còn đó, uống say mèm.
Đèn mờ soi lạnh lòng du khách.
Ghế ngắn khách ngồi giở thơ xem.
Lão Đỗ 1) bệnh nhiều, gầy đét mãi.
Xương Lê 2) đọc lắm, buồn, buồn thêm.
Ngồi bên cửa sổ lòng xao xuyến.
Mờ ảo sông Ngân, dải lụa mềm.

1). Tức Đỗ Phủ.
2). Tên khác của Hàn Dũ, một tác giả đời Đường.        


1298. Đêm ngồi một mình

Nhà thị thành, chật hẹp.
Người vừa ốm va già.
Suốt một đời vất vả.
Thua từ lúc sinh ra.
Hết lụt lại đến hạn.
Dân đói khổ, kêu ca.
Muốn giúp đời, không được,
Thẹn mình là nho gia.


1299. Cuối xuân, thấy cảnh, nhớ người

Xuân qua, màu đỏ gợi thêm sầu,
Khiến lòng tê tái lúc xa nhau.
Đường đời lỡ bước, thôi đành chịu.
Trăng gió còn đây, người ở đâu?
Đứt ruột khi nhìn thông trút lá.
Nóng lòng muốn liễu nở hoa mau.
Phòng văn ngồi mãi, đầu thêm nặng.
Tin tức xem chừng vắng đã lâu.


1300. Nghe tin Lưu Nguyệt Trì ra Bắc,
không đến tiễn được, xin gửi hai bài thơ này
Bài một

Nhận chiếu vua, người ngựa,
Bác lên đường đi xa.
Chắc đang thầm vui sướng
Sắp gặp lại mẹ cha.
Tôi buồn vì vắng bác,
Buồn cả vì xa nhà.
Xin nói giùm bè bạn:
“Lý Bạch vờ điên mà”.


1301. Nghe tin Lưu Nguyệt Trì ra Bắc,
không đến tiễn được, xin gửi hai bài thơ này
Bài hai

Trời cho tính ngay thẳng,
Mà đời lắm long đong.
Tiếc đôi chân quá ngắn,
May giữ được tấm lòng.
Giận đời luôn tráo trở.
Nhớ nhà, đêm ngóng trông.
Nhà tôi chắc khổ lắm.
Bác ghé thăm được không?


1302. Nỗi cảm nhớ trên đường xa

Quán rượu, cờ xanh, dương liễu xanh.
Dừng xe hít thở khí trong lành.
Bay ngược chiều nhau, bầy én nhỏ.
Trong lồng líu ríu mấy con oanh.
Đi đường đã mệt, còn mưa bụi.
Xa quê, hoa nở, ngắm không đành.                                        
Ngẫm nghĩ chuyện xưa thêm não ruột.
Xốp nhẹ như mây, mộng chẳng thành.


1303. Vịnh núi Tản Viên 1)

Núi thiêng truyền tụng mãi xưa nay.
Tròn trịa bốn bề tựa tán cây.
Muôn bậc vươn cao, khinh nước lụt.
Sao trời như thể dưới tầm tay.
Có vị tiên già đang ẩn dật,
Xa lánh cõi trần, giữa khói mây.
Vua Đường khiếp đảm, Cao Biền nản 2).
Trấn giữ phương Nam ngọn núi này.

1. Nằm ở huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, vì hình núi tròn nên gọi là Tản Viên. Theo truyền thuyết thần núi Tản Viên vẫn còn ngự trên núi.
2. Vua Đường nghe đồn Tản Viên là nơi linh thiêng, sợ để vậy sẽ sinh ra người tài giỏi hậu họa khôn lường, bèn sai Cao Biền, là thầy địa ly nổi tiếng thời ấy sang làm An Nam \đô hộ sứ để yểm bùa. Cao Biền yểm không nổi, bèn cho người về tâu rằng “Thần núi Tản Viên rất thiêng, không làm gì được”.


1304. Người ăn mày

Ngập ngừng, dù đói rét,
Không dám xin người đời.
Chỉ một xu là sống.
Áo quần rách tả tơi.
Quan quát: “Đang vụ thuế,
Mày còn bỏ đi chơi?”
Các cháu đừng trêu chọc:
Ăn mày cũng là người!


1305. Gặp người ngoài Bắc vào, hỏi chuyện gia đình

Lặng lẽ nhìn nhau, giọt lệ sa.
Hỏi thăm làng xóm, chuyện ngày qua.
Được biết hai thân đều khỏe mạnh,
Lũ con sung sướng vẫn còn cha.
Gọn gàng bản thảo trong bồ sách.
Cây mai đã lớn, vẫn sau nhà.
Ai nỡ gọi hồn người chửa chết?
Nhìn về phía bắc, dặm trường xa.


1306. Ngày tết Đoan Ngọ

Miền Bắc xa nghìn dặm.
Vào Nam đã khá lâu.
Đường về quê trắc trở.
Thời gian - chuỗi buồn rầu.
Uống rượu say để ngủ
Ngay dưới dàn hoa bầu.
Ngày tết, vui thả sức.
Đọc nhiều ích gì đâu!


1307. Cảnh chiều ở thôn quê

Bờ tre râm mát, khói vòng vo.
Tiếng người giã gạo, tiếng hò dô.
Khách đến, sách hay chia cùng đọc.
Bình thơ mới viết với ông đồ.
Hòn Chén, rừng cây xiên ánh nắng.
Sông Hương, triều xuồng, bãi bồi nhô.
Qua rèm gió thổi hiu hiu mát,
Một phần nhẹ bớt nỗi buồn lo.


1308. Tình hận

Chút danh nho nhỏ trói chân tay.
Lại thêm ly biệt mối tình này.
Thói quen chưa bỏ, thôi đành thế.
Tình duyên đã bén, tính sao đây?
Hoa đẫm hơi sương như ngấn lệ.
Ngỡ tiếng bạn kêu, chim gọi bầy.
Tình hận bao điều lòng muốn nói,
Mà im, người khác khỏi buồn lây.


1309. Từ biệt lang trung họ Phạm 1)

Hai người ly biệt bốn năm nay,
Giờ gặp, nghẹn ngào, khó nói thay.
Bao giờ mới hết đời trôi nổi?
Ngậm ngùi, bịn rịn lúc chia tay.
Đỗ Phủ nhớ quê, buồn ứa lệ.
Thẩm Ước 2) làm quan, bệnh, yếu gầy.
Sáng mai ngoái lại nhìn quê cũ,
Nam Bắc một trời mây nối mây.

1. Tức Phạm Sĩ Ái, tên tự là Đôn Nhân, người xã Trung Lập, huyện Đường Hào, nay là Mỹ Hào, Hải Dương, đỗ Hoàng Giáp năm 1832, làm lang trung bộ Lại.
2. Người đời Nam Triều, làm quan qua ba triều là Tống, Tề và Lương, sau xin về ở ẩn, viện ly do sức khỏe.


1310. Núi vọng phu

Một mình trên núi đứng bồng con.
Mỏi mắt chờ chồng, nhạt phấn son.
Biền biệt người đi, tin tức vắng,
Trời bể mênh mông, cứ héo mòn.
Vách núi mây trùm như tóc xõa.
Sương như lệ máu giữa hoàng hôn.
Đổi thay trời đất, tình không đổi.
Trong động, tiếng chuông cứ đổ dồn.


1311. Lại gửi Phương Đình 1)

Mười năm cầm bút thật phí công,
"Vui sau, lo trước" vấn vương lòng.2)
Chuyện riêng vân vũ, tan rồi hợp.
Thế sự vơi đầy giống nước sông.
Khóm cúc vườn xưa chờ thu đến.
Bụi mai gác nhỏ một mình trông.
Cái thói đa tình mà khó bỏ.
Hai chữ phù danh lỗi với ông.

1. Tức Nguyễn Văn Siêu, bạn thân của tác giả.
2. Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc - một thuyết của đạo Nho.


1312. Nhớ buổi chia tay ở chùa Châu Long

Mới chia tay ba bạn,
Nay đã được sáu tuần.
Toàn những người lận đận,
Buồn đau lúc còn xuân.
Mưa rơi không ngủ được.
Vó ngựa phi xa dần.
Tựa lan can đứng lặng,
Cứ nghĩn về cố nhân.


1313. Đi thuyền tới Hưng Yên

Thuyền nhẹ lướt trăm dặm.
Nhắm thẳng hướng Đằng Châu.
Sông lớn chia trời đất,
Vùng đất trấn mỡ màu.
Sương che Hoa Dương Quán.
Khói phủ Bán Nguyệt Lầu.
Đúng là đất phồn thịnh
Được nhắc đến từ lâu.


1314. Ngồi trong thuyền, ngắm trăng

Một mình trên thuyền nhỏ.
Trăng tỏa sáng bốn bề,
Lung linh đầu ngọn sóng.
Sương đùng đục, se se.
Tựa chèo, ngắm mây rách.
Khua mái, gạt cỏ che.
Trường An 1) xa nghìn dặm,
Đêm cứ mơ về quê.

 1. Tức kinh đô. Ý tác giả nói mình đang ở Huế.


1315. Ngồi lâu một mình

Mây trôi qua nhè nhẹ.
Nhàn nhạt trăng hoàng hôn.
Sương tan, muỗi im tiếng.
Chim hót nghe bồn chồn.
Cau thưa, bóng run rẩy.
Dơi lượn một vài con.
Hứng đến, thơ lại tắc.
Rồi hứng cũng không còn.


1316. Đêm khua, hóng mát với hai ông
Trần Ngộ Thiên và Lê Trực Thiên

Trời xanh sà xuống ghế.
Mép rèm dính đầy sao.
Ngọn sóng xô trăng vỡ.
Buồm no gió, dương cao.
Quí nhau, cùng hóng mát,
Trò chuyện thật vui sao,
Cả đùa, cả nghiêm túc.
Canh năm đến lúc nào.


1317. Dời đến trọ trong chùa Diên Phúc

Trọ nhiều, thành khéo chọn,
Nên dọn đến nơi này.
Đầy ao hoa sen nở.
Thông xanh mát suốt ngày.
Hứng, ngâm thơ bên tượng.
Nghe khánh đá cũng hay.
Không hề nhắc đến Phật.
Thiếu rượu chỉ chau mày.


1318. Được bổ vào viện hàn lâm, sung chức
biên tập vận học, vui mừng mà làm bài thơ này
.
Đi rồi, lại quay lại.
Thật đúng là vận may.
Sách dạy: giàu nhờ lộc.
Làm quan lòng phải ngay.
Theo gương bậc tiền bối
Để báo vua ân này.
Nóng lòng muốn đến viện,
Đêm mong chóng rạng ngày.


1319. Đề ở học quán Thận Tư 1). Mười một bài,
theo vần thơ của Phương Đình 2)
Bài một

Sương tan, mặt trời mọc.
Nhè nhẹ thổi gió xuân,
Vào chỗ thầy ngồi dạy,
Tăng hứng thú bội phần.
Đến đây quên lo nghĩ,
Khách có thể dừng chân.
Gặp chủ, không ai chán.
Ta cũng đến mấy lần

1). Nơi dạy hoc của Trần Văn Vi,  tự Thận Tư, bạn tác giả.
2). Tên hiệu của Nguyễn Văn Siêu, một nhà thơ người Thanh Trì, Hà Nội.


1320. Đề ở học quán Thận Tư. Mười một bài,
theo vần thơ của Phương Đình
Bài hai

Thời gian trôi nhanh thật.
Hàng dâu đổ bóng dài.
Hoa đúng thời đang đẹp,
Không thưởng ngoạn là sai.
Nhìn đâu chẳng thấy việc.
Để đấy, đời còn dài.
Thấy đẹp, cứ vui đã,
Bất luận nhà của ai.


1321. Đề ở học quán Thận Tư. Mười một bài,
theo vần thơ của Phương Đình
Bài sáu

Vui vì gặp bè bạn.
Trong bầu rượu còn đầy.
Chủ nhân tiếp nồng hậu.
Nhà cửa đẹp, nhiều cây.
Tiền tiêu hết lại có 1).
Còn rượu, uống kỳ say.
Cứ như đang trong mộng
Những cuộc vui thế này.

1). Lý Bạch từng viết: “Trời sinh ta có tài, ắt có dụng. Nghìn vàng tiêu hết lại có”.


1322. Đêm, ngồi một mình

Ban đêm lo gió lạnh.
Sợ nóng bức ban ngày.
Chăn gối luôn đơn chiếc.
Sách vứt bừa đó đây.
Sương mù che thôn xóm.
Gió thét gào trên cây.
Khó khăn nhiều, đã khổ,
Còn lắm bệnh mới gay.


1324. Cùng Bùi Nhị Tôn Thất Minh Trang giong thuyền
        ra cửa biển Đà Nẵng. Chiều tối dừng thuyền đợi trăng

Trống đài báo canh một.
Dừng thuyền bên bãi nông.
Gió mang hơi biển mặn.
Mưa đã tạnh trên sông.
Uống rượu, chờ trăng sáng,
Ngắm làn mây bập bồng.
Chợt ý xuân thoáng hiện,
Khách xốn xang trong lòng.


1325. Đêm lạnh tức sự

Người mệt mỏi, gối lạnh.
Thật buốt gió mùa đông.
Bảo đầy tớ lấy chiếu.
Nhường khách tấm chăn bông.
Khó ngủ, nghĩ công việc.
Nỗi nhớ quê trong lòng.
Không muốn nghĩ không được.
Chưa quen “viết lên không”. 1)

1). Âu Hạo đời Tống làm quan bị cách chức, bực mình, suốt ngày viết lên không bốn chữ “đôt đốt quái sự” (chà chà, việc lạ).


1326. Ban trưa có mưa lành, họa theo vần thơ ông Thận Tự

Gió thổi, trời bớt nóng.
Lại có mưa lây rây.
Cành trúc long lanh nước.
Hương hoa nhè nhẹ bay.
Mưa xuân, Tam Dương khí 1)
Đang thấm nhuần cỏ cây.
Vậy, đang hứng, mời bác
Ta nâng chén rượu này.

1). Theo Kinh Dịch, tam Dương khí là khi tiết tốt tháng Giêng.


1328. Nhớ con

Trẻ nhà ai, hai đứa
Cười nói, đi ngang qua.
Bố mẹ nào không nhớ,
Không thương con ở nhà?
Nhớ chúng đói, đòi mẹ,.
Học cách chào ông bà.
Thiếu trẻ, nhà vắng hẳn
Thấy con người, nhớ ta.


1329. Xế chiều, biết được nơi ở trọ của anh trai,
        đêm viết thư này gửi anh

Viết thư này, đẫm lệ.
Anh em người một nơi.
Bao năm phải làm khách
Nơi góc biển, chân trời.
Ngồi bên đèn, khẽ hát
Bài hát buồn cuộc đời.
Thềm vắng, trăng lặng lẽ
Luôn quẩn quanh bên người.


1330. Lên núi Khán Sơn, có điều nhớ nhung

Mặt trời hé mọc phía đằng đông.
Tình cờ leo núi, bước thong dong.
Tam Đảo, Tản Viên xanh bát ngát.
Hồ Tây, sông Nhị nước mênh mông.
Lên cao, đất rộng, xa nghìn dặm.
Chín gác lầu son soi bóng hồng.
Bạn bè ngày trước giờ đâu nhỉ?
Ngắm cảnh, bâng khuâng thấy chạnh lòng.


1331. Sống nhàn

Cửa đóng vì nhàn rỗi.
Bướng và lười nhiều khi.
Khách thương bởi hay ốm.
Vợ mừng thấy ngồi lì.
Tự trồng cúc, thích ngắm.
Chuốt thơ, đọc lâm ly.
Đã biết mình tài mọn.
Vất vả mà làm gì?


1332. Chơi ở nhà một người quen cũ, đêm nghe tiếng đàn tranh

Đàn tranh ai gẩy, khúc vui tươi,
Như Tiểu Tần 1) xưa, thật tuyệt vời.
Một tối thương xuân, lòng ấm ức.
Tám năm ly biệt, xót xa đời.
Hạt sen luôn đắng, mình sen biết.
Cây liễu vì ai hoa cứ rơi.
Muốn đem hết nước dòng Tô Lịch
Rửa sạch bùn nhơ của kiếp người.

1). Tiểu Tần, điệu hát cổ của người Trung Quốc.


1333. Từ Thanh Trì, xuôi thuyền về phía Nam

Chia tay đầm Thanh Liệt.
Áo ướt nước Nhị Hà.
Mặt trời hồng đang lặn.
Bãi bồi xanh xa xa.
Thuyền trôi trên mặt nước.
Sông xạm giữa chiều tà.
Không từng trải sóng gió,
Sao luyện chí cao xa?


1334. Đang ốm, có người mời uống rượu,
viết bài thơ này ngay trên bàn tiệc

Đã hẹn mùa xuân uống với nhau.
Xuân đến, rượu, người chẳng thấy đâu.
Đất khách soi gương - gầy yếu quá.
Hoa nở lười nhìn bởi ốm đau.
Như nghề “mổ rông”, nghề thơ phú.
Công danh sự nghiệp thật buồn rầu.
Thơ văn là gì mà coi trọng?
Hãy uống chừng nào mặt đỏ au.


1335. Ngày 16, neo thuyền ở bến Lữ Thuận, họa thơ Trần Ngộ Thiên

Thấm mưa, buồm thêm nặng.
Thuyền thả neo giữa sông.
Đường còn xa nghìn dặm.
Một ngày bằng ba đông.
Đời biết ai xấu tốt.
Tóc bạc dần như bông.
Nỗi lòng mình những muốn
Để nước cuốn theo dòng.


1336. Sáng sớm, vào ranh giới tỉnh Quảng Trị

Cầu chia sông Lệ Thủy.
Suối tưới đất Minh Linh.
Sương sớm ôm chân núi.
Gió thổi qua lữ đình.
Giày dính hương hoa dại.
Áo đầy sương lung linh.
Tự dưng hứng, thích thú
Hát, mình nghe một mình.


1337. Ngẫu nhiên đêm ngủ mơ đến thăm ông tuần phủ, nghĩ thầm có lẽ         các bạn ở kinh cũng có người đang nhớ mình, bèn gửi bài thơ này cho ông tuần phủ, đồng thời cũng gửi cả ông Phạm Đôn Nhân.

Ở đời, mọi việc chẳng chiều ta.
Được chăng hay chớ, cứ trôi qua.
Đã không muốn đọc thơ Hoàng Hiển 1).
Lẽ nào ngâm mãi Ngọa Long ca? 2)
Tây ải, suốt đêm nghe trống dục.
Bắc thành, trăng sáng, sáo ngân nga.
Thân này liệu có làm nên nghiệp?
Suốt cả mùa xuân ốm, ở nhà.

1). Tên một bài thơ trong Kinh Thi chê chính sự đời Tuyên Vương nhà Chu, làm cho lòng dân ly tán, không cứu giúp nhau.
2). Tức khúc Lương Phủ ngâm mà Ngọa Long Gia Cát Lượng thích ngâm khi ở ẩn ở Nam Dương.


1338. Đám mây trôi

Đám mây kia tất tả
Định trôi về nơi nào?
Gió từ đâu thổi đến
Làm lá rừng xôn xao?
Phép “Ngũ Lôi” 1) đâu nhỉ?
Đời đang cần mưa rào.
Ta nhìn lên, chỉ muốn
Bám mây bay lên cao.

1). Tên phép cầu mưa của người Trung Quốc xưa.


1339. Về đến nhà

Tóc bạc lúc nào đâu có biết.
Thật mừng về lại đất quê cha.
Đây rồi điếm nhỏ tên Cây Gạo.
Hồ Ngựa đằng kia, nước sáng lòa.
Bà mẹ đón con, mừng lẫn tủi.
Hàng xóm nghe tin đến chật nhà.
Phiêu bạt lang thang, thôi thế đủ.
Từ nay xin cạch chữ “đi xa”.


1340. Ngắm cảnh buổi sáng từ trong thuyền,
viết tặng các bạn cùng đi

Một màu xanh bát ngát.
Mây đứng như xếp hàng.
Ngọn núi nhô ra biển.
Sóng lớn, nước mênh mang.
Nhìn trời, lòng man mác.
Ngắm cảnh, nhớ xóm làng.
Chốc chốc quay phía bắc,
Thấy vệt khói nằm ngang.


1341. Nhìn trời mưa

Trời mưa như trút nước.
Nước tràn ngập khắp nơi.
Tiếng sầm sập thật sợ.
Nước sông lẫn nước trời.
Mặt trời đỏ đâu nhỉ?
Lòng dân đen rối bời.
Sắp thu rồi mà khách
Chỉ biết ngâm vịnh chơi.


1342. Buổi sáng qua sông Hương

Cánh đồng bát ngát, núi bao quanh
Sông như vệt kiếm giữa trời xanh.
Hò khoan thuyền cá dăm ba chiếc.
Mấy chú vịt con ngủ bãi doành.
Dằng dặc đường đời, đôi mắt mỏi.
Tình quê man mác, ngựa phi nhanh.
Nhà, xe, ô lọng ta không thiết.
Thích ngủ giường tre, hưởng gió lành.


1343. Họa bài thơ lưu biệt Doãn Trai
của Thúc Minh, theo đúng vần

Rượu đục, đèn mờ, gió lung lay.
Ván cờ chơi giở, mưa lây rây.
Quê người cảnh đẹp, đêm không thấy.
Chủ khách bên nhau, rượu rót đầy.
Hư ảo đường đời chờ phía trước.
Phù du cõi tục vẫn quanh đây.
Ngày trẻ giang hồ nhiều vụng dại.
Nhờ ông, làm được bài thơ này.


1344. Qua trạm An Quýnh

Sau tạnh, núi xanh giữa ráng hồng.
Nắng chiều chiếu sáng cả rừng thông.
Đất nẻ mai rùa vì mưa ít.
Gió nhiều, mây rách, phía đằng đông.
Đường trạm vào Nam nghe ngựa hý.
Nhạn kêu phía Bắc, lượn trên đồng.
Ướm hỏi: Nghe đâu cầu bị gãy.
Liệu bến Hoàng Mai 1) có tắc không?

1). Tên bến trên sông Hoàng Mai, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An.


1345. Qua chùa Thiên Quang 1),
cảm thương cung điện triều Lê cũ

Đường Chu 2), chùa nhỏ, ghé bất ngờ.
Đọc hết Thử Ly 3), buồn thẩn thờ.
Cung điện ngày xưa giờ bãi trống.
Giao Đàn hoang phế, cỏ lơ thơ.
Ngẫm chuyện trăm năm mà nẫu ruột.
Chuông chiều một tiếng gõ bâng quơ.
Còn may gặp được người quen cũ -
Chùa này sư cụ vốn nhà thơ.

1). Thời Trung Hưng, chùa này ở thôn Thụ Mã, sau đổi thành Hòa Mã, hiện nay là phố Tuệ Tĩnh, Hà Nội.
2-3). Tác giả mượn chuyện nhà Chu để nói lòng mình. Nhà Chu trước đóng đô ở Kỳ Sơn, Tây Chu, bị giặc tán phá, phải dời về Lạc Ấp, Đông Chu. Một đại phu qua chỗ kinh đô cũ, thấy cung điện hoang tàn, cỏ dại mọc đầy bèn làm bài thơ Thử Ly, được ghi trong Vương Phong Kinh Thi.


1346. Gửi ông cử nhân người Trà Lũ

Quê xa nghìn dặm trông vời vợi.
Mười năm chuyện cũ vẫn đau lòng.
Phạm tội, vụng lo đành đợi chết.
Nổi danh thơ phú cũng bằng không.
Nếu may thoát được, thân già yếu,
Xin lại về quê với ruộng đồng.
Bè bạn đến thăm rồi sẽ thấy
Ông tiên lười ngủ giữa mây hồng.


1347. Cảm nghĩ một mình trong đêm

Nước lụt dâng đêm trước.
Rét về, sắp hết thu.
Năm tháng làm tóc bạc.
Khách thơ buồn, âm u..
Thanh kiếm dựng bên gối.
Áo rách, đèn tù mù.
Hận mình sức còn có
Mà phải bị giam tù.


1348. Thơ viết sau khi bị kết tội

Người mà bị tống ngục,
Coi như chẳng là người.
Dẫu biết sống - tạm bợ,
Chết mới là nghỉ ngơi,
Mong phép công nhân ái,
Vua soi xét đền trời.
Mới lần đầu gặp nạn,
Đừng để nước mắt rơi.


1349. Vịnh chim sáo

Chim sáo cho mình giỏi,
Thích được sống gần người.
Bắt chước người tập nói 1),
Bị cắt lưỡi, khổ không!
Lưng trâu không được cưỡi.
Không mượn tổ chim hồng 2).
Gần người, đâu còn được
Như chim hạc ngoài đồng.

1). Để chim sáo nói hay, người ta thường cắt đầu lưỡi chúng.
2). Chim sáo thích đậu trên lưng trâu ăn sâu bọ, và mượn tổ các loài chim khác.


1350. Vịnh chiếc gông

Tự hỏi vì sao đời bất công,
Sao mình phải chịu cảnh đeo gông?
Ăn ngủ, đứng đi cùng với nó.
Đau đớn, nhưng không thẹn với lòng.
Trăm năm lưu lạc như mây gió,
Suốt đời toàn thấy bẫy cùng chông.
Muốn chẻ nó ra làm bút viết
Bài “Ngẫm sự đời” như Thiệu Ung!

1. Thiệu Ung, tự Nghiêu Phu, một đại nho đời Tống, có làm bài “Thiên sự ngâm”, đại nói: Người ta làm việc thin là vì việc thiện cần làm.


1351. Ngày 17 tháng Mười, bị bộ Lễ tra tấn,
về nhà gượng đau viết luôn bốn bài
Bài một

Lai bị gọi lên bộ.
Thân này có khổ không!
Bị đánh, máu tung tóe.
Muốn chết quách cho xong.
Đường cát, nhìn phủ quạ 1).
Lầu Hán Khanh chạm rồng 2).
Nỗi niềm bao nhiêu chuyện
Mà phải nén trong lòng.

1). Tiếng lóng nhà tù, chỉ Viện Đô sát, tương đương Viện kiểm sát ngày nay
2). Chỉ Quan Hán Khanh, người Đại Đô đời Nguyên, cuối đời nhà Kim đỗ Giải Nguyên, nổi tiếng thơ hay và giàu có.


1352. Ngày 17 tháng Mười, bị bộ Lễ tra tấn,
về nhà gượng đau viết luôn bốn bài
Bài hai

Một mình giữa sấm chớp.
Bạn bè không dám gần.
Bị khiêng về, ngất xỉu.
Tỉnh lại, cứng tay chân.
Nửa đời sống vô vị.
Thân xác đang chết dần.
May được chú hầu cũ
Lựa lời nói ân cần.


1353. Tức sự trong tù

Trên võng nằm im suốt cả ngày.
Trong lồng chim nhốt, chẳng còn bay.
Trăm sự năm canh đèn với bóng.
Thu về ướt át, gió cùng mây.
Chỉ mong về lại nơi công sở.
Nhìn chiếc gông tre, lệ ứa đầy.
Nhà bên có bác hay thơ phú,
Thường sang hỏi chữ bác tù này.


1354. Cảnh chiều ở thôn quê

Râm mát bờ tre, vệt khói nhòa.
Chèo đò, ai hát, vẳng xa xa.
Khách quí đến chơi, chia sách đọc.
Bài thơ mới viết cùng ngâm nga.
Sông Hương triều rút, trơ doi cát
Hòn Chén, cây xanh dưới nắng tà.
Gió nồm thổi nhẹ, bay rèm cửa,
Phần nào làm nhẹ bớt lòng ta.


1355. Đêm trung thu, ngắm trăng

Chơi trăng ngày trẻ khắp Long Thành.
Thời gian thấm thoắt vụt trôi nhanh.
Đêm nay trăng đẹp, ai không ngắm,
Không thả hồn bay theo gió lành?
Chập chờn tiếng sáo như trong mộng
Như xóa buồn lo việc chẳng thành.
Ngước lên thấy thẹn cùng trăng sáng,
Nỗi lòng khôn nói với trời xanh.


1356. Buổi chiều đi chơi Sài Sơn, mưa tạnh,
lên đỉnh đề thơ vào vách

Dân làng thích kể chuyện Phan công. 1)
Tuổi già về sống với non sông.
Chiều xế mang theo đời biến đổi.
Bổng lộc, công danh chẳng bận lòng.
Sáu lẽ 2) sự đời nhìn thấy rõ.
Ba lần 3) thôi việc, phận long đong.
Ta nay đã mệt, sinh lười biếng,
Muốn đến nơi đây dựng thư phòng.

1). Tức Phan Huy Thực, con Phan Huy Ích, ba lần giữ chức thượng thư bộ Lễ đầu triều Nguyễn.
2). Thuật ngữ nhà Phật, ý nói tất cả mọi sự trên đời đều tựa như mộng ảo, bèo bọt.
3). Trong đời làm quan, Phan Huy Thực ba lần thôi việc, một lần bị bãi chức và hai lần về hưu.


1357. Vô đề

Trăng trên thành Thăng Long
Đêm nay có sáng không?
Nhíu mày lo đời đục,
Mỏi mắt chờ sông trong 1).
Thích tĩnh nơi huyên náo.
Sau mưa đợi nắng hồng.
Khúc hát cao khó họa 2).
Bên hiên, xốn xang lòng.

1. Bài Luận về vận mênh của Ly Khang viết: “Hoàng Hà thanh nhi, thánh nhân sinh”, tức Khi nào sông nước Hoàng Hà trong thì thánh nhân ra đời.
2. Tống Ngọc đời Chiến Quốc nói: “Khi hát đến khúc Dương xuân Bạch Tuyết thì cả nước chỉ có vài mươi người họa được. Khúc hát càng cao thì người họa càng ít”. Ý nói người có tài thì đời khó biết.



VŨ TÔNG PHAN

Còn có tên khác là Như Phan, Vũ Phan, sinh năm 1800, mất 1851, tự Hoán Phủ, hiệu Hồng Châu, Đường Xuyên và Lỗ Am, người xã oa Đường, huyện Đường An xưa, nay là thôn Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ tiến sĩ năm 1826, đời vua Minh Mạng, làm quan bảy năm rồi xin về ở ẩn, dạy học ở thôn Tự Tháp, phía tây hồ Hoàn Kiếm hiện nay. Ông còn là nhà hoạt động văn hóa Hà Nội, cùng một số người khác lập các hội Văn Hội Thọ Xương và Hội Hướng Thiện, nhằm chấn hưng văn hóa Hà Nội, trong đó có việc xây dựng Văn chỉ Thọ Xương và lập đền Ngọc Sơn. Tác phẩm có 87 bài thơ cả các tập Tô Khê tùy bút tập, Lỗ Am thi tập, và Hoạn lữ nhàn vịnh.


1358. Tỉnh mộng

Sáng chờ tin mỏi mắt.
Chiều mong nhớ mẹ cha.
Đêm gió mưa mù mịt,
Không mơ thấy quê nhà.


1359. Dạo dưới trăng trước sân

Đợi trăng lên, thông thả
Hương trầm đốt mấy cây.
Trăng mọc, thơ thẩn dạo
Quanh khóm trúc phía tây.


1360. Tự nhận xét về mình

Không thấp, cũng chẳng cao.
Không sang, không khiếm nhã
Học không nhiều, đủ dùng.
Không khôn, nên vất vả.


1361. Nhàn rỗi, ngồi tính chuyện nợ nần

Cái số sinh ra luôn phải nợ.
Nợ tiền, chức tước, nợ văn thơ.
Có lẽ nợ tiền còn trả được.
Làm quan, nợ ấy đến bao giờ?


1362. Sau mưa, nhàn hạ ngắm cảnh xa xa

Mây tan, trời sáng, hết mù sương.
Xanh xanh rặng liễu đứng bên đường.
Nước biếc, hồ xuân vương vệt nắng.
Nửa hồ gợn sóng, nửa như gương.


1363. Vịnh thuyền chài

Nhà là sông nước, mây là chiếu.
Lênh đênh đây đó, kế sinh nhai.
Ninh Giang bến cũ, ngày đang tắt.
Dìu dặt âm vang tiếng sáo chài.


1364. Chèo thuyền từ chùa Quảng Bá đến chùa Tây Hồ

Hoa thơm, chim hót, áng mây bay.
Mái chèo khua nhẹ, gió hây hây.
Thuyền lướt, men theo bờ rợp lá.
Chưa vội vào thu chỉ chốn này.


1365. Nói với trò Tuyên

Buồn bực trong lòng, uống giải khuây.
Thơ giảng xong rồi, uống được đây.
Dẫu muốn nhưng thầy xin được miễn:
Anh uống nhiều rồi, khéo lại say!


1366. Ý nghĩ bất chợt

Nghe khen không mừng vội.
Đừng ghét kẻ chê mình.
Yêu ghét không quan trọng.
Chỉ sợ bị người khinh.


1367. Hai chợ hai đầu cầu

Nấp bóng cây cao, chợ họp đông.
Chiếc cầu in ngược dưới dòng sông.
Ban mai uống rượu, nghe người hát,
Khách thơ thi hứng dậy trong lòng.


1368. Vịnh cây trúc trước sân

Được chuyển về đây từ núi cao.
Trúc xanh xanh biếc một bờ rào.
Hoa thơm, cỏ lạ đừng khinh nó:
Coi thường giá rét, trúc thanh tao


1369. Nghe chim hót trước sân

Không sợ tên đạn bắn.
Hót như hiểu lòng người.
Gió thổi, lá lay động.
Xao xuyến tiếng chim trời.


1370. Lại đến Vân Đình ở Sơn Minh

Đình cổ um tùm dưới bóng cây.
Bốn chục năm rồi mới đến đây.
Nhớ ta có lẽ vài ba bạn.
Còn nhớ ta không, đình cổ này?


1371. Qua thành cũ của tướng nhà Minh

Trơ trọi thành xưa, cây cỏ mọc.
Tướng Minh nghe nói đã cho làm.
Giang sơn đâu phải trò đen đỏ.
Ý Tàu không ép được người Nam!


1372. Đêm thức giấc ở phía Đông Thành, ngẫu hứng

Cung xưa Trường Tín thành chùa Phật.
Hồ rộng thủy quân sậy lút bờ.
Khắp thành mưa nhỏ, gà đang gáy.
Nghìn năm văn vật chỉ trong mơ.


1373. Đêm thức giấc phía đông thành, ngẫu hứng
(Bản dịch hai)

Trường Tín 1) cung xưa thành cửa Phật.
Thủy Quân 2) xơ xác đám lau gầy.
Nghìn năm văn vật còn đâu nữa.
Le te gà gáy, gió mưa bay.

1. Tên một ngôi chùa, nay còn dấu vết ở đầu phố Hàng Chuối.
2. Hồ Thủy Quân thời Trần. Hồ Hoàn Kiếm ngày nay là một phần sót lại của hồ này.


1374. Thăm chùa Nhật Chiêu ở trại Yên Lãng, hỏi chuyện xưa

Họ Lý quy thiền, tìm sự thật.
Cơ đồ tạo dựng đến hôm nay.
Minh Không, Giác Hải giờ đâu nhỉ?
Ai người kiếp trước, kiếp sau đây?


1375. Qua gò Đống Đa

Ai xui để bị đánh tan tành.
Không ngờ “nghịch tặc” lại thành danh.
Mảnh đất Thăng Long luôn vẫn vậy,
Luôn làm khiếp sợ sứ nhà Thanh.


1376. Hồ Tây

Bút nào tả hết cảnh Hồ Tây,
Đặc biệt ngày thu đẹp thế này?
Bãi Trâu trăng sáng, lô xô sóng.
Đồi Phượng bồng bềnh những áng mây.
Chuông chùa Trấn Vũ như hơi thoảng.
Thuyền cá làng chài tựa lá cây.
Từ đỉnh núi Nùng nhìn bốn phía -
Đấm sen chim trắng lượn lờ bay.


1377. Nhận thư nhà

Đêm nằm khắc khoải nhớ quê xa.
Sáng, đang đi dạo, nhận thư nhà.
Rõ ràng nét chữ em trai viết.
Lời lẽ trong thư giống mẹ già.
Thôn xóm, thật may, không bị cháy.
Tiền thiếu, cuộc đời lắm xót xa.
Vui, biết trẻ ngoan khi có khách.
Bỗng thấy thương quê, lệ ứa nhòa.


1378. Chơi Hồ Tây

Xưa nay vốn đã thế.
Vẫn thế núi và sông.
Thành trì soi xuống nước.
Trời nước cứ mênh mông.
Chuông điểm, đêm trăng lạnh.
Cây rũ, sáng đầu đông.
Cảnh đẹp thì cứ ngắm,
Xua phiền muộn khỏi lòng.


1379. Không ngủ được

Mọi người đều đã ngủ.
Bên đèn thức mình ta.
Gió lạnh xuyên chăn mỏng.
Cái rét cắn vào da.
Mưa rơi, hắt lên liếp.
Sóng biển vỗ xa xa.
Đất khách đêm khó ngủ.
Bao giờ mới về nhà?


1380. Lên lầu chuông chùa Trấn Vũ

Chùa chìm trong làng, làng trong thành.
Lầu gác, chùa chiền bên trúc xanh.
Sự đời hưng phế không cần biết.
Chạnh lòng, đứng ngắm cảnh xung quanh.
Trên núi, cây khô rồi mọc lại.
Khói vương dưới nước thật yên lành.
Cảnh sắc tuyệt vời, nhìn những muốn
Suốt đời đọc sách giữa lều tranh.


1381. Ngắm trăng trên sông Nhị Hà

Khói bếp mờ mờ dọc mép sông.
Thuyền nối kề nhau, đứng giữa dòng.
Như thể nhớ ai, cây phía Bắc.
Trăng vàng bối rối mãi đằng đông.
Lồng lộng trời cao, nhìn hút mắt.
Bâng khuâng soi nước áng mây hồng.
Trời đất xem ra đang hứng khởi.
Có người nào nghĩ giống ta không?


1382. Trung thu không trăng, uống rượu với ông Giám Phó

Hoành Sơn mây phủ phía xa xa.
Lúc đen, lúc tỏ dải Ngân Hà.
Có lẽ Thăng Long trăng rất sáng.
Liệu có soi lòng lữ khách xa?
Trò chuyện trước đèn, không khách chủ.
Cùng tỉnh cùng say, ta với ta.
Dũa câu, tìm ý, thơ đang tắc.
Càn Nguyên trống dục, điểm canh ba.


1383. Sông Nhị

Năm ngoái bãi lau còn giữa dòng.
Năm nay dịch lệch phía bờ Đông.
Xưa nay mọi vật luôn thay đổi.
Đời người cũng thê, phải long đong.
Con thuyền muôn thuở trôi theo gió.
Cây già bám rễ chắc bên sông.
Con tạo vần xuay, thôi mặc kệ.
Cốt giữ làm sao vững tấm lòng.


1384. Buổi sáng trên sông, ra về

Mái lầu canh, trăng xế.
Sông xưa vẫn xuôi dòng.
Dưới đèn, người đứng dậy.
Gọi đò, khách sang sông
Vướng râu chiếc lá rụng.
Tiễn khách tiếng chuông đồng.
Ra về theo đường lớn
Mà sóng nước trong lòng.


1385. Buổi sáng trong vườn xuân, tức cảnh

Ban mai, nắng dịu thật hiền hòa.
Tỉnh giấc mộng tàn, khinh vật hoa.
Tường Bắc, tường Đông hương khói tỏa.
Cành cao, cành thấp rộn chim ca.
Con người, cánh vật hòa làm một.
Chân lý cõi đời chỉ tại ta.
Trước lò hương khói ngồi tư lự.
Học xong, trò nhỏ dậy pha trà.


1386. Ngẫu hứng nói về mình

Dấn thân cát bụi cõi đời này.
Bệnh nghèo vẫn thế, trước và nay.
Học cổ làm quan e chẳng hợp.
Bắt chước dân quê, vụng cấy cày.
Làm thợ, ngại lòng trơ, thô ráp.
Đi buôn, mang tiếng dối người ngay.
Hóa ra kiếm sống, mình luôn vụng.
Đành nhìn con tạo cứ vần xuay.


1387. Ngồi ở nhà ngoài, ngắm trăng

Hiên vắng, trà ngon, trăng trước sân.
Mặt nước Hồ Tây xạm tối dần.
Như muôn đấu ngọc, sao rơi xuống.
Trăng vàng một vệt, sóng lăn tăn.
Gió lay, bờ trúc đung đưa khẽ.
Sương mù mỏng nhẹ, tựa vành khăn.
Đâu đó chuông chùa đang vọng lại.
Bất giác lòng ta sạch bụi trần.


1388. Tức sự nhân dậy sớm

Tiếng chày giã gạo vọng xa xa.
Trên giường, thằng bé học ê a.
Bụi cây chim hót chào ngày mới.
Cục tác ngoài sân, gà gọi gà.
Ngâm hết câu thơ, đầu tỉnh hẳn.
Hút xong điếu thuốc, thấy ngà ngà.
Trước khi dạy trẻ bên phòng sách,
Đủng đỉnh nhâm nhi mấy chén trà.


1389. Thơ đề ở Phương Đình

Quanh tường, trúc xanh tốt.
Gió mát, bóng đổ dài.
Chiếu rượu toàn thơ phú.
Phòng khách rặt anh tài.
Quyết cùng vui với chủ,
Khách uống say, nằm dài.
Tiếc vụng thơ, tỉnh rượu,
Chưa làm xong một bài.


1390. Qua đêm ở đền Ngọc Sơn

Cùng chơi hồ, trăng sáng.
Mênh mông nước và mây.
Đèn chài dọi giường khách.
Vách núi đẫm sương dày.
Hình và bóng biến mất.
Tiếng ồn không đến đây.
Muốn hỏi chuyện ngày trước,
Chỉ nghe tiếng thu gầy.


1391. Chiều thu, thăm đền Nam Giao

Tiêu điều lũy cổ, gió heo may.
Với ai chia sẻ nỗi niềm này?
Giữa cảnh hoàng hôn bia đổ nát.
Ngôi đền trơ trọi gió mưa bay.
Lối cũ vua đi giờ chim đậu.
Thành quách Long Biên cỏ mọc dày.
Sự ấy hỏi người, người chẳng biết.
Hỏi trời, trời chẳng nói cho hay.


1392. Đi thuyền quay về

Hây hây gió mát thổi từ xa.
Thuyền khách lâng lâng, nắng xế tà.
Trung thu trăng sáng, hồn thơ hứng.
Ngời ngời sóng nước, lá xen hoa.
Tiếng cười, tiếng nói vang hai phía
Thuyền đi như lướt giữa Ngân Hà.
Lưu luyến, núi xanh nhìn, tiễn khách.
Lên sông, có sẵn ngựa về nhà.


1393. Mây nhẹ trên núi Hòn Chén

Bờ Nam núi núi đứng liền kề.
Hòn Chén lưng chừng mây trắng che.
Gió sông khi thổi, khi ngừng bặt.
Mưa thu lúc tạnh, lúc dầm dề.
Một cụm lâu đài bên vách núi.
Nửa trời dày đặc bóng thuyền, xe.
Bâng khuâng tựa cửa, nhìn phong cảnh,
Cũng vợi ít nhiều nỗi nhớ quê.


1394. Tiếng sáo chiều trên thôn bãi bồi

Lay lắt bờ Đông vệt nắng chiều.
So với ngày xưa, cảnh khác nhiều.
Thành quách giờ đây là bến cá.
Phủ quan thành chỗ trẻ chơi diều.
Ruộng lúa người nào đang thổi sáo.
Tù và đâu đó não nề kêu.
Trên cao nhấp nháy chùm Sao Đẩu.
Mai rụng trắng phau những mái lều.


1395. Tiếng chuông chùa sáng sớm

Giữa hồ, gò đất nhỏ.
Tiếng thiền lặng trên không.
Trăng mờ, cây xao động.
Sao nhạt, tỉnh giấc nồng.
Cá quẫy, nước xao động.
Chim bay về bãi sông.
Với sư, ngoài chuông điểm,
Không có gì bận lòng.


1396. Cảm nghĩ đầu thu

Gần bốn chục năm sống ở đời.
Hư danh, sống uổng bấy năm trời.
Mười năm làm quan mà còn vụng.
Nghỉ bệnh năm năm chưa thảnh thơi.
Gặp người, luôn sợ người thương hại.
Tiếp khách thường lo không đủ lời.
Gió buốt đêm thu, không ngủ được,
Sáng dậy ngồi im, lạnh toát người.


1397. Họa vần Phương Đình tiễn Lê Hy Vĩnh
         đi tới trường học ở Sơn Tây

Nỗi lòng chưa nói hết
Đã phải tiễn người thân.
Hiểu biết nhiều cũng thế,
Thua sống ẩn, thanh bần.
Giang Thành nơi hội ngộ.
Tây Bắc chốn mừng xuân.
Bác ngâm thơ, thấy gió,
Tức là tôi ở gần.



BÙI DỊ

Sinh năm 1831, mất năm nào không rõ, tự Ân Niên, Tốn Am, người huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, đỗ phó bảng năm 1865, làm phó đô Ngự sử, thượng thư bộ Lễ và được giao Chánh sứ sang nhà Thanh.


1398. Xúc cảm trong đêm

Bắc Đẩu quay ngang, trời lắm mây.
Sông Ngân chênh chếch phía trời tây.
Đêm khuya chợt dậy nhìn gương đục,
Nghe gà đang gáy phía rừng cây.


1399. Thơ làm nhân tết Đoan Ngọ

Chân trời góc bể thích bôn ba.
Thoáng đã mười năm sống xa nhà.
Hôm nay thật tiếc ngày Đoan Ngọ,
Mà vẫn một mình chinh chiến xa.
Trên án chất đầy toàn hịch trận.
Ngoài ao sen nở, lá xen hoa.
Mong sớm có ngày khi thắng trận,
Cùng nhau uống rượu dưới trăng tà.


MIÊN THẨM

Tức Tùng Thiện Vương. Miên Thẩm là tên, Tùng Thiện Vương là tước phong, họ Nguyễn, sinh năm 1819, mất 1879, là con trai thứ 10 của vua Minh Mạng, hiệu Thương Sơn, nổi tiếng thơ hay. Thơ ông tinh tế, hàm súc, với nỗi thông cảm cuộc sống khổ cực của dân lành. Tác phẩm gồm Thương Sơn thi tập, Thương Sơn thi thoại và Thương Sơn ngoại tập.


1400. Hoa vườn đông

Hoa vườn đông nở đẹp.
Đừng bảo nhờ gió xuân.
Nay gió làm hoa nở,
Mai gió thổi hoa tàn.


1401. Chùa Một Cột

Hoa sen trên nước lạnh.
Chùa không vướng bụi trần.
Đêm, sao trời lặng lẽ.
Kỳ ảo tiếng chuông ngân.


1402. Liễu

Năm ngoái chim oanh đến.
Chỉ trăng biết chim gầy.
Đêm qua gió đông thổi,
Sáng, nước mắt rơi đầy.


1403. Nỗi oán buồng xuân

Bốn phía quanh lầu hoa hạnh bay.
Liễu vàng xanh lại, gió lung lay.
Cỏ tốt không vì xuân đã tới,
Mà bởi ngựa chàng không đến đây.


1404. Ngắm cảnh mùa thu

Mặt trời khuất sau núi.
Thu gầy, kém sắc tươi.
Mênh mông buồn kim cổ
Mà không nói nên lời.
Núi giăng, phô sắc đẹp.
Chim lẻ bay ngang trời.
Một mình trước khóm trúc,
Buồn càng buồn gấp đôi.


1405. Đậu thuyền ban đêm

Lất phất mưa rơi, thu úa màu.
Thuyền nhỏ một mình giữa bãi lau.
Chuông vọng từ xa, người tỉnh mộng.
Dừng thuyền đợi đến sáng hôm sau.
Đom đóm lập lòe trên mặt nước.
Ăn đêm, cò vạc lượn trên đầu.
Rét nhẹ, dậy ngồi bên bếp lửa,
Mượn chén rượu thơm rửa nỗi sầu.


1406. Hạn hán

Năm nay trời đại hạn.
Tình cảnh thật đau lòng.
Không mưa, không cả sấm.
Đất thiếu nước, khô cong.
Sâu đen lẩn khó thấy.
Mây vàng cao trên không.
Chắc vua sẽ giảm thuế.
Bao nhiêu - chờ bệ rồng.



MIÊN TRINH

Tức Tuy Lý Vương, hiệu Vĩ Dạ, con thứ 11 của vua Minh Mạng, em trai Miên Thẩm. Ông sinh năm 1820, mất 1897, được phong làm Tuy Lý công, ngang tước vương. Năm 1983, sau khi vua Tự Đức mất, ông xuống tàu của Pháp ở Thuận An, bị Tôn Thất Thuyết bắt đi an trí tại Quảng Ngãi. Khi Đồng Khánh lên ngôi, ông trở lại Huế và mất ở đấy. Tác phẩm có Vĩ Dạ Thi tập.


1407. Nhà trên núi.

Khách mệt, dừng xe sát cổng nhà.
Mấy cô sơn nữ tóc không hoa.
Hoa đào đã rụng, hoa lan héo.
Họ chỉ hái dâu, rồi hái trà.



NGUYỄN TƯ GIẢN

Sinh nqưm 1823, mất 1890, tự Tuân Thúc, Hy Bạch, Thạch Nông, hiệu Vân Lộc, người  làng Du Lăng, Đông Ngàn, nay là Đông Anh, Hà Nội. Ông đỗ Hoàng giáp năm 21 tuổi, làm quan đến chức thượng thu bộ Lại, cơ mật đại  thần. Tác phẩm có Yên Thiều thi văn tập, Thạch Nông toàn tập.


1408. Đêm qua sông Gianh

Triều chưa lên, nước lặng.
Gió nhẹ, trăng mới nhô.
Đèn nhà chài le lói.
Ai hát điệu chèo đò.

1. Ngô tiên sinh ở đây là Ngô Thì Sĩ. Nhị Thanh, một động đẹp ở Lạng Sơn, nơi Ngô Thì Sĩ trấn thủ.



NGUYỄN CÔNG TRỨ

Sinh 1778, mất 1859, tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, Hy Vân, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông đậu giải nguyên năm 41 tuổi (1819), từng trải qua nhiều chức như Dinh điền sứ, Tư nghiệp Quốc tử giám, chủ sự bộ hình, Án sát... rồi làm Phủ Doãn phủ Thừa Thiên. Ông thích thơ Nôm, chất thơ hài hước, ngỗ nghịch.


1409. Tự mừng thọ

Nhớ thời còn nhỏ nghịch như ma.
Thời ấy bây giờ thật khác xa.
Xưa làm rối gỗ trêu thiên hạ,
Nay vụng, lưng còng, giống rối già.
May lòng trung thực không tô mặt,
Tóc râu không nhuộm, để lòa xòa.
Chỉ thẹn đức, công còn quá mỏng.
Thôi để núi Hồng phán xét ta.



NGUYỄN KHUYẾN

Sinh năm 1835 tại Ý Yên, tỉnh Hà Nam, mất 1909 tại quê nhà. Nhiều lần thi hương, thi hội không đỗ, mãi đến 1871 mới đỗ đầu thi hội và thi đình, học vị hội Hoàng Giáp, được vua Tự Đức ban cờ biển và hai chữ Tam Nguyên, được bổ làm Toàn tu sử quan trong triều. Cuối đời về ở ẩn dạy học.  Tác phẩm có "Quế sơn thi tập", "Tam Nguyên Yên Đổ thi ca"...


1410. Đêm thu ngắm trăng

Bốn bề yên tĩnh một mình ta.
Phòng văn tựa ghế, ngắm trăng tà.
Một chiếc lá thu rơi, bay đến,
Gợi biết bao nhiêu nỗi nhớ nhà.


1411. Phu trạm

Suốt ngày khênh cáng chẳng ngơi chân.
Phu trạm, thân anh thật nhọc nhằn.
Đâu biết chính người ngồi trên cáng,
Hai chục năm qua lắm bụi trần.


1412. Núi Dục Thúy

Ai đặt tên Dục Thúy
Núi đã có từ lâu.
Bên sông ngôi chùa cổ.
Vách núi một mái lầu.
Thăng Phủ bia còn đó,
Sư Tuệ Viễn ở đâu?
Xế tà, thêm hoài cổ,
Chim hót gợi thêm sầu.


1413. Qua sông Tồn

Sông Tồn nay trở lại.
Chiều thu, lòng thêm sầu.
Sóng lạnh ngoài cửa biển.
Sương ướt trên lá dâu.
Tóc bạc cùng năm tháng.
Trên hồ lá thuyền câu.
Văn nhân nhiều phiền muộn,
Đâu riêng chuyện lên lầu.


1414. Lên núi Ngũ Hành, viết thơ để lại

Ngũ Hành sừng sững vút lên không.
Xanh tươi, rực rỡ tựa tiên bồng.
Sóng biển lô xô, nhìn tít tắp.
Cửa hang lơ lửng mặt trời hồng.
Nửa đêm chuông điểm nghe ngưng đọng.
Đá khóc từng hàng giọt lệ trong.
Chiêm ngưỡng kỳ quan này tuyệt tác,
Tự nhiên thư thái hẳn trong lòng.


1415. Núi Long Đọi

Ở giữa đồng bằng, ngọn núi xanh.
Nhấp nhô nhà cửa bốn xung quanh.
Uốn lượn con đường dài hút mắt.
Líu lo chim hót, lượn trên cành.
Xa xa xóm nhỏ vương mây khói.
Thân già, mắt kém, khó đi nhanh.
Sướng nhất trên kia, nơi mát mẻ,
Có ông sư béo ngủ ngon lành.


1416. Đêm xuân, thương con thiêu thân

Cánh mỏng, thương ngươi phận yếu hèn,
Mà dám quang minh chết trước đèn.
Hoảng sợ chết liền là một nhẽ,
Ung dung mà chết, đáng nêu tên.
Tri năng trời phú còn chưa mất,
Chẳng màng danh lợi đợi kề bên.
Đèn dẫu giết ngươi, lòng vẫn xót,
Thành tro, ngấn lệ đỏ còn hoen.


1417. Cảm nghĩ nhân trung thu năm Giáp Thân (1884)
ở Hà Nội, viết gửi cho bạn đồng niên là ông cử họ Ngô

Cùng nhau đón Tết ở đất này.
Giờ đã mười năm, cảnh đổi thay.
Đèn hồng, nến đỏ, hư mà thật.
Mũ trắng, dù xanh ta lẫn Tây.
Tô Giang sóng vỗ như tức giận.
Nùng Lĩnh cô đơn mảnh nguyệt gầy.
Nghe nói đi đâu giờ cũng cấm.
Có nhớ lần ta dạo trước đây?


1418. Sông Ghép

Lần nữa qua sông Ghép.
Một mái chèo chơi vơi.
Đàn cò bay về tổ.
Vệt núi vắt lưng trời.
Gió giật, thuyền chao mạnh.
Cát lún giữ chân người.
Khách đi đường sợ nhất
Tiếng sóng gầm ngoài khơi.


1419. Cảm tác

Mười hai năm lẻ được làm quan.
Những mong ân huệ được vua ban.
Nhưng hay đau ốm, thôi thì nghỉ.
Ngày ăn một bữa, sống an nhàn.
Mình nghỉ, nhiều người còn ở lại.
Về nhà, con cháu chắc gì ngoan?
Từ nay cứ việc say và ngủ.
Chỉ sợ đời sau chúng chê gàn.


1420. Về nhà

Mười năm xa cách, nay về nhà.
Tóc bạc như sương, mắt lại lòa.
Cây trong ngõ cũ nhìn khang khác.
Trên trời chim lượn, nhận không ra.
Trẻ con lễ phép: chào ông ạ.
Các cụ gật đầu: ông đấy a?
Đêm bên song lạnh ngồi im lặng.
Trời khuya trăng đẫm ánh trăng tà.


1421. Ban đêm, trò chuyên với
hai bạn học cũ là ông Đồng và ông Tốn

Bốn mươi năm trước học cùng nhau.
Gặp lại hôm nay, bạc trắng đầu.
Anh mải chơi cờ, anh đọc sách 1)
Đều phường vô dụng, khác gì đâu.
Mẹ già hai bác may còn khỏe.
Rủi tôi hay ốm, mắt thường đau.
Nay ta đánh chén, say nghiêng ngả.
Ngủ gác lên nhau, chân lộn đầu.

1). Sách Trang Tử có chuyện Tang và Cốc cùng chăn dê và bị mất dê, vì người ham đọc sách, người mê chơi cờ. Hai người hai lý do, nhưng kết quả là mất dê, ý nói không ai hơn ai.


1422. Mùa xuân, bị ốm
Bài một

Nhiễu nhương thế sự, lão Nho già.
Bây giờ ta mới hiểu thêm ta.
Tài năng thực sự thua thằng ở.
Hư danh hơn mấy mụ đàn bà.
Nằm nhiều, bẳn tính thành đơn độc.
Đi lắm, quẩn quanh trong xó nhà.
Sáng bảnh, trùm chăn không chịu dậy,
Mặc trời nắng đẹp, mặc chim ca.


1423. Mùa xuân, bị ốm
Bài hai

Mới xuân, sương sớm ướt bờ rào.
Đã nghèo, mùa mất, nghĩ buồn sao.
Hoa chưa rụng hẳn, hương còn thoảng.
Thuốc sắc vừa sôi, nước đã trào.
Buồn chẳng muốn nghe con đọc sách.
Nghèo không còn rượu để mời khao.
May đêm có trận mưa nho nhỏ.
Dường như bệnh tật giảm phần nào.


1424. Tiếng dế đêm thu

Đêm, trời đầy sao sáng.
Tiếng dế kêu ngoài đồng.
Quyện trong sương tháng Bảy,
Nghe mà buồn mênh mông.
Át cả tiếng trống điểm,
Chinh phụ thêm nhớ chồng.
Thân trai không được được để
Tiếng dế làm mềm lòng.


1425. Cảm nghĩ đầu xuân

Năm mới đến rồi, năm cũ qua.
Cỏ cây tươi tốt, vườn đầy hoa.
Sao ta khô héo, toàn gân cốt?
Nhanh thật thời gian, loáng đã già.
Giáp Tý 1) không ghi vì không lịch.
Xuân Thu 2) ngại đọc bởi thù nhà.
Tài mình chỉ vậy, mong gì nữa!
Chống gậy ra ngoài, ta với ta.

1). Hai chữ đứng đầu can và chỉ dùng để ghi năm, tháng, ngày theo âm lịch. Vì tác giả không còn làm quan, không được vua ban lịch, nên chẳng biết ghi vào đâu.
2). Khổng Tử viết kinh Xuân Thu, khen đại nghĩa nhà Chu, chê thói xấu  kẻ thù của nhà Chu. Tác giả ngẫm mình không làm được như Không Tử để cứu nước nên thẹn mà không dám đọc Xuân Thu.


1426. Thơ nhàn

Cam thân yếm thế khi đời thịnh.
Bạn bè ai tốt để noi theo?
Làm quan không giúp cho dân, nước.
Đọc sách tu thân sáng lại chiều.
Xu thời, trục lợi không khôn khéo.
Lương tâm, trung thực vẫn còn nhiều.
Vậy sao còn than nghèo và khổ?
Giàu đạo, giàu thơ, nên chưa nghèo.


1427. Tự thán

Đáng thương ông già hơn năm mươi.
Mắt đỏ, da đen, móm mém cười.
Thật tội: ốm đau không được nghỉ -
Bận ngủ, bận say và bận lười.
Danh lợi đường đời không muốn biết.
Sắc không cõi Phật - chuyện giời ơi.
Là thế đời ta, sao thế nhỉ?
Để rỗi, bắc thang lên hỏi trời.


1428. Mưa thu

Ngồi bên cửa sổ, lắng tai nghe
Mưa thu rả rích, mưa dầm dề.
Rót mãi, cuối cùng vò hết rượu.
Lúa ngập vì mưa, buồn ủ ê.
Ngủ say, chuột cắn không hay biết.
Thích chải vì đầu cứ ngứa, tê.
Con đường phía trước mưa lầy lội,
Đành buộc thuyền câu vào bụi tre.


1429. Mưa tạnh

Mưa dầm dề, gió thổi.
Bệnh không giảm, cứ ho.
Tiếng khàn như tiếng hạc.
Con mèo lạnh, co ro.
Ngày - đọc truyện Tần, Tống.
Đêm - mơ đất Kinh, Ngô.
Rồi mưa tạnh, hửng nắng,
Lòng ấm, nhà cũng khô.


1430. Sau khi say

Cái ao nửa mẫu, tuổi năm mươi.
Say, bên cửa sổ, cứ nằm chơi.
Lối đi cỏ uốn thành đai áo.
Ao bùn mặt nước cánh sen rơi.
Lúc nhàn, chỉ rượu là tri kỷ.
Câu thơ ngâm vặt chẳng cần người.
Xuân tàn, mắt kém không nhìn rõ,
Chỉ thấy lom lem sáng mặt trời.


1431. Ngày hè thăm người anh em bên ngoại
          là bác Đặng, khi trở về làm thơ

Chống gậy, men theo lối cỏ dày,
Tới thăm bác Đặng ở thôn này.
Râu tóc cả hai đều điểm bạc.
Nửa xóm bây giờ đã đổi thay.
Thấy người, con chó nhà bên sủa,
Tránh nắng, trâu nằm dưới gốc cây.
Thầm khen thật khéo, ông trời khỏe,
Sáo gió vi vu thổi suốt ngày.


1432. Mạn hứng

Cáo việc kinh đô, sống ở nhà.
Mấy năm nghèo ốm chỉ mình ta.
Trước cửa, mặt trời thu bóng ngắn,
Ngoài sân, gió thổi khóm tre ngà.
Lão nông biết ruộng cằn hay tốt.
Lái buôn hiểu rõ đấu non già.
Hứng lên, chỉ bạn cùng chai rượu,
Ngồi nhìn ngọn núi phía trời xa.


1433. Tự than thở một mình

Ngẫm chuyện mười năm, lòng tái tê.
Sự đời thay đổi, nhìn mà ghê.
Cá ăn thịt cá vì tham lợi.
Cùng một giống nòi, tre cột tre.
Cái khổ ngày nay do ai nhỉ?
Người xưa ở ẩn bỏ về quê.
Nhắn ai quen biết ngoài đô thị:
Đời loạn mà sao chửa muốn về?


1434. Đầu hè

Sáo diều văng vẳng tự đâu xa.
Bên ao, sen đã nở đêm qua.
Sáng dậy không ngờ hè lại đến.
Trên cành, đâu đó có chim ca.
Vợ chết, nằm lo ông hàng xóm.
Cãi nhau inh ỏi bốn năm bà.
Những muốn dạo chơi cho khuây khỏa,
Nhưng mắt lại đau, phải ở nhà.


1435. Ngày hè hửng nắng

Được ngày hửng nắng, ngước lên trông.
Trong mây thấp thoáng mặt trời hồng.
Tằm đói đòi ăn, đang tỉnh dậy.
Lúa mới ngậm hơi đã trổ đòng.
Chú bé lùa trâu thong thả bước.
Nhà bên, ông lão lại thăm đồng.
Tựa cửa một mình, ngồi uống rượu.
Quạ về, tha rác lượn trên không.


1436. Tiễn học trò là Nghĩa định Sứ quân Lê Như Bạch,
nhân tiện gửi các học trò ở kinh thành

Kinh thành từ biệt, bảy năm sau,
Gặp anh, nhớ bạn cũ từ lâu.
Gió bụi mịt mờ, người một ngả,
Bây giờ thấy mặt có ngờ đâu.
Nghĩ đến bút nghiên, trào nước mắt,
Ngước nhìn sông núi, những buồn đau.
Anh về nhắn hộ người quen biết:
Huyền án tiên sinh đã bạc đầu.


1437. Ngắm cảnh chiều hè

Tháng Tư, cái nóng đã gắt gay.
Sắp giông, chim nháo nhác trên cây.
Phụ nữ nuôi tằm lo chắn gió.
Người nhà phơi lúa, dọn luôn tay.
Ham việc, nhiều người còn cuốc xới.
Mặt trời le lói giữa tầng mây.
Ai ai cũng bận, không ai rỗi,
Xõa tóc ngồi chơi chỉ lão này!


1438. Nhớ núi Long Đọi

Ốm, chẳng thăm chùa kể đã lâu.
Nhớ cuộc chơi xưa, những luống sầu.
Chùa cổ bốn bên, cây với đá.
Sư nghèo, mây khói ngủ kề nhau.
Tre bọc mấy tầng che mất lối.
Ai đứng đợi thuyền bên bãi dâu?
Tiểu đồng quên cả chuông giờ ngọ.
Ông già nằm ngủ dưới gốc cau.


1439. Tết trung thu không có trăng,ba ngày sau 
        bỗng nhiên trời tạnh, cảm tác

Không nhiều sông núi chốn đồng quê.
Cảnh buồn, gió lạnh thổi se se.
Trung thu trời tối, không trăng sáng,
Khiến lão già này thêm ủ ê.
Thơ phú chua cay thành khiếm nhã.
Cảnh nhuốm hơi thu thêm não nề.
Bất chợt mây tan, trời lại sáng.
Một bóng thuyền con bên khóm tre.


1450. Hồ Hoàn Kiếm

Ba mươi năm vắng, gặp bây giờ,
Cảnh sắc ngày xưa đã nhạt mờ.
Nhà tranh, cổng gỗ thành lầu đá.
Đêm nghe tiếng súng, vắng đàn thơ.
Chim én có về, quên chốn cũ.
Nơi đàn cò ngủ khói như tơ.
Năm trăm năm trước vùng văn vật,
Nay sót một mình ngọn núi trơ.


1451. Khóc vợ

Năm mươi năm chẵn sống cùng nhau.
Giấc mộng hoa hòe vụt qua mau.
Thành giấc nghìn thu trong nấm mộ.
Ai rồi cũng chết, khác gì đâu.
Có thể những người trên cõi Phật
Không thích người đời than khóc lâu.
Sống tám trăm năm như Bành Tổ,
Phải biết bao lần thêm khổ đau?


1452. Tức sự

Một mình bên cửa sổ.
Mưa dầm, dài lê thê.
Rét lâu, lúa chín muộn.
Mây nặng, núi thấp tè.
Ngấm nước, tường rêu mốc.
Rượu nhiều, buồn ủ ê.
Không biết xuân đã hết,
Một con én bay về.


1453. Nói chuyện với bạn

Xưa theo thầy học cả hai ta,
Nay tóc cả hai bạc, đã già.
Đời lắm đổi thay, khôn nắm bắt.
Chẳng ai trẻ mãi, tiếc chi mà.
Chuyện mới ngày nào thành chuyện cũ.
Hãi hùng giấc mộng dữ đêm qua.
Ước gì có rượu Trung Sơn nhỉ,
Uống say, tỉnh dậy đã thái hòa.


PHAN THANH GIẢN

Sinh năm 1796 mất 1867, tự Tĩnh Bá, hiệu Lương Khê, quê ở huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, đậu tiến sĩ năm 1826, làm quan đến Hiệp biện đại học sĩ, từng đi sứ sang Trung Quốc và Pháp; khi Pháp đánh chiếm Vĩnh Long, ông uống thuốc độc tự tử.


1454. Đêm đậu thuyền nghe sáo

Sóng ngang bờ, nước rút.
Trăng đầy vịnh, trời quang.
Xa xa ai thổi sáo.
Lá rụng, núi âm vang.



NGUYỄN TRƯỜNG TỘ


Sinh năm 1828, mất 1871, người làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. Ông theo đạo Thiên Chúa, học chữ Hán, được giám mục Gauthier dạy tiếng Pháp rồi đưa sang Pháp học ở Paris, sau đó là La Mã. Về nước năm 1868, ông có nhiều đề nghị cải cách giáo dục, xã hội, chính trị, ngoại giao và kinh tế nhưng không được nhà Nguyễn nghe theo. Ông chủ trương hòa hoãn với Pháp để phát triển đất nước.


1455. Cảm xúc khi qua đèo Ngang

Đây từng biên giới chia Nam Bắc.
Bắc Nam nay đã một sơn hà.
Ải cao tôn thế cho non nước,
Núi rừng trùng điệp giữa bao la.
Còn đó lũy xưa nay đổ nát.
Còn đó bia vua, nghĩa sáng lòa.
Đừng trách leo đèo thân vất vả.
Qua đèo, kinh Huế chẳng còn xa.


1456. Họa thơ vua răn dạy các quan văn

Ơn vua chưa đền được,
Còn nặng gánh non sông.
Đánh giặc - không đủ sức.
Dâng thư, lệ hai dòng.
Kiếp phù sinh, đầu bạc.
Săt son vẫn một lòng.
Gió xuân đang thổi đến.
Mong yên chốn biên phòng 1).

1. Lúc này Pháp đang rắp tâm chiếm sáu tỉnh Nam Bộ.



NGUYỄN QUANG BÍCH

Ông nguyên họ Ngô, tên hiệu là Ngư Phong, sinh năm 1830, người xã Trình Phố, huyện Chân Định, nay là Tiền Hải, Thái Bình, đậu Đình Nguyên Hoàng Giáp năm Kỷ Tỵ (1869), làm quan đến chức tuần phủ Tuyên Hóa. Ông theo Cần Vương, chống Pháp quyết liệt, sau ốm, mất năm 1889.

1457. Thơ vịnh hoa hụê

Chỉ nở ban đêm, hương ngất ngây.
Sợ bẩn nên hoa tránh nở ngày.
Luôn hướng trời cao, thân đứng thẳng.
Giũ mình không chút bụi trần dây.


1458. Trên núi

Con sông chảy ven núi,
Mưa lâu, rêu mọc dày.
Ngồi trên cao nhìn xuống,
Tưởng mình đang cưỡi mây.




HOÀNG VĂN HÒE

Sinh năm 1848 ở làng Phù Lưu, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, biệt hiệu Hạc Nhân; đỗ tiến sĩ năm 1880 (Tự Đức thứ 13), từng làm tri phủ huyện Kiến Xương, Thái Bình, sau treo ấn từ quan tham gia chống Pháp với đề đốc Tạ Hiện và vua Hàm Nghi; không rõ năm mất.  Tác phẩm có Tập thơ chữ Hán "Hạc Nhân Tùng Ngôn".


1459. Hoa cúc

Chợt thèm uống rượu lúc thu sang.
Hoa nở ngoài sân tựa núi vàng,
Cái nghèo vẫn thế, ta yêu cúc
Có phải vì hoa giống họ Hoàng?


1460. Đêm nghe tiếng sóng

Suốt ngày đi ven biển,
Nghe sóng đánh ào ào.
Đêm chợt tỉnh, không hiểu -
Tiếng sóng hay mưa rào?


1461. Đi thuyền trên sông, xuất khẩu thành thơ

Nửa đời lưu lạc, kiếp bơ vơ.
Lánh bụi Trường An, sống vật vờ.
Vất vả quanh năm, ngày rỗi việc,
Chơi thuyền một chuyến hóa nhà thơ.


1462. Cao hứng ở quán bên sông
   Bài bốn

Bừa bộn bình trà với bút nghiên.
Tóc rối, một mình hứng, xướng lên.
Trẻ con chỉ trỏ: Ông này lạ,
Nửa giống người khôn, nửa giống điên.


1463. Cao hứng ở quán bên sông
   Bài năm

Đất trời hòa lẫn, sáng long lanh.
Núi sạch sau mưa, bệnh cũng lành.
Muốn tìm bạn cũ, không tìm được,
Đành ngắm thông già, ngắm núi xanh.


1464. Cao hứng ở quán bên sông
   Bài tám

Đang xuân, thật đẹp cảnh ven sông.
Nhìn hoa, bất chợt xốn xang lòng.
Gặp người, hỏi chuyện làng quê cũ:
Lúa ngô có tốt, được mùa không?


1465. Trên thuyền về An Định

Thuyền về đến bến, trời tan mây.
Mưa tạnh, xa xa cánh nhạn bay.
Sóng biếc, cỏ cây như tranh gấm.
Xin hỏi: Ai thêu đẹp thế này?


1466. Cầu trên sông Hương

Chiếc cầu, trăng xế, bắc qua sông,
Thuyền bán, thuyền mua đứng giữa dòng.
Tiếng mái chèo khua xen tiếng hát,
Cộng với tiếng người ở phía đông.


1467. Đền thờ trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi

Sân ngập ánh trăng, cỏ mọc dày,
Dấu thành còn đó giữa rừng cây.
Bốn bề tĩnh mịch, buồn man mác.
Tương truyền họ Mạc dạy nơi này.


1468. Thành Diễn Châu

Diễn Châu gần biển, cảnh vui thay.
Tạm dừng xe ngựa, ngắm nơi này.
Trên cạn ốc sò thành lũy cứng, 1)
Dưới sông tôm cá khóc đêm ngày.
Chợt nhớ người xưa khi tựa cửa,
Ngắm chiều ráng đỏ, cánh chim bay.
Đã bốn chục năm, buồn ngẫm lại -
Bèo bọt cuộc đời tựa áng mây.

1). Dọc bờ biển Diễn Châu nền đất chủ yếu được tạo thành bởi nhiều lớp xác ốc sò bị nén cứng. Nhân dân địa phương thường đào lên làm gạch xây nhà.


1469. Sáng sớm ra đi từ Hà Nội,
viết trên thuyền khi qua Vị Thành

Buồm căng, trời nhiều gió.
Ráng làm cây rực hồng.
Lòng khách như nước chảy.
Trời se se chớm đông.
Mái chèo khua không nghỉ.
Đàn thơ, chén rượu nồng.
Đã mấy đêm mưa khói.
Trong mộng, vượt nam sông.


1470. Đi giữa rừng Cổ Pháp

Tiễn người buổi sáng giữa rừng cây.
Nước khe rửa sạch bụi lòng này.
Xế bóng, mặt trời còn rực rỡ.
Giật mình chim hót, gió lung lay.
Thời loạn, tiều phu khinh phép nước.
Chủ đói, người hầu túi nhẹ tay.
Nỗi buồn ai hiểu mà tâm sự,
Họa có chút tình, chỉ áng mây.


1471. Sông Hương, đêm trên thuyền

Sương khói trên sông, cánh nhạn chao.
Chợt nhớ thuyền con xưa, thưở nào.
Mây nhàn cùng khách tranh sang bến.
Người xưa ngắm cảnh, dạo lầu cao.
Nhiều nước, vùng này hè vẫn mát.
Dân quen triều biển lớn, mưa rào.
Trời in bóng nước, trông mồn một,
Ngỡ nếu buông câu, câu được sao.


1472. Lên núi Phật Tích

Nhàn rỗi lên chơi ở núi này.
Thanh tao sông nước, núi và cây.
Tùng trúc kề bên, chùa phía dưới,
Lâu đài in ngược, sóng lung lay.
Núi chạy dồn nhau, chừng mỏi gối.
Chuyện đời thua được chẳng hề hay.
Vương lang1) ngày trước giờ đâu nhỉ?
Chắc bận chơi cờ giữa đám mây.

1). Theo truyền thuyết, xưa có chàng Vương Chất lên núi Phật Tích, thấy hai ông già râu tóc bạc phơ đang chơi cờ bên bàn đá. Tò mò, chàng để rìu xuống  ngồi xem. Hết ván cờ, ngoảnh lại nhìn thì thấy cán rìu đã mục nát. Chàng hiểu chàng đã lạc vào cõi tiên, nơi một ngày bằng trăm năm.


1473. Ngâm vịnh với ông già cùng làng

Sáu mươi chín tuổi đã là già.
Quá đủ đau buồn với chúng ta.
Đuổi người, năm tháng như tên bắn.
Công danh rốt cục cũng thành ma.
Soi gương thấy tóc lâm râm bạc.
Sáng trưa chiều tối uống ngà ngà.
Chung qui nhàn nhã là hơn cả.
Hết chơi với cháu, lại trồng hoa.
                                                 

1474. Thơ đề miếu Cổ Loa

Một mình sừng sững giữa trời mây.
Một thời dấu vết vẫn còn đây.
Nỏ thần ngày trước không còn nữa,
Còn lại thành hoang cỏ mọc dày.
Bóng trúc đung đưa, sương sớm lạnh,
Bờ lau trăng trắng cánh cò bay.
Đứng tựa lan can, ghi cảm xúc.
Nước ao rửa ngọc, ngẫm buồn thay.



NGUYỄN VĂN SIÊU

Sinh năm 1796, mất 1872, tự Tốn Ban, hiệu Phương Đình, người làng Kim Lũ, Thanh Trì, nay thuộc Hà Nội. Ông đỗ phó bảng năm 1828, làm quan đến chức Án sát và từng đi sứ sang Trung Quốc. Nguyễn Văn Siêu được coi là một trong bốn văn sĩ giỏi nhất đương thời. Tác phẩm có Phương Đình thi loại, Phương Đình thi tập, Phương Đình tùy bút lục, Địa dư toàn biên, vân vân.


1475. Chơi thuyền ở Tây Hồ

Bao đời nay đã thế -
Núi non và sông hồ.
Vẫn như xưa thành cổ,
Sóng lặng, núi nhấp nhô.
Tiếng chuông làm tỉnh mộng.
Thu về, lá vàng khô.
Sáng nay tôi và bác
Chơi cho hết buồn lo.


1476. Sớm xuân ngủ dậy

Phòng sách đèn còn sáng.
Tiếng chuông chùa ngân nga.
Chủ ngáp, tung chăn dậy.
Trẻ báo đào ra hoa.
Bụi trúc sương còn lạnh.
Nắng sưởi khóm mai già.
Ngoài cửa chim oanh hót -
Sắp có khách đến nhà.


1477. Ngắm trăng trên sông Nhị Hà

Lập lòe ánh lửa xóm ven sông.
Thuyền bè tấp nập, bến lưu thông.
Lâng lâng tình khách bên bờ bắc.
Lơ lửng trăng gầy ở phía đông.
Mây thấp, cây sà, nhìn xuống nước.
Trời cao, lầu gác hướng lên không.
Vũ trụ xem ra tình ý thật.
Lúc này ai nghĩ giống ta không?


1478. Bến Chương Dương

Người Nguyên càn rỡ kéo quân sang,
Trăm vạn tinh binh bị bắt hàng.
Thắng giặc đâu riêng nhờ tướng giỏi,
Còn nhờ dân chúng đất Nam bang.
Biên giới hai bên trời định sẵn.
Uy danh "cướp giáo" vẫn còn vang.
Gió thu bến cũ đi theo khách.
Khách tung vạt áo, đứng hiên ngang.



TRẦN BÍCH SAN

Sinh năm 1840, mất 1877, tên chữ là Vong Nghi, hiệu Mai Nham, người huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Đinh, đậu Tam Nguyên triều Nguyễn, được Tự Đức đổi tên thành Trần Hy Tăng, làm quan đến chức Tả tham tri bộ Lễ. Là một sĩ phu yêu nước, ông muốn cải cách đất nước. Năm 1877 ông được vua triệu về kinh để làm chánh sứ sang Pháp nhưng mất đột ngột.


1479. Sóng biển

Đêm khuya ở công quán,
Nghe sóng réo một mình.
Nước Pháp gây khó dễ -
Sóng biển cũng bất bình.


1480. Ngày mồng một Tết Mậu  Thìn

Gió xuân, vẫn gió cũ,
Từ biển thổi vào phòng.
Chim kêu như mời rượu,
Ngày đẹp, trời xanh trong.
Tình vua tôi bền chặt.
Rạng rỡ cảnh non sông.
Năm nay ở Bến Nghé
Hoa nở có nhiều không?


NGUYỄN XUÂN ÔN

Sinh năm 1825, mất 1889, hiệu Ngọc Dương, người làng Lương Điền, Đông Thanh, thuộc Diễn Châu, Nghệ An. Ông thi đỗ tiến sĩ năm 1871, làm quan đến chức án sát Bình Thuận, Quảng Ngãi rồi cáo quan về quê, sau hưởng ứng chiếu Cần Vương, bị Pháp bắt và chết trong nhà lao Huế.


1481. Tràng An hoài cổ

Nghìn năm khởi nước, dựng cơ đồ,
Trăm năm lăng tẩm biến thành gò.
Lầu son thành chốn tanh hôi cả.1)
Xóm làng đây đó cháy thành tro.
Doanh trại suốt ngày vang tiếng súng.
Ngoài đường ầm ĩ tiếng ô tô.
Mong sao đất nước mau yên ổn,
Mọi miền hướng tới đất thành đô.

1. Chỉ những nhà cao đẹp do người Pháp ở.



DƯƠNG KHUÊ

Sinh năm 1839, mất 1902, hiệu Vân Trì, quê ở Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Tây. Ông đỗ tiến sĩ năm 1868, làm quan đến chức tổng đốc Nam Định, sau từ quan về nhà. Tác phẩm có Vân Trì thi thảo.


1482. Tết Trung Thu ở Hà Thành

Trời quang, gió lặng, hết mưa ngâu.
Hà Thành đèn sáng suốt đêm thâu.
Nhộn nhịp phố phường, xe chen chúc.
Hồ Gươm trăng sáng chếch bên lầu.
Bàn cờ thế sự chưa lường trước.
Tuổi già mượn rượu để tiêu sầu.
Trẻ con ham nghịch trò rồng cá 1),
Không biết sơn hà thu đã lâu.

1.Ý nói chơi trò rước đèn rồng, đèn cá trong tết Trung Thu.



ĐẶNG THÁI THÂN

Chưa rõ năm sinh, năm mất, hiệu Ngư Hải, người huyện Nghi Lộc, Nghệ An, học trò và là đồng chí của nhà cách mạng Phan Bội Châu. Ông bị giặc bắt năm 1910, chống trả quyết liệt rồi tự tử chết.


1483. Cảm hứng

Đêm nghe sóng vỗ tựa mưa giông
Mới biết ngoài kia là Biển Đông.
Muốn gửi tâm tư vào ngọn gió,
Chỉ ngại trời xanh thấu nỗi lòng.



ĐINH PHU NHÂN

Chưa rõ họ tên, năm sinh và năm mất, chỉ biết bà tham gia cách mạng, bị Pháp bắt và tra tấn dã man nhưng một mực không khai. Trước khi chêt, bà để lại ba bài thơ tuyệt mệnh. Nhà nghiên cứu Chương Thâu cho bà là Ấu Triệu, tức Lê Thị Đàn, một nữ đồng chí của Phan Bội Châu.


1484. Thơ tuyệt mênh
   Bài một

Lạnh lùng nhà ngục lúc quyên sinh.
Biển rộng, trời cao, khóc một mình.
Vì nước quên thân là phận nữ.
Giận lũ mày râu hèn, đáng khinh.


1485. Thơ tuyệt mênh
          Bài hai

Suối vàng, khi xuống gặp Trưng Vương,
Giọt máu chim quyên khóc xót thương.
Nếu may sống lại thành Bồ Tát,
Nghìn tay cầm kiếm, lại lên đường!


1486. Thơ tuyệt mênh
          Bài ba

Thương nước, thương dân, lệ ứa nhòa.
Sông Hương giận dữ nổi phong ba.
Sự nghiệp thành công, khi hết giặc,
Có người hương khói trước mồ ta.



NGUYỄN THƯỢNG HIỀN

Sinh năm 1866, mất 1925, người huyện Sơn Lãng, nay là huyện ng Hòa, Hà Tây, đậu Hoàng Giáp năm 1892, triều Huế thúc ép mãi mới chịu ra làm quan; có tư tưởng yêu nước, ủng hộ phong trào Đông Du của Phan Bội Châu; từng sang Trung Quốc, Nhật Bản và đảm đương nhiều việc hệ trọng của "Việt Nam Quang phục hội". Cuối đời đi tu, ở ẩn ở Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc, và mất ở đó.

1487. Cùng tướng quân Nguyễn Mạnh Hiếu
chơi chùa Năng Nhân, tỉnh Việt Đông.

Người hùng cái lợi chẳng mưu cầu.
Nợ nước, mài gươm hẹn với nhau.
Chơi chùa, nói chuyện toàn đao kiếm.
Lặng lẽ sư nghe, chỉ lắc đầu.


1488. Cùng ông Nguyễn Thời Hiến 1) dạo chơi
các núi ở Tây Hồ, 2) viết bài này để tặng.

Chơi núi mỏi chân, lại xuống thuyền,
Trở về quán rượu, uống triền miên.
Nợ nước, thù nhà cần phải trả,
Đừng đem cầm cố kiếm Long Tuyền.

(1) B¹n cña NguyÔn Thư­îng HiÒn, ng­ưêi tØnh Gia §Þnh, Nam Kú, mét ng­ưêi yªu n­ưíc vµ cã nghÜa khÝ.
(2) Khu th¾ng c¶nh ®Ñp ë phÝa t©y thµnh phè Hµng Ch©u, tØnh ChiÕt Giang, Trung Quèc.


1489. Tặng Chương Thái Viêm 1)
tiên sinh khi ở Đông Hải 2)

Con thuyền muôn dặm giữa trùng khơi.
Đất khách gặp nhau, nói chuyện đời.
Tàn rượu, bên đèn ngồi đọc sách.
Tây lầu gió thổi, đẫm mưa rơi.

(1) Nhµ c¸ch m¹ng Trung Quèc, chñ bót tê "D©n b¸o" cña §¶ng c¸ch m¹ng do T«n DËt Tiªn l·nh ®¹o.
(2) Tøc NhËt B¶n ngµy nay.


1490. Đi thuyền ghé Hương Cảng

Thuyền đậu bờ sông, cỏ mọc dày,
Ngoái nhìn đất mẹ phía trời mây.
Lưới chài khắp chốn phơi như bẫy, 1)
Trên trời lồng lộng cánh chim bay.

(1) T¸c gi¶ muèn nãi ®Õn m¹ng l­íi mËt th¸m mµ thùc d©n Ph¸p bè trÝ ë ®©y ®Ó b¾t c¸c nhµ c¸ch m¹ng ViÖt Nam.


1491. Núi Ngũ Hành
Bài môt

Hăm lăm năm lẻ cõi nhân trần.
Bồng Lai không thấy, tạm dừng chân.
Động đẹp Tàng Chân nay được thấy,
Quét đá, dâng hoa cúng các thần.


1492. Núi Ngũ Hành
Bài hai

Uống rượu, người nhàn dưới bóng cây.
Tiên ông ngày trước nghỉ nơi này.
Tiên phật là ai, không muốn biết.
Mây nhàn phía dưới lững lờ bay


1493. Cuối xuân, nhà trên núi

Sáng dậy nghe chim hót.
Sương ướt đẫm mái gianh.
Sông Ngân Hà trước mặt.
Mai nở trắng trên cành.
Một ngày dài đợi việc.
Sông núi đẹp như tranh.
Đêm qua mơ về nước,
Thấy toàn ruộng lúa xanh.



PHAN CHU TRINH

Là chí sĩ yêu nước nổi tiếng, Phan Chu Trinh sinh năm 1872, mất 1906, hiệu Tây Hồ, quê xã Tiên Lộc, nay là Tiên Hồ, Tiên Phước, Quảng Ngãi. Ông đậu cử nhân rồi phó bảng, làm quan một thời gian ngắn và bắt đầu hoạt động cách mạng, chủ trương chống Pháp theo kiểu hợp pháp. Ông từng đi Pháp, bị bắt đày ra Côn Đảo. Tác phẩm có Giai nhân kỳ ngộ, Tỉnh quốc hồn ca, Tây Hồ thi tập, vân vân.


1494. Bị giải ra khỏi kinh thành

Xiềng gông đầy người, chân lê bước.
Miệng hát, thì ra lưỡi vẫn còn.
Một khi đất nước đang nô lệ,
Thân trai há phải sợ Côn Lôn?


1495. Ốm nằm ở Phan Thiết

Lại muốn một vòng thăm đất nước.
Tam Phan 1) mưa lớn, phải nằm nhà.
Xa xứ, một mình nghe sóng vỗ.
Lòng này ai hiểu thấu cho ta?

1. Ba địa danh có tên là Phan - Phan Rang, Phan Rí, và Phan Thiết.


1496. Tết Nguyên Đán ở kinh thành

Sông Hương, núi Ngự đẹp xưa nay.
Thật vui, dân chúng đón xuân này.
Các quan áo mũ vào cung tế.
Dân thường gặp bạn, uống, cùng say.
Làm công một tháng dăm đồng bạc.
Cả năm vui vẻ chỉ ba ngày.
Ra về chuếnh choáng, còn buôn chuyện.
Mọi người ái ngại, tưởng thằng ngây.



PHAN BỘI CHÂU

Sinh năm 1865, mất 1940, hiệu Sào Nam, quê làng Đan Nhiễm nay thuộc huyện Nam Đàn, Nghệ An. Ông đậu Giải Nguyên năm 1900, bốn năm sau thành lập Hội Duy Tân. Năm 1905 ông xuất dương thành lãnh tụ phong trào Đông Du, sau này thành lập Việt Nam Quang Phục hội. Phan Bội Châu là tấm gương tiêu biểu cho cuộc đấu tranh chống Pháp vì độc lập dân tộc. Ông bị bắt năm 1925 ở Quảng Châu, bị giải về nước và giam lỏng ở Huế cho đến khi mất. Tác phẩm có Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Bái thạch vi huynh và nhiều cuốn khác.

                                                                                                    
1497. Chia tay khi ra nước ngoài

Cái chí làm trai phải giúp đời.
Lẽ đâu phó mặc cả cho trời.
Việc nước bây giờ ta gắng sức,
Sau này người khác, quyết không ngơi.
Sống nhục làm gì khi nước mất.
Đọc sách, tán suông chỉ mụ người
Muốn theo ngọn gió ra Đông Hải,
Vẫy vùng với sóng giữa trùng khơi.



LÊ ĐẠI

Sinh năm 1875, mất 1951, tên chữ là Siêu Tùng, hiệu Từ Long, người Thịnh Hào, Hà Nội. Đỗ tú tài hai lần nên thường được gọi là ông Kép Thịnh Hào. Ông tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo, đến năm 1925 mới được tha.


1498. Tặng bác Huỳnh Thúc Kháng

Côn Lôn ngày ấy... chuyện lâu rồi.
Nghề rút ruột tằm, bác với tôi.
Ngẫm lại, văn chương vô tích sự.
Nói lắm, viết nhiều cũng thế thôi.


                                    Hết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét