Thứ Năm, 12 tháng 3, 2020

Cổ Học Tinh Hoa





CỔ HỌC TINH HOA

Cổ Học tinh Hoa - Sách Liệt Tử
NGU CÔNG DỜI NÚI

Thái Hàng và Vương Ốc
Là hai rặng núi xanh
Ở phía nam Châu Ký,
Như một bức tường thành.

Nằm ngay dưới chân núi
Là nhà của Ngu Công.
Chín mươi tuổi, khỏe mạnh,
Hái củi và làm nông.

Khó chịu vì thấy núi
Chắn mất đường lại qua,
Một hôm, trong bữa tối,
Ông nói với cả nhà:

“Ta muốn dùng cuốc xẻng
Dọn hai ngọn núi này.
Nếu mọi người đồng ý
Ngày mai ta làm ngay”.

Cả nhà đều nhất trí.
Chỉ bà vợ lắc đầu:
“Đất đá từ núi ấy
Ông định đổ đi đâu?”

“Xuống Biển Đông, hẳn thế”.
Và rồi sáng hôm sau,
Công việc dời núi ấy
Lập tức được bắt đầu.

Hàng ngày ông đập đá,
Đem đổ xuống Biển Đông.
Giúp sức có con cháu
Cùng láng giềng của ông.

Ngày ngày qua ngày khác,
Cả buổi sáng, buổi trưa.
Năm này qua năm khác,
Cả trời nắng, trời mưa.

Trí Tẩu, một người lạ,
Từ xa đến, bảo ông:
“Già rồi, sao không nghỉ,
Còn làm việc phí công?”

Đáp: “Không việc gì khó.
Chỉ sợ lòng không bền.
Đào núi và lấp biển,
Có chí vẫn làm nên.

Mà tôi làm chưa được,
Thì nối tiếp cha ông
Là cháu con, chút chít.
Lo gì việc không xong”.

*
Nơi xưa hai ngọn núi
Vương Ốc và Thái Hàng
Nay là con đường rộng,
Đi lại rất dễ dàng.

Giải nghĩa:
1. Châu, một trong chín châu đời cổ, nay là vùng Trực Lệ, Sơn Tây phía Bắc sông Hoàng Hà, tỉnh Hà Nam, phía tây sông Liêu Hà, tỉnh Phụng Thiên xưa.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Liệt Tử
VINH KHẢI KỲ

Lần nọ, cùng môn đệ,
Giữa đường núi, đang đi,
Khổng Tử gặp ông lão
Có tên Vinh Khải Kỳ.

Ông lão miệng thì hát,
Tay thì luôn gẩy đàn.
Ra chiều thích thú lắm,
Vui vẻ và an nhàn.

Khổng Tử xuống xe, hỏi:
“Bẩm, tiên sinh hôm nay
Có gì mà vui vậy?
Liệu có vui hết ngày?”

Vinh Khải Kỳ liền đáp:
“Trong vạn vật ở đời
Loài người là quí nhất.
Vui vì tôi là người.

Mà người, như ngài biết,
Đàn ông hơn đàn bà.
Tôi cũng vui vì việc
Tôi không là đàn bà.

Nhiều người chịu bệnh tật,
Cụt chân hay mù đui.
Tôi chin mươi ba tuổi,
Khỏe mạnh, sao không vui?

Khổng Tử cúi đầu đáp:
“Chí lý, thưa tiên sinh.
Ai cũng có đủ cớ
Để vui với chính mình”.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã Thi Xuân Thu
NGƯỢC VÀ XUÔI

Ở đời nhiều cái ngược
Mà hóa ra lại xuôi.
Trong khi nhiều cái xuôi
Thực tình lại là ngược.

Người nào đủ tinh tế
Để nhận ra điều này
Sẽ chuyển bại thành thắng
Và đêm tối thành ngày.

Vua nước Kinh lần nọ
Muốn xuất quân đánh Trần,
Sai người do thám trước,
Vì chưa hết phân vân.

Người do thám về báo
Không nên đánh. Vì sao?
Vì nước Trần phòng thủ
Hào sâu và tường cao.

Hơn thế, kho lương thực
Đầy ắp và có nhiều.
Lính và dân luyện tập
Cả sáng và cả chiều.

Quan đại thần Ninh Quốc
Tâu: :Nên đánh. Vì sao?
Vì nước Trần nhỏ bé
Mà hào sâu, tường cao.

Tức dân phải phục dịch
Mệt mỏi cả đêm ngày.
Các kho lương dự trữ
Nghe nói nhiều, luôn đầy.

Cũng có nghĩa dân chúng
Phải sưu nặng, thuế cao.
Lòng dân đang oán hận
Như nồi cơm sắp trào.

Xin bệ hạ quyết đánh,
Đừng do dự, phân vân.”
Vua Kinh nghe, lần ấy
Nhanh chóng chiếm được Trần.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã Thị Xuân Thu
ĐÁNH DẤU THUYỀN TÌM GƯƠM

Có người nước Sở nọ
Đi thuyền trên con sông,
Vô tình rơi xuống nước
Chiếc gươm báu cha ông.

Anh ta liền vội vã
Khắc mép thuyền bằng dao
Nơi vừa tuột gươm báu.
Mọi người hỏi: “Vì sao?”

“Thì tôi đang đánh dấu
Chỗ chiếc gươm vừa rơi.
Lúc quay về tìm lại.
Mà sẽ tìm được thôi”.

*
Câu chuyện này được chép
Trong Lã Thị Xuân Thu.
Lã Bất Vi viết nó
Để chế diễu người ngu.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã Thị Xuân Thu
XÁC CHẾT CHƯƠNG PHỀNH

Năm ấy nước sông Vĩ
Dâng to, một nhà giàu
Không may có người chết,
Xác trôi dạt vào cầu.

Có một người trong ấp
Đi ngang thấy, vớt lên.
Đòi gia đình người chết
Phải nộp một món tiền.

Ông nhà giàu xót của,
Nghĩ đòi thế quá cao.
Bèn đến hỏi Đặng Tích
Nên xử lý thế nào.

Đặng Tích vuốt râu, nói:
“Yên tâm, đừng chuộc ngay.
Ngoài ông, còn ai khác
Muốn mua xác chết này?”

Còn người kia, chờ mãi
Không thấy ai nộp tiền,
Suốt ruột, tìm Đặng Tích
Xin cho một lời khuyên.

Quan Đại Phu Đặng Tích
An ủi hắn: “Không sao.
Họ không mua của bác
Còn mua của người nào?”

Và thế là chiếc xác,
Bên nọ, chờ bên này.
Không mua cũng không bán
Bị chương phềnh nhiều ngày.

*
Vì ai cũng hám lợi,
Bắt bí nhau, vì tiền,
Cái xác bị hành tội,
Thành thiệt cả đôi bên.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Liệt Tử
LÚC ĐI TRẮNG, LÚC VỀ ĐEN

Có một anh chàng nọ,
Nhân gặp ngày đẹp trời,
Diện chiếc áo màu trắng
Rồi cưỡi ngựa đi chơi.

Khi tới làng bên cạnh
Bỗng nhiên trời mưa to.
Chiếc áo trắng ướt sũng,
Người và ngựa co ro.

Anh chàng vào nhà bạn
Trú tạm, chờ hết mưa.
Rồi mượn bạn chiếc áo,
Màu đen, mặc rất vừa.

Sau đó, đi chơi tiếp,
Mãi chiều tối mới về.
Nhưng vừa vào tới cổng,
Con chó sủa rất ghê.

“Lạ thật, con chó láo.
Sao dám sủa chủ nhà?”
Cô vợ ở trong bếp
Thấy thế liền đi ra.

“Nó sủa vì chiếc áo.
Sáng màu trắng, giờ đen.
Thấy lạ thì nó sủa,
Và cắn nữa, tất nhiên.

Giả sử chàng thấy nó
Chợt thay đổi màu lông.
Sáng đen, chiều bỗng trắng,
Chàng có ngạc nhiên không?”


Cổ Học Tinh Hoa
TĂNG SÂM GIẾT NGƯỜI

Ngày nọ, ở đất Phí
Có vụ giết người nhầm.
Thủ phạm là ai đó
Có tên là Tăng Sâm.

Trong khi, như ta biết,
Tăng Sâm là môn sinh
Của thầy Khổng Phu Tử,
Một người rất hiền lành.

Do trùng tên, có kẻ,
Lần nữa lại hiểu nhầm,
Liền vội vàng chạy đến
Báo với mẹ Tăng Sâm:

“Khủng khiếp, thật khủng khiếp.
Con trai bà giết người!”
“Không thể có chuyện ấy!”
Bà già đáp, chỉ cười.

Lát sau, một người khác
Chạy đến nói: “Tăng Sâm
Đã gây nên án mạng!”
“Vớ vẩn, các anh nhầm!”

Lần thứ ba, có kẻ
Hớt hải chạy vào nhà:
“Tăng Sâm giết người đấy.
Tăng Sâm, con trai bà!”

Lần này thì bà mẹ
Tin là thật, vội vàng
Quẳng con thoi dệt vải,
Vội chạy trốn khỏi làng.

*
Câu chuyện này được chép
Từ Cổ Học Tinh Hoa.
Đây là một bài học
Người xưa dạy chúng ta.

Rằng một điều không thật,
Nhưng chúng ta, người dân
Bị người khác ép buộc
Bắt phải nghe nhiều lần.

Rồi điều không thật ấy,
Chỉ nghe, không được nhìn,
Cuối cùng thành sự thật
Và chúng ta đã tin.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hậu Hán Thư
ĐỂ LỘC CHO CON CHÁU

Bàng Công tính điềm đạm,
Ít khi tới thị thành.
Thích ở nhà làm ruộng,
Việc được cho là lành.

Chợt thứ sử Lưu Biểu
Một hôm đến chơi nhà.
Đúng lúc ông cùng vợ
Đang cuốc đất trồng cà.

Ông lên bờ tiếp khách.
Vợ vẫn ở dưới đồng.
Lưu Biểu cúi chào, nói:
“Một người giỏi như ông

Sao không lên đô thị
Tìm kiếm một chức quan,
Để lộc cho con cháu,
Đỡ vất vả, lại nhàn?

Bàng Công đáp: “Đa tạ.
Thường người đời xưa nay
Để “nguy” cho con cháu.
Còn tôi thì đi cày.

Tôi để cái lộc “thiện”,
Là công việc nông gia.
Vừa lành vừa bổ ích,
Hơn vàng bạc đầy nhà”.

Lưu Biểu nghe nói vậy,
Chỉ còn biết thở dài.
Vừa thương vừa kính trọng
Một người có đức tài.

Giải nghĩa:
1. Bàng Công: tức là Bàng Đức Công, người hiền ở đất Tương Dương, đời Đông Hán. Ông không chịu ra làm quan, lên núi Lộc Môn ở ẩn, hái thuốc và làm ruộng kiếm sống với vợ con.
2. Lưu Biểu: người đất Cao Bình đời Đông Hán, làm thứ sử ở Kinh Châu, biết yêu thương dân và trọng người tài.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Thế Thuyết
TỨ ĐỨC VÀ BÁCH HẠNH

Hứa Doãn được bố mẹ
Cưới cho cô vợ hiền.
Chỉ tội kém nhan sắc,
Vừa xấu lại vừa đen.

Ông hỏi vợ, Nguyễn Thị,
Khi bỏ nhà ra đi:
“Đàn bà có tứ đức.
Vậy nàng có đức gì?”

“Dạ, thiếp có tất cả,
Chỉ đức dung không nhiều.
Đàn ông có bách hạnh.
Chàng có được bao nhiêu?”

“Ta có đủ bách hạnh,
Mà đã có từ lâu”.
Nguyễn Thị cung kính đáp:
“Bách hạnh, đức làm đầu.

Chỉ vì thấy thiếp xấu,
Chàng đã bỏ nhà đi.
Tức là thiếu cái đức.
Bách hạnh ấy là gì?”

Hứa Doãn nghe vợ nói,
Thấy hổ thẹn trong lòng.
Suốt đời cố giữ vững
Cái đức của người chồng.

Giải nghĩa.
1. Hứa Doãn: Người đời Tống, có tài văn chương, thi đỗ tiến sĩ, làm quan liêm chính, được lòng dân cảm phục.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Sử Ký
HÀ BÁ LẤY VỢ

Ngày ấy dân đất Nghiệp
Có tục lệ hàng năm
Mua một cô gái đẹp
Rồi chờ đúng đêm rằm

Ném cô xuống dòng nước
Đang cuồn cuộn dưới sông
Để làm vợ Hà Bá.
Một cảnh tượng đau lòng.

Tục lệ mê tín ấy
Có từ bao đời nay.
Quan huyện Tây Môn Báo
Muốn chấm dứt việc này.

Ông thân hành chủ lễ,
Đi thuyền ra giữa song,
Cùng hào trưởng, bô lão,
Ông cốt và bà đồng.

Ông xem mặt cô gái
Rồi nói: “Không, cô này
Không xứng với Hà Bá.
Phải xin hoãn vài ngày”.

Người xuống gặp Hà Bá,
Được giao cho ông đồng.
Ngay lập tức binh lính
Ném ông này xuống sông.

Một lúc sau, ông nói:
“Sao chờ lâu thế này?
Bà cốt xuống xem thử,
Rồi nhanh chóng về ngay”.

Và thế là bà cốt
Bị lính ném xuống sông.
Tiếp đến một hào trưởng,
Rồi thêm một cụ ông.

Chờ mãi vẫn không thấy
Có người nào ngoi lên
Quan huyện Tây Môn Báo
Nói, giả giọng buồn phiền:

“Vậy là thần Hà Bá
Chắc thích sống một mình,
Không muốn lấy vợ nữa.
Tiếc, nhưng thôi, cũng đành”.

Từ đấy dân đất Nghiệp
Không có một người nào
Muốn nhắc đến chuyện cũ,
Và ai cũng thở phào.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hậu Hán Thư
MÌNH BIẾT, TRỜI BIẾT

Dương Chấn được bổ nhiệm
Làm thái thú Đông Lai.
Nghỉ tại đất Xương Ấp
Sau một chặng đường dài.

Vương Mật, quan ở đấy,
Ra đón tiếp hết lòng.
Là vì xưa, Vương Mật
Được thăng tiến nhờ ông.

Đêm, chờ khi vắng vẻ,
Vương Mật liền vội vàng
Đến gặp riêng Dương Chấn,
Xin lễ một ít vàng.

Dương Chấn nghiêm mặt nói:
“Xưa tôi tiến cử ông
Vì ông là người tốt,
Chứ vì vàng thì không”.

Vương Mật cố nài nỉ:
“Ngài vui lòng nhận cho.
Đêm, không ai nhìn thấy.
Việc kín, ngài đừng lo”.

Dương Chấn nói: “Trời biết.
Tôi biết, và cả ông.
Chí ít ba người biết,
Sao lại bảo là không?

Làm quan phải liêm khiết,
Không tư lợi làm giàu”.
Vương Mật nghe, xấu hổ,
Lui ra, cúi thấp đầu.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hàn Phi Tử
THẬP BÌ VÀ HUỆ VƯƠNG

Vua Huệ Vương nước Ngụy
Một hôm hỏi Thập Bì:
“Ngươi nghe người ta nói
Về ta những điều gì?”

“Thần nghe người ta nói
Bệ hạ là người nhân,
Tốt bụng với dân chúng,
Hào phóng với quần thần”.

Huệ Vương đắc chí lắm,
Lại hỏi: “Vậy điều này
Sẽ dẫn đến kết quả
Tốt đẹp thế nào đây?”

“Đức ấy của Bệ hạ
Rồi một ngày không xa
Dẫn đến việc vong quốc.
Thật lo cho nước nhà”.

Việt Vương ngạc nhiên, hỏi:
“Ta không hiểu, vì sao?
Nhân từ, thích ban thưởng,
Mất nước là thế nào?”

“Bẩm, vua nhân từ quá
Sẽ dễ dãi cho qua,
Không phạt kẻ có tội,
Không cấm điều xấu xa.

Còn vua quá hào phóng,
Dễ ban thưởng cho người
Không hề có công trạng
Cho vua và cho đời.

Thì dẫu vua nhân hậu,
Vẫn có sự an nguy.
Mất nước cũng không lạ”.
Cung kính đáp Thập Bì.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trang Tử
ĐÁM TANG CỦA TRANG TỬ

Khi thấy thầy sắp chết.
Các học trò thì thào
Nên tổ chức tang lễ
Nhỏ hay to thế nào.

Trang Tử nghe, bèn nói:
“Các trò khỏi bận lòng.
Ta lấy trời làm quách,
Phong thủy là núi sông.

Hai viên ngọc bích lớn
Là mặt trăng, mặt trời.
Muôn vàn hạt châu báu
Là sao sáng khắp nơi.

Đồ cúng là hoa trái
Và muông thú đời này.
Hương khói luôn nghi ngút
Là gió thoảng, mây bay...

Được chết, về với đất,
Thả hồn theo núi sông.
Thế là mãn nguyện lắm.
Các trò khỏi bận lòng”.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lễ Ký
THAY CHIẾU KHI CHẾT

Tăng Tử ốm, sắp chết.
Trò - Nhạc Chính, Tử Xuân
Luôn ngày đêm túc trực.
Con - Tăng Nguyên, Tăng Nhân.

Còn có thêm cậu bé
Cầm nến đứng bên ông.
Bất chợt nó lên tiếng:
“Như thế có nên không,

Rằng thầy, theo thứ bậc,
Là kẻ sĩ, túc nho,
Mà chết, nằm trên chiếu
Thuộc vào bậc quan to?”

Tăng Tử giật mình nói:
“À quên, chiếc chiếu này
Của Quý Tôn, nước Lỗ,
Tặng, ta chưa kịp thay.

Ông là bậc quyền quý,
Thuộc vào hàng quân vương.
Chiếc chiếu này không hợp
Với ta, người bình thường”.

Rồi Tăng Tử nằng nặc
Đòi thay chiếc chiếu gai.
Con ông, Tăng Nhân, nói:
“Thưa cha, đợi đến mai”.

Ông đáp: “Nó nói đúng.
Đấng quân tử ở đời
Phải tuân theo lễ nghĩa,
Để không bị chê cười”.

Rồi học trò, con cái
Đành nhẹ nhàng đặt ông
Lên chiếc chiếu gai mới.
Ông mỉm cười hài lòng.

Một lát sau thì chết,
Để lại cho mọi người
Thêm một bài học quý
Về lễ nghĩa ở đời.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Thông Chí
LỆCH THỪA KHÔNG BẰNG NGAY THIẾU

Kiều Lâu là cao sĩ
Nước Tề thời Xuân Thu.
Trung thực và khí khái,
Như một bậc đại phu.

Nhiều nước mời làm tướng,
Ông dứt khoát nói không.
Được Uy Vương kính trọng
Như người thầy, người ông.

Khi chết, ông nghèo lắm.
Chỉ có một chiếc chăn
Không che kín thân thể.
Được đầu thì hở chân.

Tăng Tử đến thăm viếng,
Thấy vậy bảo vợ ông:
“Đắp chéo chăn có thể
Che kín người, nên không?”

Vợ ông đáp: “Không được.
Xin cứ để thế này.
Ông ấy vốn nổi tiếng
Người ngay thẳng xưa nay.

Đắp lệch là trái đạo.
Thà cứ đắp chân phương.
Chồng tôi cả khi chết,
Không muốn trái đạo thường”.

Tăng Tử không dám trái,
Chỉ thầm nghĩ trong lòng:
Một người vợ đạo nghĩa,
Rất xứng đáng với chồng.

Giải nghĩa:
1. Kiều Lâu: người nước Tề, một bậc ẩn sĩ có tiếng thời ấy.
2. Vua Uy Vương đời nhà Chu.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Mai Hiên Bút Ký
CHIẾC QUAN TÀI

Có một nhà sư nọ
Tên là Viên Thủ Hầu,
Trụ trì một chùà lớn
Ở vùng đất Tô Châu.

Sư tu đã đắc đạo,
Kinh và pháp đều thông.
Được mọi người quý mến.
Khách thăm chùa rất đông.

Nhưng nhà sư này lạ,
Luôn đặt chiếc quan tài
Bằng gỗ, trang trí đẹp.
Ngay bên giường của ngài.

Khi có người hỏi chuyện,
Ngài thường đáp thế này:
“Người đời luôn lo nghĩ
Về cuộc sống hôm nay.

Chứ ít ai nghĩ đến
Cuộc đời mình mai sau.
Tức là về cái chết,
Đi đâu và về đâu?

Ở đời sống là dễ.
Chết khó hơn nhiều lần.
Ý nghĩ về cái chết,
Giúp ta vượt khó khăn.

  Mỗi lần tôi gặp khó,
Nhìn chiếc quan tài này,
Dần dần thấy tan biến
Mọi buồn bực trong ngày.

Nó là cái nhắc nhở
Về cuộc sống vô thường,
Nhắc mình khi còn sống
Đừng quên tình yêu thương”.

Giải nghĩa:
1. Tô Châu: huyện Ngô, thuộc tỉnh Giang Tô bây giờ.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Mặc tử
NHUỘM TƠ

Đang trên đường, Mặc Tử
Có việc phải bất ngờ
Nghỉ lại ở làng nọ,
Nhân tiện xem nhuộm tơ.

Lúc đầu tơ đều trắng.
Được nhúng vào mực xanh.
Lát sau, cũng cuộn ấy
Từ màu trắng thành xanh.

Rồi đến các màu khác -
Đỏ, vàng, tím và nâu.
Năm cuộn tơ màu trắng
Bây giờ có năm màu.

Ông bảo các đệ tử:
“Con người cũng như tơ,
Nhân chi sơ bản thiện,
Trong trắng và ngây thơ.

Vì chơi với người xấu,
Mà trở thành xấu xa.
Vì chơi với người ác,
Mà thành kẻ gian tà.

Vậy các trò phải nhớ
Chọn đúng bạn mà chơi.
Chọn tốt thì được tốt.
Sai, phải khổ suốt đời”.

Giải nghĩa:
1. Mặc Tử: người nước Lỗ thời Chiến quốc, họ Mặc tên Địch, làm quan đại phu nước Tống, chủ xướng học thuyết Kiêm ái”.


Cổ Học Tinh Hoa
THƯ KHỔNG MINH VIẾT CHO CON

Phàm là người quân tử,
Phải tĩnh để tu thân.
Phải kiệm để dưỡng đức.
Sống, phải sống thanh bần.

Muốn tài cần phải học.
Đường sinh ra để đi.
Lười biếng không chịu học
Thì sẽ chẳng biết gì.

Mỗi năm thêm một tuổi.
Chẳng mấy chốc mà già.
Lúc ấy hối không kịp,
Mình thua kém người ta.

Giải nghĩa:
1. Khổng Minh, tức Gia Cát Lượng: người đời Tam Quốc, trước ẩn ở Nam Dương, sau giúp Lưu Huyền Đức nước Thục. Ông là người trí mưu trung nghĩa có tiếng thời Tam Quốc.


Cổ học Tinh Hoa - Sách Tiền Hạc Than
THƯ VIẾT CHO BẠN

Đời có hai cái khó
Là bắc thang lên trời.
Nhưng cũng không bằng khó
Khi phải nhờ vả người.

Đời có hai cái đắng,
Là củ đắng liên sơn.
Nhưng đói ăn, nghèo khổ
Thực ra còn đắng hơn.

Đời có hai cái mỏng,
Là băng mỏng mùa xuân.
Nhưng thói đời bạc bẽo
Còn mỏng hơn nhiều lần.

Đời có hai cái hiểm,
Là hiểm trở núi sông.
Nhưng lòng người khó đoán
Và chẳng bao giờ nông.

Biết được “hai cái” ấy -
Đắng, mỏng, hiểm, lòng người -
Mới mong vượt qua nổi
Cái khó của kiếp người.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lưu Tử
CON TRÂU BẰNG ĐÁ

Thấy Vua Thục tham ác,
Vua Huệ Vương nước Tần
Muốn cất quân đánh Thục,
Rất muốn đã nhiều lần.

Ngặt vì đường cách trở,
Toàn núi hiểm, rừng dày,
Nên cứ lần lữa mãi.
Cuối cùng có kế này:

Huệ Vương cho lấy đá
Tạc hình một con trâu,
 Ngay sát địa giới Thục,
Cao to bằng mái lầu.

Ông sai người bí mật,
Đều đều và hàng ngày,
Đặt nhiều thỏi vàng mới
Dưới đuôi con trâu này.

Lính Tần vượt biên giới,
Phao tin khắp xóm làng,
Rằng có con trâu đá
Hàng ngày vãi ra vàng.

Vốn tham lam, vua Thục
Liền sai một vạn binh
Mở đường đưa trâu đá
Về tận kinh đô mình.

Vậy là Thục trúng kế.
Huệ Vương liền xuất quân.
Đường rộng đã có sẵn,
Rất nhanh chóng nước Tần

Thôn tính được nước Thục.
Vì tham lam hơn người,
Vua Thục vừa mất nước,
Vừa còn bị chê cười.

Giải nghĩa:
1. Thục: tên nước thời Chiến Quốc, ở vùng đất thuộc Tứ Xuyên ngày nay, sau bị nhà Tần diệt.
2. Tần: nước mạnh thời Chiến Quốc, ở Tân Châu, thuộc tỉnh Cam Túc và Thiểm Tây ngày nay.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Mặc Tử
THỜI LOẠN LẠC

Ai đó bị bắt gặp
Lẻn vào vườn người ta
Để ăn trộm đào, mận,
Thì là điều xấu xa.

Còn xấu xa hơn thế
Là ăn cắp, cướp đường.
Bị lên án, kết tội.
Cũng là chuyện bình thường.

Nhưng nay, thời loạn lạc,
Đem quân cướp nước người,
Xương chất cao thành núi
Thì không ai chê cười.

Hơn thế, còn khen ngợi.
Còn được coi là công.
Lưu danh trong sử sách
Những việc thật đau lòng.

Thế mới biết thiên hạ
Vào thời loạn lạc này
Có mắt mà không thấy
Cái dở và cái hay.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Mặc Tử
GỐC RỄ CỦA LOẠN

Thánh nhân trị thiên hạ
Phải biết loạn từ đâu.
Như thầy thuốc phải biết
Cái gì làm ta đau.

Vậy nguồn gốc của loạn
Từ đâu mà sinh ra?
Loạn là do thiên hạ
Thiếu vắng lòng vị tha.

Hỗn láo với cha mẹ,
Anh và em bất bình
Là gốc rễ của loạn,
Làm tan nát gia đình.

Nước loạn vì ích kỷ,
Không ai lo việc chung.
Vua không thương dân chúng,
Tôi không có lòng trung.

Loạn là khi quan lại
Lo vơ vét làm giàu.
Các chư hầu lớn nhỏ,
Chỉ hằm hè đánh nhau.

Bởi thế sinh ra loạn.
Nước bất an, tiêu điều.
Vậy, gốc rễ của loạn
Là thiếu vắng tình yêu.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Liệt Tử
CŨNG LÀ ĂN TRỘM

Họ Hướng ở nước Tống
Chịu nghèo khổ bao đời.
Ở nước Tề, họ Quốc
Lại giàu có hơn người.

Nên người của họ Hướng,
Do trưởng họ dẫn đầu,
Sang Tề hỏi họ Quốc
Làm sao để thành giàu.

Người họ Quốc bảo họ:
“Rất đơn giản, chúng tôi
Sống bằng nghề ăn trộm,
Rồi thành giàu,
dễ thôi.

Mỗi năm trộm một ít,
Tích lại sẽ thành nhiều.
Rồi khá giả, giàu có,
Thừa ăn và thừa tiêu”.

Họ Hướng nghe, cảm tạ.
Về nhà, quyết làm theo.
Sống bằng nghề ăn trộm
Để thoát khỏi cảnh nghèo.

Làm gương, ông trưởng họ
Tối ấy đi trộm trâu.
Không may, ông bị bắt
,
Bị đánh đòn rất đau.

Ông sang gặp họ Quốc,
Kêu ca về chuyện này.
Ông kia nói: “Ấy chết,
Bác hiểu sai. Xưa nay

Chúng tôi chuyên ăn trộm,
Nhưng không phải của người.
Mà trộm cái tốt đẹp
Của
thiên nhiên, đất trời.

Trời hòa thuận mưa gió
Thì nắm bắt thời cơ
Để trồng lúa, trồng đỗ,
Vì thời tiết không chờ.

Khi sông suối nhiều cá
Thì đánh bắt, đi câu.
Tức trộm của s
ông suối,
Có cá ăn, thành giàu.

Đó là cái trộm tốt.
Trộm của đất, của trời.
Còn xấu là như bác,
Trộm tài sản của người”.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Giả Tử Tân Thư
TƯỚI DƯA CHO NGƯỜI

Tống Tựu làm quan huyện
Ở một huyện nước Lương,
Nằm sát với nước Sở.
Quan hệ tốt, bình thường.

Quan đình trưởng hai nước
Cùng trồng dưa, có điều
Bên Lương chăm tưới nước
Nên quả mẩy và đều.

Còn dưa bên Sở xấu.
Là vì người trồng lười,
Không chăm bón, tưới nước.
Chỉ suốt ngày ăn chơi.

Hơn thế, còn xấu bụng,
Đêm lẻn sang nước Lương,
Cắt rễ làm dưa chết.
Tin đến tai huyện đường.

Quan tri huyện, Tống Tựu,
Bảo đình trưởng nước mình:
“Không được sang nước Sở
Để làm việc đáng khinh

Là phá dưa của họ.
Mà ngược lại, đêm đêm
Phải lén sang tưới nước
Cho dưa họ tốt thêm.

Một khi dưa họ tốt
Và sai quả như ta,
Họ sẽ không phá nữa.
Hai nước sẽ yên hòa”.

Quan huyện Sở hay chuyện,
Bèn tâu vua Hiền Vương.
Vua sai đem lễ vật
Giao hòa với nước Lương.

Và hai nước từ đó
Hòa hiếu nhiều năm trời,
Nhờ một việc rất nhỏ
Là tưới nước cho người.

Giải nghĩa:
1. Lương: tức nước Ngụy, một nước mạnh thời chiến quốc, phía bắc Hà Nam, phía tây nam Sơn Tây ngày nay.

2. Sở: cũng một nước mạnh thời Chiến quốc, ở Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.

3 - Đình trưởng: người chủ coi quán trọ dành cho khách qua lại. Thời ấy cứ mười dặm người ta xây một cái đình như vậy, nên người coi cái đình ấy dược gọi là đình trưởng.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trang Tử
CÁCH BIẾT LÒNG NGƯỜI

Lòng người sâu và hiểm,
Khó biết hơn biết trời.
Vì trời có quy luật,
Khác hẳn với lòng người.

Mặt có thể quân tử,
Mà lòng dạ tiểu nhân.
Ngoài có vẻ yếu đuối,
Mà vững mạnh tinh thần.

Vậy phải luôn cẩn thận.
Muốn biết rõ lòng ai
Thì cần phải thử thách,
Mà thử thách lâu dài.

Cho ở xa để biết
Lòng trung họ thế nào.
Cho ở gần để biết
Họ tôn kính ra sao.

Cho ăn no để biết
Lời nói và việc làm.
Cho nhiều tiền để biết
Cái đểu và cái tham.

Giao việc lớn để biết
Cái khí tiế
t một người.
Không tin vào vẻ mặt,
Cũng không tin vào lời.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Bảo Huấn
CÁCH LÀM CHO KHỎI TỨC GIẬN

Nếu bất chợt ai đó
Cư xử hỗn với mình,
Không cần phải to tiếng.
Tốt nhất cứ làm thinh.

Cứ coi như tay áo
Nhỡ vướng vào bụi gai.
Vướng thì lựa mà gỡ.
Trách gì mấy cái gai.

Xong, thản nhiên đi tiếp,
Nhẹ nhàng coi như không.
Một cái gai vớ vẩn
Sao cứ phải bận lòng?

Hãy nhớ ba câu hỏi
Của Mạnh Tử ngày xưa:
Liệu mình đã nhân hậu,
Tốt và thông minh chưa?

Nếu mình cứ cố chấp,
Thì bực suốt ngày đêm.
Thậm chí cả với vợ,
Bố mẹ và anh em...

Giải nghĩa:
1. Ba câu tự phản: ba câu tự hỏi mình, xét lại mình đã thật  nhân hậu chưa, thật lễ độ chưa đã thật khôn ngoan chưa?


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Thi Tử
THƯỞNG CHO LỜI NÓI PHẢI

Một hôm vua nước Tấn
Đi chơi thuyền trên sông.
Cờ xí bay phấp phới,
Các quan hầu rất đông.

Bất chợt vua Tấn nói:
“Loan Doanh bị chém đầu.
Giờ Loan Phường, con hắn,
Ai biết đang ở đâu?”

Các quan đều im lặng.
Trưởng đội chèo, Thanh Quyên,
Một người tài thất sủng,
Ngừng tay chèo, đứng lên:

“Bẩm bệ hạ hỏi thế
Là ngụ ý muốn gì?”
“Loan Doanh vì phản nghịch
Đã bị tội tru di.

Nhưng con hắn trốn thoát.
Lo hậu họa về sau.
Ta muốn tìm bắt nốt
Và lập tức chém đầu”.

“Bẩm, bệ hạ cho phép
Được nói đúng lòng thần:
Nếu vua lo việc nước
Hợp lẽ trời, lòng dân,

Thì không gì phải sợ
Hậu duệ nhà Loan Doanh.
Chúng có trăm nghìn đứa,
Muốn loạn cũng bất thành.

Ngược lại, vua trễ nãi
Việc triều chính, công đường.
Xã hội thành hỗn loạn,
Nhà nước mất kỷ cương,

Thì những người có mặt
Trên thuyền rồng hôm nay
Đều trở thành hậu duệ
Của họ Loan trước đây”.

Vua Tấn nghe, khen phải,
Bèn thưởng cho Thanh Quyên
Một vạn mẫu ruộng tốt,
Kèm theo rất nhiều tiền.


Giải nghĩa:
1. Tấn: tên một nước thời Xuân Thu, ở vùng Sơn Tây ngày nay.
2. Loan Doanh: người nước Tấn, thời Xuân Thu, làm quan lớn, sau phải tội bị giết cả họ.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Chiến Quốc
DỰ NHƯỢNG BÁO THÙ

Một thời gian, Dự Nhượng
Đi theo Phạm Trung Hàng.
Thấy Hàng không tử tế,
Dự bỏ đi lang thang.

Rồi theo hầu Trí Bá,
Được Trí Bá tin dùng.
Trí Bá bị Tam Tấn
Dồn vào chốn đường cùng,

Rồi giết, cướp hết đất.
Khiến Dự Nhượng đêm ngày
Nuôi chí lớn, tìm cách
Rửa hận mối thù này.

Trong đám bọn Tam Tấn
Triệu Tương Tử là người
Thù ghét Trí Bá nhất,
Mà thù ghét suốt đời.

Hắn cắt đầu Trí Bá,
Lóc hết thịt và da
Để làm cái đi tiểu,
Luôn để trước sân nhà.

Dự Nhượng nghe, căm giận,
Bèn giả làm thợ phu
Xin vào hầu Tương Tử,
Để giết hắn báo thù.

Tiếc là chuyện bại lộ.
May được Tương Tử tha,
Coi là người trung nghĩa.
Sau đó ông về nhà

Cải trang thành thằng hủi,
Lang thang đi xin ăn
Tìm cách giết Tương Tử,
Và giết hụt nhiều lần.

Một hôm, khi biết hắn
Sắp đi ngang qua cầu,
Dự Nhượng trốn trong cỏ,
Chờ đợi hắn rất lâu.

Khi hắn tới, con ngựa
Mãi không chịu bước qua.
Triệu Tương Tử cười nói:
“Chắc Dự Nhượng đấy mà”.

Liền sau đó binh lính
Xuống cầu, bắt được ông.
Tương Tử quát: “Quá đáng,
Trước ta tha, nhớ không?

Sao cứ thù ta mãi?
Trí Bá đã làm gì
Để ngươi yêu đến thế?
Nào, bây giờ nói đi!”

Dự Nhượng ngẩng đầu đáp:
“Vì Trí Bá đãi tôi
Sánh ngang bậc quốc sĩ,
Vậy thì bản thân tôi

Phải đối xử tương xứng.
Tôi quyết phải giết ông.
Tiếc trời chưa phù hộ,
Nên việc lớn chưa xong...”

Triệu Tương tử chép miệng:
“Người này muốn giết ta,
Khắp nơi đều biết tiếng
Vì nhờ được ta tha.

Nhưng lần này thì khác.
Ta không tha nữa đâu”.
Dự Nhượng bỗng cúi hỏi
Trước khi bị chém đầu:

“Trước ông đã độ lượng
Tha cho tôi một lần.
Nay tôi muốn lần nữa
Được ông ban đặc ân.

Xin cho phép tôi chém
Vào chiếc áo của ông.
Chiếc áo ông đang mặc.
Dẫu chết cũng cam lòng!”

Triệu Tương Tử đồng ý,
Cởi áo, treo lên cây.
Dự Nhượng đâm ba nhát,
Rồi kêu to: “Hôm nay

Mối thù đã được trả.
Ơn trời đất anh minh”.
Rồi ông cầm kiếm nhọn
Tự đâm vào cổ mình.

Giải nghĩa:
1. Dự Nhượng: người nước Tấn thời Chiến Quốc, có tiếng là người nghĩa sĩ.


Cổ Học Tinh Hoa
GỐC VÀ NGỌN

Vua nước Tề sai sứ
Dâng lụa đẹp, dâng tiền
Cho Uy Hậu nước Triệu,
Một người có thực quyền.

Bà Uy Hậu tiếp sứ
Không mở thư xem ngay,
Mà hỏi: “Ở bên ấy
Mùa màng mấy năm nay

Có hạn hán, thất bát,
Dân tình có đói không?”
Sứ thần nghe, liền hỏi
Với vẻ không hài lòng:

“Thần vâng mệnh làm sứ
Của vua Tề nước thần.
Sao Thái Hậu chỉ hỏi
Về mùa màng và dân?

Phải chăng thế có nghĩa
Không tôn trọng vua Tề?”
Bà Uy Hậu đáp lại,
Cũng có chút vỗ về:

“Không dám, quả không dám.
Nhưng hạn hạn, mất mùa,
Đói ăn, dân sẽ chết
Thì làm gì có vua?

Dân luôn là gốc rễ.
Ngọn là vua, triều đình.
Vì vậy, hỏi gốc trước
Cũng là chuyện thường tình”.

Giải nghĩa:
1. Tề: tên một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, thuộc địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
2. Uy Hậu: mvua Uy Vương, bấy giờ bà có tham dự triều chính.
3. Triệu: tên một nước lớn thời Chiến Quốc, phía nam tỉnh Trực Lệ, phía bắc Tỉnh Sơn Tây ngày nay.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Tân Tự
TỬ UYÊN THÊ

Trần Hằng, thời Chiến Quốc,
Giết vua Tề Giản Công
Để thâu tóm quyền lực,
Rồi lập vua Bình Công.

Xong, ông ta cho lính
Đi bắt Tử Uyên Thê,
Buộc phải thờ chủ mới,
Dưới danh nghĩa vua Tề.

Tử Uyên Thê liền đáp:
“Ông muốn ta giúp ông,
Vì nghĩ ta có Trí,
Nhân và Dũng, đúng không?

Rất tiếc, ta không có
Cả Trí, Dũng và Nhân.
Nếu quả thật có Trí
Ta đã tìm cách ngăn

Không cho ông hành động.
Dũng ư? Dũng càng không.
Có Dũng, ta đã trốn,
Không đứng đây trước ông.

Nếu ta chịu quy phục
Là ta không có Nhân.
Vì vậy, ta không phải
Là người ông đang cần”.

Trần Hằng nghe, cảm phục
Khí phách Tử Uyên Thế.
Không giết, không tù tội,
Liền thả ông cho về.

Giải nghĩa:
1. Trần Hằng: người quyền thế thời Xuân Thu, giết vua Giản Công nước Tề, lập vua Bình Công.
2. Tân Tự: sách của Lưu Hướng, người đời nhà Hán.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hán Sử
BÀ MẸ CỦA VƯƠNG LĂNG

Vương Lăng người đất Bái,
Một hào trưởng hiền lành.
Thuở hàn vi, Cao Tổ
Quí trọng như người anh.

Ngày vua Hán Cao Tổ
Dựng nghiệp lớn, dấy binh,
Vương Lăng đã đóng góp
Hai nghìn quân của mình.

Nghe tin ấy, Hạng Vũ
Bèn bắt mẹ Vương Lăng
Phải dùng tình mẫu tử
Dụ con trai quy hàng.

Bà mẹ đã tìm cách
Nhắn với con trai mình
Phải thờ Hán Cao Tổ,
Cho dù phải hy sinh.

Rồi bà liền tự tử
Bằng con dao trong tay.
Một tấm gương trung liệt,
Truyền tụng đến ngày nay.

Giải nghĩa:
 1. Cao Tổ: tức là Bái Công, vua đầu tiên của nhà Tây Hán, sau khi diệt nước Tần nước Sở.
2. Hạng Vũ: tức là Hạng Tịch, khỏe mạnh và tài giỏi hơn người, tranh thiên hạ với Bái Công, sau thua chết ở Cai Hạ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét