CỔ HỌC TINH HOA
Cổ Học tinh Hoa - Sách Liệt Tử
NGU CÔNG DỜI NÚI
Thái Hàng và Vương Ốc
Là hai rặng núi xanh
Ở phía nam Châu Ký,
Như một bức tường thành.
Nằm ngay dưới chân núi
Là nhà của Ngu Công.
Chín mươi tuổi, khỏe mạnh,
Hái củi và làm nông.
Khó chịu vì thấy núi
Chắn mất đường lại qua,
Một hôm, trong bữa tối,
Ông nói với cả nhà:
“Ta muốn dùng cuốc xẻng
Dọn hai ngọn núi này.
Nếu mọi người đồng ý
Ngày mai ta làm ngay”.
Cả nhà đều nhất trí.
Chỉ bà vợ lắc đầu:
“Đất đá từ núi ấy
Ông định đổ đi đâu?”
“Xuống Biển Đông, hẳn thế”.
Và rồi sáng hôm sau,
Công việc dời núi ấy
Lập tức được bắt đầu.
Hàng ngày ông đập đá,
Đem đổ xuống Biển Đông.
Giúp sức có con cháu
Cùng láng giềng của ông.
Ngày ngày qua ngày khác,
Cả buổi sáng, buổi trưa.
Năm này qua năm khác,
Cả trời nắng, trời mưa.
Trí Tẩu, một người lạ,
Từ xa đến, bảo ông:
“Già rồi, sao không nghỉ,
Còn làm việc phí công?”
Đáp: “Không việc gì khó.
Chỉ sợ lòng không bền.
Đào núi và lấp biển,
Có chí vẫn làm nên.
Mà tôi làm chưa được,
Thì nối tiếp cha ông
Là cháu con, chút chít.
Lo gì việc không xong”.
*
Nơi xưa hai ngọn núi
Vương Ốc và Thái Hàng
Nay là con đường rộng,
Đi lại rất dễ dàng.
Giải nghĩa:
1. Ký Châu, một trong chín châu đời cổ, nay là vùng Trực Lệ, Sơn Tây phía Bắc sông Hoàng Hà, tỉnh Hà Nam, phía tây sông Liêu Hà, tỉnh Phụng Thiên xưa.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Liệt Tử
VINH KHẢI KỲ
Lần nọ, cùng môn đệ,
Giữa đường núi, đang đi,
Khổng Tử gặp ông lão
Có tên Vinh Khải Kỳ.
Ông lão miệng thì hát,
Tay thì luôn gẩy đàn.
Ra chiều thích thú lắm,
Vui vẻ và an nhàn.
Khổng Tử xuống xe, hỏi:
“Bẩm, tiên sinh hôm nay
Có gì mà vui vậy?
Liệu có vui hết ngày?”
Vinh Khải Kỳ liền đáp:
“Trong vạn vật ở đời
Loài người là quí nhất.
Vui vì tôi là người.
Mà người, như ngài biết,
Đàn ông hơn đàn bà.
Tôi cũng vui vì việc
Tôi không là đàn bà.
Nhiều người chịu bệnh tật,
Cụt chân hay mù đui.
Tôi chin mươi ba
tuổi,
Khỏe mạnh, sao không vui?
Khổng Tử cúi đầu đáp:
“Chí lý, thưa tiên sinh.
Ai cũng có đủ cớ
Để vui với chính mình”.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã Thi Xuân Thu
NGƯỢC VÀ XUÔI
Ở đời nhiều cái ngược
Mà hóa ra lại xuôi.
Trong khi nhiều cái xuôi
Thực tình lại là ngược.
Người nào đủ tinh tế
Để nhận ra điều này
Sẽ chuyển bại thành thắng
Và đêm tối thành ngày.
Vua nước Kinh lần nọ
Muốn xuất quân đánh Trần,
Sai người do thám trước,
Vì chưa hết phân vân.
Người do thám về báo
Không nên đánh. Vì sao?
Vì nước Trần phòng thủ
Hào sâu và tường cao.
Hơn thế, kho lương thực
Đầy ắp và có nhiều.
Lính và dân luyện tập
Cả sáng và cả chiều.
Quan đại thần Ninh Quốc
Tâu: :Nên đánh. Vì sao?
Vì nước Trần nhỏ bé
Mà hào sâu, tường cao.
Tức dân phải phục dịch
Mệt mỏi cả đêm ngày.
Các kho lương dự trữ
Nghe nói nhiều, luôn đầy.
Cũng có nghĩa dân chúng
Phải sưu nặng, thuế cao.
Lòng dân đang oán hận
Như nồi cơm sắp trào.
Xin bệ hạ quyết đánh,
Đừng do dự, phân vân.”
Vua Kinh nghe, lần ấy
Nhanh chóng chiếm được Trần.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã
Thị Xuân Thu
ĐÁNH DẤU THUYỀN TÌM GƯƠM
Có người nước Sở nọ
Đi thuyền trên con sông,
Vô tình rơi xuống nước
Chiếc gươm báu cha ông.
Anh ta liền vội vã
Khắc mép thuyền bằng dao
Nơi vừa tuột gươm báu.
Mọi người hỏi: “Vì sao?”
“Thì tôi đang đánh dấu
Chỗ chiếc gươm vừa rơi.
Lúc quay về tìm lại.
Mà sẽ tìm được thôi”.
*
Câu chuyện này được chép
Trong Lã Thị Xuân Thu.
Lã Bất Vi viết nó
Để chế diễu người ngu.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã
Thị Xuân Thu
XÁC CHẾT CHƯƠNG PHỀNH
Năm ấy nước sông Vĩ
Dâng to, một nhà giàu
Không may có người chết,
Xác trôi dạt vào cầu.
Có một người trong ấp
Đi ngang thấy, vớt lên.
Đòi gia đình người chết
Phải nộp một món tiền.
Ông nhà giàu xót của,
Nghĩ đòi thế quá cao.
Bèn đến hỏi Đặng Tích
Nên xử lý thế nào.
Đặng Tích vuốt râu, nói:
“Yên tâm, đừng chuộc
ngay.
Ngoài ông, còn ai khác
Muốn mua xác chết này?”
Còn người kia, chờ mãi
Không thấy ai nộp tiền,
Suốt ruột, tìm Đặng Tích
Xin cho một lời khuyên.
Quan Đại Phu Đặng Tích
An ủi hắn: “Không sao.
Họ không mua của bác
Còn mua của người nào?”
Và thế là chiếc xác,
Bên nọ, chờ bên này.
Không mua cũng không bán
Bị chương phềnh nhiều
ngày.
*
Vì ai cũng hám lợi,
Bắt bí nhau, vì tiền,
Cái xác bị hành tội,
Thành thiệt cả đôi bên.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách
Liệt Tử
LÚC ĐI TRẮNG, LÚC VỀ ĐEN
Có một anh chàng nọ,
Nhân gặp ngày đẹp trời,
Diện chiếc áo màu trắng
Rồi cưỡi ngựa đi chơi.
Khi tới làng bên cạnh
Bỗng
nhiên
trời mưa to.
Chiếc áo trắng ướt sũng,
Người và ngựa co ro.
Anh chàng vào nhà bạn
Trú tạm, chờ hết mưa.
Rồi mượn bạn chiếc áo,
Màu đen, mặc rất vừa.
Sau đó, đi chơi tiếp,
Mãi chiều tối mới về.
Nhưng vừa vào tới cổng,
Con chó sủa rất ghê.
“Lạ thật, con chó láo.
Sao dám sủa chủ nhà?”
Cô vợ ở trong bếp
Thấy thế liền đi ra.
“Nó sủa vì chiếc áo.
Sáng màu trắng, giờ đen.
Thấy lạ thì nó sủa,
Và cắn nữa, tất nhiên.
Giả sử chàng thấy nó
Chợt thay đổi màu lông.
Sáng đen, chiều bỗng
trắng,
Chàng có ngạc nhiên không?”
Cổ Học Tinh Hoa
TĂNG SÂM GIẾT NGƯỜI
Ngày nọ, ở đất Phí
Có vụ giết người nhầm.
Thủ phạm là ai đó
Có tên là Tăng Sâm.
Trong khi, như ta biết,
Tăng Sâm là môn sinh
Của thầy Khổng Phu Tử,
Một người rất hiền lành.
Do trùng tên, có kẻ,
Lần nữa lại hiểu nhầm,
Liền vội vàng chạy đến
Báo với mẹ Tăng Sâm:
“Khủng khiếp, thật khủng
khiếp.
Con trai bà giết người!”
“Không thể có chuyện ấy!”
Bà già đáp, chỉ cười.
Lát sau, một người khác
Chạy đến nói: “Tăng Sâm
Đã gây nên án mạng!”
“Vớ vẩn, các anh nhầm!”
Lần thứ ba, có kẻ
Hớt hải chạy vào nhà:
“Tăng Sâm giết người đấy.
Tăng Sâm, con trai bà!”
Lần này thì bà mẹ
Tin là thật, vội vàng
Quẳng con thoi dệt vải,
Vội chạy trốn khỏi làng.
*
Câu chuyện này được chép
Từ Cổ Học Tinh Hoa.
Đây là một bài học
Người xưa dạy chúng ta.
Rằng một điều không thật,
Nhưng chúng ta, người dân
Bị người khác ép buộc
Bắt phải nghe nhiều lần.
Rồi điều không thật ấy,
Chỉ nghe, không được
nhìn,
Cuối cùng thành sự thật
Và chúng ta đã tin.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hậu Hán Thư
ĐỂ LỘC CHO CON CHÁU
Bàng Công tính điềm
đạm,
Ít khi tới thị
thành.
Thích ở nhà làm
ruộng,
Việc được cho là
lành.
Chợt thứ sử Lưu
Biểu
Một hôm đến chơi
nhà.
Đúng lúc ông cùng
vợ
Đang cuốc đất trồng
cà.
Ông lên bờ tiếp
khách.
Vợ vẫn ở dưới đồng.
Lưu Biểu cúi chào, nói:
“Một người giỏi
như ông
Sao không lên đô
thị
Tìm kiếm một chức
quan,
Để lộc cho con
cháu,
Đỡ vất vả, lại
nhàn?”
Bàng Công đáp:
“Đa tạ.
Thường người đời
xưa nay
Để “nguy” cho con
cháu.
Còn tôi thì đi
cày.
Tôi để cái lộc
“thiện”,
Là công việc nông
gia.
Vừa lành vừa bổ
ích,
Hơn vàng bạc đầy
nhà”.
Lưu Biểu nghe nói
vậy,
Chỉ còn biết thở
dài.
Vừa thương vừa
kính trọng
Một người có đức
tài.
Giải nghĩa:
1. Bàng Công: tức là Bàng Đức Công, người hiền ở đất Tương Dương, đời Đông Hán. Ông không chịu ra làm quan, lên núi Lộc Môn ở ẩn, hái thuốc và làm ruộng kiếm sống với vợ con.
2. Lưu Biểu: người đất Cao Bình đời Đông Hán, làm thứ sử ở Kinh Châu, biết yêu thương dân và trọng người tài.
1. Bàng Công: tức là Bàng Đức Công, người hiền ở đất Tương Dương, đời Đông Hán. Ông không chịu ra làm quan, lên núi Lộc Môn ở ẩn, hái thuốc và làm ruộng kiếm sống với vợ con.
2. Lưu Biểu: người đất Cao Bình đời Đông Hán, làm thứ sử ở Kinh Châu, biết yêu thương dân và trọng người tài.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Thế Thuyết
TỨ ĐỨC VÀ BÁCH HẠNH
Hứa Doãn được bố
mẹ
Cưới cho cô vợ hiền.
Chỉ tội kém nhan
sắc,
Vừa xấu lại vừa
đen.
Ông hỏi vợ, Nguyễn
Thị,
Khi bỏ nhà ra đi:
“Đàn bà có tứ đức.
Vậy nàng có đức
gì?”
“Dạ, thiếp có tất
cả,
Chỉ đức dung
không nhiều.
Đàn ông có bách hạnh.
Chàng có được bao
nhiêu?”
“Ta có đủ bách hạnh,
Mà đã có từ lâu”.
Nguyễn Thị cung
kính đáp:
“Bách hạnh, đức
làm đầu.
Chỉ vì thấy thiếp
xấu,
Chàng đã bỏ nhà
đi.
Tức là thiếu cái
đức.
Bách hạnh ấy là
gì?”
Hứa Doãn nghe vợ
nói,
Thấy hổ thẹn
trong lòng.
Suốt đời cố giữ vững
Cái đức của người
chồng.
Giải nghĩa.
1. Hứa Doãn: Người đời Tống, có tài văn chương, thi đỗ tiến sĩ, làm quan liêm chính, được lòng dân cảm phục.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Sử
Ký
HÀ BÁ LẤY VỢ
Ngày ấy dân đất Nghiệp
Có tục lệ hàng năm
Mua một cô gái đẹp
Rồi chờ đúng đêm rằm
Ném cô xuống dòng nước
Đang cuồn cuộn dưới sông
Để làm vợ Hà Bá.
Một cảnh tượng đau lòng.
Tục lệ mê tín ấy
Có từ bao đời nay.
Quan huyện Tây Môn Báo
Quan huyện Tây Môn Báo
Muốn chấm dứt việc này.
Ông thân hành chủ lễ,
Đi thuyền ra giữa song,
Cùng hào trưởng, bô lão,
Ông cốt và bà đồng.
Ông xem mặt cô gái
Rồi nói: “Không, cô này
Không xứng với Hà Bá.
Phải xin hoãn vài ngày”.
Người xuống gặp Hà Bá,
Được giao cho ông đồng.
Ngay lập tức binh lính
Ném ông này xuống sông.
Một lúc sau, ông nói:
“Sao chờ lâu thế này?
Bà cốt xuống xem thử,
Rồi nhanh chóng về ngay”.
Và thế là bà cốt
Bị lính ném xuống sông.
Tiếp đến một hào trưởng,
Rồi
thêm
một cụ ông.
Chờ mãi vẫn không thấy
Có người nào ngoi lên
Quan huyện Tây Môn Báo
Nói, giả giọng buồn
phiền:
“Vậy là thần Hà Bá
Chắc thích sống một mình,
Không muốn lấy vợ nữa.
Tiếc, nhưng thôi, cũng
đành”.
Từ đấy dân đất Nghiệp
Không có một người nào
Muốn nhắc đến chuyện cũ,
Và ai cũng thở phào.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hậu Hán
Thư
MÌNH BIẾT, TRỜI BIẾT
Dương Chấn được bổ nhiệm
Làm thái thú Đông Lai.
Nghỉ tại đất Xương Ấp
Sau một chặng đường dài.
Vương Mật, quan ở đấy,
Ra đón tiếp hết lòng.
Là vì xưa, Vương Mật
Được thăng tiến nhờ ông.
Đêm, chờ khi vắng vẻ,
Vương Mật liền vội vàng
Đến gặp riêng Dương Chấn,
Xin lễ một ít vàng.
Dương Chấn nghiêm mặt nói:
“Xưa tôi tiến cử ông
Vì ông là người tốt,
Chứ vì vàng thì không”.
Vương Mật cố nài nỉ:
“Ngài vui lòng nhận cho.
Đêm, không ai nhìn thấy.
Việc kín, ngài đừng lo”.
Dương Chấn nói: “Trời biết.
Tôi biết, và cả ông.
Chí ít ba người biết,
Sao lại bảo là không?
Làm quan phải liêm khiết,
Không tư lợi làm giàu”.
Vương Mật nghe, xấu hổ,
Lui ra, cúi thấp đầu.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hàn Phi Tử
THẬP BÌ VÀ HUỆ VƯƠNG
Vua Huệ Vương nước
Ngụy
Một hôm hỏi Thập
Bì:
“Ngươi nghe người
ta nói
Về ta những điều
gì?”
“Thần nghe người
ta nói
Bệ hạ là người
nhân,
Tốt bụng với dân
chúng,
Hào phóng với quần
thần”.
Huệ Vương đắc chí lắm,
Lại hỏi: “Vậy điều
này
Sẽ dẫn đến kết quả
Tốt đẹp thế nào
đây?”
“Đức ấy của Bệ hạ
Rồi một ngày
không xa
Dẫn đến việc vong quốc.
Thật lo cho nước
nhà”.
Việt Vương ngạc
nhiên, hỏi:
“Ta không hiểu,
vì sao?
Nhân từ, thích
ban thưởng,
Mất nước là thế
nào?”
“Bẩm, vua nhân từ
quá
Sẽ dễ dãi cho
qua,
Không phạt kẻ có
tội,
Không cấm điều xấu
xa.
Còn vua quá hào
phóng,
Dễ ban thưởng cho
người
Không hề có công
trạng
Cho vua và cho đời.
Thì dẫu vua nhân
hậu,
Vẫn có sự an
nguy.
Mất nước cũng
không lạ”.
Cung kính đáp Thập
Bì.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trang Tử
ĐÁM TANG CỦA TRANG TỬ
Khi thấy thầy sắp chết.
Các học trò thì thào
Nên tổ chức tang lễ
Nhỏ hay to thế nào.
Trang Tử nghe, bèn nói:
“Các trò khỏi bận lòng.
Ta lấy trời làm quách,
Phong thủy là núi sông.
Hai viên ngọc bích lớn
Là mặt trăng, mặt trời.
Muôn vàn hạt châu báu
Là sao sáng khắp nơi.
Đồ cúng là hoa trái
Và muông thú đời này.
Hương khói luôn nghi ngút
Là gió thoảng, mây bay...
Được chết, về với đất,
Thả hồn theo núi sông.
Thế là mãn nguyện lắm.
Các trò khỏi bận lòng”.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lễ Ký
THAY CHIẾU KHI CHẾT
Tăng Tử ốm, sắp chết.
Trò - Nhạc Chính, Tử Xuân
Luôn ngày đêm túc trực.
Con - Tăng Nguyên, Tăng Nhân.
Còn có thêm cậu bé
Cầm nến đứng bên ông.
Bất chợt nó lên tiếng:
“Như thế có nên không,
Rằng thầy, theo thứ bậc,
Là kẻ sĩ, túc nho,
Mà chết, nằm trên chiếu
Thuộc vào bậc quan to?”
Tăng Tử giật mình nói:
“À quên, chiếc chiếu này
Của Quý Tôn, nước Lỗ,
Tặng, ta chưa kịp thay.
Ông là bậc quyền quý,
Thuộc vào hàng quân vương.
Chiếc chiếu này không hợp
Với ta, người bình thường”.
Rồi Tăng Tử nằng nặc
Đòi thay chiếc chiếu gai.
Con ông, Tăng Nhân, nói:
“Thưa cha, đợi đến mai”.
Ông đáp: “Nó nói đúng.
Đấng quân tử ở đời
Phải tuân theo lễ nghĩa,
Để không bị chê cười”.
Rồi học trò, con cái
Đành nhẹ nhàng đặt ông
Lên chiếc chiếu gai mới.
Ông mỉm cười hài lòng.
Một lát sau thì chết,
Để lại cho mọi người
Thêm một bài học quý
Về lễ nghĩa ở đời.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Thông Chí
LỆCH THỪA KHÔNG BẰNG NGAY THIẾU
Kiều Lâu là cao sĩ
Nước Tề thời Xuân Thu.
Trung thực và khí khái,
Như một bậc đại phu.
Nhiều nước mời làm tướng,
Ông dứt khoát nói không.
Được Uy Vương kính trọng
Như người thầy, người ông.
Khi chết, ông nghèo lắm.
Chỉ có một chiếc chăn
Không che kín thân thể.
Được đầu thì hở chân.
Tăng Tử đến thăm viếng,
Thấy vậy bảo vợ ông:
“Đắp chéo chăn có thể
Che kín người, nên không?”
Vợ ông đáp: “Không được.
Xin cứ để thế này.
Ông ấy vốn nổi tiếng
Người ngay thẳng xưa nay.
Đắp lệch là trái đạo.
Thà cứ đắp chân phương.
Chồng tôi cả khi chết,
Không muốn trái đạo thường”.
Tăng Tử không dám trái,
Chỉ thầm nghĩ trong lòng:
Một người vợ đạo nghĩa,
Rất xứng đáng với chồng.
Giải nghĩa:
1. Kiều Lâu: người nước Tề, một bậc ẩn sĩ có tiếng thời ấy.
1. Kiều Lâu: người nước Tề, một bậc ẩn sĩ có tiếng thời ấy.
2. Vua Uy Vương đời nhà Chu.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Mai Hiên Bút
Ký
CHIẾC QUAN TÀI
Có một nhà sư nọ
Tên là Viên Thủ Hầu,
Trụ trì một chùà lớn
Ở vùng đất Tô Châu.
Sư tu đã đắc đạo,
Kinh và pháp đều thông.
Được mọi người quý mến.
Khách thăm chùa rất đông.
Nhưng nhà sư này lạ,
Luôn đặt chiếc quan tài
Bằng gỗ, trang trí đẹp.
Ngay bên giường của ngài.
Khi có người hỏi chuyện,
Ngài thường đáp thế này:
“Người đời luôn lo nghĩ
Về cuộc sống hôm nay.
Chứ ít ai nghĩ đến
Cuộc đời mình mai sau.
Tức là về cái chết,
Đi đâu và về đâu?
Ở đời sống là dễ.
Chết khó hơn nhiều lần.
Ý nghĩ về cái chết,
Giúp ta vượt khó khăn.
Mỗi lần tôi gặp
khó,
Nhìn chiếc quan tài này,
Dần dần thấy tan biến
Mọi buồn bực trong ngày.
Nó là cái nhắc nhở
Về cuộc sống vô thường,
Nhắc mình khi còn sống
Đừng quên tình yêu thương”.
Giải nghĩa:
1. Tô Châu: huyện Ngô, thuộc tỉnh Giang Tô bây giờ.
1. Tô Châu: huyện Ngô, thuộc tỉnh Giang Tô bây giờ.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Mặc tử
NHUỘM TƠ
Đang trên đường, Mặc Tử
Có việc phải bất ngờ
Nghỉ lại ở làng nọ,
Nhân tiện xem nhuộm tơ.
Lúc đầu tơ đều trắng.
Được nhúng vào mực xanh.
Lát sau, cũng cuộn ấy
Từ màu trắng thành xanh.
Rồi đến các màu khác -
Đỏ, vàng, tím và nâu.
Năm cuộn tơ màu trắng
Bây giờ có năm màu.
Ông bảo các đệ tử:
“Con người cũng như tơ,
Nhân chi sơ bản thiện,
Trong trắng và ngây thơ.
Vì chơi với người xấu,
Mà trở thành xấu xa.
Vì chơi với người ác,
Mà thành kẻ gian tà.
Vậy các trò phải nhớ
Chọn đúng bạn mà chơi.
Chọn tốt thì được tốt.
Sai, phải khổ suốt đời”.
Giải nghĩa:
1. Mặc Tử: người nước Lỗ thời Chiến quốc, họ Mặc tên Địch, làm quan đại phu nước Tống, chủ xướng học thuyết “Kiêm ái”.
Cổ Học Tinh Hoa
THƯ KHỔNG MINH VIẾT CHO CON
Phàm là người quân tử,
Phải tĩnh để tu thân.
Phải kiệm để dưỡng đức.
Sống, phải sống thanh bần.
Muốn tài cần phải học.
Đường sinh ra để đi.
Lười biếng không chịu học
Thì sẽ chẳng biết gì.
Mỗi năm thêm một tuổi.
Chẳng mấy chốc mà già.
Lúc ấy hối không kịp,
Mình thua kém người ta.
Giải nghĩa:
1. Khổng Minh, tức Gia Cát Lượng: người đời Tam
Quốc, trước ẩn ở Nam Dương, sau giúp Lưu Huyền Đức nước Thục. Ông là người trí
mưu trung nghĩa có tiếng thời Tam Quốc.
Cổ học Tinh Hoa - Sách Tiền Hạc Than
THƯ VIẾT CHO BẠN
Đời có hai cái khó
Là bắc thang lên trời.
Nhưng cũng không bằng khó
Khi phải nhờ vả người.
Đời có hai cái đắng,
Là củ đắng liên sơn.
Nhưng đói ăn, nghèo khổ
Thực ra còn đắng hơn.
Đời có hai cái mỏng,
Là băng mỏng mùa xuân.
Nhưng thói đời bạc bẽo
Còn mỏng hơn nhiều lần.
Đời có hai cái hiểm,
Là hiểm trở núi sông.
Nhưng lòng người khó đoán
Và chẳng bao giờ nông.
Biết được “hai cái” ấy -
Đắng, mỏng, hiểm, lòng người -
Mới mong vượt qua nổi
Cái khó của kiếp người.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lưu Tử
CON TRÂU BẰNG ĐÁ
Thấy Vua Thục tham ác,
Vua Huệ Vương nước Tần
Muốn cất quân đánh Thục,
Rất muốn đã nhiều lần.
Ngặt vì đường cách trở,
Toàn núi hiểm, rừng dày,
Nên cứ lần lữa mãi.
Cuối cùng có kế này:
Huệ Vương cho lấy đá
Tạc hình một con trâu,
Ngay sát địa giới
Thục,
Cao to bằng mái lầu.
Ông sai người bí mật,
Đều đều và hàng ngày,
Đặt nhiều thỏi vàng mới
Dưới đuôi con trâu này.
Lính Tần vượt biên giới,
Phao tin khắp xóm làng,
Rằng có con trâu đá
Hàng ngày vãi ra vàng.
Vốn tham lam, vua Thục
Liền sai một vạn binh
Mở đường đưa trâu đá
Về tận kinh đô mình.
Vậy là Thục trúng kế.
Huệ Vương liền xuất quân.
Đường rộng đã có sẵn,
Rất nhanh chóng nước Tần
Thôn tính được nước Thục.
Vì tham lam hơn người,
Vua Thục vừa mất nước,
Vừa còn bị chê cười.
Giải nghĩa:
1. Thục: tên nước thời Chiến Quốc, ở vùng đất thuộc Tứ Xuyên ngày nay, sau bị nhà Tần diệt.
2. Tần: nước mạnh thời Chiến Quốc, ở Tân Châu, thuộc tỉnh Cam Túc và Thiểm Tây ngày nay.
1. Thục: tên nước thời Chiến Quốc, ở vùng đất thuộc Tứ Xuyên ngày nay, sau bị nhà Tần diệt.
2. Tần: nước mạnh thời Chiến Quốc, ở Tân Châu, thuộc tỉnh Cam Túc và Thiểm Tây ngày nay.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Mặc Tử
THỜI LOẠN LẠC
Ai đó bị bắt gặp
Lẻn vào vườn người ta
Để ăn trộm đào, mận,
Thì là điều xấu xa.
Còn xấu xa hơn thế
Là ăn cắp, cướp đường.
Bị lên án, kết tội.
Cũng là chuyện bình thường.
Nhưng nay, thời loạn lạc,
Đem quân cướp nước người,
Xương chất cao thành núi
Thì không ai chê cười.
Hơn thế, còn khen ngợi.
Còn được coi là công.
Lưu danh trong sử sách
Những việc thật đau lòng.
Thế mới biết thiên hạ
Vào thời loạn lạc này
Có mắt mà không thấy
Cái dở và cái hay.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Mặc Tử
GỐC RỄ CỦA LOẠN
Thánh nhân trị thiên hạ
Phải biết loạn từ đâu.
Như thầy thuốc phải biết
Như thầy thuốc phải biết
Cái gì làm ta đau.
Vậy nguồn gốc của loạn
Từ đâu mà sinh ra?
Loạn là do thiên hạ
Thiếu vắng lòng vị tha.
Hỗn láo với cha mẹ,
Anh và em bất bình
Là gốc rễ của loạn,
Làm tan nát gia đình.
Nước loạn vì ích kỷ,
Không ai lo việc chung.
Vua không thương dân chúng,
Tôi không có lòng trung.
Loạn là khi quan lại
Lo vơ vét làm giàu.
Các chư hầu lớn nhỏ,
Chỉ hằm hè đánh nhau.
Bởi thế sinh ra loạn.
Nước bất an, tiêu điều.
Vậy, gốc rễ của loạn
Là thiếu vắng tình yêu.
Cổ Học Tinh Hoa -
Sách Liệt Tử
CŨNG LÀ ĂN TRỘM
CŨNG LÀ ĂN TRỘM
Họ Hướng ở nước
Tống
Chịu nghèo khổ bao đời.
Ở nước Tề, họ Quốc
Lại giàu có hơn người.
Chịu nghèo khổ bao đời.
Ở nước Tề, họ Quốc
Lại giàu có hơn người.
Nên người của họ
Hướng,
Do trưởng họ dẫn đầu,
Sang Tề hỏi họ Quốc
Làm sao để thành giàu.
Do trưởng họ dẫn đầu,
Sang Tề hỏi họ Quốc
Làm sao để thành giàu.
Người họ Quốc bảo
họ:
“Rất đơn giản, chúng tôi
Sống bằng nghề ăn trộm,
Rồi thành giàu, dễ thôi.
“Rất đơn giản, chúng tôi
Sống bằng nghề ăn trộm,
Rồi thành giàu, dễ thôi.
Mỗi năm trộm một
ít,
Tích lại sẽ thành nhiều.
Rồi khá giả, giàu có,
Thừa ăn và thừa tiêu”.
Tích lại sẽ thành nhiều.
Rồi khá giả, giàu có,
Thừa ăn và thừa tiêu”.
Họ Hướng nghe, cảm
tạ.
Về nhà, quyết làm theo.
Sống bằng nghề ăn trộm
Để thoát khỏi cảnh nghèo.
Về nhà, quyết làm theo.
Sống bằng nghề ăn trộm
Để thoát khỏi cảnh nghèo.
Làm gương, ông
trưởng họ
Tối ấy đi trộm trâu.
Không may, ông bị bắt,
Bị đánh đòn rất đau.
Tối ấy đi trộm trâu.
Không may, ông bị bắt,
Bị đánh đòn rất đau.
Ông sang gặp họ
Quốc,
Kêu ca về chuyện này.
Ông kia nói: “Ấy chết,
Bác hiểu sai. Xưa nay
Kêu ca về chuyện này.
Ông kia nói: “Ấy chết,
Bác hiểu sai. Xưa nay
Chúng tôi chuyên ăn
trộm,
Nhưng không phải của người.
Mà trộm cái tốt đẹp
Của thiên nhiên, đất trời.
Nhưng không phải của người.
Mà trộm cái tốt đẹp
Của thiên nhiên, đất trời.
Trời hòa thuận mưa
gió
Thì nắm bắt thời cơ
Để trồng lúa, trồng đỗ,
Vì thời tiết không chờ.
Thì nắm bắt thời cơ
Để trồng lúa, trồng đỗ,
Vì thời tiết không chờ.
Khi sông suối nhiều cá
Thì đánh bắt, đi câu.
Tức trộm của sông suối,
Có cá ăn, thành giàu.
Thì đánh bắt, đi câu.
Tức trộm của sông suối,
Có cá ăn, thành giàu.
Đó là cái trộm tốt.
Trộm của đất, của trời.
Còn xấu là như bác,
Trộm tài sản của người”.
Trộm của đất, của trời.
Còn xấu là như bác,
Trộm tài sản của người”.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Giả Tử Tân
Thư
TƯỚI DƯA CHO NGƯỜI
Tống Tựu làm quan huyện
Ở một huyện nước Lương,
Nằm sát với nước Sở.
Quan hệ tốt, bình thường.
Quan đình trưởng hai nước
Cùng trồng dưa, có điều
Bên Lương chăm tưới nước
Nên quả mẩy và đều.
Còn dưa bên Sở xấu.
Là vì người trồng lười,
Không chăm bón, tưới nước.
Chỉ suốt ngày ăn chơi.
Hơn thế, còn xấu bụng,
Đêm lẻn sang nước Lương,
Cắt rễ làm dưa chết.
Tin đến tai huyện đường.
Quan tri huyện, Tống Tựu,
Bảo đình trưởng nước mình:
“Không được sang nước Sở
Để làm việc đáng khinh
Là phá dưa của họ.
Mà ngược lại, đêm đêm
Phải lén sang tưới nước
Cho dưa họ tốt thêm.
Một khi dưa họ tốt
Và sai quả như ta,
Họ sẽ không phá nữa.
Hai nước sẽ yên hòa”.
Quan huyện Sở hay chuyện,
Bèn tâu vua Hiền Vương.
Vua sai đem lễ vật
Giao hòa với nước Lương.
Và hai nước từ đó
Hòa hiếu nhiều năm trời,
Nhờ một việc rất nhỏ
Là tưới nước cho người.
Giải nghĩa:
1. Lương: tức nước Ngụy, một nước mạnh thời chiến quốc, phía bắc Hà Nam, phía tây nam Sơn Tây ngày nay.
2. Sở: cũng một nước mạnh thời Chiến quốc, ở Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
3 - Đình trưởng: người chủ coi quán trọ dành cho khách qua lại. Thời ấy cứ mười dặm người ta xây một cái đình như vậy, nên người coi cái đình ấy dược gọi là đình trưởng.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trang Tử
CÁCH BIẾT LÒNG NGƯỜI
Lòng người sâu và hiểm,
Khó biết hơn biết trời.
Vì trời có quy luật,
Khác hẳn với lòng người.
Mặt có thể quân tử,
Mà lòng dạ tiểu nhân.
Ngoài có vẻ yếu đuối,
Mà vững mạnh tinh thần.
Vậy phải luôn cẩn thận.
Muốn biết rõ lòng ai
Thì cần phải thử thách,
Mà thử thách lâu dài.
Cho ở xa để biết
Lòng trung họ thế nào.
Cho ở gần để biết
Họ tôn kính ra sao.
Lòng trung họ thế nào.
Cho ở gần để biết
Họ tôn kính ra sao.
Cho ăn no để biết
Lời nói và việc làm.
Cho nhiều tiền để biết
Cái đểu và cái tham.
Lời nói và việc làm.
Cho nhiều tiền để biết
Cái đểu và cái tham.
Giao việc lớn để biết
Cái khí tiết một người.
Không tin vào vẻ mặt,
Cái khí tiết một người.
Không tin vào vẻ mặt,
Cũng không tin vào
lời.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Bảo Huấn
CÁCH LÀM CHO KHỎI TỨC GIẬN
Nếu bất chợt ai đó
Cư xử hỗn với mình,
Không cần phải to tiếng.
Tốt nhất cứ làm thinh.
Cứ coi như tay áo
Nhỡ vướng vào bụi gai.
Vướng thì lựa mà gỡ.
Trách gì mấy cái gai.
Xong, thản nhiên đi tiếp,
Nhẹ nhàng coi như không.
Một cái gai vớ vẩn
Sao cứ phải bận lòng?
Hãy nhớ ba câu hỏi
Của Mạnh Tử ngày xưa:
Liệu mình đã nhân hậu,
Tốt và thông minh chưa?
Nếu mình cứ cố chấp,
Thì bực suốt ngày đêm.
Thậm chí cả với vợ,
Bố mẹ và anh em...
Giải nghĩa:
1. Ba câu tự phản: ba câu tự hỏi mình, xét lại mình đã thật nhân hậu chưa, thật lễ độ chưa và đã thật khôn ngoan chưa?
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Thi Tử
THƯỞNG CHO LỜI NÓI PHẢI
Một hôm vua nước Tấn
Đi chơi thuyền trên sông.
Cờ xí bay phấp phới,
Các quan hầu rất đông.
Bất chợt vua Tấn nói:
“Loan Doanh bị chém đầu.
Giờ Loan Phường, con hắn,
Ai biết đang ở đâu?”
Các quan đều im lặng.
Trưởng đội chèo, Thanh Quyên,
Một người tài thất sủng,
Ngừng tay chèo, đứng lên:
“Bẩm bệ hạ hỏi thế
Là ngụ ý muốn gì?”
“Loan Doanh vì phản nghịch
Đã bị tội tru di.
Nhưng con hắn trốn thoát.
Lo hậu họa về sau.
Ta muốn tìm bắt nốt
Và lập tức chém đầu”.
“Bẩm, bệ hạ cho phép
Được nói đúng lòng thần:
Nếu vua lo việc nước
Hợp lẽ trời, lòng dân,
Thì không gì phải sợ
Hậu duệ nhà Loan Doanh.
Chúng có trăm nghìn đứa,
Muốn loạn cũng bất thành.
Ngược lại, vua trễ nãi
Việc triều chính, công đường.
Xã hội thành hỗn loạn,
Nhà nước mất kỷ cương,
Thì những người có mặt
Trên thuyền rồng hôm nay
Đều trở thành hậu duệ
Của họ Loan trước đây”.
Vua Tấn nghe, khen phải,
Bèn thưởng cho Thanh Quyên
Một vạn mẫu ruộng tốt,
Kèm theo rất nhiều tiền.
Giải nghĩa:
1. Tấn: tên một nước thời Xuân Thu, ở vùng Sơn Tây ngày nay.
2. Loan Doanh: người nước Tấn, thời Xuân Thu, làm quan lớn, sau phải tội bị giết cả họ.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Chiến Quốc
DỰ NHƯỢNG BÁO THÙ
Một thời gian, Dự Nhượng
Đi theo Phạm Trung Hàng.
Thấy Hàng không tử tế,
Dự bỏ đi lang thang.
Rồi theo hầu Trí Bá,
Được Trí Bá tin dùng.
Trí Bá bị Tam Tấn
Dồn vào chốn đường cùng,
Rồi giết, cướp hết đất.
Khiến Dự Nhượng đêm ngày
Nuôi chí lớn, tìm cách
Rửa hận mối thù này.
Trong đám bọn Tam Tấn
Triệu Tương Tử là người
Thù ghét Trí Bá nhất,
Mà thù ghét suốt đời.
Hắn cắt đầu Trí Bá,
Lóc hết thịt và da
Để làm cái đi tiểu,
Luôn để trước sân nhà.
Dự Nhượng nghe, căm giận,
Bèn giả làm thợ phu
Xin vào hầu Tương Tử,
Để giết hắn báo thù.
Tiếc là chuyện bại lộ.
May được Tương Tử tha,
Coi là người trung nghĩa.
Sau đó ông về nhà
Cải trang thành thằng hủi,
Lang thang đi xin ăn
Tìm cách giết Tương Tử,
Và giết hụt nhiều lần.
Một hôm, khi biết hắn
Sắp đi ngang qua cầu,
Dự Nhượng trốn trong cỏ,
Chờ đợi hắn rất lâu.
Khi hắn tới, con ngựa
Mãi không chịu bước qua.
Triệu Tương Tử cười nói:
“Chắc Dự Nhượng đấy mà”.
Liền sau đó binh lính
Xuống cầu, bắt được ông.
Tương Tử quát: “Quá đáng,
Trước ta tha, nhớ không?
Sao cứ thù ta mãi?
Trí Bá đã làm gì
Để ngươi yêu đến thế?
Nào, bây giờ nói đi!”
Dự Nhượng ngẩng đầu đáp:
“Vì Trí Bá đãi tôi
Sánh ngang bậc quốc sĩ,
Vậy thì bản thân tôi
Phải đối xử tương xứng.
Tôi quyết phải giết ông.
Tiếc trời chưa phù hộ,
Nên việc lớn chưa xong...”
Triệu Tương tử chép miệng:
“Người này muốn giết ta,
Khắp nơi đều biết tiếng
Vì nhờ được ta tha.
Nhưng lần này thì khác.
Ta không tha nữa đâu”.
Dự Nhượng bỗng cúi hỏi
Trước khi bị chém đầu:
“Trước ông đã độ lượng
Tha cho tôi một lần.
Nay tôi muốn lần nữa
Được ông ban đặc ân.
Xin cho phép tôi chém
Vào chiếc áo của ông.
Chiếc áo ông đang mặc.
Dẫu chết cũng cam lòng!”
Triệu Tương Tử đồng ý,
Cởi áo, treo lên cây.
Dự Nhượng đâm ba nhát,
Rồi kêu to: “Hôm nay
Mối thù đã được trả.
Ơn trời đất anh minh”.
Rồi ông cầm kiếm nhọn
Tự đâm vào cổ mình.
Giải nghĩa:
1. Dự Nhượng: người nước Tấn thời Chiến Quốc, có tiếng là người nghĩa sĩ.
Cổ Học Tinh Hoa
GỐC VÀ NGỌN
Vua nước Tề sai sứ
Dâng lụa đẹp, dâng tiền
Cho Uy Hậu nước Triệu,
Một người có thực quyền.
Bà Uy Hậu tiếp sứ
Không mở thư xem ngay,
Mà hỏi: “Ở bên ấy
Mùa màng mấy năm nay
Có hạn hán, thất bát,
Dân tình có đói không?”
Sứ thần nghe, liền hỏi
Với vẻ không hài lòng:
“Thần vâng mệnh làm sứ
Của vua Tề nước thần.
Sao Thái Hậu chỉ hỏi
Về mùa màng và dân?
Phải chăng thế có nghĩa
Không tôn trọng vua Tề?”
Bà Uy Hậu đáp lại,
Cũng có chút vỗ về:
“Không dám, quả không dám.
Nhưng hạn hạn, mất mùa,
Đói ăn, dân sẽ chết
Thì làm gì có vua?
Dân luôn là gốc rễ.
Ngọn là vua, triều đình.
Vì vậy, hỏi gốc trước
Cũng là chuyện thường tình”.
Giải nghĩa:
1. Tề: tên một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, thuộc địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
2. Uy Hậu: mẹ vua Uy Vương, bấy giờ bà có tham dự triều chính.
3. Triệu: tên một nước lớn thời Chiến Quốc, phía nam tỉnh Trực Lệ, phía bắc Tỉnh Sơn Tây ngày nay.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Tân Tự
TỬ UYÊN THÊ
Trần Hằng, thời Chiến Quốc,
Giết vua Tề Giản Công
Để thâu tóm quyền lực,
Rồi lập vua Bình Công.
Xong, ông ta cho lính
Đi bắt Tử Uyên Thê,
Buộc phải thờ chủ mới,
Dưới danh nghĩa vua Tề.
Tử Uyên Thê liền đáp:
“Ông muốn ta giúp ông,
Vì nghĩ ta có Trí,
Nhân và Dũng, đúng không?
Rất tiếc, ta không có
Cả Trí, Dũng và Nhân.
Nếu quả thật có Trí
Ta đã tìm cách ngăn
Không cho ông hành động.
Dũng ư? Dũng càng không.
Có Dũng, ta đã trốn,
Không đứng đây trước ông.
Nếu ta chịu quy phục
Là ta không có Nhân.
Vì vậy, ta không phải
Là người ông đang cần”.
Trần Hằng nghe, cảm phục
Khí phách Tử Uyên Thế.
Không giết, không tù tội,
Liền thả ông cho về.
Giải nghĩa:
1. Trần Hằng: người quyền thế thời Xuân Thu, giết vua Giản Công nước Tề, lập vua Bình Công.
2. Tân Tự: sách của Lưu Hướng, người đời nhà Hán.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hán Sử
BÀ MẸ CỦA VƯƠNG LĂNG
Vương Lăng người đất Bái,
Một hào trưởng hiền lành.
Thuở hàn vi, Cao Tổ
Quí trọng như người anh.
Ngày vua Hán Cao Tổ
Dựng nghiệp lớn, dấy binh,
Vương Lăng đã đóng góp
Hai nghìn quân của mình.
Nghe tin ấy, Hạng Vũ
Bèn bắt mẹ Vương Lăng
Phải dùng tình mẫu tử
Dụ con trai quy hàng.
Bà mẹ đã tìm cách
Nhắn với con trai mình
Phải thờ Hán Cao Tổ,
Cho dù phải hy sinh.
Rồi bà liền tự tử
Bằng con dao trong tay.
Một tấm gương trung liệt,
Truyền tụng đến ngày nay.
Giải nghĩa:
1. Cao Tổ: tức là Bái Công, vua đầu tiên của nhà Tây Hán, sau khi diệt nước Tần và nước Sở.
2. Hạng Vũ: tức là Hạng Tịch, khỏe mạnh và tài giỏi hơn người, tranh thiên hạ với Bái Công, sau thua chết ở Cai Hạ.
1. Cao Tổ: tức là Bái Công, vua đầu tiên của nhà Tây Hán, sau khi diệt nước Tần và nước Sở.
2. Hạng Vũ: tức là Hạng Tịch, khỏe mạnh và tài giỏi hơn người, tranh thiên hạ với Bái Công, sau thua chết ở Cai Hạ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét