Thứ Năm, 12 tháng 3, 2020

Cổ Học Tinh Hoa



Cổ Học Tinh Hoa - Sách Đái Danh Tế
LÀNG SAY

Xưa có một làng nọ,
Hễ ai bước chân vào
Đều cảm thấy chuếnh choáng,
Đầu nhức, lòng nôn nao.

Hỏi thì người ta đáp
Rằng đây là Làng Say,
Nơi mọi người ăn uống
Và túy lúy suốt ngày.

Vì đời lắm trắc trở,
Vì người lắm buồn phiền,
Nên cái Làng Say ấy
Trở thành nơi đốt tiền.

Thương cho bọn yếu đuối,
Bọn Nguyễn Tịch, Lưu Linh,
Vì ba chén rượu nhạt
Mà để phí đời mình.

Thời thế đang loạn lạc,
Đói khổ đời dân lành.
Bậc có chữ, có trí
Nỡ say thế sao đành?

Có người bảo buồn chán
Với cuộc sống hàng ngày,
Nên muốn tìm khuây khỏa
Trong chén rượu Làng Say.

Cái buồn mà giải được
Thì không phải là buồn.
Cái khôn mà mua được
Thì không phải là khôn.

Thực ra họ muốn chết
Khi bước vào Làng này
Để đốt nhà, đốt ruộng
Thành mồi cho men say.

Tiếc là giờ thiên hạ
Tỉnh ít mà say nhiều.
Vào Làng Say đông lắm
Mà ra chẳng bao nhiêu.

Giải nghĩa:
1. Lưu Linh, Nguyễn Tịch: hai người đời nhà Tấn, tính tình phóng khoáng, hay rượu mà không thiết gì đến việc đời.
2. Đái Danh Thế: người đời Khang Hi nhà Thanh, đỗ Tiến sĩ, tài danh nổi tiếng, chuyên về sử học, về sau bị nhà Thanh xử tội vì làm sử có ý đề cao nhà Minh.


Cổ Học tinh Hoa - Sách Liễu Tôn Nguyên
LIỄU TÔNG NGUYÊN

Nhân việc Tiết Tôn Nghĩa,
Cũng cùng quê Hà Đông,
Sắp đi làm quan phủ,
Liễu Tông Nguyên tiễn ông

Bằng cách mở tiệc rượu
Bên bờ sông Hoàng Hà.
Nâng chén rượu, ông nói,
Khi bắt đầu ngà ngà”

“Phàm là người chính trực,
Làm quan ở nơi nào,
Phải biết dân nơi ấy
Sướng hay khổ ra sao.

Chính người dân làm lụng
Nộp thuế nuôi chính quyền,
Là để quan tận tụy
Lo cho dân bình yên.

Người dân, như ông chủ,
Thuê quan, nuôi trong nhà
Làm đầy tớ phục dịch.
Nếu lười biếng, lơ là

Thì tất nhiên ông chủ
Sẽ đuổi cổ ra đường.
Điều ấy là sòng phăng,
Và cũng rất bình thường”.

Giải nghĩa:
1. Hà Đông: khu đất phía đông sông Hoàng Hà, tỉnh Sơn Tây.
2. Liễu Tông Nguyên: người Hà Đông, đời nhà Đường, lanh lợi, tài giỏi, đỗ Tiến sĩ, làm chức Thứ sử, nổi tiếng văn thơ hay.


Cổ Học Tinh Hoa
LIÊM, SỈ

Liêm sỉ là hai đức
Cần thiết cho mọi người.
Không liêm thì tham ác,
Cố vơ vét của đời.

Không sĩ, không xấu hổ,
Làm không từ việc gì.
Người không liêm, không sỉ
Là hạng người vứt đi.

Hai đức liêm sỉ ấy
Với quan lại càng cần.
Quan mà thiếu liêm sỉ
Là đại họa cho dân.

Trong cuốn sách “Gia Huấn”,
Học sĩ Nhan Chi Thôi
Có kể một câu chuyện:
“Một người nọ bảo tôi,

Rằng ông có cậu út
Được bố mẹ cho tiền
Để học nghề đàn hát,
Mua vui cho bề trên.

Bằng cách mua vui ấy,
Chẳng mấy chốc mà giàu.
Có thể nhờ đàn hát
Mà xây được nhà lầu...”

Nhan Chi Thôi nghe vậy
Liền quay mặt bỏ đi.
Người vô liêm sỉ thế
Thì còn nói làm gì.

Giải nghĩa:
1 - Nhan Chi Thôi: một học sĩ nổi tiếng thời Nam Bắc triều.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trang Tử
KHÔNG KHÓC MÀ HÁT

Vợ thầy Trang Tử chết.
Huệ Tử biết, đến thăm.
Thấy Trang Tử không khóc,
Mà còn hát lầm bầm.

“Hai bác đã ăn ở
Với nhau như vợ chồng.
Giờ không khóc mà hát.
Như thế có được không?”

Trang Tử đáp: “Được chứ.
Tôi cũng buồn lúc đầu.
Nhưng mà rồi lại nghĩ
Sống chết có gì đâu.

Con người không mà có.
Có mà cũng như không.
Đã sống thì phải chết.
Sao cứ phải bận lòng?

Chết để về với đất.
Cũng là hợp lẽ trời.
Cho nên ta không khóc,
Vì hiểu rõ kiếp người.

Giải nghĩa
1 - Trang Tử: tên là Chu, người thời Chiến Quốc, học rộng tài cao, theo tôn chỉ Lão Tử, có làm sách, phần nhiều là ngụ ngôn.
2 - Huệ Tử: tức là Huệ Thi thời Chiến Quốc, có tài khéo nói, là bạn thân của Trang Tử.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Thuyết Uyên
BA ĐIỀU KHÓ HỌC

Tăng Tử đã từng nói
Với Khổng Tử thế này:
Thầy có ba điều tốt
Trò học mãi lâu nay.

Một, khi thấy ai đó
Có điều đáng khen,
Trăm điều xấu người ấy
Thầy dễ dàng cho quên.

Hai, thấy người vui vẻ,
Thầy cùng vui, cùng cười.
Không bao giờ ghen tị
Với cái vui của người.

Ba, thấy điều gì phải,
Thầy sẽ nhất quyết làm.
Làm xong thầy mới nói.
Không nói nếu không làm.

Đó là ba điều tốt
Trò cố học lâu nay,
Mà học mãi chưa được.
Thầy quả đúng là thầy.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lưu Hương Liệt Nữ Truyện
NGHĨA CẢ, TÌNH RIÊNG

Nước Tề đánh nước Lỗ.
Viên tướng dẫn đoàn quân,
Khi vượt qua biên giới,
Thấy một bà nông dân

Đang bỏ chạy lên núi
Cùng nhiều người như bà.
Tay trái bế xộc xệch
Một đứa trẻ lên ba.

Còn tay phải thì dắt
Một đứa khác, lên năm.
Nó vừa chạy vừa khóc,
Mặt và mũi sưng bầm.

Khi thấy giặc gần quá,
Bà bỏ đứa bé hơn
Rồi ôm đứa lớn chạy,
Để mặc nó khóc hờn.

Viên tướng quân xâm lược
Ra lệnh cho bắt bà,
Hỏi về hai đứa trẻ
Lên năm và lên ba.

Bà kia đáp: “Đứa nhỏ
Là con trai của tôi.
Còn đứa lớn, năm tuổi,
Là con của anh tôi”.

“Thế thì kỳ lạ thật.
Sao bà bỏ con mình,
Sẵn sàng mặc nó chết
Để cứu con người anh?”

“Vì con tôi, tuy xót,
Nhưng chỉ là tình riêng.
Con anh tôi - nghĩa cả.
Mà nghĩa là thiêng liêng.

Nên tôi đành đứt ruột
Bỏ đứa con của mình
Để tránh khỏi tiếng xấu
Sống bất nghĩa với anh”.

Viên tướng nghe, lưỡng lự,
Rồi tâu với vua Tề:
“Chưa thể đánh nước Lỗ,
Mà nên rút quân về.

Vì hiện giờ ở Lỗ
Đạo nghĩa cao hơn ta.
Không chỉ quan, thậm chí
Cả những mụ đàn bà”.

Vua Tề cho là phải,
Bèn lệnh rút quân ngay.
Sau vua Lỗ biết chuyện
Ban thưởng cho bà này

Một trăm tấm lụa đẹp,
Kèm theo một ít tiền
Và một tấm trướng đẹp
Thêu hai chữ Nghĩa Hiền.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lý Nguyên Dương
TÌM PHẬT

Dương Phủ lúc còn trẻ
Nhà nghèo, không đủ ăn.
Phải tự mình cày cấy
Để nuôi dưỡng song thân.

Một hôm, ông nghe nói
Nước Thục có một người
Là Vô Tế Đại Sĩ,
Tài đức ngang như trời.

Ông xin phép b mẹ
Lên đường đi tìm thầy.
Rồi một mình, chống gậy,
Đi liên tục nhiều ngày.

Một hôm, đang ngồi nghỉ,
Có một vị sư già
Khuyên đừng tìm Vô Tế,
Mà tìm Phật Thích Ca.

Thích Ca mới có thể
Giúp tất cả mọi người
Vượt qua được bể khổ
Và oan trái cuộc đời.

Dương Phủ mừng lắm, hỏi:
“Biết tìm Phật ở đâu?”
“Giờ con hãy quay lại.
Đi, không được ngoái đầu.

Cho đến khi nhìn thấy
Một người đứng trước nhà,
Đôi chân xỏ dép ngược.
Đó là Phật Thích Ca”.

Nghe lời sư, Dương Phủ
Lại chống gậy quay về.
Nghĩ sẽ tìm được Phật,
Lòng hy vọng tràn trề.

Vậy mà đi, đi mãi,
Nhìn khắp nơi, nhìn lâu.
Không ai xỏ dép ngược.
Cũng không thấy Phật đâu.

Cuối cùng, rất thất vọng,
Ông buồn bã về nhà
Chợt thấy đứng trước ngõ
Chính là bà mẹ già.

Bất chợt, ông nhìn xuống,
Thấy dưới chân mẹ ông
Là đôi dép xỏ ngược,
Chiếc đế mòn sắp bong.

Chả là bà nghe nói
Con trai về, xăm xăm,
Mừng rỡ, chạy ra ngõ.
Vội, nên xỏ dép nhầm.

Giải nghĩa:
1. Dương Phủ: người đời nhà Minh, đỗ Tiến sĩ làm ngự sử, nổi tiếng là ông quan thanh liêm.
2. Thục: tên đất ở tỉnh Tứ Xuyên bây giờ .
3. Vô Tế đại sĩ: một nhà tu hành và là đạo sĩ nổi tiếng, giỏi các phép thần thông.  


Cổ học Tinh Hoa - Sách Hậu Hán Thư
NGƯỜI VỢ HIỀN MINH

Nhạc Dương Tử lần nọ
Đang lúc đi chơi xa
Nhặt được lọ vàng lớn,
Vui mừng đem về nhà.

Những tưởng vợ mừng rỡ,
Không ngờ bà chau mày:
“Không được, thiếp trộm nghĩ
Bậc quân tử xưa nay

Thà chết khát, không chịu
Uống nước suối Đạo Toàn.
Đồ Ta Lai không nhận.
Không uốn gối cầu an.

Không tham đồ nhặt được,
Dẫu đấy là vàng ròng.
Cầu lợi để ô uế,
Hỏi điều ấy nên không?”

Nhạc Dương Tử xấu hổ,
Lặng lẽ ra khỏi nhà,
Đặt lọ vàng vào chỗ
Tìm thấy nó hôm qua.

Chẳng bao lâu sau đó
Ông quyết chí lên đường
Để tầm sư học đạo.
Xa, tận miền biên cương.

Mới một năm có lẻ,
Chợt thấy chồng về làng,
Bà vợ quì xuống hỏi:
“Có chuyện gì, thưa chàng?”

“Không, chẳng có gì cả.
Xa cũng đã lâu ngày.
Nhớ nhà, về ít bữa
Rồi lại sẽ đi ngay”.

Vợ ông liền đứng dậy,
Lặng lẽ cầm con dao
Đến bên chiếc khung cửi:
“Chàng sẽ nghĩ thế nào,

Nếu công việc của thiếp
Là dệt vải, xe tơ,
Mà giữa chừng bỏ dở,
Hoặc giả sử bây giờ

Thiếp lấy dao cắt đứt
Cả tấm lụa đẹp này.
Thì có đúng là uổng
Công sức bấy lâu nay?

Cũng vậy, chàng đang học
Mà giữa chừng bỏ về,
Thì vừa không thành đạt,
Còn vừa bị cười chê?”

Dương Tử nghe, xấu hổ,
Liền quay gót đi ra.
Học thêm bảy năm nữa,
Đắc đạo mới về nhà.

Trong suốt thời gian ấy
Bà vợ ông một mình
Quán xuyến hết mọi chuyện.
Có chí và có tình.

Bà nuôi chồng ăn học,
Phụng dưỡng bố mẹ chồng.
Nhường cơm lúc đói kém,
Nhường áo ấm ngày đông.

Về sau, Nhạc Dương Tử,
Nhờ có vợ hiền minh,
Mà công thành danh toại,
Giàu có và hiển vinh.

Giải nghĩa:
1. Đạo Toàn: tên một ngọn suối ở huyện Tứ Thủy, tỉnh Sơn Đông. Đạo Toàn nghĩa đen là suối ăn trộm, tên nghe đáng ghét nên người đời khát cũng không muốn uống nước của nó.
2. Ta Lai: Cùng khổ đói khát mà gọi cho ăn và có ý khinh bỉ


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Dục Hải Từ Hàng
HỎA LÒ ĐÀN BÀ

Một đại thần đời Tống,
Thầy thơ Tô Đông Pha,
Cả vợ lớn vợ bé,
Tổng cộng có bảy bà.

Một hôm, sư Phật Ấn,
Vốn bạn thân của ông,
Nói đùa: “Nhiều vợ thế.
Xin một bà, được không?”

Tô Đông Pha nói: “Được”.
Rồi đánh xe về nhà.
Cho gọi vợ thứ bảy
Và kể hết với bà.

Bà kia, dẫu không muốn,
Cũng phải nghe lời chồng.
Tối ấy lên xe kín,
Đi đến nhà bạn ông.

Phật Ấn đón người đẹp,
Cho son phấn, buông rèm.
Bảo nàng cứ chờ đấy.
Chờ đến đúng nửa đêm.

Ông sai bọn đầy tớ
Đặt bảy cái hỏa lò
Đốt bằng than, đỏ rực.
Mà cái nào cũng to.

Suốt cả đêm hôm ấy,
Ông bước qua, nhiều lần,
Bảy cái lò rực lửa,
May không bị cháy quần.

Ông không hề để ý
Bà vợ Tô Đông Pha.
Sáng, cho xe lịch sự,
Chở về đến tận nhà.

Tô Đông Pha nghe chuyện,
Liền phá lên cười to:
“Ra thế, bảy bà vợ
Là bảy cái hỏa lò.

Ông ấy đã vượt được,
Và muốn nhắn nhủ ta
Tránh xa cái họa ấy.
Họa hỏa lò đàn bà”.

Giải nghĩa:
1. Phật Ấn: tên một vị cao tăng có tài hùng biện đời nhà Tống.
2. Tô Đông Pha: tức là Tô Thức, người đời nhà Tống có tiếng giỏi về thơ và họa.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hàn Phi Tử
LÒNG DẠ ĐÀN BÀ

Vua nước Ngụy lần nọ
Đem tặng vua nước Kinh
Một cô gái tuyệt đẹp,
Có sắc và đa tình.

Vua Kinh yêu nàng lắm,
Ban thưởng nhiều bạc vàng.
Lạ là cả hoàng hậu
Cũng rất mến yêu nàng.

Hễ vua ban tặng một,
Hoàng hậu tặng hai, ba.
Cứ như chị em ruột,
Nàng luôn ở cạnh bà.

Vua Kinh nhìn thấy thế,
Khen hoàng hậu biết điều.
Nên dẫu có người mới,
Bà vẫn được thương yêu.

Rồi một hôm hoàng hậu
Nói với người thiếp này,
Rằng vua yêu nàng lắm.
Có điều sáng hôm nay

Vua nói mũi nàng xấu,
Thô và da hơi trơn.
Vì vậy, nếu bịt mũi,
Ngài sẽ yêu nàng hơn.

Cô kia nghe, tưởng thật,
Nên gặp vua lần nào
Cũng lấy khăn che mũi.
Vua không hiểu vì sao.

Vua bèn hỏi hoàng hậu.
Chờ gặng hỏi mấy lần,
Hoàng hậu mới chịu nói,
Rằng nàng ấy bịt khăn,

Vì, đã nói với thiếp,
Có thể chỉ nói vui,
Rằng nàng thấy khó chịu
Vì vua hơi… nặng mùi.

Vua nghe, liền tức giận:
“Xẻo mũi nó cho ta!”
Mũi nàng liền bị xẻo.
Ôi lòng dạ đàn bà.

Giải nghĩa:
1. Ngụy: tên một nước thời Chiến Quốc, phía bắc tỉnh Hà Nam và phía tây nam tỉnh Sơn Tây ngày nay.
2. Kinh: tức nước Sở thời Chiến Quốc, thuộc Hồ Nam, Hồ Bắc ngày nay.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Duyệt Vi
GÌ ĐÁNG SỢ HƠN CẢ?

Lần nọ khách tụ tập
Cùng uống rượu vui say.
Bất chợt có con hát
Mời rượu, nói thế này:

“Giờ xin có câu đố.
Người nào trả lời sai
Bị bắt phạt uống rượu.
Không ngoại lệ với ai”.

Sau đó cô hầu rượu
Nói to với mọi người:
“Cái gì đáng sợ nhất?
Nghe rõ chứ, xin mời!”

Mọi người nhao nhao nói.
Người bảo sợ nhất quan.
Người - sợ ma, sợ quỷ.
Sợ không việc, quá nhàn.

Sợ bắt lính, sợ thuế.
Sợ người giàu, người sang.
Sợ đói ăn, sợ rét.
Sợ duyên phận nhỡ nhàng…

Ai cũng bảo mình đúng.
Không người nào nhận sai.
Cuối cùng có ai đó
Lên tiếng nói, thở dài:

“Tôi là một thợ gốm,
Chuyên bán chậu, bán nồi.
Với tôi, đáng sợ nhất
bạn nghề như tôi.

Tôi luôn sợ bị họ
Chiếm chỗ ngồi hàng ngày,
Bán rẻ để tranh khách,
Sợ ném đá giấu tay…

Ở đời, các bác biết,
Chỉ con cùng mẹ cha
Mới tranh giành tài sản,
Làm tan cửa nát nhà.

Và cũng chỉ phụ nữ
Chung chồng mới hay ghen.
Quan cùng triều cũng vậy,
Luôn tranh chức, tranh quyền.

Người săn bắt chim trĩ,
Lấy trĩ làm chim mồi…
Vì vậy tôi sợ nhất
Người cùng nghề như tôi…

Mọi người nghe, thấy đúng,
Nhưng vẫn phạt người này
Phải uống thêm hai cốc
nói đúng và hay.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Liệt Tử
ÁN TỬ VÀ TỀ CẢNH CÔNG

Tề Cảnh Công lần nọ
Du ngoạn vùng núi xa.
Đứng trên cao ngắm cảnh,
Chợt nước mặt nhạt nhòa:

“Đất nước này đẹp quá.
Giàu có và xanh tươi.
Chỉ tiếc ta không thể
Sống, làm vua suốt đời!”

Thấy vua khóc, đứng cạnh,
Lương Khưu, Lã Tử Không
Cũng xúc động không kém.
Nước mắt chảy thành dòng:

“Chúng thần nhờ bệ hạ
Mới có được cơm rau,
Còn nói gì bệ hạ,
Cũng rất muốn sống lâu”.

Chỉ một mình Án Tử
Không khóc mà lại cười.
Cảnh Công gạt nước mắt,
Hỏi: “Vì sao ngươi cười?”

Án Tử chắp tay đáp:
“Bẩm, nếu giang sơn này
Thuộc về một người mãi,
Thì từ xưa đến nay

Biết bao đời vua trước
Đã giữ nó cho mình,
Không đến phần bệ hạ.
Hợp lý và hợp tình.

Thấy bệ hạ chưa hiểu
Và nịnh thần a dua
Nên thần cười là thế,
Quả không dàm trêu đùa”.

Cảnh Công nghe, cả thẹn,
Rót ba chén rượu đầy
Phạt mình và hai vị
Đã khóc nhầm hôm nay.

Giải nghĩa:
1.    Án Tử: người nước Tề thời Xuân Thu, làm tướng triều vua Cảnh Công. Ông là người chính trực, trung thành và giỏi việc chính sự nổi tiếng thời bấy giờ.


Cổ Học Tinh Hoa -  Sách Án Tử
CHUNG THỦY VỚI VỢ

Vua Cảnh Công nước Sở
Có cô con gái yêu,
Muốn gả cho Án Tử,
Một đại thần trong triều.

Một hôm đến dự tiệc
Ở nhà ông quan này,
Thấy bà vợ vừa xấu,
Lại vừa già, vừa gầy.

Vua Cảnh Công bèn nói:
“Vợ ông lưng đã còng.
Ta có cô con gái,
Gả cho ông, được không?

Nó còn trẻ, xinh đẹp.
Tuổi chưa đến đôi mươi”.
“Bẩm, tạ ơn hoàng thượng.
Sống với nhau suốt đời,

Thần và bà lão ấy,
Từ tuổi còn xuân xanh,
Đã đồng cam cộng khổ,
Giờ bội bạc không đành.

Thờ chồng rất đúng phép,
Chu đáo và ân cần.
Bà ấy giờ xấu xí,
Phần lớn cũng do thần”.

Án Tử đã khéo léo
Từ chối vua Cảnh Công.
Vua không giận, ngược lại
Còn tỏ lời khen ông.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Gia Ngữ
BA ĐIỀU VỚI NGƯỜI QUÂN TỬ

Một hôm, Đức Khổng Tử
Nói với các học trò.
Xưa nay người quân tử
Có ba điều phải lo:

Một, lúc nhỏ không học,
Lười biếng và ham chơi
Lớn lên thành ngu dốt,
Rồi chỉ ăn bám đời.

Hai, về già không dạy
Các luân lý đạo thường,
Thì dẫu có tài giỏi mấy,
Chết cũng không ai thương.

Ba, khi mình giàu có
Mà không giúp đỡ người,
Sau không ai giúp đỡ,
Còn bị tiếng chê cười.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Tuân Tử
VŨ HẦU

Vua Vũ Hầu nước Ngụy
Thiết triều, như mọi ngày.
Hễ điều gì vua nói,
Các quan đều khen hay.

Vua nghe rất mãn nguyện.
Khi tất cả lui chầu,
Ngô Khởi bèn tiến lại,
Chắp tay, cúi thấp đầu:

“Bẩm, đã có ai kể
Với bệ hạ chuyện này,
Chuyện Trang Vương nước Sở
Được lưu truyền lâu nay?”

“Chưa, vua Vũ Hầu đáp.
Chuyện ấy là thế nào?
Ta chưa nghe ai kể.
Ông thử kể xem sao”.

“Bẩm, cũng giống bệ hạ.
Được các cận thần khen,
Trang Vương không vui sướng.
Ngược lại, rất buồn phiền.

Có người hỏi sao vậy?
Ngài đáp: Ta biết mình.
Học hành không cao lắm,
Cũng không hẳn thông minh.

Thế mà lời ta nói
Được các quan trầm trồ,
Không người nào bác lại.
Điều ấy làm ta lo.

Vì các quan, lớn nhỏ,
Là rường cột nước nhà.
Rất nhiều người, ta biết,
Còn thông minh hơn ta”.

Vũ hầu nghe, chợt hiểu
Bài học thâm thúy này,
Liền cúi vái Ngô Khởi:
“Ông đúng là bậc thầy”.

Giải nghĩa:
1. Ngô Khởi: người nước Vệ thời Chiến Quốc, trước làm tướng nước Ngụy, sau làm quân sư cho vua nước Sở, là một nhà dùng binh giỏi có tiếng.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Tân Tự
VUA VĂN CÔNG VÀ  NGƯỜI ĐÁNH CÁ

Vua Văn Công, nước Tấn,
Một hôm, săn mải mê,
Lạc vào khu đầm nước.
Không tìm được đường về.

Vua gặp người mò cá.
“Ta là Văn Công đây.
Hãy giúp ta nhanh chóng
Thoát khỏi khu đầm này”.

Người mò cá nghe vậy
Liền chắp tay, cúi đầu:
“Bề tôi xin được phép
Dâng bệ hạ một câu”.

“Được, nhưng ta trước hết
Muốn nhanh chóng quay về.
Cứ chờ đến lúc ấy
Ngươi hãy nói ta nghe”.

Khi ra đến đường lớn,
Xe và ngựa sắp đi,
Vua bảo người mò cá:
“Bây giờ ngươi nói đi”.

“Dạ bẩm, chim hồng ngọc
Vốn sống ở biển xanh,
Mà tới nơi đầm thối
Quả là điều không lành.

Thuồng luồng và cá lớn
Thì phải ở đáy sông.
Sao phải để mắc cạn
Ở những chỗ nước nông?

Cũng vậy, tâu bệ hạ,
Bệ hạ ở cung đình,
Thì không nên vui thú
Để lạc vào đầm sình”.

Văn Công nói: “Được lắm.
Ta đã hiểu lời khuyên”.
Rồi bảo quan đứng cạnh
Ghi tên để thưởng tiền.

“Bẩm, không cần ban thưởng
Tiền bạc cho bầy tôi.
Bệ hạ hiểu được thế
Là đáng mừng lắm rồi.

Còn giờ thì xin phép
Cho trở lại đầm lầy.
Bề tôi phải mò cá
Để có ăn hôm nay”.

Giải nghĩa:
1. Văn Công: vua giỏi nước Tấn thời Xuân Thu.
2. Tấn: nước lớn thời Xuân Thu, ở tỉnh Sơn Tây ngày nay.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã Thị Xuân Thu
KHÔNG CHỊU NHỤC

Một chàng, tên Ti Tụ,
Đời Trang Công nước Tề,
Không có gì nổi bật,
Một đêm nằm, chợt mê

Thấy một người to lớn,
Đội mũ trắng, áo gai,
Bên hông đeo lủng lẳng
Một thanh kiếm rất dài.

Con người to lớn ấy
Bước vào nhà anh ta
Rồi vô cớ chửi mắng
Những lời rất xấu xa.

Anh chàng bị xúc phạm,
Liền vùng dậy, bất ngờ
Lao vào định đấm đá.
Hóa ra chỉ là mơ.

Dẫu là mơ, đành thế,
Vẫn ấm ức trong lòng.
Vô cớ bị sĩ nhục.
Phải trả thù, sao không?

Anh ta nói với bạn:
“Tôi phải tìm thằng này.
Không thì tức chết mất”.
Rồi sau đó, nhiều ngày

Anh ta đeo gươm sắc
Đi tìm người trong mơ.
Tìm mãi mà không thấy.
Người gầy rộc, vật vờ.

Cuối cùng, anh ta chết,
Sau trận ốm li bì.
Chết vì bị sỉ nhục
Mà không làm được gì.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trương Nghị
LƯỠI VẪN CÒN

Lúc hàn vi, Trương Nghị
Thường hầu rượu nhiều lần
Cho một tướng nước Sở,
Và nói chuyện thơ văn.

Lần nọ, sau tiệc rượu
Bất chợt ông tướng này
Thấy mất viên ngọc bích
Gia bảo bao đời nay.

Người bị nghi số một
Là Trương Nghị, than ôi.
Ông bị đánh, tra khảo,
Gãy răng và sứt môi.

Về nhà, vợ ông nói:
“Chàng đúng thật không may.
Giá chàng học du thuyết
Thì đâu đến nỗi này?”

Trương Nghị nghe, há miệng:
“Nàng còn thấy lưỡi không?”
“Có, lưỡi thì còn có.
Nhưng hàm răng thì không”.

Trương Nghị đáp: “Tốt lắm.
Lưỡi còn thì ngày mai
Ta đi học du thuyết,
Nhất định sẽ thành tài”.

*
Quả vậy, sau Trương Nghị
Trở thành một thuyết gia
Thuộc hàng tài giỏi nhất
Trong lịch sử Trung Hoa.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Thuyết Uyển
THƯỜNG TRUNG VÀ LÃO TỬ

Thường Trung bị ốm nặng.
Trò, Lão Tử, đến thăm.
Rồi hai người trò chuyện.
Một ngồi và một nằm.

“Thưa thầy, Lão Tử nói.
Thầy ốm, thật đau lòng.
Có điều gì cần thiết
Thầy chưa dạy nữa không?”

Thường Trung thều thào nói:
“Trở lại cố hương xưa,
Phải xuống xe, điều ấy
Trò lĩnh hội được chưa?”

Lão Tử: “Thưa thầy, đã.
Về nhà mà xuống xe
Là không quên đất tổ,
Không bị người cười chê”.

“Gặp chỗ cây cao lớn,
Không được vội đi nhanh…”
“Trò hiểu, phải kính trọng
Người cao tuổi, lão thành”.

Rồi Thường Trung há miệng:
“Trò có thấy răng không?”
“Không thấy, nhưng thấy lưỡi.
Chiếc lưỡi vẫn đỏ hồng”.

“Chắc trò đã tự hiểu
Sao lưỡi mềm thì còn,
Mà răng cứng thì gãy.
Đã cứng thường hay dòn.

Đời đại để như vậy.
Hiểu được là hết lo.
Ta chẳng còn gì nữa
Để truyền dạy cho trò”.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Liệt Tử
BỆNH MÊ

Ở nước Tần, ông nọ
Có người con thông minh
Hơn hẳn lũ trẻ nhỏ
Cùng một tuổi với mình.

Thế mà rồi cậu bé
Bỗng nhiên mắc chứng mê.
Cái này lẫn cái khác,
Lẫn lộn khen và chê.

Ông bố cậu lo lắm,
Sang nước Trần phía Nam,
Tìm gặp một đạo sĩ
Có tên là Lão Đam.

Nghe xong, Lão Đam nói:
“Bệnh mê của con ông
Nay là bệnh phổ biến
Từ Tây cho đến Đông.

Thiên hạ không ai tỉnh.
Ai cũng mê như ai.
Chữa cho con ông tỉnh,
Nó sẽ biết đúng sai.

Thế chưa hẳn là tốt.
Đừng chữa mà tốn tiền.
Cứ để nguyên như vậy.
Mê sẽ được bình yên.

Giải nghĩa:
1. Tần: tên một nước về đời Xuân Thu, nay thuộc đất Thiểm Tây.
2.    Trần: tên một nước thời Xuân Thu, ở khoảng phủ Thái Phong (Hà Nam) cho đến châu Bạc (An Huy ) bây giờ.
3.    Lão Đam: tức Lão Tử, họ Lý tên Nhi, thời Xuân Thu, tác giả cuốn Đạo Đức Kinh. Ông là tổ đạo Lão.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Mạnh Tử
BA ĐIỀU VUI

Làm vua, dẫu hùng mạnh,
Kho vàng bạc chất đầy,
Cũng không bằng quân tử
Có ba điều vui này:

Một, cha mẹ còn sống,
Anh em cùng một nhà,
Đều vui vẻ, khỏe mạnh,
Sống nhường nhịn, thuận hòa.

Hai, không thấy hổ thẹn
Khi ngước mặt nhìn trời.
Ba, cũng không xấu hổ
Khi cúi xuống nhìn người.

Có được ba điều ấy,
Cay đắng thành ngọt bùi.
Dẫu số phận oan nghiệt,
Không vui cũng thành vui.


Cổ Học Tinh Hoa
BÁ DI, THÚC TỀ

Khi Vũ Vương quyết định
Đánh vua Trụ nước Thương,
Có hai người cương quyết
Ra đứng chắn, cản đường.

Họ, con vua Cô Trúc,
Là Bá Di, Thúc Tề.
Hai người giữ cương ngựa,
Khuyên Vũ Vương quay về.

“Cha bệ hạ vừa chết,
Chưa chôn, nằm trong phòng,
Mà cất quân chinh phạt.
Vậy có phải hiếu không?”

Vua Vũ Vương tức giận,
Muốn chém đầu làm gương.
May Thái Công can kịp,
Bắt tránh xa nhường đường.

Khi Vũ Vương diệt Trụ,
Dẫu lòng không hận thù,
Hai con vua Cô Trúc,
Không ăn thóc nhà Chu.

Họ ở ẩn trên núi
Chỉ sống bằng lá cây.
Sau nghe có người nói
Rằng cả ngọn núi này

Cũng của nhà Chu nốt.
Của Chu thì không ăn.
Không cả uống nước suối.
Và rồi họ chết dần.

Họ chết, nêu gương sáng
Về luân lý, đạo thường.
Một tấm lòng trung liệt,
Thật đau và thật thương.

Giải nghĩa:
1. Bá Di, Thúc Tề: hai con vua Cô Trúc đời nhà Thương.
2. Thái Công: tức Lã Vọng, một hiền thần nhà Chu, trước câu cá ở sông Vy, sau vua Văn Vương đón về, vua Vũ Vương dùng làm tướng.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Cao Sĩ Truyện
RỬA TAI

Là một nhà ẩn dật
Thời thượng cổ, Hứa Do
Sống cạnh đầm Bái Trạch,
Cơm bữa đói, bữa no.

Vua Nghiêu biết ông giỏi,
Bèn tìm đến nhường ngôi.
Nhưng Hứa Do từ chối,
Mặc vua mời, và rồi

Ông về vùng Trung Nhạc,
Ẩn danh trong núi sâu.
Ra bờ sông Dĩnh Thủy
Ngắm cảnh và đi câu.

Vua Nghiêu lại tìm đến
Cứ nằng nặc mời ông
Cai quản chín châu lớn,
Cùng nghìn vạn núi sông.

Hứa Do vẫn từ chối.
Chán vì phải nghe hoài,
Ông ra sông Dĩnh Thủy,
Dấp nước lạnh rửa tai.

Đúng lúc ấy Sào Phủ
Đang dắt trâu ra sông,
Định cho trâu uống nước.
Thấy thế, bèn hỏi ông:

“Bác có gì phiền muộn
Phải ra sông rửa tai?”
Hứa Do thuật lại chuyện.
Sào Phủ nghe, thở dài:

“Thế thì đúng buồn thật.
Buồn cho bác, còn tôi
Định cho trâu uống nước,
Nhưng nước bẩn mất rồi.

Đành phải đi nơi khác.
Nước bẩn, uống làm gì?”
Sào Phủ nhìn dòng nước
Rồi dắt trâu bỏ đi.

Giải nghĩa:
1. Hứa Do: bậc cao sĩ thời thượng cổ.
2, Chín châu: thời thượng cổ nước Tàu chia ra làm chín châu để cai trị (Duyên, Ký, Thanh, Từ, Dự, Kinh, Dương, Ung, Lương).
3. Sào Phủ : bậc cao sĩ đời thượng cổ, không màng công danh, ở ẩn trong núi, làm tổ nằm ở trên cây, nên người đời mới gọi là Sào Phủ (Sào nghĩa là tổ chim).


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trang Tử
CÓ NGƯỜI VÀ KHÔNG CÓ NGƯỜI

Một người chèo đò nọ
Đang chèo đò qua sông.
Bỗng có chiếc thuyền gỗ
Lúng liếng trôi theo dòng.

Lạ là trên thuyền ấy
Không hề có người nào.
Con đò bị va mạnh,
Suýt nữa chìm, lao đao.

Người chèo đò khó chịu,
Nhưng rồi cũng chỉ cười.
Là vì anh ta thấy
Trên thuyền không có người.

Nếu có người lại khác.
Có người thì anh ta
Sẽ lên tiếng chửi mắng
Bằng những lời xấu xa.

Con người luôn vẫn vậy
Không người thì chỉ cười.
Có người thì mắng chửi.
Thật lạ cái sự đời.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Mạnh Tử
NÊN XỬ THẾ NÀO?

Mạnh Tử một lần hỏi
Vua Tuyên Vương nước Tề:
“Giả sử có ai đó
Có việc phải về quê.

Người này rất tin tưởng
Đưa tiền cho bạn mình,
Nhờ anh ta chu cấp
Cho vợ con, gia đình.

Thế mà lúc quay lại
Hóa ra vợ và con
Bị bỏ đói, bỏ rét,
Không người nào trông nom.

Bẩm, xin phép được hỏi
Nên xử lý thế nào?”
Vua Tuyên Vương liền đáp:
“Phải nhanh chóng tuyệt giao”.

“Giả sử có quan phủ
Luôn bỏ bê việc công,
Đâu cũng thấy trộm cướp,
Người dân không hài lòng.

Bẩm, xin phép được hỏi:
Nên xử thế nào đây?”
Vua Tuyên Vương liền đáp:
“Phải phế bỏ hắn ngay”.

“Có ông vua nào đó,
Giả sử, ham rượu chè
Mà buông lơi chính sự
Và giáo dục bỏ bê…

Bẩm, xin phép được hỏi
Nên xử lý thế nào?”
Vua Tuyên Vương xấu hổ,
Tay nâng vạt áo bào

Rồi quay sang nói chuyện
Với đại thần ngồi bên.
Và rằng dẫu im lặng,
Rất thấm thía lời khuyên.

GIẢI NGHĨA
1. Mạnh Tử: người nước Châu, đời Chiến Quốc, tên là Kha, học thuyết của ông cốt ở điều “Nhân nghĩa”, “Tính thiện”, đời sau tôn ông là Á Thánh.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Khổng Tử
CHÍNH DANH

Lần nọ đang đàm đạo,
Chợt vua Tề Cảnh Công
Hỏi Khổng Tử về chuyện
Chính sự ở nước ông.

Khổng Tử đáp: “Cội rễ
Của chính sự ở đời
Là chính danh, đúng đạo
Ở mọi cấp, mọi nơi.

Trong triều thì trước hết,
Tôi hết đạo làm tôi.
Vua làm vua hết đạo,
Rành mạch bậc thứ ngôi.

Trong gia đình, nhất thiết
Cha đúng đạo làm cha.
Con làm con hết đạo
Mới yên ấm cửa nhà.

Ai phận sự người ấy,
Làm tốt việc của mình,
Thì yên bề gia thất,
Thiên hạ được thái bình”.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã Đông Lai
SỐNG VÀ CHẾT

Phải chết vì thuốc độc -
Vạn người chỉ một người.
Nhưng chết vì nhàn rỗi
Thì lại rất nhiều người.

Nhàn cư vi bất thiện,
Luôn giết người không dao.
Cái chết ấy nguy hiểm
Không chừa một người nào.

Người đời thường vẫn sống
Lúc đói khổ, gian nan.
Nhưng người đời cũng chết
Lúc sung sướng yên nhàn.

Cái lẽ ấy rất rõ.
Thật tiếc còn nhiều người
U mê không nhận biết,
Mà để phí cuộc đời.


Cổ Học Tinh Hoa
VỊ THUỐC BẤT TỬ

Thời Chiến Quốc, vua Sở
Được người mang vào cung
Dâng vị thuốc bất tử,
Quý và hiếm vô cùng.

Quan cận thần đứng cạnh
Cầm vị thuốc, và rồi
Thản nhiên nhai ngấu nghiến
Cho đến hết mới thôi.

Vua Sở liền tức giận
Sai đem ra chém đầu.
Ông quan hỗn láo ấy
Liền cúi xuống, dập đầu:

“Tâu bệ hạ, oan quá.
Thần chỉ muốn kiểm tra
Vị thuốc bất tử ấy.
Và bây giờ, hóa ra,

Nó không phải bất tử,
Mà ngược lại, thật may.
Bệ hạ chưa dùng nó.
May cho xã tắc này…”

Vua Sở thấy có lý,
Tha không giết ông ta.
Trong khi người dâng thuốc
Đã kịp trốn đi xa.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Khổng Tử Tập Ngữ
QUÊN CẢ CHÍNH MÌNH

Vua Ai Công lần nọ
Hỏi Khổng Tử: “Người ta
Đồn có một ông lão
Rất đãng tính - dọn nhà,

Cái gì ông cũng nhớ,
Thế mà vợ thì không.
Vậy là bỏ quên vợ.
Có đúng thật vậy không”.

Khổng Tử đáp: “Chuyện ấy
Kể ra cũng thường tình.
Vì có người chuyển chỗ,
Còn quên cả chính mình”.

“Làm sao như thế được?
Cái thân dính vào người.
Quên vợ có thể hiểu.
Quên mình thì lạ đời”.

Khổng Tử chắp tay đáp:
“Tâu bệ hạ, thế này,
Xưa vua Kiệt nhà Hạ
Giàu mạnh nhất đông tây.

Nhưng khi thành thiên tử,
Vua đã quên tổ tiên,
Chỉ ham mê sắc dục
Và yến tiệc triền miên.

Vua tin bọn xiểm nịnh,
Ghét quan thần trung lương.
Giết người vô căn cứ,
Phá luân lý đạo thường…

Cuối cùng đã bị giết,
Để vua Thang lên thay.
Quên thân là như vậy.
Kể cũng buồn lắm thay.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã Thị Xuân Thu
TRUNG HIẾU LƯỠNG TOÀN

Đời Chiêu Vương, Thạch Chử
Là vị quan công minh,
Liêm khiết và chính trực,
Nổi tiếng khắp nước Kinh.

Lần nọ, đi tuần thú,
Thấy có kẻ giết người.
Ông cho lính vây bắt
Thì hóa ra, trời ơi.

Thủ phạm không ai khác
Mà chính là cha mình.
Ông quay xe trở lại,
Quỳ mọp trước vua Kinh:

“Bẩm, cha thần phạm tội
Mà thần cố tình tha
Tức thần đáng tội chết,
Coi nhẹ phép nước nhà”.

Rồi ông vươn dài cổ
Xin vua được khai đao.
Vua Kinh không muốn giết,
Bèn đáp lại: “Không sao.

Vậy là ngươi có hiếu.
Con không làm hại cha.
Hơn thế, tự trình báo,
Nên xứng đáng được tha”.

Thạch Chử ôm mặt khóc:
“Bệ hạ thật có tình.
Nhưng thần, xét mọi nhẽ,
Không thể tha cho mình.

Làm con mà bất hiếu,
Không phụng dưỡng mẹ cha.
Làm tôi mà tùy tiện
Coi nhẹ phép nước nhà.

Thì thần không đáng sống.
Không đáng hưởng ân tình”.
Và rồi ông tự vẫn
Ngay trước mặt vua Kinh.


Cổ Học Tinh Hoa
CHỌN VỢ

nước Sở, người nọ
Một lúc trong nhà mình
Có hai vợ - cả, lẽ.
Còn trẻ và rất xinh.

Anh láng giềng của h
Chợt buông lời lả lơi,
Tán tỉnh cô vợ cả
Và bị mắng hết lời.

Quay sang tán vợ lẽ.
Khác với cô vợ đầu,
Cô này đã đồng ý
Và đi lại với nhau.

Không may, ông chồng chết.
Anh láng giềng đa tình
Mang lễ hỏi cô cả
Về làm vợ của mình.

Có người i: “Sao vậy?
Sao không lấy cô hai,
Người cùng anh đi lại
Một thời gian lâu dài?”

“Là vì, anh kia đáp.
Tôi muốn vợ của mình
Đoan trang và chung thủy,
Không phải gái ngoại tình”.


Cổ Học Tinh Hoa
ỨNG ĐỐI GIỎI

Hay tin có Án Sử
Sắp sang thăm nước mình -
Án Sử là thuyết khách
Tài giỏi và công minh -

Vua Sở bèn triệu tập
Các cận thần của ông:
“Ta muốn làm nhục hắn.
Liệu có kế nào không?”

Một đại thần liền đáp:
“Khi chiêu đãi sứ Tề,
Ta bắt một người Sở
Đóng giả làm người Tề.

Rồi bảo hắn ăn cắp,
Và rằng loại người này,
Người nước Tề gian trá
Có rất nhiều ở đây”.

Kế này được thực hiện.
Trong tiệc tiếp sứ Tề,
Vua Sở chỉ “tên trộm”
Rồi lên tiếng cười chê:

“Người nước ông tệ quá,
Trộm cắp ở xứ mình
Còn sang đây làm bậy.
Thật xấu hổ, đáng khinh”.

Án Sử chắp tay nói:
“Ngài sai, ở nước Tề
Người dân luôn tử tế,
Không làm gì đáng chê.

Chỉ khi qua nước Sở
Mới nhiễm thói xấu này.
Vì nhập gia tùy tục,
Vì thổ nhưỡng ở đây.

Bẩm, cùng một loài quất
Mà trồng ở Hoài Nam
Thì quả luôn to đẹp
Và ngọt lịm như cam.

Nhưng trồng ở Hoài Bắc
Thì chua và vỏ dày.
Là vì, tâu bệ hạ,
Do thổ nhưỡng nơi này”.

Vua Sở nghe, xấu hổ,
Bèn xin lỗi sứ Tề.
Đích thân nâng rượu quí
Tiễn Án Sử ra về.


Cổ Học Tinh Hoa
HÀN PHI TỬ

nước Tống ngày nọ
Có một bác phú hào.
Một hôm trời mưa gió,
Làm đổ mất tường rào.

Người con trai bèn nói:
Bố phải dựng lại ngay.
Kẻo bọn xấu thấy dễ
Sẽ vào trộm đêm nay.

Ông hàng xóm đứng cạnh
Nghe thế, cũng nói thêm:
Con trai bác nói đúng.
Hãy cẩn thận ban đêm…

Đêm ấy bọn kẻ trộm
Lẻn vào nhà phú hào.
Chả là vì ông chủ
Chưa dựng lại tường rào.

Ông mất tiền, xót lắm,
Nhưng mừng con trai mình
Là người biết đoán trước,
Cẩn thận và thông minh.

Còn về người hàng xóm,
Ông tỏ ý hoài nghi,
Nghĩ ông này có thể
Cũng là phường gian phi.

*
Hàn Phi Tử biết chuyện,
Có lời bàn thế này:
Cùng một lời góp ý,
Người thì được khen hay.

Trong khi đó, người khác
Lại bị nghi gian tà.
Dễ hiểu, ông hàng xóm
Không bằng người trong nhà.

Ý anh có thể tốt,
Người nghe vẫn hoài nghi.
Vậy được hỏi thì nói,
Không thì nói làm gì.


Cổ Học Tinh Hoa
MẤT NGỰA

Một bác nông dân nọ
Có con ngựa cái non.
Thế mà nó chạy mất,
Khiến cả nhà rất buồn.

Hay tin, nhiều hàng xóm
Đến chia buồn với ông.
Ông nói: “Ừ, rủi thật.
Cũng có thể là không.”

Hôm sau, con ngựa cái
Tự nhiên chạy về nhà,
Kéo theo một con đực.
Ối chà chà, ối chà!

Hàng xóm lại kéo đến
Chia vui, uống say mèm.
Chủ nhà vẫn tỉnh táo:
“Ừ, còn để rồi xem.”

Được hai ngày, bất cẩn,
Thằng con cả của ông
Tập cưỡi con ngựa mới,
Ngã gãy chân, vẹo hông.

Hàng xóm đến an ủi:
Ôi tiếc sao, buồn sao.
Ông bố tư lự nói:
“Để còn xem thế nào.”

Bỗng xẩy ra chiến sự.
Lính vua đến đầy nhà
Để bắt lính, cậu cả
Chân què, nên được tha.

Hàng xóm lại kéo đến,
Lại mừng, uống suốt đêm.
Ông chủ nhà không uống,
Lẩm bẩm: “Để rồi xem.”


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trang Tử
NUÔI GÀ CHỌI

Vua Tuyên Vương ngày nọ
Sai Kỷ Sảnh nuôi gà.
Nuôi một con gà trống
Làm gà chọi hoàng gia.

Được mười ngày, vua hỏi:
“Gà đã chọi được chưa?”
Kỷ Sảnh cúi đầu đáp:
“Tâu bệ hạ, còn chưa.

Là vì nó hăng lắm.
Hễ thấy con gà nào
Cũng lao ra muốn chọi
Dẫu đối thủ ra sao”.

Thêm mười ngày, vua hỏi:
“Nó đã chọi được chưa?”
Kỷ Sảnh lại cúi đáp:
“Tâu bệ hạ, còn chưa.

Nó còn hăng hơn trước.
Chưa kịp nhìn thấy gà,
Đã đạp chân, mài móng,
Dướn cổ, muốn xông ra”.

Thêm hai mươi ngày nữa,
Vua hỏi: “Chọi được chưa?”
Kỷ Sảnh rất sung sướng
Cúi thấp đầu, rồi thưa:

“Tâu bệ hạ, rằng đã.
Bây giờ con gà này
Không còn hăng đấu đá,
Mà đứng im suốt ngày.

Móng vuốt nó đã sắc.
Sung mãn sức và tài,
Và dường như không muốn
Phải thi chọi với ai”.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hàn Phi Tử
VIÊN NGỌC HỌ HÒA

Ngày xư ở nước Sở
Có một người dân thường
Tìm được viên ngọc quý,
Dâng lên vua Lê Vương.

Vua cho mời thợ ngọc.
Thợ ngọc xem, rồi tâu:
“Bẩm, đá, không phải ngọc.
Xấu và không có màu!”

Vua nghe xong, tức giận,
Cho gọi người họ Hòa,
Là người dâng viên ngọc,
Chặt một chân anh ta.

Khi vua Lê Vương chết,
Vua Vũ Vương lên thay.
Người họ Hòa lần nữa
Dâng vua viên ngọc này.

Và rồi, thêm lần nữa,
Thợ ngọc lại nói không.
Vua tức giận, ra lệnh
Chặt chân kia của ông.

Vua Văn Vương sau đó
Được nối ngôi thay cha.
Một mình bên chân núi,
Người dân ấy, họ Hòa

Ôm viên ngọc mà khóc,
Đúng ba đêm ba ngày.
Thấy lạ, quan tuần thú
Báo vua Văn Vương hay.

Vua hỏi thì ông nói:
“Khóc không vì thảo dân
Đã bị hai vua trước
Chặt đứt cả hai chân.

Mà vì viên ngọc quý
Mà không ai nhận ra.
Vì thảo dân nói thật,
Thành nói dối xấu xa.

Văn Vương nghe, lập tức
Mời thợ ngọc vào cung.
Mời nhiều người một lúc.
Họ xem, và cuối cùng

Nói rằng đó là ngọc.
Viên ngọc quí vô song.
Vua xuống chiếu cấp ruộng
Và vàng bạc cho ông.

Từ đấy viên ngọc quí
Thành báu vật hoàng gia.
Được vua Văn Vương gọi
Là “Viên Ngọc Họ Hòa”.


Cổ Học Tinh Hoa
VẼ GÌ KHÓ HƠN?

Có một người thợ vẽ,
Nổi tiếng rất giỏi nghề,
Được mời vào cung cấm
Vẽ tranh cho vua Tề.

Đang vẽ, vua chợt hỏi:
Theo ngươi thì vẽ gì
Là khó và dễ nhất,
Vẽ chính xác, chi li?”

“Tâu bệ hạ, khó vẽ
Là vẽ chó, vẽ gà.
Những con vật quen thuộc
Ai cũng nuôi trong nhà.

Vẽ chúng mà không giống,
Mọi người sẽ biết ngay.
Nên thú thật, thợ vẽ
Ngại vẽ những con này.

Còn vẽ ma, vẽ quỉ
Thì dễ và rất nhanh.
Vì không ai biết chúng,
Nên không dám chê tranh”.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hàn Phi Tử
ĐO CHÂN LÀM GIÀY

Nước Trịnh có người nọ
Muốn đóng một đôi giày.
Bèn đặt chân lên giấy,
Hý húi vẽ suốt ngày.

Xong, anh ta đi chợ,
Làm đôi giày bằng da.
Đến nơi thì sực nhớ
Quên tờ giấy ở nhà.

Anh chàng bảo người thợ:
“Ấy chết, quên, để tôi
Về nhà lấy tờ giấy.
Tôi đã vẽ sẵn rồi”.

Người thợ giày liền nói:
“Ơ, cái anh này kỳ.
Đóng giày, chân có sẵn.
Cần tờ giấy làm gì?”

Thế mà anh chàng nọ,
Cũng là người thông minh,
Chỉ tin vào tờ giấy
Mà không tin chân mình.


Cổ Học Tinh Hoa
KHÔNG MUỐN LÀM VUA

Ba đời vua nước Việt
Bị giết luân phiên nhau.
Người thứ tư, kế vị,
Sợ, trốn vào rừng sâu.

Bình lính đi tìm mãi,
Cuối cùng cũng tìm ra.
Anh chàng trốn rất kỹ
Trong một hang núi xa.

Gọi năm lần bảy lượt,
Vẫn không chịu rời hang.
Cuối cùng phải hun khói
Mới bắt được anh chàng.

Người ta làm lễ rước,
Đông đúc xe và người.
Mà anh này, tội nghiệp,
Ngửa mặt khóc, kêu trời:

“Không ít kẻ mong muốn
Được làm vua, than ôi,
Còn tôi thì không muốn.
Sao không tha cho tôi?”

*
Làm vua mà sung sướng,
Ai cũng muốn làm vua.
Làm vua mà bị giết,
Không ai muốn làm vua.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trang Tử
ĐÃ NÓI LÀ PHẢI LÀM

Vợ Tăng Tử đi chợ.
Con khóc, đòi theo bà.
Bà bảo nó: Không được.
Con nghe mẹ, ở nhà.

Lúc về, mẹ thịt lợn
Cho con ăn, được không?”
Thằng bé không khóc nữa,
Ở nhà chơi với ông.

Lúc về, bà kinh ngạc
Thấy Tăng Tử ở nhà
Đã làm sẵn con lợn
Như hứa với con bà.

“Trời, tôi chỉ dỗ nó.
Lời dối trẻ tầm phào”.
Tăng Tử đáp: “Không được.
Trẻ con thì đã sao?

Đã nói với người khác
Thì nhất định phải làm.
Với con trẻ, đã nói
Thì lại càng phải làm!”


Cổ Học Tinh Hoa
HÀN KỲ

Hàn Kỳ là tể tướng
Triều Bắc Tống, Trung Hoa.
Ông nổi tiếng nhân đức
Và tính tình hiền hòa.

Lần nọ, khi chinh phạt,
Đóng quân ở Định Châu,
Đêm, viết thư, trời tối,
Ông sai một lính hầu

Cầm nến đứng bên cạnh.
Buồn ngủ, cậu lính này
Nến nghiêng, cháy tóc chủ
Mà cậu không hề hay.

Thong thả vén tay áo
Dập lửa ngọn lửa, Hàn Kỳ
Lại tiếp tục ngồi viết,
Coi như không có gì.

Lát sau ông ngoái lại,
Thì thấy người lính kia
Được thay bằng người khác,
Mồ hôi vã đầm đìa.

Ông sợ viên chủ quản
Sẽ trừng phạt anh ta,
Bèn nói: “Không cần đổi.
Anh lính ấy được mà.

Chẳng qua chỉ sơ ý.
Sém tí tóc, không sao.
Giờ chắc sẽ cẩn thận.
Cho gọi anh ta vào”.

*
Hàn Kỳ được vua tặng
Đôi chén ngọc tuyệt vời.
Ông quí lắm, đôi lúc
Đem khoe với mọi người.

Lần nọ, có khách quí,
Ông sai người mang ra
Để uống rượu mừng bạn.
Bất chợt lão quản gia

Sơ ý trượt chân ngã,
Làm đổ cả chiếc bàn.
Đôi chén ngọc vô giá
Rơi xuống đất, vỡ tan.

Mọi người đều kinh hãi.
Lão quản gia cúi đầu
Chờ ông chủ trừng phạt.
Không ai nói một câu.

Hàn Kỳ bảo khách quí:
“Mọi cái ở trên đời
Đều có sống, có chết.
Cả vật và con người”.

Cũng nhẹ nhàng như thế,
Ông nói với quản gia:
“Không sao, hãy vào lấy
Đôi chén khác cho ta”.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã Thị Xuân Thu
KỲ HOÀNG DƯƠNG

Là đại phu nước Tấn
Thời Chiến Quốc Xuân Thu,
Kỳ Hoàng Dương nổi tiếng
Chính trực, không tư thù.

Lần nọ, khi đi dạo,
Vua Tấn là Bình Công
Đã đem chuyện chính sự
Dò hỏi ý kiến ông.

“Huyện Nam Dương đang thiếu
Chức huyện lệnh lâu nay.
Theo ông, ai xứng đáng
Được đảm nhiệm chức này?”

“Giải Hồ, tâu bệ hạ.
Theo thần nghĩ, không ai
Xứng đáng hơn ông ấy,
Xét về lâu, về dài”.

“Trẫm nghe nói ông ấy
Và khanh có bất hòa.
Sao khanh lại khen ngợi
Và tiến cử ông ta?”

“Bẩm, bệ hạ đề nghị
Tiến cử người giúp dân,
Chứ không phải muốn biết
Ai bất hòa với thần”.

Về làm quan huyện lệnh
Ở Nam Dương, Giải Hồ
Xứng đáng với chức vị
Được vua Tấn ban cho.

*
Một thời gian sau đó
Vua Tấn lại hỏi ông:
“Chức quân úy còn khuyết.
Ông biết ai hợp không?”

“Bẩm, Kỳ Ngọ thích hợp
Hơn bất kỳ người nào”.
“Nhưng Kỳ Ngọ không phải
Là con ông đó sao?”

Kỳ Hoàng Dương lại đáp:
“Bẩm, bệ hạ hỏi thần
Về chức quan quân úy,
Chứ không hỏi người thân”.

Kỳ Ngọ được vua Tấn
Ban cho chức quan này.
Sau thành vị quan tốt,
Nổi tiếng một người ngay.

*
Khổng Tử khi biết chuyện
Liền nói với Tử Tư:
“Kỳ Hoàng Dương là bậc
Thật chí công vô tư.

Ai có tài, bất kể
Kẻ thù hay người nhà,
Đều được ông tiến cứ
Vì đại sự quốc gia.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Liệt Tử
CHIẾC BÚA

Người đời vẫn hay nhắc
Một câu chuyện thế này.
Chuyện một người mất búa,
Cứ hậm hực suốt ngày.

Ông nghi con hàng xóm
Lấy cắp búa của ông.
Cái sự nghi hoặc ấy
Cứ âm ỉ trong lòng.

Từ nét mặt của nó,
Đến cử chỉ, dáng đi,
Rõ ràng có gì đấy
Quả thật rất đáng nghi.

Nó, chắc chắn chỉ nó.
Nó được sinh ở đời
Chỉ để lấy cắp búa
Và để làm hại người.

Mấy hôm sau, bất chợt
Trong xó bếp vô tình
Ông kêu lên mừng rỡ,
Thấy chiếc búa của mình.

Tay cầm chiếc búa ấy,
Ông vui vẻ đi ra.
Ngước lên, thấy đứa bé
Con hàng xóm trước nhà.

Thật lạ, ông nhìn nó
Thấy nó cũng bình thưởng.
Không có vẻ ăn cắp,
Thậm chí còn dễ thương.


Cổ Học Tinh Hoa
QUAN VÀ HỔ

Lần nọ, thầy Khổng Tử
Vượt núi cùng học trò.
Thấy có người phụ nữ
Vật vã khóc bên mồ.

Bà khóc rất bi thảm,
Nước mắt chảy hai hàng.
Ngài nói: “Khóc như thế,
Chắc gặp cảnh trùng tang”.

Rồi ngài sai Tử Cống
Đến hỏi xem thế nào.
Người đàn bà càng khóc,
Và nói: “Thảm thương sao.

Mới năm kia hổ giết
Bố chồng rồi chồng tôi.
Giờ thì nó lại giết
Đứa con trai, than ôi…”

Tử Cống hỏi: “Đã vậy
Sao không bỏ nơi này?”
“Là vì dẫu có hổ,
Nhưng phép quan ở đây

Không quá đỗi hà khắc.
Sưu dịch cũng không cao.
Gia đình tôi vì vậy,
Không muốn đi nơi nào”.

Nghe Tử Cống thưa lại,
Khổng Tử bảo: “Hôm nay
Các trò hãy ghi nhớ
Lời người đàn bà này.

Rằng chính sách hà khắc,
Quan tham và lộng hành,
Với dân, còn đáng sợ
Hơn cả hổ rừng xanh”.


Cổ Học Tinh Hoa
KHUẤT NGUYÊN

Khuất Nguyên, nhà thơ lớn,
Từng làm quan Đại Phu
Cho Hoài Vương nước Sở.
Sau có kẻ tư thù,

Dèm pha vua, thất sủng,
Ông bỏ đi lang thang.
Nhếch nhác và tiều tụy,
Hết phố rồi lại làng.

Một hôm có ngư phủ
Đang đánh cá dưới sông,
Lên tiếng hỏi: “Có phải
Tam Lư Đại Phu không?

Sao đến nông nổi ấy?
Ngài làm gì, đi đâu?”
Khuất Nguyên nghe, ngừng hát,
Đáp lại, ngẩng cao đầu:

“Chỉ một mình ta tỉnh.
Cả đời này đang say.
Chỉ mình ta trong sạch,
Nhơ bẩn cả đời này”.

Lão ngư phủ lại nói:
“Ừ thì mình ngài trong
Và cả đời đang đục.
Đục cũng được, sao không?

Chỉ một mình ngài tỉnh,
Còn mọi người thì say.
Sao ngài không say nốt,
Để khỏi khổ thế này?”

Khuất Nguyên đáp: “Không được,
Tự nhiên mình đang trong,
Sao lại phải vấy đục?
Ta thà nhảy xuống sông

Để làm mồi cho cá.
Còn hơn sống đời này
Chỉ một mình ta tỉnh
Khi tất cả đang say…”

Và rồi, sau khi viết
Bài phú buồn Hoài Sa,
Ông ôm một tảng đá,
Nhảy xuống dòng Mịch La.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã Thị Xuân Thu
THUẬT XEM TƯỚNG

Nước Kinh có người nọ
Nổi tiếng xem tướng người.
Xem cho ai cũng đúng.
Mười câu đúng cả mười.

Vua Trang Vương nghe tiếng,
Cho gọi ngay tức thì:
“Ngươi xem tướng giỏi thế,
Vậy đang dùng thuật gì?”

Người kia liền sụp lạy:
“Tâu bệ hạ, thực ra,
Không có thuật nào cả.
Rất đơn giản, đó là

Khi xem tướng ai đó,
Thần phải làm lo làm sao
Biết được những người ấy
Chơi với loại người nào.

Họ chơi với người tốt,
Người có đức, hiền tài,
Thì thần phán họ tốt.
Chưa bao giờ phán sai.

Còn ngược lại, nếu họ
Chơi với bọn tiểu nhân,
Thần toàn phán điềm gở.
Cũng chưa sai một lần”.

*
Vua Trang Vương trọng thưởng
Người xem tướng nước Kinh.
Sai tìm người hiền sĩ
Lôi kéo về nước mình.

Nhờ thế mà nước Sở,
Biết trọng dụng người tài,
Trở thành nước mạnh nhất
Thời Chiến Quốc kéo dài.


Cổ Học Tinh Hoa
PHÁP LUẬT VÀ TÌNH

Quí Cao ở nước Vệ
Là quan tòa, một lần
Ông xử một người nọ
Bằng bản án chặt chân.

Về sau, nước Vệ loạn,
Ông phải trốn đi nhanh.
Không ngờ gặp người ấy
Đang trông giữ cổng thành.

Người bị chặt chân nói:
“Có lỗ hổng phía này.
Ông hãy chui qua đó
Mà trốn khỏi nơi đây”.

Quí Cao đáp: “Quân tử
Không chui qua bờ tường”.
“Thế thì hãy trú tạm,
Ngôi nhà kia, bên đường”.

Quí Cao trốn ở đó,
Nên thoát chết, về sau
Tìm gặp lại người ấy
Rồi hỏi ông do đâu

Lại quyết định cứu giúp
Người đã chặt chân mình.
Ông kia đáp: “Luật pháp
Phải xét xử công minh.

Tội của tôi xứng đáng
Để ông chặt một chân,
Thì ông đã chặt nó.
Sao tôi phải lăn tăn?”

*
Nghe chuyện này, Khổng Tử
Nói với các môn sinh:
“Đây là bài học tốt
Về pháp luật và tình”.


Cổ Học Tinh Hoa - Sách Chu Thư
PHỤC THÙ

Hai nước Ngô và Việt
Hiềm khích, đánh nhau to.
Cuối cùng, quân nước Việt
Giết Hạp Lư, vua Ngô.

Con Hạp Lư kế vị,
Có tên là Phù Sai,
Thề quyết tâm nuôi chí
Sẽ phục thù nay mai.

Ông cho người cầm giáo
Suốt ngày đứng giữa sân,
Nhìn thấy ông, lập tức
Phải hô to hai lần:

“Phù Sai kia, còn nhớ
Quân Việt giết cha ngươi?”
Ông đáp lại: “Nhất quyết
Sẽ trả thù cho người!”

Sau ba năm chuẩn bị,
Kiên nhẫn vờ giảng hòa,
Ông đánh thắng nước Việt
Báo được thù cho cha.

*
Câu Tiễn, vua nước Việt,
Sang cầu hòa với Ngô.
Làm con tin ở đấy,
Đốn củi, hót phân bò.

Khi được tha về nước,
Ông nuôi chí phục thù,
Nằm giường gai, nếm mật,
Cày ruộng như nông phu.

Hai mươi năm gây dựng,
Chiêu mộ bậc hiền tài,
Cuối cùng vua Câu Tiễn
Diệt vua Ngô, Phù Sai.


Cổ Học Tinh Hoa
NẰM GAI NẾM MẬT

Đời Xuân Thu Chiến Quốc,
Ngô và Việt giao tranh.
Việt thua, vua Câu Tiễn
Phải tự trói, hạ mình

Xin làm thân trâu ngựa
Cho vua Ngô, Phù Sai.
Đó là khổ nhục kế,
Với hy vọng nay mai

Được trở về nước Việt
Nuôi chí lớn phục thù.
Giờ thì tạm nhẫn nhục
Cam chịu cảnh cầm tù.

Hai vợ chồng Câu Tiễn,
Có Phạm Lãi theo hầu,
Đêm nằm trong ngục đá,
Ngày hót phân, chăn trâu.

Gánh nước, quét chuồng ngựa,
Làm những việc nhọc nhằn.
Thường xuyên bị đánh đập,
Đau ốm và đói ăn…

Suốt ba năm đằng đẵng
Chờ cơ và đợi thời.
Bỗng vua Ngô ốm nặng,
Những tưởng sắp qua đời.

Lần nữa khổ nhục kế,
Phạm Lãi khuyên Việt Vương
Nếm phân của người bệnh,
Để tỏ tình yêu thương.

Vua Phù Sai cảm động,
Tưởng Câu Tiễn thực lòng,
Bèn tha cho về nước,
Cả vợ và cả chồng.

Vừa trở về cố quốc
Ngay lập tức Việt Vương
Lo xây dựng quân đội
Và phát triển công thương.

Vua giao cho Phạm Lãi
Toàn quyền lo việc binh.
Giao Văn Chủng  quản lý
Việc triều chính thay mình.

Sợ vì nếu sung sướng,
Sẽ quên dần mối thù,
Vua Câu Tiễn sinh hoạt
Hệt như một nông phu.

Ông tự tay cày ruộng,
Cuốc đất và chăn bò.
Trong lòng luôn nung nấu
Ý nghĩ trả thù Ngô.

Ông không chịu nằm đệm,
Mà ngủ trên giường gai.
Không bao giờ ngon giấc.
Miệng luôn nhắc: Phù Sai.

Trong áo có túi mật,
Loại mật gấu lâu ngày,
Thỉnh thoảng nhấp một tí,
Vừa đắng lại vừa cay.

Giường gai và túi mật
Nhắc ông không được quên
Việc trả thù Ngô Quốc,
Cho mình và tổ tiên.

Theo kế của Văn Chủng,
Dẫu mới được ba phần,
Nước Việt đã hưng thịnh
Và nước Ngô suy tàn.

Giờ điểm, quân Phạm Lãi
Tấn công đài Cô Tô,
Rồi nhanh chóng sau đó
Thôn tính cả nước Ngô.

*
Nhờ “nằm gai, nếm mật”,
Một kế sách lâu dài,
Kiên nhẫn và chịu khổ,
Câu Tiễn thắng Phù Sai.

Nó trở thành ngạn ngữ
Không chỉ với người Hoa,
Mà cả với người Việt,
Trong ngôn ngữ nước nhà.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét