Cổ Học Tinh Hoa - Sách Đái Danh Tế
LÀNG SAY
Xưa có một làng nọ,
Hễ ai bước chân vào
Đều cảm thấy chuếnh choáng,
Đầu nhức, lòng nôn nao.
Hỏi thì người ta đáp
Rằng đây là Làng Say,
Nơi mọi người ăn uống
Và túy lúy suốt ngày.
Vì đời lắm trắc trở,
Vì người lắm buồn phiền,
Nên cái Làng Say ấy
Trở thành nơi đốt tiền.
Thương cho bọn yếu đuối,
Bọn Nguyễn Tịch, Lưu Linh,
Vì ba chén rượu nhạt
Mà để phí đời mình.
Thời thế đang loạn lạc,
Đói khổ đời dân lành.
Bậc có chữ, có trí
Nỡ say thế sao đành?
Có người bảo buồn chán
Với cuộc sống hàng ngày,
Nên muốn tìm khuây khỏa
Trong chén rượu Làng Say.
Cái buồn mà giải được
Thì không phải là buồn.
Cái khôn mà mua được
Thì không phải là khôn.
Thực ra họ muốn chết
Khi bước vào Làng này
Để đốt nhà, đốt ruộng
Thành mồi cho men say.
Tiếc là giờ thiên hạ
Tỉnh ít mà say nhiều.
Vào Làng Say đông lắm
Mà ra chẳng bao nhiêu.
Giải nghĩa:
1. Lưu Linh, Nguyễn Tịch: hai người đời nhà Tấn, tính tình phóng khoáng, hay rượu mà không thiết gì đến việc đời.
2. Đái Danh Thế: người đời Khang Hi nhà Thanh, đỗ Tiến sĩ, tài danh nổi tiếng, chuyên về sử học, về sau bị nhà Thanh xử tội vì làm sử có ý đề cao nhà Minh.
Cổ Học tinh Hoa - Sách Liễu Tôn Nguyên
LIỄU TÔNG NGUYÊN
Nhân việc Tiết Tôn Nghĩa,
Cũng cùng quê Hà Đông,
Sắp đi làm quan phủ,
Liễu Tông Nguyên tiễn ông
Bằng cách mở tiệc rượu
Bên bờ sông Hoàng Hà.
Nâng chén rượu, ông nói,
Khi bắt đầu ngà ngà”
“Phàm là người chính trực,
Làm quan ở nơi nào,
Phải biết dân nơi ấy
Sướng hay khổ ra sao.
Chính người dân làm lụng
Nộp thuế nuôi chính quyền,
Là để quan tận tụy
Lo cho dân bình yên.
Người dân, như ông chủ,
Thuê quan, nuôi trong nhà
Làm đầy tớ phục dịch.
Nếu lười biếng, lơ là
Thì tất nhiên ông chủ
Sẽ đuổi cổ ra đường.
Điều ấy là sòng phăng,
Và cũng rất bình thường”.
Giải nghĩa:
1. Hà Đông: khu đất phía đông sông Hoàng Hà, tỉnh Sơn Tây.
2. Liễu Tông Nguyên: người Hà Đông, đời nhà Đường, lanh lợi, tài giỏi, đỗ Tiến sĩ, làm chức Thứ sử, nổi tiếng văn thơ hay.
2. Liễu Tông Nguyên: người Hà Đông, đời nhà Đường, lanh lợi, tài giỏi, đỗ Tiến sĩ, làm chức Thứ sử, nổi tiếng văn thơ hay.
Cổ Học Tinh Hoa
LIÊM, SỈ
Liêm sỉ là hai đức
Cần thiết cho mọi người.
Không liêm thì tham ác,
Cố vơ vét của đời.
Không sĩ, không xấu hổ,
Làm không từ việc gì.
Người không liêm, không sỉ
Là hạng người vứt đi.
Hai đức liêm sỉ ấy
Với quan lại càng cần.
Quan mà thiếu liêm sỉ
Là đại họa cho dân.
Trong cuốn sách “Gia Huấn”,
Học sĩ Nhan Chi Thôi
Có kể một câu chuyện:
“Một người nọ bảo tôi,
Rằng ông có cậu út
Được bố mẹ cho tiền
Để học nghề đàn hát,
Mua vui cho bề trên.
Bằng cách mua vui ấy,
Chẳng mấy chốc mà giàu.
Có thể nhờ đàn hát
Mà xây được nhà lầu...”
Nhan Chi Thôi nghe vậy
Liền quay mặt bỏ đi.
Người vô liêm sỉ thế
Thì còn nói làm gì.
Giải nghĩa:
1 - Nhan Chi Thôi: một học sĩ nổi tiếng thời Nam Bắc triều.
1 - Nhan Chi Thôi: một học sĩ nổi tiếng thời Nam Bắc triều.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trang Tử
KHÔNG KHÓC MÀ HÁT
Vợ thầy Trang Tử chết.
Huệ Tử biết, đến thăm.
Thấy Trang Tử không khóc,
Mà còn hát lầm bầm.
“Hai bác đã ăn ở
Với nhau như vợ chồng.
Giờ không khóc mà hát.
Như thế có được không?”
Trang Tử đáp: “Được chứ.
Tôi cũng buồn lúc đầu.
Nhưng mà rồi lại nghĩ
Sống chết có gì đâu.
Con người không mà có.
Có mà cũng như không.
Đã sống thì phải chết.
Sao cứ phải bận lòng?
Chết để về với đất.
Cũng là hợp lẽ trời.
Cho nên ta không khóc,
Vì hiểu rõ kiếp người.
Giải nghĩa
1 - Trang Tử: tên là Chu, người thời Chiến Quốc, học rộng tài cao, theo tôn chỉ Lão Tử, có làm sách, phần nhiều là ngụ ngôn.
2 - Huệ Tử: tức là Huệ Thi thời Chiến Quốc, có tài khéo nói, là bạn thân của Trang Tử.
Cổ
Học Tinh Hoa - Sách Thuyết Uyên
BA
ĐIỀU KHÓ HỌC
Tăng
Tử đã từng nói
Với
Khổng Tử thế này:
Thầy
có ba điều tốt
Trò
học mãi lâu nay.
Một,
khi thấy ai đó
Có
điều gì đáng
khen,
Trăm
điều xấu người ấy
Thầy
dễ dàng cho quên.
Hai,
thấy người vui vẻ,
Thầy
cùng vui, cùng cười.
Không
bao giờ ghen tị
Với
cái vui của người.
Ba,
thấy điều gì phải,
Thầy
sẽ nhất quyết làm.
Làm
xong thầy mới nói.
Không
nói nếu không làm.
Đó
là ba điều tốt
Trò
cố học lâu nay,
Mà
học mãi chưa được.
Thầy
quả đúng là thầy.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lưu Hương Liệt
Nữ Truyện
NGHĨA CẢ, TÌNH RIÊNG
Nước Tề đánh nước Lỗ.
Viên tướng dẫn đoàn quân,
Khi vượt qua biên giới,
Thấy một bà nông dân
Đang bỏ chạy lên núi
Cùng nhiều người như bà.
Tay trái bế xộc xệch
Một đứa trẻ lên ba.
Còn tay phải thì dắt
Một đứa khác, lên năm.
Nó vừa chạy vừa khóc,
Mặt và mũi sưng bầm.
Khi thấy giặc gần quá,
Bà bỏ đứa bé hơn
Rồi ôm đứa lớn chạy,
Để mặc nó khóc hờn.
Viên tướng quân xâm lược
Ra lệnh cho bắt bà,
Hỏi về hai đứa trẻ
Lên năm và lên ba.
Bà kia đáp: “Đứa nhỏ
Là con trai của tôi.
Còn đứa lớn, năm tuổi,
Là con của anh tôi”.
“Thế thì kỳ lạ thật.
Sao bà bỏ con mình,
Sẵn sàng mặc nó chết
Để cứu con người anh?”
“Vì con tôi, tuy xót,
Nhưng chỉ là tình riêng.
Con anh tôi - nghĩa cả.
Mà nghĩa là thiêng liêng.
Nên tôi đành đứt ruột
Bỏ đứa con của mình
Để tránh khỏi tiếng xấu
Sống bất nghĩa với anh”.
Viên tướng nghe, lưỡng lự,
Rồi tâu với vua Tề:
“Chưa thể đánh nước Lỗ,
Mà nên rút quân về.
Vì hiện giờ ở Lỗ
Đạo nghĩa cao hơn ta.
Không chỉ quan, thậm chí
Cả những mụ đàn bà”.
Vua Tề cho là phải,
Bèn lệnh rút quân ngay.
Sau vua Lỗ biết chuyện
Ban thưởng cho bà này
Một trăm tấm lụa đẹp,
Kèm theo một ít tiền
Và một tấm trướng đẹp
Thêu hai chữ Nghĩa Hiền.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lý Nguyên Dương
TÌM PHẬT
Dương Phủ lúc còn trẻ
Nhà nghèo, không đủ ăn.
Phải tự mình cày cấy
Để nuôi dưỡng song thân.
Một hôm, ông nghe nói
Nước Thục có một người
Là Vô Tế Đại Sĩ,
Tài đức ngang như trời.
Ông xin phép bố mẹ
Lên đường đi tìm thầy.
Rồi một mình, chống gậy,
Đi liên tục nhiều
ngày.
Một hôm, đang ngồi nghỉ,
Có một vị sư già
Khuyên đừng tìm Vô Tế,
Mà tìm Phật Thích Ca.
Thích Ca mới có thể
Giúp tất cả mọi người
Vượt qua được bể khổ
Và oan trái cuộc đời.
Dương Phủ mừng lắm, hỏi:
“Biết tìm Phật ở đâu?”
“Giờ con hãy quay lại.
Đi, không được ngoái đầu.
Cho đến khi nhìn thấy
Một người đứng trước nhà,
Đôi chân xỏ dép ngược.
Đó là Phật Thích Ca”.
Nghe lời sư, Dương Phủ
Lại chống gậy quay về.
Nghĩ sẽ tìm được Phật,
Lòng hy vọng tràn trề.
Vậy mà đi, đi mãi,
Nhìn khắp nơi, nhìn lâu.
Không ai xỏ dép ngược.
Cũng không thấy Phật đâu.
Cuối cùng, rất thất vọng,
Ông buồn bã về nhà
Chợt thấy đứng trước ngõ
Chính là bà mẹ già.
Bất chợt, ông nhìn xuống,
Thấy dưới chân mẹ ông
Là đôi dép xỏ ngược,
Chiếc đế mòn sắp bong.
Chả là bà nghe nói
Con trai về, xăm xăm,
Mừng rỡ, chạy ra ngõ.
Vội, nên xỏ dép nhầm.
Giải nghĩa:
1. Dương Phủ: người đời nhà Minh, đỗ Tiến sĩ làm ngự sử, nổi tiếng là ông quan thanh liêm.
2. Thục: tên đất ở tỉnh Tứ Xuyên bây giờ .
3. Vô Tế đại sĩ: một nhà tu hành và là đạo sĩ nổi tiếng, giỏi các phép thần thông.
Cổ học Tinh Hoa - Sách Hậu Hán Thư
NGƯỜI VỢ HIỀN MINH
Nhạc Dương Tử lần nọ
Đang lúc đi chơi xa
Nhặt được lọ vàng lớn,
Vui mừng đem về nhà.
Những tưởng vợ mừng rỡ,
Không ngờ bà chau mày:
“Không được, thiếp trộm nghĩ
Bậc quân tử xưa nay
Thà chết khát, không chịu
Uống nước suối Đạo Toàn.
Đồ Ta Lai không nhận.
Không uốn gối cầu an.
Không tham đồ nhặt được,
Dẫu đấy là vàng ròng.
Cầu lợi để ô uế,
Hỏi điều ấy nên không?”
Nhạc Dương Tử xấu hổ,
Lặng lẽ ra khỏi nhà,
Đặt lọ vàng vào chỗ
Tìm thấy nó hôm qua.
Chẳng bao lâu sau đó
Ông quyết chí lên đường
Để tầm sư học đạo.
Xa, tận miền biên cương.
Mới một năm có lẻ,
Chợt thấy chồng về làng,
Bà vợ quì xuống hỏi:
“Có chuyện gì, thưa chàng?”
“Không, chẳng có gì cả.
Xa cũng đã lâu ngày.
Nhớ nhà, về ít bữa
Rồi lại sẽ đi ngay”.
Vợ ông liền đứng dậy,
Lặng lẽ cầm con dao
Đến bên chiếc khung cửi:
“Chàng sẽ nghĩ thế nào,
Nếu công việc của thiếp
Là dệt vải, xe tơ,
Mà giữa chừng bỏ dở,
Hoặc giả sử bây giờ
Thiếp lấy dao cắt đứt
Cả tấm lụa đẹp này.
Thì có đúng là uổng
Công sức bấy lâu nay?
Cũng vậy, chàng đang học
Mà giữa chừng bỏ về,
Thì vừa không thành đạt,
Còn vừa bị cười chê?”
Dương Tử nghe, xấu hổ,
Liền quay gót đi ra.
Học thêm bảy năm nữa,
Đắc đạo mới về nhà.
Trong suốt thời gian ấy
Bà vợ ông một mình
Quán xuyến hết mọi chuyện.
Có chí và có tình.
Bà nuôi chồng ăn học,
Phụng dưỡng bố mẹ chồng.
Nhường cơm lúc đói kém,
Nhường áo ấm ngày đông.
Về sau, Nhạc Dương Tử,
Nhờ có vợ hiền minh,
Mà công thành danh toại,
Giàu có và hiển vinh.
Giải nghĩa:
1. Đạo Toàn: tên một ngọn suối ở huyện Tứ Thủy, tỉnh Sơn Đông. Đạo Toàn nghĩa đen là suối ăn trộm, tên nghe đáng ghét nên người đời khát cũng không muốn uống nước của nó.
2. Ta Lai: Cùng khổ đói khát mà gọi cho ăn và có ý khinh bỉ
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Dục Hải Từ Hàng
HỎA LÒ ĐÀN BÀ
Một đại thần đời Tống,
Thầy thơ Tô Đông Pha,
Cả vợ lớn vợ bé,
Tổng cộng có bảy bà.
Một hôm, sư Phật Ấn,
Vốn bạn thân của ông,
Nói đùa: “Nhiều vợ thế.
Xin một bà, được không?”
Tô Đông Pha nói: “Được”.
Rồi đánh xe về nhà.
Cho gọi vợ thứ bảy
Và kể hết với bà.
Bà kia, dẫu không muốn,
Cũng phải nghe lời chồng.
Tối ấy lên xe kín,
Đi đến nhà bạn ông.
Phật Ấn đón người đẹp,
Cho son phấn, buông rèm.
Bảo nàng cứ chờ đấy.
Chờ đến đúng nửa đêm.
Ông sai bọn đầy tớ
Đặt bảy cái hỏa lò
Đốt bằng than, đỏ rực.
Mà cái nào cũng to.
Suốt cả đêm hôm ấy,
Ông bước qua, nhiều lần,
Bảy cái lò rực lửa,
May không bị cháy quần.
Ông không hề để ý
Bà vợ Tô Đông Pha.
Sáng, cho xe lịch sự,
Chở về đến tận nhà.
Tô Đông Pha nghe chuyện,
Liền phá lên cười to:
“Ra thế, bảy bà vợ
Là bảy cái hỏa lò.
Ông ấy đã vượt được,
Và muốn nhắn nhủ ta
Tránh xa cái họa ấy.
Họa hỏa lò đàn bà”.
Giải nghĩa:
1. Phật Ấn: tên một vị cao tăng có tài hùng biện đời nhà Tống.
2. Tô Đông Pha: tức là Tô Thức, người đời nhà Tống có tiếng giỏi về thơ và họa.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hàn Phi Tử
LÒNG DẠ ĐÀN BÀ
Vua nước Ngụy lần nọ
Đem tặng vua nước Kinh
Một cô gái tuyệt đẹp,
Có sắc và đa tình.
Vua Kinh yêu nàng lắm,
Ban thưởng nhiều bạc vàng.
Lạ là cả hoàng hậu
Cũng rất mến yêu nàng.
Hễ vua ban tặng một,
Hoàng hậu tặng hai, ba.
Cứ như chị em ruột,
Nàng luôn ở cạnh bà.
Vua Kinh nhìn thấy thế,
Khen hoàng hậu biết điều.
Nên dẫu có người mới,
Bà vẫn được thương yêu.
Rồi một hôm hoàng hậu
Nói với người thiếp này,
Rằng vua yêu nàng lắm.
Có điều sáng hôm nay
Vua nói mũi nàng xấu,
Thô và da hơi trơn.
Vì vậy, nếu bịt mũi,
Ngài sẽ yêu nàng hơn.
Cô kia nghe, tưởng thật,
Nên gặp vua lần nào
Cũng lấy khăn che mũi.
Vua không hiểu vì sao.
Vua bèn hỏi hoàng hậu.
Chờ gặng hỏi mấy lần,
Hoàng hậu mới chịu nói,
Rằng nàng ấy bịt khăn,
Vì, đã nói với thiếp,
Có thể chỉ nói vui,
Rằng nàng thấy khó chịu
Vì vua hơi… nặng mùi.
Vua nghe, liền tức giận:
“Xẻo mũi nó cho ta!”
Mũi nàng liền bị xẻo.
Ôi lòng dạ đàn bà.
Giải nghĩa:
1. Ngụy: tên một nước thời Chiến Quốc, phía bắc tỉnh Hà Nam và phía tây nam tỉnh Sơn Tây ngày nay.
2. Kinh: tức nước Sở thời Chiến Quốc, thuộc Hồ Nam, Hồ Bắc ngày nay.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Duyệt Vi
GÌ ĐÁNG SỢ HƠN CẢ?
Lần nọ khách tụ tập
Cùng uống rượu
vui say.
Bất chợt có con
hát
Mời rượu, nói thế
này:
“Giờ xin có câu đố.
Người nào trả lời
sai
Bị bắt phạt uống
rượu.
Không ngoại lệ với
ai”.
Sau đó cô hầu rượu
Nói to với mọi
người:
“Cái gì đáng sợ
nhất?
Nghe rõ chứ, xin
mời!”
Mọi người nhao nhao nói.
Người bảo sợ nhất
quan.
Người - sợ ma, sợ
quỷ.
Sợ không việc,
quá nhàn.
Sợ bắt lính, sợ
thuế.
Sợ người giàu,
người sang.
Sợ đói ăn, sợ
rét.
Sợ duyên phận nhỡ
nhàng…
Ai cũng bảo mình
đúng.
Không người nào
nhận sai.
Cuối cùng có ai
đó
Lên tiếng nói, thở
dài:
“Tôi là một thợ gốm,
Chuyên bán chậu,
bán nồi.
Với tôi, đáng sợ
nhất
Là bạn nghề như tôi.
Tôi luôn sợ bị họ
Chiếm chỗ ngồi
hàng ngày,
Bán rẻ để tranh
khách,
Sợ ném đá giấu tay…
Ở đời, các bác biết,
Chỉ con cùng mẹ
cha
Mới tranh giành tài sản,
Làm tan cửa nát
nhà.
Và cũng chỉ phụ nữ
Chung chồng mới
hay ghen.
Quan cùng triều
cũng vậy,
Luôn tranh chức,
tranh quyền.
Người săn bắt
chim trĩ,
Lấy trĩ làm chim
mồi…
Vì vậy tôi sợ nhất
Người cùng nghề như tôi…”
Mọi người nghe,
thấy đúng,
Nhưng vẫn phạt người này
Phải uống thêm
hai cốc
Vì nói đúng và hay.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Liệt Tử
ÁN TỬ VÀ TỀ CẢNH CÔNG
Tề Cảnh Công lần
nọ
Du ngoạn vùng núi
xa.
Đứng trên cao ngắm
cảnh,
Chợt nước mặt nhạt
nhòa:
“Đất nước này đẹp
quá.
Giàu có và xanh
tươi.
Chỉ tiếc ta không
thể
Sống, làm vua suốt
đời!”
Thấy vua khóc, đứng
cạnh,
Lương Khưu, Lã Tử
Không
Cũng xúc động
không kém.
Nước mắt chảy
thành dòng:
“Chúng thần nhờ bệ
hạ
Mới có được cơm
rau,
Còn nói gì bệ hạ,
Cũng rất muốn sống
lâu”.
Chỉ một mình Án Tử
Không khóc mà lại
cười.
Cảnh Công gạt nước
mắt,
Hỏi: “Vì sao
ngươi cười?”
Án Tử chắp tay
đáp:
“Bẩm, nếu giang
sơn này
Thuộc về một người
mãi,
Thì từ xưa đến
nay
Biết bao đời vua
trước
Đã giữ nó cho
mình,
Không đến phần bệ
hạ.
Hợp lý và hợp
tình.
Thấy bệ hạ chưa
hiểu
Và nịnh thần a
dua
Nên thần cười là
thế,
Quả không dàm
trêu đùa”.
Cảnh Công nghe, cả
thẹn,
Rót ba chén rượu
đầy
Phạt mình và hai
vị
Đã khóc nhầm hôm
nay.
Giải nghĩa:
Giải nghĩa:
1. Án Tử: người nước
Tề thời Xuân Thu, làm tướng triều vua Cảnh Công.
Ông là người chính trực, trung thành và giỏi việc chính sự nổi tiếng thời bấy
giờ.
Cổ Học Tinh Hoa -
Sách Án Tử
CHUNG THỦY VỚI VỢ
Vua Cảnh Công nước
Sở
Có cô con gái yêu,
Muốn gả cho Án Tử,
Một đại thần
trong triều.
Một hôm đến dự tiệc
Ở nhà ông quan
này,
Thấy bà vợ vừa xấu,
Lại vừa già, vừa
gầy.
Vua Cảnh Công bèn
nói:
“Vợ ông lưng đã
còng.
Ta có cô con gái,
Gả cho ông, được
không?
Nó còn trẻ, xinh
đẹp.
Tuổi chưa đến đôi
mươi”.
“Bẩm, tạ ơn hoàng
thượng.
Sống với nhau suốt
đời,
Thần và bà lão ấy,
Từ tuổi còn xuân
xanh,
Đã đồng cam cộng
khổ,
Giờ bội bạc không
đành.
Thờ chồng rất
đúng phép,
Chu đáo và ân cần.
Bà ấy giờ xấu xí,
Phần lớn cũng do
thần”.
Án Tử đã khéo léo
Từ chối vua Cảnh
Công.
Vua không giận,
ngược lại
Còn tỏ lời khen
ông.
Cổ Học
Tinh Hoa - Sách Gia Ngữ
BA ĐIỀU
VỚI NGƯỜI QUÂN TỬ
Một hôm, Đức Khổng Tử
Nói với các học trò.
Xưa nay người quân tử
Có ba điều phải lo:
Một, lúc nhỏ không học,
Lười biếng và ham chơi
Lớn lên thành ngu dốt,
Rồi chỉ ăn bám đời.
Hai, về già không dạy
Các luân lý đạo thường,
Thì dẫu có tài giỏi mấy,
Chết cũng không ai thương.
Ba, khi mình giàu có
Mà không giúp đỡ người,
Sau không ai giúp đỡ,
Còn bị tiếng chê cười.
Cổ Học
Tinh Hoa - Sách Tuân Tử
VŨ HẦU
Vua Vũ
Hầu nước Ngụy
Thiết
triều, như mọi ngày.
Hễ điều
gì vua nói,
Các
quan đều khen hay.
Vua
nghe rất mãn nguyện.
Khi tất
cả lui chầu,
Ngô Khởi
bèn tiến lại,
Chắp
tay, cúi thấp đầu:
“Bẩm,
đã có ai kể
Với bệ
hạ chuyện này,
Chuyện
Trang Vương nước Sở
Được
lưu truyền lâu nay?”
“Chưa,
vua Vũ Hầu đáp.
Chuyện
ấy là thế nào?
Ta
chưa nghe ai kể.
Ông thử
kể xem sao”.
“Bẩm,
cũng giống bệ hạ.
Được
các cận thần khen,
Trang
Vương không vui sướng.
Ngược
lại, rất buồn phiền.
Có người
hỏi sao vậy?
Ngài
đáp: Ta biết mình.
Học
hành không cao lắm,
Cũng
không hẳn thông minh.
Thế mà
lời ta nói
Được
các quan trầm trồ,
Không
người nào bác lại.
Điều ấy
làm ta lo.
Vì các
quan, lớn nhỏ,
Là rường
cột nước nhà.
Rất
nhiều người, ta biết,
Còn
thông minh hơn ta”.
Vũ hầu nghe, chợt hiểu
Bài học thâm thúy này,
Liền cúi vái Ngô Khởi:
“Ông đúng là bậc thầy”.
Giải nghĩa:
1. Ngô Khởi: người nước Vệ thời Chiến Quốc, trước làm tướng nước Ngụy, sau làm quân sư cho vua nước Sở, là một nhà dùng binh giỏi có tiếng.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Tân Tự
VUA VĂN CÔNG VÀ NGƯỜI ĐÁNH CÁ
Vua Văn Công, nước
Tấn,
Một hôm, săn mải
mê,
Lạc vào khu đầm
nước.
Không tìm được đường
về.
Vua gặp người mò
cá.
“Ta là Văn Công
đây.
Hãy giúp ta nhanh
chóng
Thoát khỏi khu đầm này”.
Người mò cá nghe
vậy
Liền chắp tay,
cúi đầu:
“Bề tôi xin được
phép
Dâng bệ hạ một
câu”.
“Được, nhưng ta
trước hết
Muốn nhanh chóng
quay về.
Cứ chờ đến lúc ấy
Ngươi hãy nói ta
nghe”.
Khi ra đến đường
lớn,
Xe và ngựa sắp
đi,
Vua bảo người mò
cá:
“Bây giờ ngươi
nói đi”.
“Dạ bẩm, chim hồng
ngọc
Vốn sống ở biển
xanh,
Mà tới nơi đầm thối
Quả là điều không lành.
Thuồng luồng và cá
lớn
Thì phải ở đáy
sông.
Sao phải để mắc cạn
Ở những chỗ nước
nông?
Cũng vậy, tâu bệ
hạ,
Bệ hạ ở cung
đình,
Thì không nên vui
thú
Để lạc vào đầm sình”.
Văn Công nói: “Được
lắm.
Ta đã hiểu lời
khuyên”.
Rồi bảo quan đứng
cạnh
Ghi tên để thưởng
tiền.
“Bẩm, không cần
ban thưởng
Tiền bạc cho bầy
tôi.
Bệ hạ hiểu được
thế
Là đáng mừng lắm
rồi.
Còn giờ thì xin
phép
Cho trở lại đầm lầy.
Bề tôi phải mò cá
Để có ăn hôm
nay”.
Giải nghĩa:
1. Văn Công: vua giỏi nước Tấn thời Xuân Thu.
2. Tấn: nước lớn thời Xuân Thu, ở tỉnh Sơn Tây ngày nay.
1. Văn Công: vua giỏi nước Tấn thời Xuân Thu.
2. Tấn: nước lớn thời Xuân Thu, ở tỉnh Sơn Tây ngày nay.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã Thị Xuân Thu
KHÔNG CHỊU NHỤC
Một chàng, tên Ti
Tụ,
Đời Trang Công nước
Tề,
Không có gì nổi bật,
Một đêm nằm, chợt
mê
Thấy một người to
lớn,
Đội mũ trắng, áo
gai,
Bên hông đeo lủng lẳng
Một thanh kiếm rất dài.
Con người to lớn ấy
Bước vào nhà anh
ta
Rồi vô cớ chửi mắng
Những lời rất xấu
xa.
Anh chàng bị xúc phạm,
Liền vùng dậy, bất
ngờ
Lao vào định đấm
đá.
Hóa ra chỉ là mơ.
Dẫu là mơ, đành
thế,
Vẫn ấm ức trong
lòng.
Vô cớ bị sĩ nhục.
Phải trả thù, sao
không?
Anh ta nói với bạn:
“Tôi phải tìm thằng
này.
Không thì tức chết
mất”.
Rồi sau đó, nhiều ngày
Anh ta đeo gươm sắc
Đi tìm người
trong mơ.
Tìm mãi mà không
thấy.
Người gầy rộc, vật
vờ.
Cuối cùng, anh ta
chết,
Sau trận ốm li
bì.
Chết vì bị sỉ nhục
Mà không làm được
gì.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trương Nghị
LƯỠI VẪN CÒN
Lúc hàn vi,
Trương Nghị
Thường hầu rượu
nhiều lần
Cho một tướng nước
Sở,
Và nói chuyện thơ
văn.
Lần nọ, sau tiệc
rượu
Bất chợt ông tướng
này
Thấy mất viên ngọc
bích
Gia bảo bao đời
nay.
Người bị nghi số
một
Là Trương Nghị,
than ôi.
Ông bị đánh, tra
khảo,
Gãy răng và sứt
môi.
Về nhà, vợ ông
nói:
“Chàng đúng thật
không may.
Giá chàng học du
thuyết
Thì đâu đến nỗi
này?”
Trương Nghị nghe,
há miệng:
“Nàng còn thấy lưỡi
không?”
“Có, lưỡi thì còn
có.
Nhưng hàm răng
thì không”.
Trương Nghị đáp:
“Tốt lắm.
Lưỡi còn thì ngày
mai
Ta đi học du thuyết,
Nhất định sẽ
thành tài”.
*
Quả vậy, sau
Trương Nghị
Trở thành một
thuyết gia
Thuộc hàng tài giỏi
nhất
Trong lịch sử
Trung Hoa.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Thuyết Uyển
THƯỜNG TRUNG VÀ LÃO TỬ
Thường Trung bị ốm
nặng.
Trò, Lão Tử, đến
thăm.
Rồi hai người trò
chuyện.
Một ngồi và một nằm.
“Thưa thầy, Lão Tử
nói.
Thầy ốm, thật đau
lòng.
Có điều gì cần
thiết
Thầy chưa dạy nữa
không?”
Thường Trung thều
thào nói:
“Trở lại cố hương
xưa,
Phải xuống xe, điều
ấy
Trò lĩnh hội được
chưa?”
Lão Tử: “Thưa thầy,
đã.
Về nhà mà xuống
xe
Là không quên đất
tổ,
Không bị người cười
chê”.
“Gặp chỗ cây cao
lớn,
Không được vội đi
nhanh…”
“Trò hiểu, phải
kính trọng
Người cao tuổi,
lão thành”.
Rồi Thường Trung
há miệng:
“Trò có thấy răng
không?”
“Không thấy,
nhưng thấy lưỡi.
Chiếc lưỡi vẫn đỏ
hồng”.
“Chắc trò đã tự
hiểu
Sao lưỡi mềm thì
còn,
Mà răng cứng thì
gãy.
Đã cứng thường
hay dòn.
Đời đại để như vậy.
Hiểu được là hết
lo.
Ta chẳng còn gì nữa
Để truyền dạy cho
trò”.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Liệt Tử
BỆNH MÊ
Ở nước Tần, ông nọ
Có người con
thông minh
Hơn hẳn lũ trẻ nhỏ
Cùng một tuổi với
mình.
Thế mà rồi cậu bé
Bỗng nhiên mắc chứng
mê.
Cái này lẫn cái
khác,
Lẫn lộn khen và
chê.
Ông bố cậu lo lắm,
Sang nước Trần phía Nam,
Tìm gặp một đạo
sĩ
Có tên là Lão
Đam.
Nghe xong, Lão
Đam nói:
“Bệnh mê của con
ông
Nay là bệnh phổ
biến
Từ Tây cho đến
Đông.
Thiên hạ không ai
tỉnh.
Ai cũng mê như
ai.
Chữa cho con ông
tỉnh,
Nó sẽ biết đúng
sai.
Thế chưa hẳn là tốt.
Đừng chữa mà tốn
tiền.
Cứ để nguyên như
vậy.
Mê sẽ được bình
yên.
Giải nghĩa:
1. Tần: tên một nước về đời Xuân Thu, nay thuộc đất Thiểm Tây.
2. Trần: tên một nước
thời Xuân Thu, ở khoảng phủ Thái Phong (Hà Nam) cho đến châu Bạc (An Huy ) bây
giờ.
3. Lão Đam: tức Lão
Tử, họ Lý tên Nhi, thời Xuân Thu, tác giả cuốn Đạo Đức Kinh. Ông là tổ đạo Lão.
Cổ Học Tinh Hoa -
Sách Mạnh Tử
BA ĐIỀU VUI
Làm vua, dẫu hùng mạnh,
Kho vàng bạc chất đầy,
Cũng không bằng quân tử
Có ba điều vui này:
Một, cha mẹ còn sống,
Anh em cùng một
nhà,
Đều vui vẻ, khỏe mạnh,
Sống nhường nhịn, thuận hòa.
Hai, không thấy hổ thẹn
Khi ngước mặt nhìn trời.
Ba, cũng không xấu hổ
Khi cúi xuống nhìn người.
Có được ba điều ấy,
Cay đắng thành ngọt bùi.
Dẫu số phận oan nghiệt,
Không vui cũng thành vui.
Cổ Học Tinh Hoa
BÁ DI, THÚC TỀ
Khi Vũ Vương quyết định
Đánh vua Trụ nước Thương,
Có hai người cương quyết
Ra đứng chắn, cản đường.
Họ, con vua Cô Trúc,
Là Bá Di, Thúc Tề.
Hai người giữ cương ngựa,
Khuyên Vũ Vương quay về.
“Cha bệ hạ vừa chết,
Chưa chôn, nằm trong phòng,
Mà cất quân chinh phạt.
Vậy có phải hiếu không?”
Vua Vũ Vương tức giận,
Muốn chém đầu làm gương.
May Thái Công can kịp,
Bắt tránh xa nhường đường.
Khi Vũ Vương diệt Trụ,
Dẫu lòng không hận thù,
Hai con vua Cô Trúc,
Không ăn thóc nhà Chu.
Họ ở ẩn trên núi
Chỉ sống bằng lá cây.
Sau nghe có người nói
Rằng cả ngọn núi này
Cũng của nhà Chu nốt.
Của Chu thì không ăn.
Không cả uống nước suối.
Và rồi họ chết dần.
Họ chết, nêu gương sáng
Về luân lý, đạo thường.
Một tấm lòng trung liệt,
Thật đau và thật thương.
Giải nghĩa:
1. Bá Di, Thúc Tề: hai con vua Cô Trúc đời nhà Thương.
2. Thái Công: tức Lã Vọng, một hiền thần nhà Chu, trước câu cá ở sông Vy, sau vua Văn Vương đón về, vua Vũ Vương dùng làm tướng.
1. Bá Di, Thúc Tề: hai con vua Cô Trúc đời nhà Thương.
2. Thái Công: tức Lã Vọng, một hiền thần nhà Chu, trước câu cá ở sông Vy, sau vua Văn Vương đón về, vua Vũ Vương dùng làm tướng.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Cao Sĩ Truyện
RỬA TAI
Là một nhà ẩn dật
Thời thượng cổ, Hứa Do
Sống cạnh đầm Bái Trạch,
Cơm bữa đói, bữa no.
Vua Nghiêu biết ông giỏi,
Bèn tìm đến nhường ngôi.
Nhưng Hứa Do từ chối,
Mặc vua mời, và rồi
Ông về vùng Trung Nhạc,
Ẩn danh trong núi sâu.
Ra bờ sông Dĩnh Thủy
Ngắm cảnh và đi câu.
Vua Nghiêu lại tìm đến
Cứ nằng nặc mời ông
Cai quản chín châu lớn,
Cùng nghìn vạn núi sông.
Hứa Do vẫn từ chối.
Chán vì phải nghe hoài,
Ông ra sông Dĩnh Thủy,
Dấp nước lạnh rửa
tai.
Đúng lúc ấy Sào Phủ
Đang dắt trâu ra sông,
Định cho trâu uống nước.
Thấy thế, bèn hỏi ông:
“Bác có gì phiền muộn
Phải ra sông rửa tai?”
Hứa Do thuật lại chuyện.
Sào Phủ nghe, thở dài:
Sào Phủ nghe, thở dài:
“Thế thì đúng buồn thật.
Buồn cho bác, còn tôi
Định cho trâu uống nước,
Nhưng nước bẩn mất rồi.
Đành phải đi nơi khác.
Nước bẩn, uống
làm gì?”
Sào Phủ nhìn dòng
nước
Rồi dắt trâu bỏ
đi.
Giải nghĩa:
1. Hứa Do: bậc cao sĩ thời thượng cổ.
2, Chín châu: thời thượng cổ nước Tàu chia ra làm chín châu để cai trị (Duyên, Ký, Thanh, Từ, Dự, Kinh, Dương, Ung, Lương).
3. Sào Phủ : bậc cao sĩ đời thượng cổ, không màng công danh, ở ẩn trong núi, làm tổ nằm ở trên cây, nên người đời mới gọi là Sào Phủ (Sào nghĩa là tổ chim).
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trang Tử
CÓ NGƯỜI VÀ KHÔNG CÓ NGƯỜI
Một người chèo đò nọ
Đang chèo đò qua sông.
Bỗng có chiếc thuyền gỗ
Lúng liếng trôi theo dòng.
Lạ là trên thuyền ấy
Không hề có người nào.
Con đò bị va mạnh,
Suýt nữa chìm, lao đao.
Người chèo đò khó chịu,
Nhưng rồi cũng chỉ cười.
Nhưng rồi cũng chỉ cười.
Là vì anh ta thấy
Trên thuyền không có người.
Nếu có người lại khác.
Có người thì anh ta
Sẽ lên tiếng chửi mắng
Sẽ lên tiếng chửi mắng
Bằng những lời xấu xa.
Con người luôn vẫn vậy
Không người thì chỉ cười.
Có người thì mắng chửi.
Thật lạ cái sự đời.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Mạnh Tử
NÊN XỬ THẾ NÀO?
Mạnh Tử một lần hỏi
Vua Tuyên Vương
nước Tề:
“Giả sử có ai đó
Có việc phải về
quê.
Người này rất tin
tưởng
Đưa tiền cho bạn
mình,
Nhờ anh ta chu cấp
Cho vợ con, gia
đình.
Thế mà lúc quay lại
Hóa ra vợ và con
Bị bỏ đói, bỏ
rét,
Không người nào trông nom.
Bẩm, xin phép được
hỏi
Nên xử lý thế
nào?”
Vua Tuyên Vương
liền đáp:
“Phải nhanh chóng
tuyệt giao”.
“Giả sử có quan
phủ
Luôn bỏ bê việc
công,
Đâu cũng thấy trộm
cướp,
Người dân không
hài lòng.
Bẩm, xin phép được
hỏi:
Nên xử thế nào
đây?”
Vua Tuyên Vương
liền đáp:
“Phải phế bỏ hắn
ngay”.
“Có ông vua nào
đó,
Giả sử, ham rượu
chè
Mà buông lơi
chính sự
Và giáo dục bỏ
bê…
Bẩm, xin phép được
hỏi
Nên xử lý thế
nào?”
Vua Tuyên Vương xấu
hổ,
Tay nâng vạt áo
bào
Rồi quay sang nói
chuyện
Với đại thần ngồi
bên.
Và rằng dẫu im lặng,
Rất thấm thía lời
khuyên.
GIẢI NGHĨA
1. Mạnh Tử: người nước Châu, đời Chiến Quốc, tên là Kha, học thuyết của ông cốt ở điều “Nhân nghĩa”, “Tính thiện”, đời sau tôn ông là Á Thánh.
1. Mạnh Tử: người nước Châu, đời Chiến Quốc, tên là Kha, học thuyết của ông cốt ở điều “Nhân nghĩa”, “Tính thiện”, đời sau tôn ông là Á Thánh.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Khổng Tử
CHÍNH DANH
Lần nọ đang đàm đạo,
Chợt vua Tề Cảnh
Công
Hỏi Khổng Tử về
chuyện
Chính sự ở nước
ông.
Khổng Tử đáp: “Cội
rễ
Của chính sự ở đời
Là chính danh,
đúng đạo
Ở mọi cấp, mọi
nơi.
Trong triều thì
trước hết,
Tôi hết đạo làm tôi.
Vua làm vua hết đạo,
Rành mạch bậc thứ
ngôi.
Trong gia đình,
nhất thiết
Cha đúng đạo làm
cha.
Con làm con hết đạo
Mới yên ấm cửa
nhà.
Ai phận sự người ấy,
Làm tốt việc của
mình,
Thì yên bề gia thất,
Thiên hạ được thái bình”.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã Đông Lai
SỐNG VÀ CHẾT
Phải chết vì thuốc độc -
Vạn người chỉ một người.
Nhưng chết vì nhàn rỗi
Thì lại rất nhiều người.
Nhàn cư vi bất thiện,
Luôn giết người không dao.
Cái chết ấy nguy hiểm
Không chừa một người
nào.
Người đời thường
vẫn sống
Lúc đói khổ, gian
nan.
Nhưng người đời
cũng chết
Lúc sung sướng
yên nhàn.
Cái lẽ ấy rất rõ.
Thật tiếc còn nhiều
người
U mê không nhận
biết,
Mà để phí cuộc đời.
Cổ Học Tinh Hoa
VỊ THUỐC BẤT TỬ
Thời Chiến Quốc,
vua Sở
Được người mang
vào cung
Dâng vị thuốc bất
tử,
Quý và hiếm vô
cùng.
Quan cận thần đứng
cạnh
Cầm vị thuốc, và
rồi
Thản nhiên nhai
ngấu nghiến
Cho đến hết mới
thôi.
Vua Sở liền tức giận
Sai đem ra chém đầu.
Sai đem ra chém đầu.
Ông quan hỗn láo ấy
Liền cúi xuống, dập
đầu:
“Tâu bệ hạ, oan
quá.
Thần chỉ muốn kiểm
tra
Vị thuốc bất tử ấy.
Và bây giờ, hóa ra,
Nó không phải bất
tử,
Mà ngược lại, thật
may.
Bệ hạ chưa dùng
nó.
May cho xã tắc
này…”
Vua Sở thấy có
lý,
Tha không giết
ông ta.
Trong khi người
dâng thuốc
Đã kịp trốn đi
xa.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Khổng Tử Tập Ngữ
QUÊN CẢ CHÍNH MÌNH
Vua Ai Công lần nọ
Vua Ai Công lần nọ
Hỏi Khổng Tử:
“Người ta
Đồn có một ông
lão
Rất đãng tính - dọn
nhà,
Cái gì ông cũng
nhớ,
Thế mà vợ thì
không.
Vậy là bỏ quên vợ.
Có đúng thật vậy không”.
Khổng Tử đáp:
“Chuyện ấy
Kể ra cũng thường
tình.
Vì có người chuyển
chỗ,
Còn quên cả chính
mình”.
“Làm sao như thế
được?
Cái thân dính vào
người.
Quên vợ có thể hiểu.
Quên mình thì lạ
đời”.
Khổng Tử chắp tay
đáp:
“Tâu bệ hạ, thế
này,
Xưa vua Kiệt nhà
Hạ
Giàu mạnh nhất
đông tây.
Nhưng khi thành
thiên tử,
Vua đã quên tổ
tiên,
Chỉ ham mê sắc dục
Và yến tiệc triền
miên.
Vua tin bọn xiểm
nịnh,
Ghét quan thần
trung lương.
Giết người vô căn
cứ,
Phá luân lý đạo
thường…
Cuối cùng đã bị
giết,
Để vua Thang lên
thay.
Quên thân là như
vậy.
Kể cũng buồn lắm thay.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Lã Thị Xuân Thu
TRUNG HIẾU LƯỠNG TOÀN
Đời Chiêu Vương, Thạch Chử
Là vị quan công minh,
Liêm khiết và chính trực,
Nổi tiếng khắp nước Kinh.
Lần nọ, đi tuần thú,
Thấy có kẻ giết người.
Ông cho lính vây bắt
Thì hóa ra, trời ơi.
Thì hóa ra, trời ơi.
Thủ phạm không ai khác
Mà chính là cha mình.
Ông quay xe trở lại,
Ông quay xe trở lại,
Quỳ mọp trước vua Kinh:
“Bẩm, cha thần phạm tội
Mà thần cố tình tha
Tức thần đáng tội chết,
Coi nhẹ phép nước nhà”.
Rồi ông vươn dài cổ
Xin vua được khai đao.
Vua Kinh không muốn giết,
Bèn đáp lại: “Không sao.
Vậy là ngươi có hiếu.
Con không làm hại cha.
Hơn thế, tự trình báo,
Nên xứng đáng được tha”.
Thạch Chử ôm mặt khóc:
“Bệ hạ thật có tình.
Nhưng thần, xét mọi nhẽ,
Không thể tha cho mình.
Làm con mà bất hiếu,
Không phụng dưỡng mẹ cha.
Làm tôi mà tùy tiện
Coi nhẹ phép nước nhà.
Thì thần không đáng sống.
Không đáng hưởng ân tình”.
Và rồi ông tự vẫn
Ngay trước mặt vua Kinh.
Cổ Học Tinh Hoa
CHỌN VỢ
Ở nước Sở, người nọ
Một lúc trong nhà mình
Có hai vợ - cả, lẽ.
Còn trẻ và rất xinh.
Anh láng giềng của họ
Chợt buông lời lả
lơi,
Tán tỉnh cô vợ cả
Và bị mắng hết lời.
Quay sang tán vợ
lẽ.
Khác với cô vợ đầu,
Cô này đã đồng ý
Và đi lại với
nhau.
Không may, ông chồng
chết.
Anh láng giềng đa
tình
Mang lễ hỏi cô cả
Về làm vợ của
mình.
Có người nói: “Sao vậy?
Sao không lấy cô
hai,
Người cùng anh đi
lại
Một thời gian lâu
dài?”
“Là vì, anh kia
đáp.
Tôi muốn vợ của
mình
Đoan trang và
chung thủy,
Không phải gái
ngoại tình”.
Cổ Học Tinh Hoa
ỨNG ĐỐI GIỎI
Hay tin có Án Sử
Sắp sang thăm nước
mình -
Án Sử là thuyết
khách
Tài giỏi và công
minh -
Vua Sở bèn triệu tập
Vua Sở bèn triệu tập
Các cận thần của
ông:
“Ta muốn làm nhục
hắn.
Liệu có kế nào
không?”
Một đại thần liền đáp:
Một đại thần liền đáp:
“Khi chiêu đãi sứ
Tề,
Ta bắt một người
Sở
Đóng giả làm người
Tề.
Rồi bảo hắn ăn cắp,
Và rằng loại người này,
Và rằng loại người này,
Người nước Tề gian
trá
Có rất nhiều ở
đây”.
Kế này được thực
hiện.
Trong tiệc tiếp sứ
Tề,
Vua Sở chỉ “tên trộm”
Rồi lên tiếng cười
chê:
“Người nước ông tệ
quá,
Trộm cắp ở xứ
mình
Còn sang đây làm
bậy.
Thật xấu hổ, đáng
khinh”.
Án Sử chắp tay
nói:
“Ngài sai, ở nước
Tề
Người dân luôn tử
tế,
Không làm gì đáng
chê.
Chỉ khi qua nước
Sở
Mới nhiễm thói xấu
này.
Vì nhập gia tùy tục,
Vì thổ nhưỡng ở
đây.
Bẩm, cùng một
loài quất
Mà trồng ở Hoài
Nam
Thì quả luôn to đẹp
Và ngọt lịm như
cam.
Nhưng trồng ở
Hoài Bắc
Thì chua và vỏ
dày.
Là vì, tâu bệ hạ,
Do thổ nhưỡng nơi
này”.
Vua Sở nghe, xấu
hổ,
Bèn xin lỗi sứ Tề.
Đích thân nâng rượu quí
Tiễn Án Sử ra về.
Cổ Học Tinh Hoa
HÀN PHI TỬ
Ở nước Tống ngày nọ
Có một bác phú hào.
Một hôm trời mưa gió,
Làm đổ mất tường rào.
Người con trai bèn nói:
Bố phải dựng lại ngay.
Kẻo bọn xấu thấy dễ
Sẽ vào trộm đêm nay.
Ông hàng xóm đứng cạnh
Nghe thế, cũng nói thêm:
Con trai bác nói đúng.
Hãy cẩn thận ban đêm…
Đêm ấy bọn kẻ trộm
Lẻn vào nhà phú hào.
Chả là vì ông chủ
Chưa dựng lại tường rào.
Ông mất tiền, xót lắm,
Nhưng mừng con trai mình
Là người biết đoán trước,
Cẩn thận và thông minh.
Còn về người hàng xóm,
Ông tỏ ý hoài nghi,
Nghĩ ông này có thể
Cũng là phường gian phi.
*
Hàn Phi Tử biết chuyện,
Có lời bàn thế này:
Cùng một lời góp ý,
Người thì được khen hay.
Trong khi đó, người khác
Lại bị nghi gian tà.
Dễ hiểu, ông hàng xóm
Không bằng người trong nhà.
Ý anh có thể tốt,
Người nghe vẫn hoài nghi.
Vậy được hỏi thì nói,
Không thì nói làm gì.
Cổ Học Tinh Hoa
MẤT NGỰA
Một bác nông dân nọ
Có con ngựa cái non.
Thế mà nó chạy mất,
Khiến cả nhà rất buồn.
Hay tin, nhiều hàng xóm
Đến chia buồn với ông.
Ông nói: “Ừ, rủi thật.
Cũng có thể là không.”
Hôm sau, con ngựa cái
Tự nhiên chạy về nhà,
Kéo theo một con đực.
Ối chà chà, ối chà!
Hàng xóm lại kéo đến
Chia vui, uống say mèm.
Chủ nhà vẫn tỉnh táo:
“Ừ, còn để rồi xem.”
Được hai ngày, bất cẩn,
Thằng con cả của ông
Tập cưỡi con ngựa mới,
Ngã gãy chân, vẹo hông.
Hàng xóm đến an ủi:
Ôi tiếc sao, buồn sao.
Ông bố tư lự nói:
“Để còn xem thế nào.”
Bỗng xẩy ra chiến sự.
Lính vua đến đầy nhà
Để bắt lính, cậu cả
Chân què, nên được tha.
Hàng xóm lại kéo đến,
Lại mừng, uống suốt đêm.
Ông chủ nhà không uống,
Lẩm bẩm: “Để rồi xem.”
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trang Tử
NUÔI GÀ CHỌI
Vua Tuyên Vương
ngày nọ
Sai Kỷ Sảnh nuôi
gà.
Nuôi một con gà
trống
Làm gà chọi hoàng
gia.
Được mười ngày,
vua hỏi:
“Gà đã chọi được
chưa?”
Kỷ Sảnh cúi đầu
đáp:
“Tâu bệ hạ, còn
chưa.
Là vì nó hăng lắm.
Hễ thấy con gà
nào
Cũng lao ra muốn chọi
Dẫu đối thủ ra
sao”.
Thêm mười ngày,
vua hỏi:
“Nó đã chọi được
chưa?”
Kỷ Sảnh lại cúi
đáp:
“Tâu bệ hạ, còn
chưa.
Nó còn hăng hơn
trước.
Chưa kịp nhìn thấy
gà,
Đã đạp chân, mài
móng,
Dướn cổ, muốn
xông ra”.
Thêm hai mươi ngày nữa,
Thêm hai mươi ngày nữa,
Vua hỏi: “Chọi được
chưa?”
Kỷ Sảnh rất sung
sướng
Cúi thấp đầu, rồi
thưa:
“Tâu bệ hạ, rằng
đã.
Bây giờ con gà
này
Không còn hăng đấu
đá,
Mà đứng im suốt
ngày.
Móng vuốt nó đã sắc.
Sung mãn sức và
tài,
Và dường như
không muốn
Phải thi chọi với
ai”.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hàn Phi Tử
VIÊN NGỌC HỌ HÒA
Ngày xư ở nước Sở
Có một người dân thường
Tìm được viên ngọc quý,
Dâng lên vua Lê Vương.
Vua cho mời thợ ngọc.
Thợ ngọc xem, rồi tâu:
“Bẩm, đá, không phải ngọc.
Xấu và không có màu!”
Vua nghe xong, tức giận,
Cho gọi người họ Hòa,
Là người dâng viên ngọc,
Chặt một chân anh ta.
Khi vua Lê Vương chết,
Vua Vũ Vương lên thay.
Người họ Hòa lần nữa
Dâng vua viên ngọc này.
Và rồi, thêm lần nữa,
Thợ ngọc lại nói không.
Vua tức giận, ra lệnh
Chặt chân kia của ông.
Vua Văn Vương sau
đó
Được nối ngôi
thay cha.
Một mình bên chân
núi,
Người dân ấy, họ
Hòa
Ôm viên ngọc mà
khóc,
Đúng ba đêm ba
ngày.
Thấy lạ, quan tuần thú
Thấy lạ, quan tuần thú
Báo vua Văn Vương
hay.
Vua hỏi thì ông
nói:
“Khóc không vì thảo
dân
Đã bị hai vua trước
Chặt đứt cả hai
chân.
Mà vì viên ngọc
quý
Mà không ai nhận
ra.
Vì thảo dân nói
thật,
Thành nói dối xấu
xa.
Văn Vương nghe, lập
tức
Mời thợ ngọc vào
cung.
Mời nhiều người một
lúc.
Họ xem, và cuối
cùng
Nói rằng đó là ngọc.
Viên ngọc quí vô
song.
Vua xuống chiếu cấp
ruộng
Và vàng bạc cho
ông.
Từ đấy viên ngọc
quí
Thành báu vật
hoàng gia.
Được vua Văn
Vương gọi
Là “Viên Ngọc Họ
Hòa”.
Cổ Học Tinh Hoa
VẼ GÌ KHÓ HƠN?
Có một người thợ vẽ,
Nổi tiếng rất giỏi nghề,
Được mời vào cung cấm
Vẽ tranh cho vua Tề.
Đang vẽ, vua chợt hỏi:
Theo ngươi thì vẽ gì
Theo ngươi thì vẽ gì
Là khó và dễ nhất,
Vẽ chính xác, chi li?”
“Tâu bệ hạ, khó vẽ
Là vẽ chó, vẽ gà.
Những con vật quen thuộc
Ai cũng nuôi trong nhà.
Vẽ chúng mà không giống,
Mọi người sẽ biết ngay.
Nên thú thật, thợ vẽ
Ngại vẽ những con này.
Còn vẽ ma, vẽ quỉ
Thì dễ và rất nhanh.
Vì không ai biết chúng,
Nên không dám chê tranh”.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Hàn Phi Tử
ĐO CHÂN LÀM GIÀY
Nước Trịnh có người nọ
Muốn đóng một đôi giày.
Bèn đặt chân lên giấy,
Hý húi vẽ suốt ngày.
Xong, anh ta đi chợ,
Làm đôi giày bằng da.
Đến nơi thì sực nhớ
Quên tờ giấy ở nhà.
Anh chàng bảo người thợ:
“Ấy chết, quên, để tôi
Về nhà lấy tờ giấy.
Tôi đã vẽ sẵn rồi”.
Người thợ giày liền nói:
“Ơ, cái anh này kỳ.
Đóng giày, chân có sẵn.
Cần tờ giấy làm gì?”
Thế mà anh chàng nọ,
Cũng là người thông minh,
Chỉ tin vào tờ giấy
Mà không tin chân mình.
Cổ Học Tinh Hoa
KHÔNG MUỐN LÀM VUA
Ba đời vua nước
Việt
Bị giết luân
phiên nhau.
Người thứ tư, kế
vị,
Sợ, trốn vào rừng
sâu.
Bình lính đi tìm
mãi,
Cuối cùng cũng
tìm ra.
Anh chàng trốn rất
kỹ
Trong một hang núi xa.
Gọi năm lần bảy
lượt,
Vẫn không chịu rời
hang.
Cuối cùng phải
hun khói
Mới bắt được anh
chàng.
Người ta làm lễ
rước,
Đông đúc xe và
người.
Mà anh này, tội
nghiệp,
Ngửa mặt khóc,
kêu trời:
“Không ít kẻ mong
muốn
Được làm vua,
than ôi,
Còn tôi thì không muốn.
Sao không tha cho
tôi?”
*
Làm vua mà sung
sướng,
Ai cũng muốn làm
vua.
Làm vua mà bị giết,
Không ai muốn làm
vua.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Trang Tử
ĐÃ NÓI LÀ PHẢI
LÀM
Vợ Tăng Tử đi chợ.
Con khóc, đòi
theo bà.
Bà bảo nó: Không
được.
Con nghe mẹ, ở
nhà.
Lúc về, mẹ thịt lợn
Cho con ăn, được
không?”
Thằng bé không
khóc nữa,
Ở nhà chơi với
ông.
Lúc về, bà kinh
ngạc
Thấy Tăng Tử ở
nhà
Đã làm sẵn con lợn
Như hứa với con
bà.
“Trời, tôi chỉ dỗ
nó.
Lời dối trẻ tầm phào”.
Tăng Tử đáp:
“Không được.
Trẻ con thì đã
sao?
Đã nói với người
khác
Thì nhất định phải
làm.
Với con trẻ, đã
nói
Thì lại càng phải
làm!”
Cổ
Học Tinh Hoa
HÀN
KỲ
Hàn
Kỳ là tể tướng
Triều
Bắc Tống, Trung Hoa.
Ông
nổi tiếng nhân đức
Và
tính tình hiền hòa.
Lần
nọ, khi chinh phạt,
Đóng
quân ở Định Châu,
Đêm,
viết thư, trời tối,
Ông
sai một lính hầu
Cầm
nến đứng bên cạnh.
Buồn
ngủ, cậu lính này
Nến nghiêng, cháy tóc chủ
Mà cậu không hề hay.
Thong
thả vén tay áo
Dập
lửa ngọn lửa, Hàn Kỳ
Lại
tiếp tục ngồi viết,
Coi
như không có gì.
Lát
sau ông ngoái lại,
Thì
thấy người lính kia
Được
thay bằng người khác,
Mồ
hôi vã đầm đìa.
Ông
sợ viên chủ quản
Sẽ
trừng phạt anh ta,
Bèn
nói: “Không cần đổi.
Anh
lính ấy được mà.
Chẳng qua chỉ sơ ý.
Sém
tí tóc, không sao.
Giờ
chắc sẽ cẩn thận.
Cho
gọi anh ta vào”.
*
Hàn
Kỳ được vua tặng
Đôi
chén ngọc tuyệt vời.
Ông
quí lắm, đôi lúc
Đem
khoe với mọi người.
Lần
nọ, có khách quí,
Ông
sai người mang ra
Để
uống rượu mừng bạn.
Bất
chợt lão quản gia
Sơ
ý trượt chân ngã,
Làm
đổ cả chiếc bàn.
Đôi
chén ngọc vô giá
Rơi
xuống đất, vỡ tan.
Mọi
người đều kinh hãi.
Lão
quản gia cúi đầu
Chờ
ông chủ trừng phạt.
Không
ai nói một câu.
Hàn
Kỳ bảo khách quí:
“Mọi
cái ở trên đời
Đều
có sống, có chết.
Cả
vật và con người”.
Cũng
nhẹ nhàng như thế,
Ông
nói với quản gia:
“Không
sao, hãy vào lấy
Đôi
chén khác cho ta”.
Cổ
Học Tinh Hoa - Sách Lã Thị Xuân Thu
KỲ
HOÀNG DƯƠNG
Là
đại phu nước Tấn
Thời
Chiến Quốc Xuân Thu,
Kỳ
Hoàng Dương nổi tiếng
Chính
trực, không tư thù.
Lần
nọ, khi đi dạo,
Vua
Tấn là Bình Công
Đã
đem chuyện chính sự
Dò
hỏi ý kiến ông.
“Huyện
Nam Dương đang thiếu
Chức
huyện lệnh lâu nay.
Theo
ông, ai xứng đáng
Được
đảm nhiệm chức này?”
“Giải
Hồ, tâu bệ hạ.
Theo
thần nghĩ, không ai
Xứng
đáng hơn ông ấy,
Xét
về lâu, về dài”.
“Trẫm
nghe nói ông ấy
Và
khanh có bất hòa.
Sao
khanh lại khen ngợi
Và
tiến cử ông ta?”
“Bẩm,
bệ hạ đề nghị
Tiến
cử người giúp dân,
Chứ
không phải muốn biết
Ai
bất hòa với thần”.
Về
làm quan huyện lệnh
Ở
Nam Dương, Giải Hồ
Xứng
đáng với chức vị
Được
vua Tấn ban cho.
*
Một
thời gian sau đó
Vua
Tấn lại hỏi ông:
“Chức
quân úy còn khuyết.
Ông
biết ai hợp không?”
“Bẩm,
Kỳ Ngọ thích hợp
Hơn
bất kỳ người nào”.
“Nhưng
Kỳ Ngọ không phải
Là
con ông đó sao?”
Kỳ
Hoàng Dương lại đáp:
“Bẩm,
bệ hạ hỏi thần
Về
chức quan quân úy,
Chứ
không hỏi người thân”.
Kỳ
Ngọ được vua Tấn
Ban
cho chức quan này.
Sau
thành vị quan tốt,
Nổi
tiếng một người ngay.
*
Khổng
Tử khi biết chuyện
Liền
nói với Tử Tư:
“Kỳ
Hoàng Dương là bậc
Thật
chí công vô tư.
Ai
có tài, bất kể
Kẻ
thù hay người nhà,
Đều
được ông tiến cứ
Vì
đại sự quốc gia.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách
Liệt Tử
CHIẾC BÚA
Người đời vẫn hay nhắc
Một câu chuyện thế
này.
Chuyện một người mất búa,
Cứ hậm hực suốt ngày.
Ông nghi con hàng xóm
Lấy cắp búa của ông.
Cái sự nghi hoặc ấy
Cứ âm ỉ trong lòng.
Từ nét mặt của nó,
Đến cử chỉ, dáng đi,
Rõ ràng có gì đấy
Quả thật rất đáng nghi.
Nó, chắc chắn chỉ nó.
Nó được sinh ở đời
Chỉ để lấy cắp búa
Và để làm hại người.
Mấy hôm sau, bất chợt
Trong xó bếp vô tình
Ông kêu lên mừng rỡ,
Thấy chiếc búa của mình.
Tay cầm chiếc búa ấy,
Ông vui vẻ đi ra.
Ngước lên, thấy đứa bé
Con hàng xóm trước nhà.
Thật lạ, ông nhìn nó
Thấy nó cũng bình thưởng.
Không có vẻ ăn cắp,
Thậm chí còn dễ thương.
Cổ Học Tinh Hoa
QUAN VÀ HỔ
QUAN VÀ HỔ
Lần nọ, thầy Khổng Tử
Vượt núi cùng học trò.
Thấy có người phụ nữ
Vật vã khóc bên mồ.
Bà khóc rất bi thảm,
Nước mắt chảy hai hàng.
Ngài nói: “Khóc như thế,
Chắc gặp cảnh trùng tang”.
Rồi ngài sai Tử Cống
Đến hỏi xem thế nào.
Người đàn bà càng khóc,
Và nói: “Thảm thương sao.
Mới năm kia hổ giết
Bố chồng rồi chồng tôi.
Giờ thì nó lại giết
Đứa con trai, than ôi…”
Tử Cống hỏi: “Đã vậy
Sao không bỏ nơi này?”
“Là vì dẫu có hổ,
Nhưng phép quan ở đây
Không quá đỗi hà khắc.
Sưu dịch cũng không cao.
Gia đình tôi vì vậy,
Không muốn đi nơi nào”.
Nghe Tử Cống thưa lại,
Khổng Tử bảo: “Hôm nay
Các trò hãy ghi nhớ
Lời người đàn bà này.
Rằng chính sách hà khắc,
Quan tham và lộng hành,
Với dân, còn đáng sợ
Hơn cả hổ rừng xanh”.
Cổ Học Tinh Hoa
KHUẤT NGUYÊN
Khuất Nguyên, nhà thơ lớn,
Từng làm quan Đại Phu
Cho Hoài Vương nước Sở.
Sau có kẻ tư thù,
Dèm pha vua, thất sủng,
Ông bỏ đi lang thang.
Nhếch nhác và tiều tụy,
Hết phố rồi lại làng.
Một hôm có ngư phủ
Đang đánh cá dưới sông,
Lên tiếng hỏi: “Có phải
Tam Lư Đại Phu không?
Sao đến nông nổi ấy?
Ngài làm gì, đi đâu?”
Khuất Nguyên nghe, ngừng hát,
Đáp lại, ngẩng cao đầu:
“Chỉ một mình ta tỉnh.
Cả đời này đang say.
Chỉ mình ta trong sạch,
Nhơ bẩn cả đời này”.
Lão ngư phủ lại nói:
“Ừ thì mình ngài trong
Và cả đời đang đục.
Đục cũng được, sao không?
Chỉ một mình ngài tỉnh,
Còn mọi người thì say.
Sao ngài không say nốt,
Để khỏi khổ thế này?”
Khuất Nguyên đáp: “Không được,
Tự nhiên mình đang trong,
Sao lại phải vấy đục?
Ta thà nhảy xuống sông
Để làm mồi cho cá.
Còn hơn sống đời này
Chỉ một mình ta tỉnh
Khi tất cả đang say…”
Và rồi, sau khi viết
Bài phú buồn Hoài Sa,
Ông ôm một tảng đá,
Nhảy xuống dòng Mịch La.
Cổ Học Tinh Hoa -
Sách Lã Thị Xuân Thu
THUẬT XEM TƯỚNG
Nước Kinh có người nọ
Nổi tiếng xem tướng người.
Xem cho ai cũng đúng.
Mười câu đúng cả mười.
Vua Trang Vương nghe tiếng,
Cho gọi ngay tức thì:
“Ngươi xem tướng giỏi thế,
Vậy đang dùng
thuật gì?”
Người kia liền sụp lạy:
“Tâu bệ hạ, thực ra,
Không có thuật nào cả.
Rất đơn giản, đó là
Khi xem tướng ai đó,
Thần phải làm lo làm sao
Biết được những người ấy
Chơi với loại người nào.
Họ chơi với người tốt,
Người có đức, hiền tài,
Thì thần phán họ tốt.
Chưa bao giờ phán sai.
Còn ngược lại, nếu họ
Chơi với bọn tiểu nhân,
Thần toàn phán điềm gở.
Cũng chưa sai một lần”.
*
Vua Trang Vương trọng thưởng
Người xem tướng nước Kinh.
Sai tìm người hiền sĩ
Lôi kéo về nước mình.
Nhờ thế mà nước Sở,
Biết trọng dụng người tài,
Trở thành nước mạnh nhất
Thời Chiến Quốc kéo dài.
Cổ Học Tinh Hoa
PHÁP LUẬT VÀ TÌNH
Quí Cao ở nước Vệ
Là quan tòa, một lần
Ông xử một người nọ
Bằng bản án chặt chân.
Về sau, nước Vệ loạn,
Ông phải trốn đi nhanh.
Không ngờ gặp người ấy
Đang trông giữ cổng thành.
Người bị chặt chân nói:
“Có lỗ hổng phía này.
Ông hãy chui qua đó
Mà trốn khỏi nơi đây”.
Quí Cao đáp: “Quân tử
Không chui qua bờ tường”.
“Thế thì hãy trú tạm,
Ngôi nhà kia, bên đường”.
Quí Cao trốn ở đó,
Nên thoát chết, về sau
Tìm gặp lại người ấy
Rồi hỏi ông do đâu
Lại quyết định cứu giúp
Người đã chặt chân mình.
Ông kia đáp: “Luật pháp
Phải xét xử công minh.
Tội của tôi xứng đáng
Để ông chặt một chân,
Thì ông đã chặt nó.
Sao tôi phải lăn tăn?”
*
Nghe chuyện này, Khổng Tử
Nói với các môn sinh:
“Đây là bài học tốt
Về pháp luật và tình”.
Cổ Học Tinh Hoa - Sách Chu Thư
PHỤC THÙ
Hai nước Ngô và Việt
Hiềm khích, đánh nhau to.
Cuối cùng, quân nước Việt
Giết Hạp Lư, vua Ngô.
Con Hạp Lư kế vị,
Có tên là Phù Sai,
Thề quyết tâm nuôi chí
Sẽ phục thù nay mai.
Ông cho người cầm giáo
Suốt ngày đứng giữa sân,
Nhìn thấy ông, lập tức
Phải hô to hai lần:
“Phù Sai kia, còn nhớ
Quân Việt giết cha ngươi?”
Ông đáp lại: “Nhất quyết
Sẽ trả thù cho người!”
Sau ba năm chuẩn bị,
Kiên nhẫn vờ giảng hòa,
Ông đánh thắng nước Việt
Báo được thù cho cha.
*
Câu Tiễn, vua nước Việt,
Sang cầu hòa với Ngô.
Làm con tin ở đấy,
Đốn củi, hót phân bò.
Khi được tha về nước,
Ông nuôi chí phục thù,
Nằm giường gai, nếm mật,
Cày ruộng như nông phu.
Hai mươi năm gây dựng,
Chiêu mộ bậc hiền tài,
Cuối cùng vua Câu Tiễn
Diệt vua Ngô, Phù Sai.
Cổ Học Tinh Hoa
NẰM GAI NẾM MẬT
Đời Xuân Thu Chiến Quốc,
Ngô và Việt giao tranh.
Việt thua, vua Câu Tiễn
Phải tự trói, hạ mình
Xin làm thân trâu ngựa
Cho vua Ngô, Phù Sai.
Đó là khổ nhục kế,
Với hy vọng nay mai
Được trở về nước Việt
Nuôi chí lớn phục thù.
Giờ thì tạm nhẫn nhục
Cam chịu cảnh cầm tù.
Hai vợ chồng Câu Tiễn,
Có Phạm Lãi theo hầu,
Đêm nằm trong ngục đá,
Ngày hót phân, chăn trâu.
Gánh nước, quét chuồng ngựa,
Làm những việc nhọc nhằn.
Thường xuyên bị đánh đập,
Đau ốm và đói ăn…
Suốt ba năm đằng đẵng
Chờ cơ và đợi thời.
Bỗng vua Ngô ốm nặng,
Những tưởng sắp qua đời.
Lần nữa khổ nhục kế,
Phạm Lãi khuyên Việt Vương
Nếm phân của người bệnh,
Nếm phân của người bệnh,
Để tỏ tình yêu thương.
Vua Phù Sai cảm động,
Tưởng Câu Tiễn thực lòng,
Bèn tha cho về nước,
Cả vợ và cả chồng.
Vừa trở về cố quốc
Ngay lập tức Việt Vương
Lo xây dựng quân đội
Và phát triển công thương.
Vua giao cho Phạm Lãi
Toàn quyền lo việc binh.
Giao Văn Chủng quản lý
Việc triều chính thay mình.
Sợ vì nếu sung sướng,
Sẽ quên dần mối thù,
Vua Câu Tiễn sinh hoạt
Hệt như một nông phu.
Ông tự tay cày ruộng,
Cuốc đất và chăn bò.
Trong lòng luôn nung nấu
Ý nghĩ trả thù Ngô.
Ông không chịu nằm đệm,
Mà ngủ trên giường gai.
Không bao giờ ngon giấc.
Miệng luôn nhắc: Phù Sai.
Trong áo có túi mật,
Loại mật gấu lâu ngày,
Thỉnh thoảng nhấp một tí,
Vừa đắng lại vừa cay.
Giường gai và túi mật
Nhắc ông không được quên
Việc trả thù Ngô Quốc,
Cho mình và tổ tiên.
Theo kế của Văn Chủng,
Dẫu mới được ba phần,
Nước Việt đã hưng thịnh
Và nước Ngô suy tàn.
Giờ điểm, quân Phạm Lãi
Tấn công đài Cô Tô,
Rồi nhanh chóng sau đó
Thôn tính cả nước Ngô.
*
Nhờ “nằm gai, nếm mật”,
Một kế sách lâu dài,
Kiên nhẫn và chịu khổ,
Câu Tiễn thắng Phù Sai.
Nó trở thành ngạn ngữ
Không chỉ với người Hoa,
Mà cả với người Việt,
Trong ngôn ngữ nước nhà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét