Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 9

 

 

Bát Nhã ngát hương sen.

Mong sớm được gặp cụ

Cùng nhau bàn lẽ huyền.

 

 

LÝ THƯỜNG KIỆT

(1019 - 1105)

 

Trong lịch sử dân tộc,

Đời nhà Lý, chín triều,

Đã làm được nhiều việc.

Vâng quả thật rất nhiều.

 

Bình Chiêm, mở lãnh thổ.

Đánh giặc Tống thành công.

Đạo Phật phát triển mạnh.

Dời đô về Thăng Long.

 

Đổi tên nước Đại Việt

Năm Một Không Năm Tư.

Vua đứng đầu nhà nước,

Công tâm và nhân từ.

 

Một chiếc chuông rất lớn

Đặt trước điện Long Trì.

Dân oan cứ đến gõ,

Kêu bất cứ việc gì.

 

Nước có hăm tư tỉnh.

Quan - tri phủ, tri châu.

Chủ yếu người hoàng tộc

Hoặc con cái nhà giàu.

 

Nhà Lý ban bộ luật

Năm Một Không Bốn Ba,

Dạng như luật Hình Sự,

Đầu tiên ở nước ta.

 

Quân đội gồm hai loại -

Cấm quân và địa phương.

Có cả bộ cả thủy,

Rất chặt chẽ, kỷ cương.

 

Vũ khí gồm giáo mác,

Đao kiếm và cung tên.

Có cả máy bắn đá,

Có xưởng đóng chiến thuyền.

 

Về ngoại giao, nhà Lý

Hòa hoãn với Bắc Phương.

Với Chiêm Thành, Đại Việt

Giữ quan hệ bình thường.

 

*

Giữa thế kỷ mười một,

Nhà Tống gặp khó khăn.

Nội tình đầy mâu thuẫn,

Ngân khố luôn nợ nần.

 

Chúng muốn đánh Đại Việt

Để giải quyết việc nhà,

Nhưng phải chịu thất bại

Trước quân và dân ta.

 

Bây giờ ta sẽ nói

Về vị tướng thiên tài

Đã đánh bại quân Tống.

Vị tướng ấy là ai?

 

Đó là Lý Thường Kiệt,

Một con người tài ba,

Một anh hùng dân tộc

Trong lịch sử nước ta.

 

Ông là tướng nhà Lý,

Đồng thời một hoạn quan,

Có công đánh quân Tống,

Giữ đất nước bình an.         

 

Tên thật là Ngô Tuấn,

Hậu duệ Ngô Quyền xưa,

Ông quê huyện Quảng Đức,

Thuộc Gia Lâm bây giờ.     

 

Bố ông làm Thái úy

Đời vua Lý Thái Tông,

Được vua ban quốc tính,

Do đức và do công.   

 

Năm Một Không Bốn Mốt,

Nhờ khôi ngô, thông minh,

Ông được làm thái giám,

Vua cho theo bên mình.

 

Sau ông được thăng chức

Nội thị Sảnh đô tri

Lúc mới ba lăm tuổi,

Vinh hiển và quyền uy.

 

Rồi sau, tiến hơn nữa,

Dưới triều Lý Thánh Tông,

Làm Kiểm hiệu Thái bảo,   

Chức quan hàng tam công.

 

Năm Một Không Sáu Một,

Ở Thanh Hóa, Nghệ An

Các tộc Mường quấy rối,

Vua sai ông trấn an.

 

Nhờ ông biết thuyết giảng,

Có lý lại có tình,

Cả năm châu, sáu huyện

Đã quy phục triều đình.

 

Năm Một Không Sáu Chín,

Ông đi đánh Chiêm Thành,

Bắt được vua Chế Củ,

Mở rộng đất nước mình.

 

Khi Càn Đức, bảy tuổi,

Lên ngôi báu, triều đình

Lục đục các phe cánh,

Đất nước chẳng an bình.

 

Lý Thường Kiệt ủng hộ

Phe Ỷ Lan phu nhân,

Nhờ thế mà mọi chuyện

May cũng ổn định dần.

 

*

Tể tướng Tống, An Thạch,

Năm Một Không Bảy Năm,

Xui vua đánh Đại Việt,

Một quyết định sai lầm.

 

Thấy trước âm mưu giặc,   

Không đợi bị tấn công,

Lý Thường Kiệt chủ động

Cả đường bộ, đường sông

 

Tiến quân vào đất giặc,

Cùng Tôn Đản tướng quân,

Vượt qua các thành ải,

Chiếm châu Liêm, châu Khâm.

 

Năm Một Không Bảy Sáu,

Hai cánh quân gặp nhau,

Cùng bắt đầu vây hãm,

Quyết hạ thành Ung Châu.

 

Đó là một thành lớn,

Ngày nay là Nam Ninh,

Tướng Tô Giám cố thủ

Cùng ba vạn tinh binh.

 

Tướng giặc Trương Thủ Tiết

Đem quân đến giải vây,

Bị ông chém tại trận.

Sử Tàu chép trận này.

 

Cuối cùng Lý Thường Kiệt

Phải dùng kế hỏa công,

Bắn các chất dễ cháy

Như bùi nhùi, nhựa thông.

 

Ông còn bắt dân Tống

Chồng bao cát thật cao

Để quân lính Đại Việt

Vượt tường thành xông vào.

 

Thành Ung Châu thất thủ

Vào ngày thứ bốn hai.

Tướng Tô Giám tự tử,

Lửa ngùn ngụt trong, ngoài.

 

Sáu vạn người bị giết.

Cả Khâm Châu, Liêm Châu,

Con số là mười vạn.

Một thất bại thật đau.

 

Làm cỏ ba châu ấy,

Nhiều cảnh cũng đau lòng,

Lý Thường Kiệt ra lệnh

Quay trở về Thăng Long.

 

Ông bắt nhiều dân Tống

Cùng đi theo với mình

Rồi cho vào khai khẩn

Vùng Nghệ Tĩnh, Quảng Bình.    

 

*

Tháng Ba năm Bảy Sáu,

Quân Tống lại đánh ta,

Xui Chiêm Thành, Chân Lạp

Từ phía Nam đánh ra.

 

Nhưng rồi hai nước ấy

Sợ, không dám xuất quân.

Quân Tống gồm mười vạn,

Hai mươi vạn phu dân.

 

Hay tin, Lý Thường Kiệt

Liền cấp tốc đề phòng,

Lập các chốt phòng ngự,

Cả đường bộ, đường sông.

 

Ông cho xây chiến lũy

Bên cửa ải Chi Lăng

Ngăn quân Tống tràn xuống

Từ phía Bắc Cao Bằng.

 

Tuyến phòng thủ đường thủy

Ông lập ở sông Cầu,

Xưa là sông Như Nguyệt,

Chỗ sông hẹp, nước sâu.

 

Nhờ hai phòng tuyến ấy,

Giặc Tống bị kìm chân,

Quân mười phần chết bảy,

Ý chí cũng nguội dần.

 

Biết giặc đang thế bí,

Ông sai sứ “nghị hòa”.

Quân Tống liền đồng ý.

Thoát được nạn can qua.   

 

*

Năm Một Một Không Bốn

Và Một Không Bảy Năm,

Hai lần Lý Thường Kiệt

Phải đem quân bình Nam.

 

Cả hai lần đều thắng,

Chưa nói đến lần đầu

Khi bắt được Chế Củ,

Đổi vua lấy ba châu.

 

Ông được phong Thái úy,

Bậc khai quốc công thần,

Một anh hùng dân tộc,

Sống mãi cùng nhân dân.

 

Tháng Sáu năm Ất Dậu,

Tức Một Một Không Năm,

Ở tuổi tám mươi bảy,

Lý Thường Kiệt từ trần.

 

Ông là vị thái giám

Đầu tiên ở nước ta

Có công với dân tộc,

Giúp bảo vệ sơn hà.  

 

*

Theo truyền thuyết kể lại,

Trước ba quân, bấy giờ,

Ở phòng tuyến Như Nguyệt,

Ông đã đọc bài thơ.

 

Bài thơ như lời hịch,

Như một bản tuyên ngôn

Về độc lập dân tộc,

Sống mãi cùng nước non.

     

Bài thơ tứ tuyệt ấy

Vang vọng mãi lòng người.

Bốn câu thơ ngắn gọn

Xuyên suốt đã bao đời.

 

Nước Nam người Nam ở.

Trời định thế từ lâu.

Đừng tìm cách xâm phạm,

Kẻo lại bị đánh đau.

 

Không gì đúng hơn thế.

Cũng không gì hay hơn.

Đó là lời cảnh cáo

Nhằm bảo vệ giang sơn.

 

Đến nay vẫn chưa biết

Ai viết bài thơ này.

Điều ấy không quan trọng.

Quan trọng là nó hay.

 

Nó nói đúng khí phách

Của con cháu Lạc Rồng,

Bản Tuyên ngôn Độc lập,

Lời thề với non song.

 

Thái úy Lý Thường Kiệt

Đã đọc vang bài thơ

Trong đền thờ Trương Hống,

Huyện Yên Phong bây giờ.

 

Tuyến phòng thủ Như Nguyệt

Đứng sừng sững bên sông.

Binh sĩ nghe tướng đọc

Mà thấy náo nức lòng.

 

Rồi vạn người như một

Tiến lên theo tiếng thơ.       

Khiến quân Tống bỏ chạy,

Ô nhục tận bây giờ.

 

Nhà thơ không xung trận

Trong trận ấy bên sông,

Nhưng với bài tứ tuyệt

Đã góp phần lập công.

 

 

HOẠN QUAN LÝ THƯỜNG KIỆT

 

Theo sử, Lý Thường Kiệt

Vốn là một hoạn quan.

Một từ không đẹp lắm,

Khiến thiên hạ luận bàn.     

 

Nhiều nhà nho khinh bỉ

Khi nhắc đến tên ông,

Thậm chí có đánh giá

Sai lệch và bất công. 

 

Với ta, Lý Thường Kiệt

Là khai quốc công thần,

Người anh hùng dân tộc,

Sống vì nước, vì dân,

 

Cho nên không quan trọng

Ông là người thế nào.

Dẫu vậy, thử tìm hiểu

Vấn đề này xem sao.

 

*

Xưa nay trong lịch sử

Từng có nhiều hoạn quan

Làm khuynh đảo chính sự,

Tàn bạo và mưu gian.

 

Xưa nhất phải kể đến

Tên hoạn quan Triệu Cao,

Từng giữ chức tể tướng

Thời nhà Tần năm nào.

 

Khi Tần Thủy Hoàng chết,

Hắn giả di chiếu vua,

Lập con thứ Nhị Thế

Thay con trưởng Phù Tô.

 

Hai anh em tranh chấp,

Nên cơ đồ nước Tần

Lọt vào tay nhà Hán,

Làm ly tán lòng dân. 

 

Về phần mình, nhà Hán

Có họa mười hoạn quan

Thao túng cả triều chính,

Nên vận nhà Hán tàn,

 

Để gian thần Đổng Trác

Nắm hết mọi quyền hành,

Mở đường cho Tam Quốc

Dùng dằng thế phân tranh.

 

Trường hợp Lý Thường Kiệt

Của Đại Việt chúng ta,

Dẫu hoạn quan, tuy vậy,

Là hiền tài, khác xa.

 

Vì sao Lý Thường Kiệt

Lại trở thành hoạn quan?

Có khá nhiều giả thuyết

Được đưa ra luận bàn.

 

Một - sinh ra đã thế. 

Điều này rất khó tin,

Vì ông, như ta biết,

Từng có một mối tình

 

Với nàng Dương Hồng Hạc,

Sau là vợ Thái Tông.

Khi biết ông bị hoạn,

Nàng dứt tình với ông.

 

Hai - hay Lý Thường Kiệt

Tự hoạn để lấy tiền?

Lý Thái Tông, nghe nói,

Thấy mặt ông xinh, hiền,

 

Nên hứa nếu tự hoạn

Để trở thành hoạn quan

Theo hầu vua sớm tối,

Vua thưởng ba vạn quan.

 

Điều này khó có thật.

Là con một công hầu,         

Tuy bố mẹ mất sớm,

Nhưng nhà ông khá giàu.

 

Nên không thể có chuyện

Ông bán mình vì tiền.

Với một nhân cách lớn,       

Việc ấy là đê hèn.

 

Lại có người còn nói

Tự hoạn để tiến thân,

Hoặc do vua trừng phạt

Vì tội dám khi quân.

 

Còn một số thuyết nữa,

Nhưng tất cả xem ra

Không hoàn toàn thuyết phục,

Trừ một thuyết, đó là

 

Khi vua tuyển thái giám,

Người ta đánh thuốc mê,

Hoạn ông ngoài ý muốn,

Một nỗi đau ê chề.

 

Chắc kẻ làm việc ấy

Có liên quan ít nhiều

Đến nàng Dương Hồng Hạc,

Một người ông từng yêu.

 

Không ngẫu nhiên sau đó,

Đúng vào lúc gian nguy,

Lý Thường Kiệt ủng hộ

Phe Ỷ Lan Nguyên phi.

 

Giả thuyết là giả thuyết,

Còn chưa rõ thế nào.

Dẫu ông là quan hoạn,

Việc ấy cũng chẳng sao.

 

Nó không thể che lấp

Tài đức và công danh.

Ông, vị tướng lỗi lạc

Phá Tống, bình Chiêm Thành.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét