LÊ ĐẠI HÀNH
(941 - 1005)
Năm Chín Trăm Bảy Chín,
Có sự kiện đau lòng -
Đinh Tiên Hoàng bị giết.
Cả Đinh Liễn, con ông.
Một tướng giỏi lúc ấy
Là Lê Hoàn, lên ngôi.
Lập nên triều đại mới,
Tồn tại được nhiều đời.
Dẫu sao cũng ghi nhận,
Lê Hoàn, Lê Đại Hành
Là ông vua kiệt xuất
Được sử sách lưu danh.
Thông minh và dũng cảm,
Ông chấn hưng nước nhà,
Bình Chiêm và phá Tống,
Nâng vị thế quốc gia,
Là vị tướng kiệt xuất,
Công tâm khi dùng người,
Khôn ngoan trong giao tế,
Để tiếng tốt cho đời.
Theo sử sách ghi lại,
Ông xuất thân nghèo hèn.
Cha ông là Lê Mịch,
Mẹ là Đặng Thị Sen.
Trường Châu là bản quán,
Nay thuộc tỉnh Ninh Bình.
Cũng có người nói khác
Về quê gốc, nơi sinh.
Cha mẹ qua đời sớm,
Được chú nuôi, và ông
Lớn lên, theo Đinh Liễn,
Lập được nhiều chiến công.
Ông giúp Đinh Bộ Lĩnh
Dẹp loạn sứ, yên dân,
Được phong Đại Nguyên Soái,
Chức Thập Đạo Tướng Quân.
Lúc ấy ông còn trẻ,
Mới hăm bảy tuổi đời,
Nhưng có tài thao lược,
Biết thu dụng lòng người.
Đinh Tiên Hoàng bị giết,
Triều đình đang bất an,
Ông trở thành nhiếp chính
Cho ấu chúa Đinh Toàn.
Các đại thần nổi loạn,
Phía Nam họa Chiêm Thành,
Phía Bắc có giặc Tống,
Để mất nước sao đành?
Nên tướng Phạm Cự Lạng,
Thái hậu Dương Vân Nga
Tôn ông lên ngôi báu
Để cứu nguy nước nhà.
Ông lên ngôi Hoàng Đế,
Xưng là Lê Đại Hành,
Đặt niên hiệu Thiên Phúc,
Hoa Lư là kinh thành.
Ông khuyến khích nông nghiệp,
Là vị vua đầu tiên
Hàng năm cho mở lễ
Gọi là lễ Tịch Điền.
Ông cho dân đào đắp
Rất nhiều kênh và sông
Để lấy nước tưới ruộng
Và tiện bề lưu thông.
*
Đầu năm Tám Chín Một
Quân Tống đánh Đại Cồ,
Chia hai đường thủy bộ,
Thanh thế đang rất to.
Đường bộ qua xứ Lạng,
Đường thủy theo Bạch Đằng,
Nơi quân ta đóng cọc
Thành thế trận đang giăng.
Ở bến sông Tây Kết,
Chúng thất bại ê chề,
Nhiều dũng tướng bị giết,
Quân bộ đành rút về.
Công đầu của đại thắng
Thuộc về Lê Đại Hành,
Một nhà quân sự lớn,
Còn lưu mãi sử xanh.
Vua đích thân ra trận,
Nhờ thao lược của ông
Mà xác quân Tống chết
Ngập núi và đầy sông.
*
Chỉ một năm sau đó
Vua cử Ngô Tử Canh
Và Từ Mục đi sứ
Sang đất nước Chiêm Thành.
Họ bị Chiêm giữ lại.
Vua tức giận, ngày đêm
Sai chuẩn bị thuyền chiến,
Tự mình đi bình Chiêm.
Trong một thời gian ngắn
Lê Đại Hành thắng to,
Chém vua Chiêm tại trận,
Thành quách đốt thành tro.
Tù binh nhiều vô kể,
Có cả sư, nữ tỳ,
Vàng bạc thu ức vạn,
Không thiếu một thứ gì.
Hăm sáu năm trị quốc,
Vua sáu lần dấy binh
Đánh quân Chiêm quấy phá,
Giữ biên giới yên bình.
*
Vua Lê Đại Hành chết,
Để lại một giang sơn
Hùng cường và thống nhất,
Nhưng thật tiếc, các con
Lại tranh nhau ngôi báu,
Lại huynh đệ tương tàn,
Khiến bỏ bê chính trị
Và dân chúng lầm than.
Rồi đời Lê chấm dứt
Bằng ông vua xấu xa
Là Ngọa Triều Long Đĩnh,
Gian ác và dâm tà.
THÁI HẬU DƯƠNG VÂN NGA
(952 - 1000)
Ngày xưa có cô bé
Mắc cái tật lạ kỳ,
Là đêm thường hay khóc,
Không hiểu lý do gì.
Một hôm có đạo sĩ
Đi ngang qua tình cờ,
Thấy thế liền dừng lại
Rồi đọc mấy câu thơ:
“Nào nín đi, cháu bé.
Việc gì phải khóc hoài.
Mai kia còn gánh vác
Đôi sơn hà trên vai.”
Đứa bé nghe, im bặt.
Từ ngày ấy, lạ ghê,
Ngủ yên không cần dỗ,
Và cũng thôi khóc nhè.
Sau này bé gái ấy
Rất nổi tiếng, vì bà
Là vợ hai vua lớn -
Thái Hậu Dương Vân Nga.
Bà sinh ở vùng đất
Nay thuộc tỉnh Ninh Bình,
Bố là Dương Thế Hiển,
Thuộc dòng dõi hiển vinh.
Dương là họ của bố.
Còn Vân Nga là gì?
Tên hai làng ghép lại:
Vân Long và Nga My.
Bà nổi tiếng xinh đẹp,
Loại tài sắc vẹn toàn,
Đến mức nhiều giai thoại
Loan truyền trong dân gian.
Bà là hoàng thái hậu
Hai triều vua khác nhau,
Vợ của Đinh Bộ Lĩnh
Và Lê Hoàn về sau.
Đinh Toàn, vị vua cuối
Của triều đại nhà Đinh,
Là con trai thái hậu
Với Tiên Hoàng, chồng mình.
Còn khi bà là vợ
Của vua Lê Đại Hành,
Bà sinh cô công chúa
Là Lê Thị Phất Ngân.
Sau nàng thành hoàng hậu
Vị vua Lý đầu tiên,
Tức vua Lý Thái Tổ,
Nổi tiếng một vua hiền.
Hơn thế, nàng là mẹ
Của vua Lý Thánh Tông,
Một ông vua nhân đức
Từng lập nhiều chiến công.
Ông lập nước Đại Việt,
Lấy ba châu Chiêm Thành,
Phá Tống, xây Văn Miếu
Chấn hưng việc học hành.
Khi Đinh Tiên Hoàng chết,
Thái hậu Dương Vân Nga
Biết đặt lợi ích Nước
Cao hơn lợi ích Nhà.
Vua Đinh Toàn còn nhỏ,
Mà thù trong giặc ngoài.
Bà gạt qua nghi kỵ,
Bắt con mình nhường ngai,
Để một vị tướng giỏi,
Mà sau là chồng bà,
Bình Chiêm và phá Tống,
Chấn hưng lại nước nhà.
Làm xong sứ mệnh lớn,
Cuối đời bà tu hành
Ở chùa Am Tiên Động
Phía đông Hoa Lư thành.
Nghe người ta kể lại,
Bà và Lê Đại Hành
Ngày trẻ có duyên thắm,
Tiếc trời không cho thành.
Nên đôi uyên ương ấy
Phải chờ mãi về sau,
Khi công thành danh toại,
Mới lần nữa gặp nhau.
Âu cũng là trời định,
Nhưng cuối cùng hai người
Đã đi vào lịch sử
Như tấm gương cho đời.
Ở Ninh Bình thành phố
Hiện có hai con đường
Chạy song song thật đẹp,
Mang tên đôi uyên ương.
THIỀN SƯ VẠN HẠNH
(935 - 1025)
Ngài là Thiền Sư lớn,
Đức độ và thông minh.
Tục danh Nguyễn Văn Hạnh,
Quê Cổ Pháp, Bắc Ninh.
Được xem là cố vấn
Giúp vua Lê Đại Hành.
Thầy của Lý Công Uẩn,
Không chỉ đường học hành,
Mà Ngài còn góp sức
Đưa học trò lên ngai,
Giúp dựng triều đại mới
Vẻ vang và lâu dài.
Hơn thế, nhờ uyên bác,
Biết trông rộng, nhìn xa
Ngài tiên đoán nhiều việc
Giúp phát triển nước nhà.
Từ nhỏ, Ngài mẫn tiệp,
Tinh thông Lão và Nho.
Lại nghiên cứu Kinh Phật,
Tường tận hàng trăm pho.
Năm tròn hăm mốt tuổi,
Ngài xuống tóc xuất gia
Cùng bạn là Định Tuệ,
Tu ở chùa gần nhà.
Đó là chùa Lục Tổ
Của Thiền Sư Thiền Ông.
Ngài được thầy dẫn dắt,
Kiến thức càng tinh thông.
Sau khi Thiền Ông chết,
Ngài chuyên sâu phép thiền
Tổng Trì Tam Ma Điện,
Trở thành nhà sấm truyền.
Sau nhiều năm tu luyện,
Ngài đắc đạo, có tài
Biết cả chuyện quá khứ
Và chuyện trong tương lai.
Bấy giờ ở Cổ Pháp
Có người tên Đỗ Ngân
Nảy sinh lòng ghen ghét,
Muốn giết Ngài nhiều lần.
Ngài biết trước, gửi đến
Một bài kệ bốn câu,
Trách hắn sao có thể
Vô cớ, thù giết nhau?
Hắn đọc xong, cả sợ.
Biết gặp người đức tài,
Liền lập tức từ bó
Ý định ám hại Ngài.
Những lời Ngài phán dạy
Chưa bao giờ thấy sai.
Vua Lê Đại Hành biết
Và rất tôn kính Ngài.
Một lần, giặc nhà Tống,
Năm Chín Trăm Tám Mươi,
Muốn chiếm Đại Cồ Việt,
Huy động hàng vạn người.
Tướng giặc, Hầu Nhân Bảo,
Mang quân sang nước ta,
Chiếm núi Cương Giáp Lĩnh.
Nên đánh hay nên hòa?
Vua hỏi sư Vạn Hạnh
Phải làm thế nào đây?
Ngài đáp giặc tự rút
Trong ba đến năm ngày.
Quả nhiên đúng như thế.
Do rối ren nội tình,
Quân Tống chưa bị đánh,
Đã rút về nước mình.
Lần khác, sứ giả Việt
Bị Chiêm Thành bắt giam.
Vua đang còn do dự
Việc dấy binh đánh Nam.
Ngài khuyên nên chinh phạt
Vì đã có lý do.
Vua nghe theo, lần ấy
Quân vua Lê thắng to.
Thấy nhà Lê thối nát
Đang tan rã từng ngày,
Ngài lặng lẽ chuẩn bị
Đưa nhà Lý lên thay.
Ngài tác động dư luận
Bằng những lời sấm truyền.
Dân chúng nghe, tin tưởng
Một triều mới sắp lên.
Trong đó có chuyện kể
Ở Cổ Pháp bỗng nhiên
Xuất hiện con chó trắng
Với hai chữ màu đen.
Đó là chữ “Thiên Tử”.
Ngay ở chính giữa lưng.
Ngài giảng: Là điềm tốt,
Một tín hiệu đáng mừng.
Và rằng vào năm Tuất
Có vua mới ra đời.
Một vị vua “Thiên Tử”
Được phái xuống cứu người.
Lý Công Uẩn lúc ấy
Đang làm quan nhà Lê,
Được Ngài cho gọi đến
Rồi lấy lời vỗ về:
“Có nhiều lời sấm lạ
Được truyền tụng gần đấy,
Báo hiệu nhà Lê mất,
Nhà Lý sẽ lên thay.
Họ Lý không ít kẻ
Vừa đức lại vừa tài.
Nhưng suy đi ngẫm lại,
Ta thấy không có ai
Quy nạp đủ điều kiện
Để lên ngai bằng con.
Vậy cố mà đảm nhận
Trách nhiệm với nước non.
Con đang có quyền lực,
Làm Thân Vệ trong triều.
Hơn thế, được dân chúng
Tin tưởng và thương yêu.
Ta đã bảy mươi tuổi,
Lo không sống đến ngày
Thấy đất nước thịnh trị.
Đã đến lúc ra tay”.
Lên ngôi, Lý Công Uẩn
Phong Ngài làm Quốc Sư
Ban tặng nhiều bổng lộc,
Nhưng Ngài đều khước từ.
Ngài xin được tiếp tục
Ở chùa Cổ Pháp Châu.
Chỉ khi nước có sự,
Mới vâng mệnh vào chầu.
Năm Thuận Thiên Mười Sáu,
Tức Một Hai Không Năm,
Khi công hạnh viên mãn,
Tháng Năm, đúng ngày Rằm,
Ngài cho gọi đệ tử
Dặn dò và bảo ban.
Đọc xong một bài kệ,
Rồi tịch, nhập Niết Bàn.
Vua mới, Lý Thái Tổ,
Cùng các quan trong triều
Đến viếng, đưa xá lợi
Về thờ ở Chùa Tiêu.
Ngài là tấm gương sáng
Của một người xuất gia
Vẫn day dứt trách nhiệm
Với vận mệnh nước nhà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét