Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 53

 

HỒ XUÂN HƯƠNG

(1772 - 1822)

 

Trong thi đàn Đại Việt

Có ngôi sao lạ thường

Độc đáo và ngỗ nghịch,

Đó là Hồ Xuân Hương.

 

Lạ không chỉ tài giỏi,

Tinh tế và hào hoa.

Mà còn vì người ấy

Là một mụ đàn bà.

 

Nàng vừa là thi sĩ,

Vừa cô gái chân quê.

Thơ tửng tưng, vô hại,

Mà châm chọc rất ghê.

 

Cô gái chân quê ấy,

Cứ như thể lõa lồ,

Khuấy ao tù văn học

Của mấy cụ nhà nho.

 

Các cụ, dẫu rất cáu,

Vẫn cứ thấy ngỡ ngàng.

Vừa yêu lại vừa ghét

Sự táo bạo của nàng.

 

Qua những bài thơ nghịch,

Nàng đi vào lòng dân.

Kiểu thanh thanh, tục tục.

Chẳng biết đâu mà lần.

 

Hiểu cách này cũng được.

Cách khác cũng chẳng sao.

Tùy thuộc vào người đọc

Có tâm trạng thế nào.

 

Thực hư cứ lẫn lộn.

Ý, tưởng một mà hai.

Thậm chí đến tác giả

Không ai biết là ai.

 

Thôi, tạm theo ghi chép

Của làng sử xưa nay

Để chấp nhận tiểu sử

Hồ Xuân Hương thế này.

 

*

Bà sinh ở Hà Nội,

Khu vực Thảo Cầm Viên.

Con cụ Hồ Phi Diễn,

Người Quỳnh Lưu, Nghệ An.

 

Mẹ bà là Hà Thị

Người thuộc trấn Hải Dương.

Hồ Phi Mai, tên thật

Bút hiệu - Hồ Xuân Hương.

 

Ngày bé bà được hưởng

Một hạnh phúc tràn đầy

Trong ngôi dinh thự lớn

Ngay bên bờ Hồ Tây.

 

Được học hành tử tế,

Bà giỏi môn thơ văn.

Giỏi nữ công gia chánh,

Lại xinh đẹp tuyệt trần.

 

Thế mà khi bố mất,

Mẹ tái giá lần hai,

Bà phải làm vợ lẽ

Cho một ông thầy cai.

 

Ông này là Tổng Cóc.

Cũng may ông là người

Giàu có và nghĩa hiệp.

Thậm chí rất chịu chơi.

 

Để khỏi phiền vợ cả,

Ông xây riêng cho bà

Một nhà thủy tạ lớn,

Đủ đầy tớ, quản gia.

 

Một thời gian sau đó,

Không hiểu có chuyện gì,

Với cái thai trong bụng,

Bà bỏ Tổng Cóc đi.

 

Và rồi, lại lần nữa

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương

Làm lẽ Phạm Viết Ngạn,

Tức tri phủ Vĩnh Tường.

 

Không may, ông này chết

Hai mươi bảy tháng sau.

Từ đấy không ai biết

Bà làm gì, ở đâu.

 

Có nguồn nói vì đẹp,

Vì tính thích chơi ngông,

Bà đã không ngần ngại

Có thêm mấy đời chồng.

 

Cũng có nhiều giai thoại

Về chuyện tình của bà

Với nhiều người nổi tiếng

Trong thế giới thi ca.

 

Như Nguyễn Du, Phạm Thái,

Phạm Đình Hổ, Thạch Đình,

Nguyễn Hầu, Phạm Quý Thích...

Toàn người giỏi, thông minh.

 

Bà được cho đã mất

Năm Một Tám Hai Hai.

Hưởng thọ năm mươi tuổi.

Thương tiếc một người tài.

 

*

Sách cổ nhất có chép

Thơ bà, trong toàn thư

Cuốn Quốc Văn Tùng Ký

Năm Một Tám Ba Tư.

 

Một trăm năm sau đó,

Tức Một Chín Ba Mươi,

Cuốn Xuân Hương Thi Tập

Mới lần đầu ra đời.

 

Số lượng, không nhiều lắm,

Khoảng năm sáu chục bài.

Cả chữ Nôm, Chữ Hán,

Và thường không quá dài.

 

Kiểu thất ngôn bát cú

Gồm bảy chữ, tám câu.

Hoặc thất ngôn tứ tuyệt,

Đều sâu cay như nhau.

 

Bà Chúa Thơ Nôm chết,

Đã để lại cho đời

Những bài thơ tuyệt tác,

Đầy nước mắt, tiếng cười.

 

 

Thơ Hò Xuân Hương

BÁNH TRÔI NƯỚC

 

Thân em vừa trắng, lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non.

Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn,

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

 

VỊNH CÁI QUẠT

 

Một lỗ xâu xâu mới cũng vừa

Duyên em dính dán tự ngàn xưa

Chành ra ba góc da còn thiếu

Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa

Mát mặt anh hùng khi tắt gió

Che đầu quân tử lúc sa mưa

Nâng niu ướm hỏi người trong trướng:

“Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”

 

CẢNH THU

 

Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,

Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,

Xanh ôm cổ thụ tròn xoe tán,

Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.

Bầu dốc giang sơn say chấp rượu.

Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.

Ơ hay, cánh cương ưa người nhỉ,

Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.

 

THƠ TỰ TÌNH

 

Tiếng gà xao xác gáy trên vòm

Oán hận trông ra khắp mọi chòm

Mõ thảm không khua mà cũng cốc

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om

Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ

Sau hận vì duyên để mõm mòm

Tài tử văn nhân ai đó tá

Thân này đâu đã chịu già tom.

 

VẤN NGUYỆT

 

Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,

Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?

Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi?

Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con?

Đêm tối cớ sao soi gác tía?

Ngày xanh còn thẹn mấy vầng tròn.

Năm canh lơ lửng chờ ai đó?

Hay có tình riêng mấy nước non?

 

ĐỘNG HƯƠNG TÍCH

 

Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm,

Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.

Người quen cõi Phật chen chân xọc,

Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.

Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,

Con thuyền vô trạo cúi lom khom.

Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,

Rõ khéo trời già đến dở dom.

 

HỌA NHÂN

 

Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu,

Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé lầu.

Lá nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,

Sương pha khói biếc rộn thêm sầu.

Thẩn thơ trước viện, nhà khoe gió,

Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,

Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,

Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.

 

ĐÁ ÔNG BÀ CHỒNG

 

Khéo khéo bày trò tạo hoá công

Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng

Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc

Thớt dưới sương pha đượm má hồng

Gan nghĩa dãi ra cùng chị Nguyệt

Khối tình cọ mãi với non sông

Đá kia còn biết xuân già giặn

Chả trách người ta lúc trẻ trung

 

HỎI TRĂNG

 

Một trái trăng thu chín mõm mòm,

Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!

Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,

Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.

Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,

Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.

Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,

Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét