Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 35

 

 

PHÙNG KHẮC KHOAN

(1528 - 1613)

 

Phùng Khắc Khoan nổi tiếng

Là một người tài, hiền.

Ông mới đậu Hoàng giáp,

Chưa hề đậu Trạng nguyên,

 

Nhưng được gọi là Trạng,

Chính xác là Trạng Bùng,

Vì quê ở Thạch Thất,

Và sinh ở làng Bùng.

 

Nghe người ta nói lại,

Phùng Khắc Khoan là em,

Tuy khác cha, cùng mẹ,

Với Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 

Được cha dạy từ nhỏ,

Rồi lại theo học anh,

Ông tấn tới nhanh chóng

Trên con đường học hành.

 

Nhưng dười triều nhà Mạc,

Ông không chịu đi thi.

Trung với triều Lê cũ,

Chỉ ở nhà ngủ khì.

 

Năm Một Năm Năm Bảy,

Ông đỗ đầu thi Hương,

Lúc đã hăm chín tuổi,

Rồi theo đường quan trường.      

 

Trịnh Kiểm biết ông giỏi,

Cho làm ở Ngự dinh,

Trông coi bốn quân vệ,

Tham dự việc cơ binh.

 

Vua cho mở thi Hội,

Năm Một Năm Tám Không.

Ông thi đỗ Hoàng giáp,       

Làm Thị lang bộ Công.                 

 

Năm Một Năm Chín Bảy,

Sáu mươi chín tuổi đời,

Ông được cử đi sứ,

Tài đối đáp hơn người.

 

Chỉ hai năm sau đó,

Ông được thăng Thượng thư,

Bộ Công rồi bộ Lại,   

Rồi về quê nhàn cư.

 

*

Trong thời gian đi sứ,

Phùng Khắc Khoan nhập tâm

Học cách trồng ngô bắp,    

Cách dệt the, nuôi tằm.

 

Về nước, ông truyền lại

Cho dân chúng trong làng.

Một số nơi, vì thế,

Tôn ông làm Thành hoàng.

 

Một số giống lúa tốt

Ông cũng lén mang về

Để giúp dân Thạch Thất

Trồng chúng ở đồng quê.

 

Sau khi thành chí sĩ,

Ông ra đồng hàng ngày

Giúp dân đào kênh, rạch

Vùng xung quanh núi Thầy.

 

Nhờ thế mà có nước

Tưới cho các cánh đồng

Ở Phùng Xá, Hoàng Xá,

Giúp phát triển nghề nông.

 

*

Phùng Khắc Khoan, ta biết,

Còn là một nhà thơ,

Cả chữ Nôm, chữ Hán,

Còn lưu đến bây giờ.

 

Ông cũng là tác giả

“Sấm Thượng thư họ Phùng”,

Người đời chắc vì thế

Gọi ông là Trạng Bùng.

 

Thơ ông rất tao nhã,

Phong cách không giống ai.

Ông viết nhiều, chỉ tiếc,

Lưu được ba trăm bài.

 

 

THƠ PHÙNG KHẮC KHOAN, trích

 

1

Viết trả lời người mang rượu đến xin thơ

 

Còn hơn cả rượu, hứng thơ say.

Ngang vò rượu quý bài thơ này,

Thơ đã làm xong, rượu uống hết.

Trùm thơ, trùm rượu là ta đây!

 

2

Ở công quán, làm thơ tức sự

 

Đêm về bầy quạ lượn bay quanh.

Sáo ai não ruột thổi đầu thành.

Trời Nam ngong ngóng, tìm Nam Đẩu, 

Nhớ nhà, trằn trọc suốt năm canh.

 

3

Qua rừng lim

 

Rừng lim cao khỏe, đỡ chống trời,

Cứng cỏi, coi thường sương tuyết rơi.

Giữa lúc nước nhà cần trụ cột,

Sao ở nơi sâu, xa lánh đời?

 

4

Thơ tức sự ở công quán

 

Tuổi già, đi sứ đến Yên Kinh.

Đế đô cảnh vật thật thanh bình.

Gió thổi qua cây như tiếng suối.

Trong vườn, xuyên lá, nắng lung linh.

 

5

Thơ tức sự ở công quán

 

Bầy quạ bay quanh ngọn liễu già.

Sao Lỗ ai người thổi xót xa.

Ngoái nhìn Thiên Tân, tìm Nam Đẩu,

Không ngủ suốt đêm bởi nhớ nhà.

 

6

Bến Bành Thành

Viết ở sông Tuy Thủy, huyện Bành Thành, Từ Châu, vốn là chỗ đóng đô của Hạng Vũ, có đài Hý Mã và đền Bành Tử.

 

Hý Mã đài xưa dấu vẫn còn.

Nhà khách bên đường, rặng liễu non.

Tuy Thủy, Bành Thành nguyên như cũ,

Công danh Hán Sở đã phai mòn.

 

7

Tự thuật

Viết năm Quý mão (1543), lúc 16 tuổi.

 

Tự biết mình non, tuổi học hành,

Đêm ngày phải học để thành danh.

Quý nhất trong nhà là quyển sách.

Chiếc cày là bút vẽ nên tranh.

Sự nghiệp phải đi đường ngay thẳng.

Làm người phải biết trọng thanh danh.

Làm con trước hết thờ cha mẹ,

Rồi sau mới nghĩ chuyện tung hoành.

 

8

Ngày đầu xuân

Viết năm Mậu Thân, lúc 21 tuổi.

 

Vua mới ban cho lịch Mậu Thân.

Vậy là lần nữa lại mùa xuân.

Lộc nhú, hoa tươi, gì cũng mới.

Lá biếc, non xanh, mây trắng ngần.

Năm mới, mọi người thay cái cũ.

Đất trời vạn vật rất quen thân.

Xuân đến, điều lành mong sẽ đến.

Cần chi cắt lụa giống đời Tần.

 

9

Nguyên đán

Viết năm Bính Thìn, lúc 29 tuổi.

 

Xuân đi, xuân đến tự xoay vần.

Lòng người háo hức với mùa xuân.

Núi sông cảnh đẹp như tranh vẽ.

Cỏ cây thay sắc đã bao lần.

Say đất, say trời, ta uống rượu.

Ngồi nhàn quán trọ viết thơ văn.

Cưỡi ngựa ngắm hoa là thú thích,

Hơn nhiều gà chọi ở Tràng An.

 

10

Từ xa gửi cho bạn

 

Từ khi xa bác đến bây giờ,

Chẳng viết thư nhiều, chỉ viết thơ.

Muốn bẻ cành mai, mai chửa mọc,

Bạn bè gặp mặt chỉ trong mơ.

Giang sơn xa cách tuy nghìn dặm,

Tấm lòng trung nghĩa chẳng thờ ơ.

Tài lớn cần dùng vào việc lớn.

Kẻ sĩ sao cam mãi đợi chờ?

 

11

Đêm ba mươi tết

 

Đêm ba mươi tết, thức làm thơ.

Không ngủ suốt đêm, cứ thẫn thờ.

Trong thành đây đó đèn thắp sáng.

Ngoài ngõ nơi nơi rợp bóng cờ.

Nửa đêm khí lạnh còn chưa hết.

Canh ba trời bỗng ấm bất ngờ.

Mai nở bên thềm như báo lịch.

Quả rằng Thiệu Tử giỏi thiên cơ.

 

12

Đêm thu hoài cảm

Bài một

 

Đồng hồ chảy chậm, mới canh ba.

Nỗi lòng ai hiểu thấu cho ta.

Đầu tháng thuyền trăng treo trước cửa.

Cuối năm gió lạnh thổi sau nhà.

Lo nghĩ giúp đời không ngủ được,

Hết ngồi đọc sách lại nhìn hoa.

Cái chí làm trai lo việc lớn,

Chứ đâu vui thú với đàn bà.

 

13

Đêm thu hoài cảm

Bài hai

 

Lòng lo trăm mối cả ban ngày,

Huống gì đêm vắng giống đêm nay.

Lo hết sự đời, dân với nước,

Lo tình phụ mẫu báo sao đây.

Ôm gối Ôn Công lo học tập,

Trong đầu chao nhẹ cánh chim bay.

Cái chí làm trai luôn vẫn vậy,

Phải lo gây nghiệp lớn sau này.

 

14

Đêm thu hoài cảm

Bài ba

 

Gặp hứng, bất ngờ một ý văn

Lớn lên, theo bút cứ tuôn dần.

Đọc sách thấy người xưa xuất hiện.

Ngồi ngắm trăng tàn, nhớ bạn thân.

Sách mở mà rồi toan gập lại.

Duỗi chân, ngại rét, lại co chân.

Giá có được tài như tạo hóa,

Xua hết mùa đông để đón xuân!

 

15

Leo núi buổi sớm

 

Sáng sớm vào rừng leo núi chơi.

Bình minh nhuốm đỏ phía chân trời.

Lau lách xếp hàng, đầu khẽ cúi.

Hoa nở, chim ca đợi đón người.

Cây cỏ thân quen như bạn cũ.

Mây gió gợi tình, phút thảnh thơi.

Nào quản hang sâu, khe đá hiểm,

Ta quyết leo cao, đứng giữa trời.

 

16

Nghe sáo thổi giữa hoàng hôn

 

Nắng chiều nhuốm đỏ núi, chim bay.

Bất ngờ nghe sáo thổi đâu đây.

Du dương trong gió, khoan rồi nhặt,

Thổi "Lạc mai hoa" báo hết ngày.

Tiếng sáo làm vui lòng tráng sĩ,

Xua tan cái mệt của dân cày.

Nếu sáo đủ tài lui được giặc,

Chắc rằng vua sẽ thưởng cho ngay.

 

17

Sáng sớm qua Tây Đô

 

Đô thành, trời rạng, sáng xa xa.

Cảm hứng dạt dào khi ghé qua.

Tường đá bám rêu, xanh ẩm mốc.

Long lanh suối nước, liễu la đà.

Năm tháng trôi đi, còn vết cũ.

Cảm hứng non sông vẫn mặn mà.

Cha con họ Hồ giờ không thấy,

Chỉ thấy gió vờn trên mặt ta.

 

18

Tự thuật

 

Thẹn mình tài đức chẳng bằng ai,

Mà lộc cha ông cứ hưởng hoài.

Đầy hòm sách quí, hơn vàng bạc.

Ba đời đạo sáng, chẳng mờ phai.

Vận nước hết suy rồi lại thịnh.

Đời người giờ khổ, sướng ngày mai.

Xưa nay vẫn thế - người có học.

Làm nên khanh tướng, bậc hiền tài.

 

19

Thương đời loạn

 

Đời dẫu đổi thay, nhưng Đạo không.

Thịnh suy, suy thịnh, cứ xoay vòng.

Chợ họp rồi tan, đâu họp mãi.

Hết kỳ xuân hạ, đến thu đông.

Kẻ ác vô vàn, không giết hết.

Người ngay ôm hận để trong lòng.

Nhưng bậc thánh nhân còn trở lại,

Giúp Đời hưng thịnh, Đạo thành công.

 

20

Khuyên người đi học

 

Chăm lo việc học phải do mình.

Trời không can dự việc nho kinh.

Người giỏi, dạy con thường đã khó,

Dễ gì đọc sách lúc đao binh.

Học rộng, lòng thông như suối chảy.

Cái tham tự bớt, sống yên bình.

Khi ít đam mê, lòng sẽ nhẹ,

Cần gì bổng lộc với quang vinh?

 

21

Hiếu

 

Hiếu là đạo lớn khắp gần xa.

Trăm điều đức hạnh đó mà ra.

Cái đạo làm con là báo hiếu,

Phụng dưỡng, tôn thờ bậc mẹ cha.

Chu Công, Ngưu Thuấn là gương tốt.

Đại hiếu, đại trung, nước lẫn nhà.

Còn ta, thật tiếc dù tâm niệm,

Chưa thể làm tròn đạo của ta.

 

22

Đi qua chỗ nước xiết ở Quảng Bình

 

Vâng mệnh nhà vua đi việc công,

Gặp nơi nước xiết chẳng sờn lòng.

Muôn dặm đường xa không ngại khổ.

Trèo đèo vượt suối cứ như không.

Gánh vác trên vai là việc nước.

Treo đầu ngọn bút núi và sông.

Khi nước thái bình, mong hậu thế,

Lưu lại công danh được mấy dòng.

 

23

Ở nhà trọ gặp mưa, chờ tạnh

 

Định lên đường sớm, lúc tinh mơ,

Bỗng đâu mưa lớn, phải ngồi chờ.

Mưa tạnh, trong rừng chim líu ríu.

Ngoài đồng bò gặm cỏ non tơ.

Mây vương đầu núi, trời trong vắt.

Chân ngựa quen đường, bước nhởn nhơ.

Trời sáng thế này, điềm tốt đẹp,

Báo thời Nho thịnh, phát văn thơ.

 

24

Năm mới

 

Được mất ở đời, đều tại thiên.

Nuôi dưỡng lúc nhàn khí hạo nhiên.

Ngâm vịnh khác xưa, năm mới đến.

Bất ngờ mai nở trắng ngoài hiên.

Hương hỏa ba sinh duyên kiếp trước

Muôn quyển Thi Thư, ấy bạn hiền.

Mừng thời vận tốt, mừng năm mới,

Thêm một tuổi xuân, một tuổi tiên.

 

25

Tháng Ba

 

Bốn mùa thay đổi, đến rồi qua,

Nhưng đẹp hơn nhiều là tháng Ba.

Mưa rụng hoa vàng, hồng hạnh đỏ.

Liễu xanh, huệ nở trắng sau nhà.

Dưới chân đàn Vũ lòng thư thái.

Trước đình Tu Hệ, lễ bày ra.

Cây xanh đổ bóng, trưa râm mát.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét