Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 28

 

 

Truyền Kỳ Mạn :ục

THÁI THUẬN TIÊN SINH

 

1

Huyện Kim Hoa ngày ấy

Có một nàng rất xinh,

Thơ văn hay, chữ tốt,

Vợ của Phù Tiên Sinh.

 

Nàng xuất thân danh giá,

Dẫu có lúc bần hàn,

Được học hành tử tế,

Tên là Ngô Chi Lan.

 

Lê Thánh Tông nghe tiếng,

Bèn cho mời vào triều

Giúp dạy các cung nữ,

Ban ân huệ rất nhiều.

 

Mỗi lần vua mở yến,

Nàng được phép đứng chầu.

Vua xướng thơ, lập tức

Nàng họa lại từng câu.

 

Không may, bốn mươi tuổi,

Nàng lâm bệnh qua đời,

Mộ táng bên bãi cạn,

Để tiếng tốt cho đời.

 

2

Cuối đời Lê Uy Mục,

Có một anh học trò

Tên Tử Biên, ăn học

Lâu ngày ở kinh đô.

 

Một hôm, nhớ bố mẹ,

Về Thái Nguyên thăm nhà,

Chàng bỗng gặp mưa lớn

Khi đến huyện Kim Hoa.

 

Giữa đồng không mông quạnh,

Bốn bề trời tối đen,

Bỗng xa xa le lói,

Mờ ảo một ánh đèn.

 

Chàng lại gần và thấy

Một ngôi nhà lợp tranh

Gọn gàng và ấm cúng,

Cây rậm rạp xung quanh.

 

Chàng muốn vào trú tạm,

Người gác cổng không cho.

Nhìn vào trong, chàng thấy

Hai người đang chuyện trò.

 

Đó là một mệnh phụ

Đài các, đẹp như tiên,

Và một ông đứng tuổi

Đang cầm sách ngồi bên.

 

Bất chợt, mệnh phụ nói:

“Trời mưa gió thế này,

Người ta xin vào trú,

Sao không cho vào ngay?”

 

Chàng Tử Biên lặng lẽ

Theo người hầu vào trong,

Ngồi nghỉ trên nền cứng

Ở chái nhà phía đông.

 

Khoảng canh hai, bất chợt

Chàng thấy một ông già

Đẹp lão, mặt quắc thước

Cưỡi trên một con la.

 

Con la ấy màu tía,

Tấm vải phủ màu hồng.

Còn râu ông và tóc

Trắng và mịn như bông.

 

Hai người kia ra đón:

“Thật phiền Thái Tiên sinh”.

Khách đáp: “Muốn đàm đạo

Phải có tâm, có tình”.

 

Rồi cả chủ và khách

Cùng nói chuyện văn chương,

Hết bài này bài khác,

Vui, say mê khác thường.

 

Bất chợt, ông khách nói:

“Hình như đang có người

Lén nghe ta đàm đạo.”

Mệnh phụ chủ nhà cười:

 

“Bàn chuyện văn là tốt,

Nghe lén cũng chẳng sao.

Vậy mời anh bạn trẻ

Muốn nghe thì cứ vào”.

 

Chàng Tử Biên cả sợ,

Nhưng cũng ghé ngồi nghe,

Cúi lạy, xin các vị

Chỉ giáo cho đôi bề.

 

Thái Tiên sinh lẳng lặng

Lấy đâu đó trong người

Một tập giấy bọc vải,

Đưa cho chàng, mỉm cười:

 

“Về thơ văn, tốt nhất,

Con hãy đọc tập này.

Khỏi cần tìm đâu nữa,

Mọi cái đều ở đây”.

 

Rồi cả chủ và khách

Cúi chào nhau, chia tay.

Chàng Tử Biên chợt tỉnh

Khi trời mới rạng ngày.

 

Chàng giật mình, kinh hãi

Thấy đang nằm giữa đồng

Cạnh hai ngôi mộ cũ

Bên bờ một dòng sông.

 

Kinh ngạc hơn: cuộn giấy

Ông khách đưa cho chàng

Đang nằm kia, gần cạnh,

Rực rỡ dưới nắng vàng.

 

Chàng liền mở, chỉ thấy

Bốn chữ đẹp tuyệt vời

Là “Lã Đường Thi Tập”,

Nét mực vẫn còn tươi.

 

Về sau, chàng dò hỏi

Biết đôi mộ ngoài đồng

Là mộ của mệnh phụ

Ngô Chi Lan và chồng.

 

Còn Lã Đường thi sĩ

Là bút hiệu xưa nay

Của nhà thơ Thái Thuận,

Một cây bút bậc thầy.

 

Sinh Một Bốn Bốn Mốt,

Mất chưa rõ, bình sinh

Ông người xã Song Liễu,

Huyện Thuận Thành, Bắc Ninh.

 

Năm Hồng Đức thứ sáu,

Tức Một Bốn Bảy Lăm,

Ông thi đậu tiến sĩ

Rồi làm quan nhiều năm.

 

Thái Thuận là sao sáng

Trong Hội Thơ thời ông -

“Tao Đàn phó nguyên súy”,

Chỉ sau Lê Thánh Tông.

 

Thơ ông sâu và nhã,

Nghe nói hàng nghìn bài,

Không may thất lạc hết,

Mai một một danh tài.

 

Được thi nhân gợi ý,

Tử Biên về làng ông

Tìm “Lã Đường Thi Tập”,

Thoạt nhìn mà đau lòng.

 

Mối mọt ăn gần hết

Rời rạc mấy trăm trang.

Chỗ đọc được, chỗ mất,

Vất vả mãi, rồi chàng

 

Chép lại được trọn vẹn

Cũng vài trăm bài thơ.

Đời sau dùng bản ấy

Truyền mãi đến bây giờ.

 

3

Câu chuyện này tôi kể

Lấy trong cuốn Truyền Kỳ

Của tác giả Nguyễn Dữ,

Có thật mà ly kỳ.

 

Nhân đây cũng xin nói,

Thái Thuận trong truyện này

Là cụ tổ đáng kính

Của họ Thái ngày nay.

 

Tôi là một hậu duệ

Cũng đến mấy chục đời.

Gia phả họ ghi rõ

Từng tên làng, tên người.

 

Hiện tôi may có được

Cuốn Lã Đường của Ngài,

Và lạm phép tạm dịch

Khoảng hơn một trăm bài.

 

Thích thì mời các vị

Vào đọc thơ Cụ tôi

Trong “Cổ Thi Tác Dịch”,

In cũng mấy năm rồi.

 

Cái hay và cái đẹp

Nhường cụ Thái Tiên Sinh.

Còn cái dở, cái chán

Tôi xin nhận về mình.

 

 

THƠ THÁI THUẬN, trích

 

1

Bến Hoàng Giang

 

Hoàng Giang, thuyền ghé bến.

Nhà tranh khói bập bồng.

Trẻ con, ba bốn đứa

Tìm bắt cáy ven sông.

 

2

Tiễn biệt

 

Sớm - oanh hót vườn cấm.

Chiều - yến bay gần xa.

Đầu hè chơi thỏa thích,

Chợt muốn về vườn nhà

 

3

Oán mùa xuân ở Tây Hồ

 

Đêm đêm thấm lạnh ánh trăng tà.

Không thuộc nhà nào, xuân cứ qua.

Cuộc vui đã hết, buồn ngơ ngác,

Buồn không ai đến hỏi mua hoa.

 

4

Đi thuyền trên sông La, ngẫu nhiên làm thơ

 

Trên sông trăng gió gọi xa xa.

Chong đèn bên sách thức mình ta.

Chim cuốc từ đâu kêu da diết.

Muốn ngủ nằm mơ thấy ở nhà.

 

5

Nhìn khói xuân buổi sáng sớm

 

Nguyệt lặn, xa xa hửng sáng dần.

Hoa lồng bóng nguyệt múa ngoài sân.

Theo mặt trời lên, trăng xạm tối,

Trao hàng liễu biếc cái sầu xuân.

 

6

Làng ven núi

 

Mưa tạnh, đường làng ngập xác hoa.

Nhao nhác quạ bay giữa nắng tà.

Ông lão bạc đầu hờ hững quét

Cánh đỏ cánh vàng chẳng xót xa.

 

7

Chiều muộn bên sông

 

Bãi sông, nhân nước ngập,

Nhà nông tranh thủ cày,

Giục trâu đi, cò trắng

Giật mình, nháo nhác bay.

 

8

Đêm thu

 

Như nước, trời xanh ngỡ rất gần.

Ngô đồng không gió, rụng đầy sân.

Một mình ngồi ngắm cầu ô thước,

Thuyền thơ cập bến giữa sông Ngân.

 

9

Buổi sáng, xuất phát sớm từ làng ven sông

 

Xóm chài gà gáy rộn đâu đây.

Trăng mờ khói nước phía trời tây.

Gió thổi bờ lau, thu vạn dặm.

Mờ mờ bãi cát cánh chim bay.

 

10

Đêm xuân

 

Trăng chiếu qua rèm, trắng lẫn đen.

Không người dệt gấm để hàn huyên.

Chợt tỉnh, như nghe ai khẽ gọi.

Sau bụi cúc vàng, tiếng đỗ quyên.

 

11

Xóm nhỏ ven sông

 

Trên sông triều rút, lộ cát lầy.

Từng đàn chim trắng rủ nhau bay.

Một chiếc áo tơi che khói lạnh.

Trên trời gió thổi, cuốn sông mây.

 

12

Trên đường Bồn Man lúc đi chinh tây

 

Xuống lên, đường núi một màu xanh.

Hoàn toàn im lặng bốn xung quanh.

Chỉ tiếng mùa thu đang lặng lẽ

Rơi theo từng nhịp trống quân hành.

 

13

Trào lộng

 

Giữ mình, luôn đóng cửa phòng the.

Kín đáo rèm châu phủ bốn bề.

Nhưng sao giữ được trăng và gió

Lọt vào tình tự lúc đêm khuya?

 

14

Đầu xuân

 

Năm cũ hết rồi, sương mới tan.

Đào chưa ra nụ, liễu yếu tàn.

Đa tình đám cỏ ngoài sân vắng

Đã kịp xanh rờn, chạy trước xuân.

 

15

Ngày hè

 

Công danh, phú quí chẳng bền lâu.

Rượu ngon hãy uống để xua sầu.

Chín chục ngày hè râm mát lạ.

Gió trời ai thổi, đến từ đâu ?

 

16

Sáng sớm, đi Đông Triều

 

Gà còn chưa báo sáng,

Thuyền đã đi, lúc này

Triều đang lên, nước đục,

Nhợt nhạt mảnh trăng gầy.

Gió lạnh thổi ngoài bãi.

Bến cá chìm trong mây.

Khúc Thương Lang ai hát,

Chim giật mình trên cây.

 

17

Thương xuân

 

Mặt trời lặng lẽ chạy về tây.

Chín chục thiều quang còn mấy ngày.

Oanh sầu, yến thảm thôn Hoa Rụng.

Bến đò, bãi cỏ phủ đầy mây.

Giấc mộng Nam Hoa thường dễ mắc.

Ai như Bắc Hải ở đời này?

Mờ mịt khói sông, trời chạng vạng.

Ngoái lại nhìn đời, buồn lắm thay.

 

18

Chiều xuân

 

Bèo nổi thân này, nghĩ xót xa.

Xuân đến, xuân đi, ai chẳng già.

Dưới cầu nước chảy, buông tơ liễu,

Trên sông não ruột tiếng đa đa.

Vô cớ, tán cây lồng bóng nguyệt.

Gió quyện hương thơm vẫn mặn mà.

Thiều quang chín chục không còn nữa.

Thẹn lòng hiếu thảo kẻ đi xa.

 

19

Đi sớm

 

Ra đi trời chưa sáng,

Trăng gặp người trên sông.

Ảo mờ như trong mộng.

Mây là là trên đồng.

Trước hoa đỗ quyên hót.

Đo đỏ đèn bãi nông.

Đi qua hết chợ cũ

Mới nghe chuông chùa Bồng.

 

20

Đầu xuân

 

Ba tháng đông qua, xuân lại về.

Khí trời chuyển ấm, gió se se.

Giá lạnh còn vương trên mặt nước,

Sắc xuân trên lá đã tràn trề.

Liễu lại xanh tươi, oanh chửa hót.

Chớm nụ hoa đào, vắng tiếng ve.

Hoàng hôn, ngoái lại nhìn quê cũ,

Du tử bùi ngùi những tái tê.

 

21

Đêm thu ở Tràng An

 

Tiếng chày đập vải vọng từ đâu.

Một mình quán trọ giữa thu thâu.

Khí mát đầy sân, cơn gió thổi.

Lạnh lẽo trăng soi nửa gác lầu.

Tù và rền rĩ trên thành vắng.

Dế khóc buồn buồn ngoài bãi dâu.

Trăm mối cảm thương không nén được.

Chỉ sợ sáng mai bạc trắng đầu.

 

22

Chiều xuân ở Tràng An

 

Tự biết tài hèn, chẳng dám khoe.

Tràng An 1) sống uổng, phí đam mê.

Nhà quan buồn vắng như nhà sãi.

Mùa đông vất vả giống mùa hè.

Thương con bướm múa nơi vườn uyển.

Phụ lòng chim cuốc gọi về quê.

Mua rượu, trong lưng tiền chẳng có.

Vợ con cơm cháo khổ trăm bề.

 

1. Còn gọi Trường An, tên đất thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Bắt đầu từ đời Hán các vua Trung Hoa đều đóng đô ở Tràng An. Sau này chữ Tràng An được dùng để chỉ thủ đô, cả ở Trung Quốc lẫn Việt Nam.

 

23

Quán khách đêm thu

 

Nhà tranh che khuất vệt sao mờ.

Tiếng dế kêu hoài, buồn vẩn vơ.

Lá rụng một sân, thu sắp hết.

Nửa gối gió lùa, tỉnh giấc mơ.

Kẻ bắc người nam, nhiều nước mắt.

Trời đất xưa nay luôn hững hờ.

Bao bận tương tư, thi hứng tắt.

Cảm hoài, quán khách chẳng thành thơ.

 

24

Thơ đề ở chùa Phổ Lại

 

Núi đến đây gặp suối.

Núi chạy từ phía đông.

Tiếng chuông xuôi về biển.

Trăng thu soi xuống sông.

Rồng ngâm nước ngoài bãi.

Cò đứng ngủ bên song.

Thỉnh thoảng sư thức giấc

Vì tiếng sáo ngư ông.

 

25

Đêm thu tức sự

 

Mưa tạnh, sân đường hết bụi nhơ.

Đang đêm thu hứng đến bất ngờ.

Ngô đồng lá úa bay theo gió.

Lưa thưa bóng liễu dưới trăng mờ.

Sương lạnh, tiếng trùng như thấm nước.

Không cháy thành tro, cỏ đốt hờ.

Bắt chước người xưa Đào Bành Trạch 1),

Ngắm hoa, uống rượu, hứng - làm thơ.

 

1. Tức Đào Tiềm (365 - 427), người Đông Tấn, tự Uyên Minh, biêt hiệu Ngũ Liễu Tiên Sinh, nổi tiếng tài ba lỗi lạc, là nhà thơ lớn, thích uống rượu ngắm hoa cúc, tính tình phóng đạt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét